1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Không gian văn hóa cồng chiêng tây nguyên

37 49 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 37
Dung lượng 4,82 MB

Cấu trúc

  • PHẦN I: MỞ ĐẦU

  • 1. Lời mở đầu

  • 2. Lý do chọn đề tài

  • 3. Đối tượng nghiên cứu

  • 4. Phạm vi nghiên cứu đề tài

  • PHẦN II: NỘI DUNG

  • I - Khát quát về không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên

    • 1. Khái niệm không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên là gì?

      • Dân tộc Bana Nguồn Internet

      • Dân tộc Xê đăng nhánh Xơ Teng Nguồn Internet

      • Dân tộc Mnông Dân tộc Cơho Nguồn Internet Nguồn Internet

      • Dân tộc Rơmăm Nguồn Internet

      • Dân tộc Êđê Nguồn Internet

      • Dân tộc Giarai Nguồn Internet

      • Cồng chiêng Tây Nguyên Nguồn Internet

    • 2. Nguồn gốc

      • Đàn đá Nguồn Internet

      • Cồng chiêng đồng Nguồn Internet

    • 3. Quá trình hình thành và phát triển

      • 3.1 Sự phát triển về chất liệu

      • 3.2 Sự phát triển về văn hóa- xã hội

        • Lễ đâm trâu diễn ra trong âm thanh của cồng chiêng Nguồn Internet

        • Lễ bỏ mã của người Bana Nguồn Internet

        • Lễ mừng lúa mới của người Mnông Nguồn Internet

        • Nguồn Internet

    • 4. Quá trình đề nghị và được công nhận “Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên”.

      • Nguồn Internet

      • Nguồn Internet

  • II - Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên

    • 1. Nét đặc trưng về môi trường tự nhiên, dân cư và văn hóa

      • 1.1 Đặc trưng về môi trường tự nhiên

        • Nguồn: Internet

      • 1.2 Đặc trưng về dân cư

        • Nguồn Internet Nguồn: Internet

        • Nguồn Internet Nguồn Internet

      • 1.3 Đặc trưng về xã hội

        • Nguồn: Internet

    • 2. Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên

      • 2.1 Đặc trưng về văn hóa

        • Nguồn Internet

      • 2.2 Đặc trưng về tiếng cồng, tiếng chiêng

        • Nguồn Internet

        • Nguồn Internet

        • Nguồn Internet

      • 2.3 Những giá trị về “Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên”

        • Nguồn Internet

  • III - Cồng Chiêng – Kiệt tác văn hóa của nhân loại

    • Nguồn Internet

  • IV – Bảo tồn và phát huy những giá trị của “Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên”

    • 1. Thực trạng về văn hóa cồng chiêng hiện nay

      • Bài cồng chiêng mừng lúa mới dân tộc Jơ Rai. Ảnh: Sỹ Huynh-TTXVN Nguồn Internet

    • 2. Bảo tồn và phát huy có hiệu quả di sản văn hóa cồng chiêng

      • Ảnh: Sỹ Huynh – TTXVN Nguồn Internet

  • IV. KẾT LUẬN

  • Nguồn tài liệu tham khảo

Nội dung

Việc UNESCO công nhận văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên là kiệt tác truyền khẩu và di sản phi vật thể của nhân loại (2005), được đổi thành di sản văn hóa phi vật thể đại diện nhân loại (2008), khiến cho văn hóa cồng chiêng của các tộc người Tây Nguyên đã chính thức có vị thế ở tầm thế giới. Kể từ đó, vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị của di sản văn hóa này cũng trở nên quan trọng hơn với ý nghĩa rộng lớn hơn.

NỘI DUNG

Khái niệm không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên là gì?

Khu vực này nổi bật với sinh hoạt văn hóa cồng chiêng độc đáo, chủ yếu do các dân tộc thiểu số như Bana và Xêđăng thực hiện.

Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên bao gồm các dân tộc như Mnông, Cơho, Rơmăm, Êđê, và Giarai, trải dài qua 5 tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đăk Lăk, Đăk Nông và Lâm Đồng.

Dân tộc Bana Nguồn Internet

Dân tộc Xê đăng nhánh Xơ Teng Nguồn Internet

Dân tộc Mnông Dân tộc Cơho

Dân tộc Rơmăm Nguồn Internet

Dân tộc Êđê Nguồn Internet

Dân tộc Giarai Nguồn Internet

Mỗi dân tộc ở Tây Nguyên có cách riêng để sử dụng cồng chiêng, thể hiện bản sắc văn hóa qua những giai điệu truyền thống, đặc biệt trong các dịp lễ hội, Tết Nguyên Đán và mừng nhà mới Cồng chiêng không chỉ là nhạc cụ mà còn là tiếng nói tâm linh, phản ánh tâm hồn và tâm trạng của con người.

Cồng chiêng Tây Nguyên đã trở thành một phần văn hóa đặc trưng, quyến rũ và hấp dẫn của vùng đất này Vào năm 2005, UNESCO đã chính thức công nhận "không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên" là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.

“Kiệt tác di sản văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại”

Cồng chiêng Tây Nguyên Nguồn Internet

Nguồn gốc

Văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên là một biểu tượng đặc sắc của nền văn hóa dân tộc Việt Nam, giữ vai trò quan trọng trong đời sống cộng đồng Suốt nhiều năm, cồng chiêng vẫn luôn đồng hành cùng các hoạt động văn hóa, tinh thần của cư dân Tây Nguyên.

Đồng bào các dân tộc Tây Nguyên đã thổi hồn vào cồng chiêng, tạo nên những âm thanh sâu lắng và trầm bổng, hòa quyện cùng với tiếng suối, gió và tâm hồn của người dân nơi đây Điều này không chỉ thể hiện sức sống mãnh liệt của âm nhạc mà còn là minh chứng độc đáo cho truyền thống văn hóa đặc trưng của Tây Nguyên.

Nhiều ý kiến tranh luận về nguồn gốc của cồng, chiêng, liệu có phải từ bản địa hay du nhập từ nơi khác Giáo sư - nhạc sĩ Tô Vũ, một chuyên gia hàng đầu tại Việt Nam trong lĩnh vực này, khẳng định rằng chiêng Tây Nguyên chính là cái nôi của cồng chiêng Đông Nam Á, dựa trên nhiều yếu tố nghiên cứu mà ông đã thực hiện từ năm.

1978, nhạc sĩ Tô vũ đã phát hiện ra nhiều điều thú vị Về cội nguồn, cồng chiêng

Đàn đá là "hậu duệ" của các loại nhạc cụ đá, phản ánh quá trình tiến hóa từ cồng đá, chiêng đá đến cồng đồng và chiêng đồng Trước khi văn hóa đồng ra đời, người xưa đã sử dụng đàn đá như một phần quan trọng trong âm nhạc truyền thống.

Cồng chiêng đồng Nguồn Internet

Cồng chiêng Tây Nguyên là cái nôi của cồng chiêng Đông Nam Á, bởi những yếu tố sau:

Vết tích hiện vật trên trống đồng Đông Sơn, với lịch sử hơn 4.000 năm, thể hiện hình ảnh người đánh cồng chiêng có dáng dấp giống người Tây Nguyên Lối đánh cồng chiêng ở Tây Nguyên vẫn mang tính nguyên thủy, với mỗi người sử dụng một cái, chưa hình thành dàn nhạc do một nghệ sĩ biểu diễn như ở Thái Lan, Malaysia, Lào hay Campuchia Hình dáng cồng chiêng cũng chưa phát triển thành dạng trống với đế vuông hoặc tròn, phản ánh nguyên lý phát triển từ đơn giản đến phức tạp trong văn hóa âm nhạc.

Cồng chiêng Tây Nguyên vẫn giữ nguyên mục đích ban đầu của nó, được sử dụng để mừng lúa mới và thể hiện tín ngưỡng, là phương tiện giao tiếp với siêu nhiên qua các lễ hội như thổi tai và bỏ mả, phục vụ đời sống con người Trong khi đó, ở các vùng Đông - Nam Á khác, cồng chiêng đã phát triển thành phương tiện biểu diễn cung đình và mang tính giải trí.

Xét về lịch sử tiến hóa, sự biến chuyển tính năng của nhạc khí diễn ra trong hàng trăm năm, cho thấy cồng chiêng Tây Nguyên đã tồn tại ít nhất 2.000 năm, dựa trên vết tích trống đồng Tài liệu khảo cổ cho thấy nguồn gốc tộc người và ngữ hệ ở Việt Nam có liên quan đến Nam Á và Nam Đảo, thậm chí có ý kiến cho rằng trống đồng Việt có nguồn gốc từ Trường Sơn Điều này chứng tỏ rằng cộng đồng Việt, Tày và các tộc người Tây Nguyên đã sống cùng nhau từ rất lâu, dẫn đến sự giao thoa văn hóa cồng chiêng.

Trong suốt lịch sử văn hóa, người Tây Nguyên đã không tự chế tác cồng chiêng mà mua từ người Kinh ở Quảng Nam, sau đó điều chỉnh âm thanh theo phong cách riêng Hoạt động này thể hiện sự "giao thương" qua hình thức hàng đổi hàng đã tồn tại hàng nghìn năm Ngay cả "chiêng Lào" mà người Tây Nguyên sở hữu cũng không phải từ Lào mà là sản phẩm trao đổi từ nơi khác Điều này dẫn đến nhận thức rằng cồng chiêng Tây Nguyên thực chất là cồng chiêng Việt.

Và còn một số giả thuyết khác lại cho rằng cồng chiêng không xuất phát từ Tây Nguyên:

Mỗi người Tây Nguyên đều là nghệ sĩ và nhạc sĩ tài ba, có khả năng hát, múa và thành thạo sử dụng nhạc cụ, đặc biệt là trong dàn nhạc cồng chiêng Khả năng âm nhạc này phát triển tự nhiên và trở thành một phần quan trọng trong cộng đồng Trước đây, nam nữ muốn lập gia đình cần phải biết chơi cồng chiêng khi đến tuổi trưởng thành.

"Cái nôi của cồng chiêng rất có thể là Trường Sơn - Tây Nguyên," là giả định của GS Jose Maceda (Philippines) hơn 20 năm trước Đông Sơn đã trở thành biểu tượng của nền văn hóa thời kỳ đồ đồng khoảng 3.500 năm trước tại Đông Nam Á Hiện nay, người Mường ở Thanh Hóa và Hòa Bình vẫn duy trì những dàn cồng chiêng với số lượng lên đến 12 chiếc.

Theo giả thuyết được GS Tô Vũ xác nhận, cồng chiêng có thể có nguồn gốc từ văn hóa Việt - Mường, nhưng đã bị mai một do quá trình Hán hóa kéo dài.

Cồng chiêng Tây Nguyên, một biểu tượng văn hóa đặc sắc, vẫn còn nhiều tranh cãi về nguồn gốc Một số giả thuyết cho rằng nhánh “trốn lên núi” của người Mường là nơi lưu giữ truyền thống này Thực tế cho thấy, đồng bào dân tộc Tây Nguyên chưa tự chế tác được nhạc cụ cồng chiêng mà phải phụ thuộc vào việc mua từ người Kinh, Lào, Campuchia Điều này củng cố thêm giả thuyết rằng cồng chiêng Tây Nguyên có nguồn gốc xuất phát từ Việt Nam.

Quá trình hình thành và phát triển

Cồng chiêng là một nhạc cụ quan trọng trong âm nhạc các tộc người Việt Nam, đặc biệt là đối với người Tây Nguyên, nơi nó không chỉ là biểu tượng văn hóa mà còn là nguồn sống và tín ngưỡng tâm linh Âm thanh của cồng chiêng, khi ngân nga sâu lắng hay khi thôi thúc, hòa quyện cùng thiên nhiên, sẽ mãi mãi gắn bó với đất trời và con người nơi đây Để đạt được những thành tựu hiện tại, cồng chiêng Tây Nguyên đã trải qua một quá trình phát triển lâu dài và ý nghĩa.

3.1 Sự phát triển về chất liệu

Sự thay đổi chất liệu cồng chiêng từ đá sang đồng phản ánh quá trình cải tiến công cụ lao động và sự tiến bộ trong tư duy của con người Việc sử dụng đồng không chỉ mang lại âm thanh to và vang xa hơn, mà còn hỗ trợ hiệu quả trong các cuộc đi săn, giúp gia tăng chiến lợi phẩm cho người sử dụng.

Màu sắc và âm thanh của cồng chiêng ngày càng được người dân tộc thiểu số chú trọng, đặc biệt là yếu tố thẩm mỹ Các nghệ nhân có thể tạo ra cồng chiêng với nhiều màu sắc khác nhau, từ màu đồng nguyên chất như đỏ, vàng đến đen Bằng cách pha chế hợp kim, họ có thể biến cồng chiêng thành màu đen hoặc xám, thể hiện sự giàu có, vì đồng đen có giá trị cao nhất Ngoài ra, bí quyết trong quá trình đúc cho phép tạo ra âm thanh to nhỏ, vang rền theo ý muốn, góp phần tạo nên sự độc đáo của từng dàn cồng chiêng trong các dân tộc và buôn làng.

3.2 Sự phát triển về văn hóa- xã hội

Việc sử dụng cồng chiêng không chỉ phản ánh tính cộng đồng của người dân tộc thiểu số mà còn đóng vai trò quan trọng trong các hoạt động văn hóa Cồng chiêng được dùng để săn thú và tạo ra âm thanh trong các nghi lễ, thể hiện sự gắn kết và bản sắc văn hóa độc đáo của họ.

Cồng chiêng không chỉ là phương tiện kết nối cộng đồng người Tây Nguyên với thế giới thần linh mà còn phản ánh sự thay đổi trong nhận thức về giá trị văn hóa hàng ngày Nó thể hiện lòng tôn kính của họ đối với các đấng thần linh và ý niệm tôn trọng thiên nhiên, đồng thời đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống sinh tồn của họ.

Lễ đâm trâu diễn ra trong âm thanh của cồng chiêng Nguồn Internet

Các buổi sinh hoạt cồng chiêng không chỉ gắn kết cộng đồng mà còn tạo ra những mối quan hệ tình cảm, giúp se duyên cho các cặp đôi.

Cồng chiêng không chỉ là nhạc cụ mà còn mang ý nghĩa sâu sắc trong văn hóa của người Tây Nguyên, thể hiện lòng biết ơn và tôn trọng tổ tiên trong các buổi lễ cúng tế Đặc biệt, với người Giarai, âm thanh của cồng chiêng gắn liền với những sự kiện quan trọng trong đời, bắt đầu từ “lễ thổi tai” khi trẻ mới sinh, đánh dấu sự gia nhập vào bộ tộc Tiếng cồng chiêng đồng hành cùng họ trong các lễ hội cầu mùa, mừng lúa mới, đám cưới, và cả trong các nghi lễ đưa ma, thể hiện sự kết nối giữa con người và văn hóa truyền thống.

Lễ bỏ mã của người Bana Nguồn Internet

Lễ mừng lúa mới của người Mnông Nguồn

Nghệ thuật đánh cồng chiêng trong nền âm nhạc Việt Nam không chỉ làm phong phú thêm hình thức chơi nhạc cụ mà còn đa dạng hóa các loại nhạc cụ Sự khác biệt trong cách đánh cồng chiêng của người dân Tây Nguyên thể hiện sự tinh tế và tâm hồn lãng mạn của họ, đồng thời nâng cao giá trị nghệ thuật Đam mê và nhiệt huyết chính là động lực giúp họ đạt được những thành công trong việc phát triển phong cách và kỹ thuật chơi nhạc cụ Cồng chiêng Êđê nổi bật với nhịp điệu phức hợp, tốc độ nhanh và cường độ lớn; cồng chiêng Mnông có cường độ vừa phải nhưng tốc độ nhanh; trong khi cồng chiêng Bana - Giarai tập trung vào tính chất chủ điệu với âm sắc vững chãi và hùng tráng.

Chiêng không có núm tạo ra âm sắc đanh gọn và lảnh lót, thường được đánh bằng tay hoặc dùi gỗ có bịt vải, mang đến sự phong phú cho các hiệu ứng âm thanh Trong các buổi biểu diễn, nghệ nhân di chuyển dàn cồng chiêng từ phải qua trái, tượng trưng cho việc ngược chiều thời gian và hướng về nguồn cội.

Âm nhạc và văn hóa Tây Nguyên thể hiện rõ nét qua các tác phẩm sử thi, truyền thuyết và thơ ca, đặc biệt là trong “Sử thi Đam San.” Một đoạn nổi bật trong tác phẩm mô tả sự hùng tráng của tiếng chiêng: "Hãy đánh những cái chiêng kêu thanh nhất, những chiêng kêu trầm nhất Đánh cho tiếng chiêng vang xa khắp xứ, để mọi sinh vật đều lắng nghe và quên đi những điều khác." Điều này không chỉ thể hiện sức mạnh của âm nhạc mà còn phản ánh sự kết nối sâu sắc giữa con người và thiên nhiên trong văn hóa Tây Nguyên.

Việc sử dụng cồng chiêng âm vang trong các trận đánh không chỉ thể hiện tinh thần tự chủ và yêu nước của người dân tộc, mà còn gợi nhớ về cội nguồn và những cuộc săn đuổi để duy trì sự sống Âm thanh mạnh mẽ này phản ánh sức mạnh vô biên của họ khi đối mặt với thiên nhiên khắc nghiệt, đồng thời thể hiện khát vọng hòa bình và tình yêu quê hương.

Quá trình đề nghị và được công nhận “Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên”

Việc chuẩn bị hồ sơ trình UNESCO cho không gian văn hóa cồng chiêng là một nhiệm vụ khó khăn, đòi hỏi sự nỗ lực lớn lao, đặc biệt khi địa bàn trải rộng qua năm tỉnh và 11 dân tộc Thời gian chuẩn bị chỉ có sáu tháng, trong khi hồ sơ cần phải tuân thủ đúng mẫu của UNESCO, bao gồm tiêu chuẩn về hình ảnh, băng đĩa, và tài liệu bảo tồn giá trị di sản Tất cả tài liệu như sơ đồ và nghiên cứu cần được dịch sang tiếng Anh Để hoàn thiện hồ sơ, cán bộ của Viện đã phải chia thành nhiều bộ phận, thực hiện các công việc như điền dã, biên tập, dịch thuật và lồng tiếng Cồng chiêng, với tư cách là nghệ thuật biểu diễn của từng dân tộc, đã có mặt trong nhiều ngày hội quốc gia và từng được trình diễn ở nước ngoài.

Vào ngày 19-3-2004, Bộ VH-TT đã gửi công văn 814/VHTTDSVH đề nghị Thủ tướng Chính phủ công nhận di sản văn hóa phi vật thể của vùng văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên là Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý với đề nghị này trong công văn 2557/VPCP-VX vào ngày 24-3-2004 Để hoàn thiện hồ sơ trình UNESCO, Viện VH-TT, Cục Di sản văn hóa và các sở VH-TT của 5 tỉnh Tây Nguyên đã thực hiện các chỉ đạo từ Bộ VH-TT Đặc biệt, vào ngày 12 và 13-10-2004, tọa đàm khoa học về giá trị văn hóa của nhạc cụ gõ bằng đồng đã diễn ra tại Hà Nội, thu hút sự tham gia của nhiều nhà khoa học trong nước và quốc tế, góp phần quan trọng vào việc đề nghị UNESCO công nhận di sản này.

Vào ngày 25-11-2005, UNESCO đã chính thức công nhận không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên là Kiệt tác truyền khẩu và di sản phi vật thể của nhân loại Đây không chỉ là niềm vinh dự lớn lao cho người dân Tây Nguyên mà còn là niềm kiêu hãnh của toàn thể dân tộc Việt Nam.

Các lí do Cồng Chiêng Tây Nguyên của Việt Nam được UNESCO công nhận là “Kiệt tác truyền khẩu và di sản phi vật thể của nhân loại”

1 Danh tiếng văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên đã vượt ra khỏi biên giới quốc gia, trở thành tài sản của nhân loại Những giá trị đặc sắc của không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, một bộ phận của di sản và tinh hoa văn hóa Việt Nam được cộng đồng quốc tế biết đến và được tôn vinh

2 Giá trị nổi bật của “Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên” là nơi đây chứa đựng những giá trị sáng tạo mang tầm kiệt tác của nhân loại Chủ nhân của

Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên phản ánh sự sáng tạo và tài năng của các dân tộc thiểu số nơi đây Mặc dù cư dân Tây Nguyên không tự sản xuất cồng chiêng, nhưng với sự nhạy bén trong âm nhạc, họ đã biến sản phẩm này thành những nhạc cụ biểu diễn độc đáo Mỗi chiếc chiêng trong tay các nghệ sĩ dân gian không chỉ là một nhạc cụ mà còn là một nốt nhạc trong dàn nhạc, tạo nên những bản nhạc chiêng phong phú Các dân tộc khác nhau cũng đã sắp xếp và định biên các dàn nhạc theo cách riêng, làm phong phú thêm không gian văn hóa đặc sắc này.

3 Cồng chiêng Tây Nguyên có nguồn gốc từ truyền thống văn hóa và lịch sử rất lâu đời Từ xa xưa, cộng đồng cư dân Tây Nguyên đã biết thổi hồn và tiếp thêm sức sống cho cồng chiêng Tây Nguyên để những âm thanh khi ngân nga sâu lắng, khi thôi thúc trầm hùng, hòa quyện với tiếng suối, tiếng gió và với tiếng lòng người Tây Nguyên, sống mãi cùng với đất trời và con người Tây Nguyên

4 Cồng chiêng Tây Nguyên giữ vai trò là phương tiện để khẳng định cộng đồng và bản sắc văn hóa chung các dân tộc Tây Nguyên cũng như của từng tộc người trên mảnh đất muôn màu, muôn sắc Tây Nguyên Mỗi dân tộc Tây Nguyên có một cách chơi chiêng khác nhau Người dân bình thường ở Tây Nguyên tuy không phải là những chuyên gia âm nhạc, nhưng chỉ cần nghe tiếng chiêng là họ phân biệt được đó là dân tộc nào

5 Âm nhạc của cồng chiêng Tây Nguyên thể hiện trình độ điêu luyện của người chơi trong việc áp dụng những kỹ năng đánh chiêng và kỹ năng chế tác Từ việc chỉnh chiêng đến biên chế thành dàn nhạc, cách chơi, cách trình diễn, những người dân trong các p'lei, p'lơi, buôn, bon, v.v dẫu không qua trường lớp đào tạo vẫn thể hiện được những cách chơi điêu luyện tuyệt vời

6 Cồng chiêng Tây Nguyên là bằng chứng độc đáo, là nét đặc trưng của truyền thống văn hóa các dân tộc Tây Nguyên Nó là một loại hình sinh hoạt gắn liền với đời sống văn hóa, tinh thần và tín ngưỡng của con người từ lúc được sinh ra cho đến khi trở về với đất trời, với vũ trụ

Theo tiến sĩ Đặng Văn Bài _ cục trưởng cục di sản văn hóa “Một vinh dự lớn cần được bảo tồn và phát huy triệt để”

II - Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên

Nét đặc trưng về môi trường tự nhiên, dân cư và văn hóa

1.1 Đặc trưng về môi trường tự nhiên

Tây Nguyên, một vùng đất nổi bật về địa hình, bao gồm 5 tỉnh: Gia Lai, Kon Tum, Đắc Lắc, Đắc Nông và Lâm Đồng Khu vực này chủ yếu là cao nguyên xếp tầng, với các sơn nguyên và dãy núi cao trung bình, xen lẫn những cao nguyên đất đỏ bazan đặc trưng.

Khí hậu Tây Nguyên có hai mùa rõ rệt: mùa nóng khô từ tháng 11 đến tháng 3 và mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 10, tạo nên sự tương phản thời tiết đặc trưng Sự phân chia này không chỉ ảnh hưởng đến nhịp điệu sản xuất mà còn hình thành nét văn hóa độc đáo trong đời sống của người dân nơi đây.

Rừng chiếm tỉ lệ lớn và có độ che phủ cao nhất Việt Nam, tạo nên một hệ sinh thái phong phú với động thực vật quý hiếm Rừng không chỉ là môi trường sống gần gũi của cư dân các dân tộc, mà còn là biểu tượng của “văn hóa rừng” đặc trưng của người Tây Nguyên Hoạt động sản xuất chủ yếu của người dân nơi đây tập trung vào canh tác nương rẫy trồng lúa, ngô và phát triển chăn nuôi gia súc.

1.2 Đặc trưng về dân cư

Tây nguyên và vùng phụ cận là địa bàn sinh tụ của gần 20 tộc người bản địa, thuộc 2 dòng ngôn ngữ chính: Môn-Khmer và Nam Đảo

Trên địa bàn 5 tỉnh Tây Nguyên, có sự hiện diện của nhiều tộc người đa dạng, bao gồm các tộc Bana, Xơ-đăng, Giẻ-triêng, Brâu, Rơmăm, Mnông, Mạ, Cơho thuộc nhóm Môn-Khmer, cùng với các tộc Giarai, Êđê, Churu, Raglai thuộc nhóm Nam Đảo.

Về phân bố dân cư: có các dân tộc thuộc 3 nhóm rõ rệt:

Các tộc thuộc nhóm Bana – Xơ-đăng (hay gọi là người Bana Bắc) phân bố ở Bắc tây nguyên, thuộc tỉnh Gia Lai và Kon Tum

Nhóm Mnông – Mạ (thường gọi là Bana Nam): gồm tộc người Mnoong, xtieeng, Mạ, Chơro cư trú ở Nam Tây Nguyên, thuộc tỉnh Lâm Đồng và các tỉnh kế cận

Các tộc Nam Đảo (Gia Rai, Êđê), cư trú chủ yếu ở trung tâm Tây Nguyên thuộc địa bàn tỉnh Đắc Lắc, Bắc Đắc Nông và Nam Gia Lai

Nếp sống nương rẫy là đặc trưng cơ bản quy định các sắc thái văn hóa lớn của vùng Trường Sơn – Tây Nguyên, ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống vật chất và tinh thần của người dân nơi đây Tín ngưỡng và phong tục tập quán của các tộc người Tây Nguyên gắn liền với hoạt động nông nghiệp truyền thống, tạo nên bản sắc văn hóa độc đáo cho khu vực này.

Văn hóa của đồng bào gắn liền với nương rẫy, thể hiện qua 17 lễ hội, phong tục tập quán và nghi lễ, phản ánh đời sống tình cảm sâu sắc của con người Điều này cho thấy rằng văn hóa của họ có thể được coi là "văn hóa rừng".

1.3 Đặc trưng về xã hội

Mô hình xã hội chủ yếu của các tộc người bản địa Tây Nguyên là làng buôn, nơi mỗi buôn làng bao gồm nhiều gia đình lớn hoặc nhỏ sống trong các nóc nhà, đôi khi chỉ có một nóc nhà dài của đại gia đình Các dân tộc Tây Nguyên có nhiều hình thức gia đình như mẫu hệ, phụ hệ và song hệ, trong đó gia đình mẫu hệ là hình thức đặc trưng nhất cho khu vực này.

Cơ cấu xã hội của các dân tộc Tây Nguyên được hình thành theo mô hình làng buôn, trong đó mối quan hệ cộng đồng đóng vai trò quan trọng và là đặc trưng nổi bật của xã hội nơi đây.

Toàn bộ văn hóa tộc người cơ bản vẫn là văn hóa dân gian (sử thi), do con người sáng tạo và phục vụ mọi người trong cộng đồng

Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên

2.1 Đặc trưng về văn hóa

Các dân tộc Tây Nguyên chia sẻ những quan niệm và hành xử đặc trưng liên quan đến mối quan hệ giữa người sống và người chết Từ đó, họ phát triển một hệ thống phong phú các tập tục, nghi lễ và hoạt động văn hóa xoay quanh thế giới người chết, hình thành nên một văn hóa dân gian tổng thể, đặc sắc - sinh hoạt văn hóa nhà mồ.

Lễ hội là hoạt động tín ngưỡng và văn hóa đặc trưng của các dân tộc Tây Nguyên, đánh dấu các giai đoạn trong sản xuất nông nghiệp từ chặt cây, gieo hạt đến thu hoạch Nó cũng phản ánh các sự kiện quan trọng trong đời sống con người như sinh, hôn nhân và tử Các lễ hội này không chỉ mang tính cộng đồng mà còn thể hiện sự gắn kết giữa các gia tộc và buôn làng, như lễ cúng bến nước hay lễ cầu no đủ Trong số đó, nghi thức hiến sinh, đặc biệt là hiến sinh trâu, trở thành một phần không thể thiếu, khiến lễ hội đâm trâu trở thành biểu tượng lớn của các dân tộc Tây Nguyên.

Sinh hoạt văn hóa nghệ thuật là một phần quan trọng của văn hóa cộng đồng, bao gồm các thể loại như sử thi, sử thi anh hùng, trường ca và truyền thuyết anh hùng Những hình thức nghệ thuật này không chỉ phản ánh bản sắc văn hóa dân gian mà còn gắn kết các thành viên trong cộng đồng thông qua những câu chuyện và giá trị truyền thống.

Sử thi Tây Nguyên không chỉ là một hiện tượng văn học dân gian mà còn là biểu tượng văn hóa đặc sắc của cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên, đặc biệt là người Êđê Sinh hoạt kể Khan là một hình thức văn hóa cộng đồng tiêu biểu, thể hiện sự gắn kết của người dân nơi đây Âm nhạc đóng vai trò quan trọng, với nhạc cụ gõ, đặc biệt là cồng chiêng, nổi bật trong các hoạt động văn hóa Nghệ thuật múa của dân tộc Tây Nguyên rất phong phú và độc đáo, thường xuất hiện trong các lễ hội như lễ bỏ mả, lễ hội đâm trâu, và các ngày vui gia đình, với nhiều hình thức múa khác nhau như múa nghi lễ, múa cho từng giới, múa chung nam nữ và múa tập thể.

Kiến trúc Tây Nguyên thể hiện sự độc đáo và đa dạng qua các kiểu nhà đặc trưng Tại Trường Sơn, các ngôi nhà công cộng có mái tròn khum mu rùa và đầu hồi trang trí con chim thần mang ảnh hưởng phong cách Đông Sơn Ở Bắc Tây Nguyên, nhà rông với mái cao vút hình lưỡi rìu nổi bật trên những ngôi nhà sàn trong làng Trung và Nam Tây Nguyên lại đặc trưng bởi những ngôi nhà dài, nơi sinh sống của nhiều gia đình và khu vực dành cho sinh hoạt cộng đồng Ngoài ra, nhà mồ, tượng mồ và trang trí nhà mồ là nét văn hóa chung của các dân tộc Tây Nguyên, nhưng mỗi tộc người lại có những đặc trưng riêng biệt.

2.2 Đặc trưng về tiếng cồng, tiếng chiêng

Cồng chiêng là nhạc cụ truyền thống của các dân tộc Tây Nguyên, được làm từ hợp kim đồng và có thể pha thêm vàng, bạc hoặc đồng đen Nhạc cụ này có nhiều kích thước khác nhau, từ 20 đến 120cm, và có thể được sử dụng đơn lẻ hoặc theo bộ từ 2 đến 20 chiếc Cồng chiêng thường được chơi trong các lễ hội như Lễ mừng lúa mới và Lễ cúng Bến nước, tại các địa điểm như nhà dài, nhà rông, và các khu rừng gần buôn làng Trong mỗi bộ cồng chiêng, chiêng mẹ đóng vai trò quan trọng nhất, và người chơi có thể gõ bằng dùi hoặc đấm bằng tay.

Có tộc còn áp dụng kỹ thuật chặn tiếng bằng tay trái hoặc tạo giai điệu trên một chiếc chiêng

Có truyền thống văn hóa và lịch sử rất lâu đời:

+ Có nguồn gốc ban đầu từ cồng đá, chiêng đá tre, tới thời đại đồ đồng, chiêng đồng mới xuất hiện…

Tiếng chiêng không chỉ dài hơn đời người mà còn kết nối các thế hệ, thể hiện sự gắn bó mật thiết với cuộc sống của người Tây Nguyên Cồng chiêng là phương tiện giao tiếp và là tiếng nói của tâm linh, phản ánh tâm hồn con người, diễn tả niềm vui và nỗi buồn trong lao động và sinh hoạt hàng ngày.

Theo quan niệm của người Tây Nguyên, mỗi chiếc cồng, chiêng đều ẩn chứa một vị thần có đời sống tình cảm và gia đình riêng Những vị thần này có sức mạnh, có thể mang lại hạnh phúc và thịnh vượng, nhưng cũng có thể gây ra bất hạnh nếu bị làm cho nổi giận Do đó, cồng chiêng trở thành phương tiện giao tiếp với thần linh, và càng cổ, quyền lực của vị thần càng cao Ngoài ra, cồng chiêng còn là tài sản quý giá, biểu tượng cho quyền lực và sự giàu có, như một chiếc chiêng có giá trị tương đương với hai con voi hoặc 20 con trâu.

Cồng chiêng là phương tiện giao tiếp quan trọng của người miền núi, giúp kết nối các cộng đồng dân tộc với nhau Trong sinh hoạt văn hóa cồng chiêng, các dân tộc hòa hợp mà không có hiện tượng loại trừ hay đồng hóa văn hóa Tiếng cồng chiêng mang đến cảm xúc rạo rực, tạo sự đồng thanh tương ứng, khuyến khích mọi người tìm đến gần nhau hơn.

Cồng chiêng Tây Nguyên là biểu tượng văn hóa quan trọng, thể hiện bản sắc của các dân tộc nơi đây Mỗi tộc người có cách chơi chiêng riêng, tạo nên sự đa dạng trong âm nhạc Dù không phải là chuyên gia, người dân Tây Nguyên vẫn có khả năng nhận diện tộc người chỉ qua âm thanh của chiêng, khẳng định vai trò của nhạc cụ này trong đời sống cộng đồng.

Nó là một hoạt động văn hóa, tinh thần và tín ngưỡng, gắn liền với cuộc sống của con người từ khi sinh ra cho đến khi trở về với thiên nhiên và vũ trụ.

Gắn liền với văn hóa, cồng chiêng là một nhạc cụ nghi lễ

+ Mỗi nghi lễ có ít nhất một bài nhạc chiêng riêng

+ Ngoài ra, còn có những bài chiêng dùng cho các sinh hoạt cộng đồng

Bản sắc văn hoá các dân tộc ít người Tây Nguyên thể hiện đậm đà nhất trong cồng chiêng và sinh hoạt văn hoá cồng chiêng

Có nhiều biên chế dàn cồng chiêng khác nhau:

Dàn chiêng 2 hoặc 3 chiếc được coi là biên chế cổ xưa nhất trong văn hóa của nhiều tộc người Tây Nguyên Dàn 2 chiêng, hay còn gọi là chiêng Tha, thuộc về người Brâu, trong khi dàn 3 cồng núm được sử dụng bởi các dân tộc như Churu, Bana, Giarai và Gié-Triêng.

Dàn chiêng 6 chiếc phổ biến trong nhiều tộc người, bao gồm dàn chiêng bằng của người Mạ, dàn Stang của người Xơđăng, và dàn chiêng của các nhóm Gar, Noong, Prơng thuộc dân tộc Mnông Ngoài ra, nhóm Bih thuộc dân tộc Êđê cũng có dàn gồm 6 cồng núm Các dàn chiêng này có khả năng đảm trách nhịp điệu tương tự như dàn cồng núm của nhóm Bih, dàn Diek của nhóm Kpạ, và dàn chiêng của nhóm Noong dân tộc Mnông.

+ Dàn chiêng 11 hoặc 12 chiếc gồm 3 cồng núm và 8-9 chiếc chiêng bằng của các tộc người Giarai (ngành Aráp), Bana (ngành TồLồ, Kon K’Đeh), người Xơđăng (ngành Steng)

Chiêng Tây Nguyên không phải là sản phẩm tự chế của cư dân địa phương mà là một nhạc cụ được cải tiến từ hàng hóa mua từ nơi khác Nghệ nhân đã sử dụng phương pháp chỉnh sửa tinh vi, thể hiện khả năng thẩm âm nhạy bén và hiểu biết sâu sắc về chế độ rung và cách lan truyền âm thanh của chiêng trong không gian.

Có hai phương pháp chỉnh sửa mà người nghệ nhân ở Tây Nguyên sử dụng: + Gõ, gò theo hình vảy tê tê

+ Gõ, gò theo hình lượn sóng

Dàn cồng chiêng Tây Nguyên được biểu diễn bởi số lượng người tương ứng với số chiêng, tạo thành một dàn nhạc sống động, khuyến khích khán giả tham gia vào điệu xoang và hát Kỹ thuật biểu diễn của nghệ nhân rất phong phú, mang đến những giai điệu đa dạng từ trầm bổng đến bi tráng, tùy thuộc vào hoàn cảnh và tâm trạng Dàn cồng chiêng không chỉ thể hiện sự gắn bó của gia đình mà còn là biểu tượng văn hóa đặc sắc của các dân tộc Tây Nguyên Mặc dù đa số nghệ nhân là nam giới, một số dân tộc vẫn có phụ nữ tham gia biểu diễn và múa, cho thấy sự đa dạng và truyền thống lâu đời của nghệ thuật cồng chiêng trong cộng đồng.

Thực trạng về văn hóa cồng chiêng hiện nay

Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên đang đối mặt với nhiều thách thức do sự biến đổi kinh tế và xã hội, ảnh hưởng đến đời sống cộng đồng các dân tộc Sự ra đi của thế hệ người già am hiểu văn hóa cồng chiêng khiến việc tìm kiếm người kế thừa trở nên khó khăn Nhiều nơi, cồng chiêng không còn giữ được ý nghĩa linh thiêng mà trở thành hàng hóa trao đổi, phục vụ cho mục đích trang trí và sưu tập, dẫn đến nguy cơ thất truyền và mai một văn hóa cồng chiêng.

Tại tỉnh Đắk Lắk, tình hình hiện tại yêu cầu cần thiết phải triển khai các giải pháp đồng bộ và kiên quyết để bảo tồn, duy trì và phát triển bền vững.

Không gian văn hóa cồng chiêng của tỉnh Đắk Lắk và đồng bào Tây Nguyên đang được bảo tồn và phát huy thông qua Nghị quyết số 05/2016/NQ-HĐND Nghị quyết này đặt ra nhiệm vụ bảo tồn văn hóa cồng chiêng, bảo vệ các bộ chiêng quý, và tổ chức các lớp truyền dạy kỹ năng đánh chiêng cho thế hệ trẻ Đồng thời, việc bảo vệ các ngôi nhà dài truyền thống và tổ chức các nghi lễ, lễ hội gắn liền với cồng chiêng cũng được chú trọng, nhằm góp phần bảo tồn và phát huy di sản văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên.

Bài cồng chiêng mừng lúa mới dân tộc Jơ Rai Ảnh: Sỹ Huynh-TTXVN

Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết, chương trình bảo tồn văn hóa cồng chiêng đã đáp ứng nhu cầu thực tiễn, tạo được sự đồng thuận, nhân dân đồng tình ủng hộ Việc tổ chức các lớp truyền dạy đánh chiêng, cấp chiêng và trang phục được các địa phương quan tâm phối hợp, có hiệu quả, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa, tâm linh trong các lễ hội của đồng bào các dân tộc trong tỉnh Số chiêng, trang phục truyền thống được tỉnh cấp cho các buôn, đội văn nghệ đã góp phần động viên, khích lệ tinh thần rất lớn cho các nghệ nhân, tạo điều kiện thuận lợi trong việc duy trì tập luyện, tham gia các buổi phục dựng, trình diễn nghi lễ, lễ hội truyền thống, hội thi, hội diễn, liên hoan cồng chiêng ở địa phương, trong tỉnh, khu vực, cả nước và quốc tế, góp phần bảo tồn, phát huy di sản Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên ở tỉnh Qua kiểm kê, đến tháng 8/2020, toàn tỉnh có 2.098 bộ chiêng, trong đó có 1.645 bộ chiêng Êđê;

319 bộ chiêng M'nông; 118 bộ chiêng Gia rai; 5 bộ chiêng Xơ đăng; 4 bộ chiêng Mường; 3 bộ chiêng Bru Vân Kiều; 3 bộ chiêng Thái và 1 bộ chiêng Ba Na

Các đại biểu tham dự Hội nghị nhấn mạnh rằng việc bảo tồn không gian văn hóa cồng chiêng vẫn gặp nhiều hạn chế và cần sự quan tâm từ các cấp, ngành và địa phương để duy trì và phát triển văn hóa này một cách ổn định trước những tác động từ nhiều yếu tố Đại diện Phòng văn hóa thông tin huyện Cư M’gar cho biết rằng trong thời gian qua, công tác bảo tồn văn hóa cồng chiêng chủ yếu tập trung vào quản lý nhà nước, trong khi các hoạt động bảo tồn trực tiếp tại cộng đồng còn hạn chế.

Để bảo tồn văn hóa cồng chiêng, cần phát huy vai trò của nghệ nhân và cộng đồng địa phương, giúp văn hóa này sống mãi trong đời sống hàng ngày Việc này không chỉ giữ gìn di sản văn hóa mà còn giúp thế hệ trẻ hiểu rõ hơn về giá trị văn hóa của dân tộc Tây Nguyên.

Theo Giám đốc Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Tây Nguyên Trương Thông Tuần, hầu hết sinh viên dân tộc thiểu số hiện nay đang dần mất đi văn hóa truyền thống, đặc biệt là Không gian văn hóa cồng chiêng Để khôi phục và bảo tồn văn hóa này, Đại học Tây Nguyên sẽ đầu tư mua sắm thêm bộ cồng chiêng để trưng bày và phục vụ giáo dục cho sinh viên Nhà trường cũng sẽ củng cố đội chiêng trẻ, đảm bảo sự kế thừa giữa các thế hệ sinh viên, từ đó duy trì và mở rộng số lượng đội chiêng cũng như sự đa dạng về loại hình và bài chiêng Bên cạnh đó, hoạt động văn hóa cồng chiêng sẽ được đưa vào chương trình ngoại khóa cho sinh viên dân tộc thiểu số nhằm xây dựng đội ngũ truyền dạy cồng chiêng trong cộng đồng, đồng thời khuyến khích nghiên cứu về âm nhạc cồng chiêng và các giá trị liên quan.

“Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên” nhằm góp phần bảo tồn và phát huy loại hình văn hóa này.

Bảo tồn và phát huy có hiệu quả di sản văn hóa cồng chiêng

Bảo tồn và phát huy giá trị của “Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên” là nhiệm vụ cấp bách và lâu dài, không chỉ là trách nhiệm của nhà nước và Bộ Văn hóa - Thông tin và Du lịch mà còn cần sự gắn kết của các cộng đồng dân tộc Tây Nguyên, công dân Việt Nam và du khách.

Với vai trò là nước chủ nhà, chúng ta cần xây dựng một chương trình tổng thể phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của Tây Nguyên, kèm theo hệ thống giải pháp cụ thể để thực hiện Bộ Văn hóa - Thông tin có trách nhiệm quản lý di sản văn hóa, dự kiến sẽ triển khai các công việc nhằm bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên Do đó, cần thiết phải có các biện pháp và chiến lược để ngăn chặn và khôi phục các giá trị văn hóa của "không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên".

32 phối hợp với cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên nhằm giữ gìn các giá trị của cả nhân loại

Cần đẩy mạnh công tác sưu tầm, ghi chép và nghiên cứu hệ thống về cồng chiêng và văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, nhằm phục hồi và giữ gìn các sinh hoạt văn hóa, tạo môi trường diễn xướng bền vững Xây dựng phòng lưu trữ di sản văn hóa cồng chiêng tại các bảo tàng tỉnh như Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng, đồng thời thực hiện kế hoạch đào tạo dài hạn cho đội ngũ cán bộ khoa học am hiểu về âm nhạc và văn hóa Tây Nguyên, đặc biệt là người dân tộc thiểu số Mở lớp truyền dạy kinh nghiệm đánh và chỉnh chiêng tại cộng đồng, phát triển nghệ nhân biểu diễn cồng chiêng gắn liền với nghi lễ và đời sống hàng ngày Tăng cường tuyên truyền qua các phương tiện thông tin để nâng cao nhận thức về tài sản văn hóa phi vật thể của Tây Nguyên Biên soạn và xuất bản các ấn phẩm văn hóa về "Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên" để giới thiệu giá trị văn hóa độc đáo này đến du khách trong và ngoài nước.

Chúng tôi kêu gọi sự quan tâm từ các cá nhân và tổ chức trong và ngoài nước để nghiên cứu, giới thiệu và quảng bá Hãy hỗ trợ chúng tôi về kinh phí, phương tiện và tư liệu nhằm thực hiện hiệu quả các công việc này.

Bảo tồn và phát huy giá trị của Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên là nhiệm vụ cấp bách và có ý nghĩa lâu dài Dưới sự công nhận của UNESCO và sự quan tâm từ Đảng, Nhà nước cùng tình cảm của nhân dân, chúng ta có cơ hội lớn để gìn giữ di sản văn hóa này Tuy nhiên, công việc này cũng đối mặt với nhiều thách thức, đòi hỏi sự quyết tâm và khẩn trương từ tất cả mọi người Chỉ khi chúng ta nỗ lực thực hiện, giá trị to lớn của kiệt tác cồng chiêng Tây Nguyên mới được bảo tồn và phát huy cho thế hệ mai sau.

Trong giai đoạn 2021-2025, tỉnh Đắk Lắk cũng như một số tỉnh thành khác ở Tây Nguyên tiếp tục thực hiện các nội dung đã cam kết trong hồ sơ đệ

UNESCO đã công nhận 33 di sản văn hóa cồng chiêng, nhằm bảo tồn và phát huy giá trị của di sản này trong đời sống cộng đồng các dân tộc thiểu số tại tỉnh Các hoạt động này không chỉ giúp khôi phục không gian văn hóa cồng chiêng mà còn quảng bá giá trị của “Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên” đến bạn bè trong và ngoài nước Việc bảo tồn và phát huy di sản cồng chiêng trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ thúc đẩy phát triển du lịch tỉnh, đồng thời góp phần thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam bền vững Hình ảnh đánh cồng chiêng và múa hát trong ngày khánh thành làng văn hóa du lịch Pleôp thể hiện sự sống động của di sản này.

Các tỉnh thành ở Tây Nguyên đã đề xuất Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức định kỳ Liên hoan văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên và xây dựng Đề án, Chiến lược dài hạn nhằm bảo tồn và phát huy di sản văn hóa các dân tộc tại khu vực này Điều này sẽ giúp các tỉnh xây dựng kế hoạch thực hiện phù hợp với tình hình thực tiễn địa phương Đồng thời, cần có chính sách hỗ trợ tài chính hàng tháng hoặc hàng quý cho các “Nghệ nhân Nhân dân” và “Nghệ nhân Ưu tú”, nhằm khuyến khích họ tiếp tục đóng góp vào việc bảo tồn và phát huy giá trị của cồng chiêng trong những năm tới.

KẾT LUẬN

Quản lý nhà nước về di sản văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên bao gồm những hoạt động có tổ chức và có mục đích nhằm bảo tồn và phát huy giá trị di sản này Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng, hỗ trợ và triển khai các biện pháp bảo vệ, gìn giữ văn hóa cồng chiêng, đảm bảo di sản này được bảo tồn cho các thế hệ tương lai.

Việc phát huy giá trị văn hóa cồng chiêng là một hoạt động kết hợp giữa khoa học và nghệ thuật, nhằm bảo tồn không gian văn hóa cồng chiêng trong bối cảnh văn hóa truyền thống của các dân tộc anh em tại Tây Nguyên Âm thanh của cồng chiêng không chỉ mang lại niềm lạc quan cho người dân Tây Nguyên mà còn là nguồn cảm hứng cho những sử thi và thơ ca, góp phần làm phong phú đời sống tinh thần của cộng đồng.

Các dân tộc Tây Nguyên đã trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, từ thời kỳ đồ đá đến đồ đồng và đồ sắt, trải qua sự chuyển mình từ các tộc người đến các nhóm địa phương Họ đã từ sống biệt lập trong các buôn làng đến việc giao lưu với các dân tộc khác, cuối cùng hòa nhập vào một quốc gia thống nhất Di sản văn hóa dân tộc của họ chủ yếu được lưu giữ qua truyền khẩu, bao gồm phương thức sản xuất, phong tục tập quán, lễ hội tín ngưỡng, luật tục, nghệ thuật diễn xướng, ngôn ngữ và chữ viết, tất cả đều do các nghệ nhân dân gian gìn giữ qua nhiều thế hệ.

Trong bối cảnh hội nhập văn hóa toàn cầu, di sản văn hóa dân tộc đang đối mặt với nguy cơ mất bản sắc, khi mà nhiều kiến thức quý giá chỉ còn tồn tại trong đầu của các nghệ nhân lớn tuổi Họ đóng vai trò quan trọng trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, như những "sử sống" giữ gìn kho tàng văn hóa Việc giao lưu và hòa nhập di sản văn hóa với xã hội hiện đại là cần thiết, bởi nó không chỉ bổ sung cho nền văn hóa đương đại mà còn giúp chống lại sự xâm lấn của văn hóa ngoại lai Để đảm bảo sự truyền thụ tri thức văn hóa cổ xưa cho các thế hệ sau, Nhà nước cần có chính sách đãi ngộ đặc biệt, tạo điều kiện cho các nghệ nhân sống bằng nghề và có thời gian truyền dạy cho con cháu trước khi họ về với tổ tiên.

Nguồn tài liệu tham khảo

1 http://luanvan.net.vn/luan-van/de-tai-mot-so-khai-niem-va-vung-van- hoachau-tho-bac-bo-35275/

2 https://www.tailieumienphi.vn/doc/tieu - luan - van - hoa - cong - chieng - tay nguyen - 40x6tq.html

3 http://unescovietnam.vn/vnf/index.php?option=com_content&view=articl e&id(6:cng - chieng - tay - nguyen - kit - tac - vn - hoa - ca - nhan -

&catid4:tin - vn - hoa&Itemid29

4 https://www.vietnamtours247.com/van - hoa - cong - chieng - tay - nguyen - la gi/

Ngày đăng: 09/01/2022, 19:20

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

1.3 Đặc trưng về xã hội - Không gian văn hóa cồng chiêng tây nguyên
1.3 Đặc trưng về xã hội (Trang 18)
Mô hình xã hội cơ bản của tộc người bản địa Tây Nguyên là làng buôn. Mỗi buôn làng như vậy bao gồm nhiều gia đình lớn hay nhỏ, cư trú trong một số nóc nhà, thậm chí cả làng chỉ có một (nóc nhà dài của đại gia đình) - Không gian văn hóa cồng chiêng tây nguyên
h ình xã hội cơ bản của tộc người bản địa Tây Nguyên là làng buôn. Mỗi buôn làng như vậy bao gồm nhiều gia đình lớn hay nhỏ, cư trú trong một số nóc nhà, thậm chí cả làng chỉ có một (nóc nhà dài của đại gia đình) (Trang 18)
Tạo hình kiến trúc: Mang sắc thái riêng và độc đáo. Ở Trường Sơn thấy các ngôi nhà công cộng với mái tròn khum mu rùa, đầu hồi trang trí con chim thần mang phong cách Đông Sơn - Không gian văn hóa cồng chiêng tây nguyên
o hình kiến trúc: Mang sắc thái riêng và độc đáo. Ở Trường Sơn thấy các ngôi nhà công cộng với mái tròn khum mu rùa, đầu hồi trang trí con chim thần mang phong cách Đông Sơn (Trang 20)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

w