GIỚI THIỆU NGHIÊN CỨU
SỰ CẦN THIẾT CỦA NGHIÊN CỨU
Hệ thống ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc chuyển giao nguồn vốn nhàn rỗi thành nguồn vốn đầu tư Thông qua chức năng trung gian tín dụng và các nghiệp vụ huy động vốn, cho vay, đầu tư, ngân hàng thương mại (NHTM) không chỉ mang lại lợi ích cho tất cả các bên tham gia mà còn thúc đẩy lưu thông hàng hóa qua các dịch vụ thanh toán Do đó, sự phát triển của hệ thống NHTM và nền kinh tế có mối liên hệ chặt chẽ, ảnh hưởng lẫn nhau trong quá trình phát triển kinh tế.
Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đạt đỉnh cao 8.48% vào năm 2007, nhưng sau đó bị ảnh hưởng nặng nề bởi khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, dẫn đến sự suy giảm liên tục trong hai năm 2008 và 2009 Mặc dù có dấu hiệu phục hồi vào năm 2010, nhưng từ năm 2011, tình hình tăng trưởng kinh tế lại tiếp tục giảm sút.
Hình 1.1: Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam giai đoạn 2007 – 2019
Nguồn: Ngân hàng thế giới
Trong bối cảnh nền kinh tế gặp khó khăn, hệ thống ngân hàng Việt Nam đang đối mặt với nhiều thách thức do những tồn tại tích tụ qua nhiều năm, đe dọa đến sự an toàn của các ngân hàng thương mại và ảnh hưởng đến nền kinh tế vĩ mô Mặc dù tín dụng cho nền kinh tế tăng nhanh, chất lượng tín dụng của các ngân hàng thương mại lại thấp Theo báo cáo, đến cuối năm 2011, nợ xấu toàn hệ thống đạt 82.700 tỷ đồng, tương đương 3,30% tổng dư nợ Nếu áp dụng tiêu chuẩn quốc tế, tỷ lệ nợ xấu có thể lên tới 13% Ngoài ra, dự phòng rủi ro chỉ đạt 26,67% nợ xấu, thấp hơn nhiều so với các quốc gia khác, đặc biệt khi phân loại theo tiêu chuẩn quốc tế.
Tính đến cuối năm 2010, tỷ lệ tổng dư nợ tín dụng so với GDP của Việt Nam đạt 116%, cao hơn nhiều so với các nước như Indonesia (35.56%), Philippines (50.63%) và Ấn Độ (49%) Hệ thống doanh nghiệp tại Việt Nam phụ thuộc nhiều vào tín dụng ngân hàng nhưng lại có hiệu quả kinh doanh thấp và tài chính không lành mạnh Theo số liệu giám sát đến cuối năm 2011, có 2,649 khách hàng thua lỗ với tổng dư nợ tín dụng lên tới 67,911 tỷ đồng, chiếm 2.7% tổng dư nợ tín dụng toàn ngành Đặc biệt, 1% khách hàng vay ngân hàng có tỷ lệ nợ so với vốn chủ sở hữu từ 3 lần trở lên, chiếm 13.6% tổng dư nợ tín dụng.
Theo Nghị định số 141/2006/NĐ-CP, các ngân hàng thương mại (NHTM) phải đạt vốn điều lệ tối thiểu 3.000 tỷ đồng vào cuối năm 2010 Tuy nhiên, đến cuối năm 2011, vẫn còn 3 NHTM chưa đáp ứng yêu cầu này, trong khi có tới 30 NHTM có vốn điều lệ dưới 5.000 tỷ đồng Hiệu quả tài chính của các NHTM ở Việt Nam còn thấp so với mức độ rủi ro và so với các ngân hàng trong khu vực và toàn cầu, với chỉ số ROE năm 2010 đạt 17,19% và ROA chỉ 1,44%.
Trước những thách thức của nền kinh tế và hệ thống ngân hàng, Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Ðảng (Khóa XI) đã ban hành Kết luận số 10-KL/TW vào ngày 18/10/2011, nhấn mạnh việc tái cơ cấu đầu tư, thị trường tài chính và doanh nghiệp nhà nước trong 5 năm tới Đầu năm 2012, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 01/NQ-CP nhằm kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô, bắt đầu từ tái cơ cấu đầu tư và hệ thống tài chính-ngân hàng Đề án 254 về tái cấu trúc hệ thống các TCTD giai đoạn 1 (2011-2015) được phê duyệt với mục tiêu lành mạnh hóa tài chính và nâng cao hiệu quả hoạt động của các TCTD Tiếp theo, Đề án 1058 được phê duyệt vào năm 2017 nhằm xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020 Để giải quyết các khó khăn trong xử lý nợ xấu, Ngân hàng Nhà nước đã trình Nghị quyết số 42/2017/QH14, tạo điều kiện pháp lý thuận lợi cho việc xử lý nợ xấu và tài sản bảo đảm của các TCTD.
Trong nghiên cứu tài chính, các tác giả trên thế giới và Việt Nam đã áp dụng hai phương pháp phổ biến để đánh giá hiệu quả, đó là DEA và thống kê t Cụ thể, phương pháp DEA đã được Can và Ariff (2008) sử dụng tại bốn quốc gia: Hàn Quốc, Indonesia, Thái Lan và Philippines, cùng với các nghiên cứu của Nguyễn Việt Hùng (2008), Liễu Thu Trúc và Võ Thành Danh (2012), Phan Thị Hằng Nga và Nguyễn Phương Thanh (2016) tại Việt Nam Trong khi đó, phương pháp thống kê t được áp dụng bởi Cornett và các cộng sự (2010a).
Nghiên cứu của Bilal và Amin (2015) tại Pakistan cùng với Nguyễn Phạm Nhã Trúc và Nguyễn Phạm Thiên Thanh (2015) tại Việt Nam đã phân tích hiệu quả tài chính của các ngân hàng thương mại (NHTM) qua hai giai đoạn: trước và sau khủng hoảng, cũng như trước và sau quá trình tái cấu trúc Các tác giả Can và Ariff (2008) cũng đã đóng góp vào lĩnh vực này, cho thấy sự thay đổi trong hiệu quả tài chính của NHTM trong bối cảnh biến động kinh tế.
Phương Thanh (2016)), so sánh hiệu quả tài chính của 2 nhóm NHTM nhà nước và NHTM tư nhân (Nguyễn Việt Hùng (2008), Nguyễn Phạm Nhã Trúc và Nguyễn Phạm Thiên Thanh
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra tác động của tái cấu trúc đến hiệu quả tài chính của các ngân hàng thương mại (NHTM) trên thế giới và tại Việt Nam, bao gồm các tác phẩm của Dziobek và Pazarbasioglu (1998), Curak và cộng sự (2012), Trần Hoàng Ngân và cộng sự (2015), Kithinji và cộng sự (2017), cùng với Võ Xuân Vinh và Nguyễn Hữu Huân (2018) Ngoài ra, một số nghiên cứu chuyên sâu về tác động của tái cấu trúc tài chính đối với hiệu quả tài chính của NHTM như Osoro (2014) và Hsiao cùng cộng sự (2010) cũng đã được thực hiện Hơn nữa, các nghiên cứu về tác động của tái cấu trúc sở hữu đến hiệu quả tài chính của NHTM cũng rất đáng chú ý, với các tác giả như Williams và Nguyen (2005), Berger và cộng sự (2005), Patti và Hardy (2005), cùng Thoraneenitiyan và Avkiran (2009), Lin và Zhang.
(2009, Badreldin và Kalhoefer (2009), Lin và cộng sự (2016); nghiên cứu tác động của tái cấu trúc hoạt động đến hiệu quả tài chính của các NHTM: Samina và Zaman (2015), AlAli
Nghiên cứu về hiệu quả tài chính của các ngân hàng thương mại (NHTM) tại Việt Nam vẫn còn nhiều khoảng trống Tổng quan các nghiên cứu thực nghiệm cho thấy các tác giả đã áp dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau, như DEA và thống kê t, trên toàn cầu cũng như tại Việt Nam Đặc biệt, Việt Nam đã tiến hành tái cấu trúc giai đoạn 1 từ năm
Bài viết này tập trung vào việc so sánh và đánh giá hiệu quả tài chính trung bình của các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam trong giai đoạn tái cấu trúc (2012-2015, 2016-2019) so với giai đoạn trước tái cấu trúc (2007-2011) Đồng thời, nghiên cứu cũng sẽ phân tích hiệu quả tài chính giữa các nhóm ngân hàng như NHTM nhà nước (NHTM_NN) và NHTM cổ phần (NHTM_CP), cũng như sự khác biệt giữa các ngân hàng tham gia và không tham gia vào các thương vụ sáp nhập và mua lại (M&A) Đây là một khoảng trống nghiên cứu quan trọng về hiệu quả tài chính của các NHTM Việt Nam mà chưa có nghiên cứu nào thực hiện trước đây.
Tái cấu trúc ngân hàng có tác động lớn đến hiệu quả tài chính của các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam, với nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng mục tiêu chính của quá trình này là nâng cao hiệu quả tài chính Các biện pháp hỗ trợ từ chính phủ có thể giúp giảm thiểu nguy cơ khủng hoảng tài chính, ảnh hưởng đến cả quốc gia và toàn cầu (Birchil và Simmons, 2010) Các nghiên cứu quốc tế như Dziobek và Pazarbasioglu (1998) cũng đã phân tích sự liên quan giữa tái cấu trúc và hiệu quả tài chính của NHTM.
Nghiên cứu của Dziobek và Pazarbasioglu (1998), Curak và cộng sự (2012), Kithinji và cộng sự (2017) đã chỉ ra tác động của tái cấu trúc tài chính đến hiệu quả tài chính của ngân hàng thương mại (NHTM) Các công trình như Osoro (2014) và Hsiao cùng cộng sự (2010) cũng khai thác vấn đề này Ngoài ra, nghiên cứu về tác động của tái cấu trúc sở hữu đến hiệu quả tài chính của NHTM được thể hiện qua các tác giả như Williams và Nguyen (2005), Berger và cộng sự (2005), Patti và Hardy (2005), Thoraneenitiyan và Avkiran (2009), Lin và Zhang (2009), Badreldin và Kalhoefer (2009), cùng với Lin và cộng sự (2016) Đối với tác động của tái cấu trúc hoạt động, các nghiên cứu của Samina và Zaman (2015), AlAli (2020) đã đóng góp thêm thông tin Tuy nhiên, qua khảo sát các nghiên cứu trước, tác giả nhận thấy vẫn còn khoảng trống nghiên cứu về tác động của tái cấu trúc đến hiệu quả tài chính của NHTM.
Nghiên cứu về tác động của tái cấu trúc đến hiệu quả tài chính của ngân hàng thương mại (NHTM) đã được thực hiện trên thế giới, nhưng tại Việt Nam, thời gian nghiên cứu còn hạn chế, chỉ từ 2007 đến 2013 hoặc 1999 đến 2015 Các nghiên cứu trước đó như của Dziobek và Pazarbasioglu (1998), Curak và cộng sự (2012), Kithinji và cộng sự (2017) đã chỉ ra rằng điều kiện kinh tế và hệ thống NHTM của các quốc gia khác nhau ảnh hưởng đến kết quả tái cấu trúc Do đó, cần thiết phải mở rộng nghiên cứu tại Việt Nam trong khoảng thời gian từ 2007 đến 2019 để đánh giá đầy đủ hơn về tác động của tái cấu trúc đến hiệu quả tài chính của NHTM.
Nghiên cứu hiện tại gặp khó khăn do chỉ tập trung vào một số ít biến đại diện cho các hoạt động tái cấu trúc, ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính của ngân hàng thương mại (NHTM), như đã chỉ ra bởi Dziobek và Pazarbasioglu (1998), Curak và cộng sự (2012), Kithinji và cộng sự (2017) Điều này dẫn đến việc mô hình nghiên cứu thiếu tính giải thích Để khắc phục vấn đề này, luận án sẽ bổ sung các biến đại diện cho từng hoạt động tái cấu trúc theo thực tiễn tại Việt Nam, cụ thể là từ Đề án 254, nhằm nâng cao khả năng giải thích của mô hình với nhiều biến giải thích hơn.
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Mục tiêu chính của luận án là đánh giá tác động của tái cấu trúc đến hiệu quả tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn 2007 – 2019 Nghiên cứu nhằm đưa ra các hàm ý chính sách cho Ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng thương mại, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả tài chính của hệ thống ngân hàng Việt Nam.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể Để hoàn thành mục tiêu chung, luận án cần đạt được các mục tiêu cụ thể:
Một là, đánh giá hiệu quả tài chính của các NHTM Việt Nam trong giai đoạn từ năm
Hai là, đo lường mức độ tác động của các nhân tố thuộc hoạt động tái cấu trúc đến hiệu quả tài chính của các NHTM Việt Nam
Ba là, đưa ra các hàm ý chính sách cho NHNN và các NHTM Việt Nam nhằm mục tiêu gia tăng hiệu quả tài chính của NHTM Việt Nam.
CÂU HỎI NGHIÊN CỨU
Với các mục tiêu nghiên cứu nêu trên, các câu hỏi nghiên cứu cần được lần lượt đặt ra như sau:
Một là, hiệu quả tài chính của các NHTM Việt Nam trong giai đoạn 2007 – 2019 như thế nào?
Hai là, mức độ tác động của từng nhân tố thuộc hoạt động tái cấu trúc đến hiệu quả tài chính của các NHTM Việt Nam như thế nào?
Ba là, hàm ý chính sách nào cho NHNN và các NHTM Việt Nam giúp gia tăng hiệu quả tài chính của NHTM Việt Nam?
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1.4.1 Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là hiệu quả tài chính và tác động của tái cấu trúc đến hiệu quả tài chính của các NHTM Việt Nam
Về mặt không gian: Đề tài được giới hạn trong phạm vi mẫu nghiên cứu gồm 30
Ngân hàng thương mại (NHTM) tại Việt Nam bao gồm ngân hàng 100% vốn nhà nước và ngân hàng có sở hữu nhà nước chi phối, được gọi là NHTM nhà nước (NHTM_NN) và các ngân hàng thương mại cổ phần (NHTM_CP) Quy mô mẫu nghiên cứu này đủ đại diện cho hệ thống 35 ngân hàng hiện có, với tổng tài sản của 30 NHTM trong mẫu chiếm hơn 80% tổng tài sản toàn hệ thống Các NHTM_NN, như NHTM dầu khí toàn cầu, NHTM đại dương và NHTM xây dựng, được Ngân hàng Nhà nước (NHNN) mua với giá 0 đồng và kiểm soát đặc biệt, trong khi NHTM CP Bảo Việt không có trong mẫu do thiếu số liệu.
Thời gian nghiên cứu kéo dài từ năm 2007 đến 2019, bắt đầu từ khi nền kinh tế và hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đối mặt với bất ổn do khủng hoảng kinh tế toàn cầu Để phục hồi nền kinh tế và hệ thống ngân hàng, Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã triển khai nhiều biện pháp tái cấu trúc từ năm 2012 Nghiên cứu được chia thành ba giai đoạn: giai đoạn trước tái cấu trúc (2007-2011), giai đoạn một của tái cấu trúc (2012-2015) theo đề án 254, và giai đoạn hai của tái cấu trúc (2016-2019).
2019 (theo đề án 1058 thì tái cấu trúc giai đoạn 2 từ năm 2016)
Về nội dung: Các chỉ tiêu đo lường hiệu quả tài chính được tác giả sử dụng là
ROAA, ROEA, NIM Tác giả không sử dụng các chỉ tiêu Tobin’s Q và Marris vì một số
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.5 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu của luận án, tác giả sử dụng kết hợp 2 phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng
1.5.1 Phương pháp nghiên cứu định tính
Tác giả áp dụng các phương pháp liệt kê, phân tích, so sánh và tổng hợp lý thuyết nền tảng cùng nghiên cứu trước đây để hình thành cơ sở lý thuyết về tái cấu trúc và hiệu quả tài chính Bài viết tập trung vào việc xác định các yếu tố trong hoạt động tái cấu trúc ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính của ngân hàng, từ đó xây dựng mô hình thực nghiệm phù hợp với bối cảnh Việt Nam.
Tác giả đã sử dụng đồ thị để phân tích hiệu quả tài chính của các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam trong giai đoạn 2007 – 2019 Nghiên cứu so sánh hiệu quả tài chính giữa các nhóm NHTM, bao gồm NHTM nhà nước và NHTM cổ phần, cũng như giữa NHTM có thực hiện mua bán sáp nhập và NHTM không tham gia vào hoạt động này.
1.5.2 Phương pháp nghiên cứu định lượng Để thực hiện mục tiêu đánh giá sự khác biệt trong hiệu quả tài chính của các nhóm NHTM: NHTM nhà nước và NHTM cổ phần, NHTM có mua bán sáp nhập và NHTM không mua bán sáp nhập, tác giả dùng kiểm định t – test trên số liệu về ROAA, ROEA và NIM của các NHTM trong từng nhóm chạy trên ứng dụng stata 13.0 Để thực hiện mục tiêu đánh giá tác động của tái cấu trúc đến hiệu quả tài chính của các NHTM Việt Nam, luận án sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng với các mô hình hồi quy đa biến trên dữ liệu bảng như: bình phương nhỏ nhất (Pool Ordinaty Least Square (POLS) hay Ordinaty Least Square (OLS)), tác động cố định (Fixed Effect Model (FEM)), tác động ngẫu nhiên (Random Effect Model (REM)) và hồi quy moment tổng quát hệ thống (System Generalized Method of Moments (SGMM)) Luận án thực hiện hồi quy từng bước và thông qua các kết quả kiểm định để lựa chọn mô hình ước lượng vững và hiệu quả nhất chạy trên ứng dụng stata 13.0
1.5.3 Quy trình nghiên cứu Để đạt được mục tiêu nghiên cứu đánh giá hiệu quả tài chính, tác giả tiến hành lược khảo lý thuyết và các nghiên cứu thực nghiệm có liên quan đến đề tài Từ kết quả tổng quan nghiên cứu, tác giả đề xuất quy trình nghiên cứu được tóm tắt như sau:
Hình 1.2: Quy trình nghiên cứu
Nguồn: Đề xuất của tác giả
TÁC ĐỘNG CỦA TÁI CẤU TRÚC ĐẾN HIỆU QUẢ TÀI CHÍNH
CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
Cơ sở lý thuyết và các nghiên cứu thực nghiệm và về tái cấu trúc, hiệu quả tài chính của ngân hàng thương mại
Bối cảnh thực tiễn và dữ liệu 30 ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn 2007 - 2019
ROAA, ROEA, NIM Đề xuất mô hình đánh giá tác động của tái cấu trúc đến hiệu quả tài chính của NHTM Việt Nam
Thảo luận kết quả nghiên cứu Đề xuất hàm ý chính sách cho các NHTM và NHNN
Phương pháp định tính và định lượng
Sử dụng đồ thị, phân tích, kiểm định t Đánh giá hiệu quả tài chính của NHTM
NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN
1.6.1 Những đóng góp về lý thuyết
Các đóng góp lý thuyết từ nghiên cứu này được thể hiện qua việc đề xuất một mô hình nghiên cứu lý thuyết dựa trên nền tảng lý thuyết vững chắc.
Nghiên cứu này sẽ đóng góp vào việc khái quát hóa lý thuyết về tái cấu trúc và hiệu quả tài chính của ngân hàng thương mại (NHTM) Các lý thuyết nền tảng như lý thuyết quyền lực thị trường và lý thuyết cấu trúc hiệu quả sẽ được sử dụng để đánh giá hiệu quả tài chính Đồng thời, lý thuyết trung gian tài chính, lý thuyết người đại diện, lý thuyết vòng đời và lý thuyết nguồn lực sẽ là cơ sở để xây dựng mô hình nghiên cứu tác động của tái cấu trúc tài chính, tái cấu trúc sở hữu và tái cấu trúc hoạt động đến hiệu quả tài chính của NHTM.
Luận án đã phát triển một mô hình nghiên cứu toàn diện về tác động của tái cấu trúc đối với hiệu quả tài chính của ngân hàng thương mại, bao gồm các yếu tố như tái cấu trúc tài chính, tái cấu trúc sở hữu và tái cấu trúc hoạt động.
1.6.2 Những đóng góp về thực tiễn
Luận án không chỉ đóng góp về lý thuyết mà còn mang lại những kết quả thực nghiệm quan trọng, hứa hẹn sẽ hỗ trợ thiết thực cho các nhà quản trị Ngân hàng Thương mại và Ngân hàng Nhà nước.
Thứ nhất, kết quả thực nghiệm của luận án cho thấy hiệu quả tài chính của NHTM
Trong giai đoạn đầu của quá trình tái cấu trúc, Việt Nam chưa có sự cải thiện rõ rệt, nhưng đến giai đoạn tái cấu trúc thứ hai, đã xuất hiện dấu hiệu phục hồi, mặc dù chưa đạt được hiệu quả tài chính như trước đó Các ngân hàng thương mại nhà nước (NHTM_NN) thường có hiệu quả tài chính cao hơn so với ngân hàng thương mại cổ phần (NHTM_CP), tuy nhiên, NHTM_CP đã có những bước tiến đáng kể để cải thiện hiệu quả, hướng tới việc đạt mức tương đương với NHTM_NN vào cuối giai đoạn tái cấu trúc thứ hai Đặc biệt, các ngân hàng tham gia vào MVA có hiệu quả tài chính thấp hơn so với các ngân hàng không tham gia.
Luận án đã phân tích các yếu tố trong hoạt động tái cấu trúc và tác động của chúng đến hiệu quả tài chính của các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam Đồng thời, nghiên cứu cũng kiểm định mối quan hệ giữa tái cấu trúc và hiệu quả tài chính của các NHTM này.
Luận án đề xuất một số chính sách cho Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và các Ngân hàng Thương mại (NHTM) dựa trên kết quả phân tích thực nghiệm, nhằm hỗ trợ quá trình tái cấu trúc và nâng cao hiệu quả tài chính của các NHTM tại Việt Nam.
BỐ CỤC CỦA LUẬN ÁN
Ngoài phụ lục, tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận án bao gồm 5 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Giới thiệu nghiên cứu
Chương 1 trình bày về vấn đề nghiên cứu chính của luận án bao gồm: mục tiêu nghiên cứu, câu hỏi nghiên cứu, phạm vi và đối tượng nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu và kết cấu của luận án
Chương 2: Cơ sở lý thuyết và các nghiên cứu thực nghiệm
Chương 2 của luận án hệ thống hóa cơ sở lý thuyết về các vấn đề hiệu quả tài chính và tái cấu trúc ngân hàng Luận án khảo lược các nghiên cứu trước về tác động của tái cấu trúc đến hiệu quả tài chính Dựa vào cơ sở lý thuyết và tổng quan các nghiên cứu trước, luận án xác định khe hỗng nghiên cứu, từ đó làm cơ sở tìm kiếm và lựa chọn phương pháp nghiên cứu trên dữ liệu là các NHTM Việt Nam giai đoạn 2007 – 2019
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu
Chương 3 của luận án sẽ trình bày quy trình và phương pháp nghiên cứu dựa trên các nội dung đã được nghiên cứu ở chương 2 Ngoài ra, chương này cũng thiết lập thang đo cho các biến trong mô hình nghiên cứu.
Chương 4: Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Chương 4 trình bày thực trạng hiệu quả tài chính và tái cấu trúc của các NHTM Việt Nam Chương 4 trình bày kết quả nghiên cứu và những bàn luận về kết quả nghiên cứu này
Chương 5: Kết luận và hàm ý chính sách
Dựa trên phương pháp và kết quả nghiên cứu từ chương 3, 4 và 5, bài viết đưa ra kết luận về những phát hiện quan trọng Từ những kết quả này, một số hàm ý được rút ra nhằm giúp Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và các Ngân hàng Thương mại (NHTM) tăng cường hiệu quả tài chính cho các NHTM Việt Nam.
Chương 1 đã giới thiệu khái quát về nghiên cứu của luận án Từ bối cảnh thực tiễn của giai đoạn nghiên cứu từ năm 2007 – 2019, do tác động của khủng hoảng kinh tế năm
Năm 2008, hệ thống ngân hàng Việt Nam bộc lộ nhiều tồn tại và hạn chế tích tụ qua nhiều năm, dẫn đến rủi ro gia tăng Để khắc phục tình trạng này, chính phủ đã tiến hành tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) thông qua đề án 254 năm 2012 và đề án 1058 năm 2016 Tuy nhiên, hiệu quả thực sự của quá trình tái cấu trúc này vẫn là vấn đề được các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm.
Nghiên cứu toàn cầu đã chỉ ra rằng tái cấu trúc có ảnh hưởng đáng kể đến hiệu quả tài chính của các ngân hàng thương mại (NHTM) Một số nghiên cứu tập trung vào từng khía cạnh của tái cấu trúc, bao gồm tái cấu trúc tài chính, sở hữu và hoạt động, từ đó làm nổi bật sự cần thiết phải đánh giá tác động của tái cấu trúc đối với hiệu quả tài chính của các NHTM tại Việt Nam Chương 1 của luận án xác định mục tiêu nghiên cứu là phân tích hiệu quả tài chính của các NHTM Việt Nam và tác động của tái cấu trúc đến hiệu quả này, nhằm đưa ra các hàm ý chính sách cho Ngân hàng Nhà nước và các NHTM Luận án cũng giới thiệu đối tượng và phạm vi nghiên cứu, tập trung vào hoạt động tái cấu trúc và hiệu quả tài chính của các NHTM Việt Nam trong giai đoạn 2007.
Năm 2019, phương pháp nghiên cứu được áp dụng chủ yếu là định lượng, bao gồm các kỹ thuật tổng hợp, đồ thị, phân tích, so sánh và kiểm định t Luận án sử dụng các mô hình như bình phương nhỏ nhất (POLS), tác động cố định (FEM), tác động ngẫu nhiên (REM) và hồi quy moment tổng quát sai phân Quá trình hồi quy từng bước được thực hiện nhằm chọn ra mô hình ước lượng vững và hiệu quả nhất dựa trên kết quả kiểm định Cuối cùng, chương 1 trình bày bố cục của luận án với 5 chương cùng nội dung khái quát của từng chương.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ HIỆU QUẢ TÀI CHÍNH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
2.2.1 Khái niệm hiệu quả tài chính
Hiệu quả là một khái niệm quan trọng trong kinh tế và xã hội, thể hiện khả năng sử dụng tối ưu nguồn lực và đạt được mục tiêu của tổ chức.
Theo Kablan (2010), hiệu quả là khả năng tạo ra kết quả cao với nguồn lực tối thiểu Đối với các ngân hàng thương mại (NHTM), hiệu quả được xem xét từ nhiều góc độ khác nhau Trước hết, từ góc độ chức năng hoạt động chính của ngân hàng, hiệu quả của NHTM bao gồm hiệu quả sản xuất và hiệu quả trung gian tài chính (Das và Ghosh, 2006) Hiệu quả sản xuất và hiệu quả trung gian tài chính được đo lường thông qua việc đánh giá khả năng chuyển đổi các yếu tố đầu vào như tiền gửi, chi phí vốn, chi phí lãi và chi phí hoạt động thành các yếu tố đầu ra như cho vay, thu nhập lãi và thu nhập ngoài lãi.
Theo quan điểm kinh tế, hiệu quả của ngân hàng thương mại (NHTM) bao gồm hai khía cạnh chính: hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả phân bổ Hiệu quả kỹ thuật đo lường khả năng tối đa hóa đầu ra từ các đầu vào đã cho, trong khi hiệu quả phân bổ phản ánh khả năng sử dụng các đầu vào theo tỷ lệ tối ưu dựa trên giá cả của các yếu tố đầu vào.
Theo nghiên cứu của Thompson và Garbacz (2007), hiệu quả của ngân hàng thương mại (NHTM) có thể được phân loại thành hai loại: hiệu quả tài chính và hiệu quả phi tài chính Hiệu quả tài chính được xác định thông qua các báo cáo tài chính như bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh (Rose, 2012) Trong khi đó, hiệu quả phi tài chính được đánh giá dựa trên các yếu tố như hiệu suất làm việc của nhân viên, mức độ hài lòng của khách hàng, khả năng mở rộng kinh doanh, ứng dụng công nghệ truyền thông, tối ưu hóa chi phí và xuất khẩu dịch vụ, bao gồm cả việc chuyển giao vốn nhân lực sang các quốc gia khác (Dziobek và Pazarbasioglu, 1998; Worthington).
2.2.2 Các lý thuyết về hiệu quả tài chính của ngân hàng thương mại
Hiệu quả tài chính có thể được hiểu thông qua hai lý thuyết chính: lý thuyết quyền lực thị trường (Market Power – MP) và lý thuyết cấu trúc hiệu quả (Efficient Structure – ES).
Lý thuyết MP bao gồm hai hướng tiếp cận chính: Lý thuyết Cấu trúc – Hành vi – Hiệu quả (SCP) và Lý thuyết quyền lực thị trường tương đối (RMP) SCP, được phát triển bởi Bain (1951) dựa trên lý thuyết kinh tế công nghiệp của Marshall (1920), khẳng định rằng cấu trúc thị trường ảnh hưởng đến hành vi của doanh nghiệp, từ đó tác động đến kết quả kinh tế như hiệu quả tài chính và tăng trưởng Đặc biệt, sự tập trung cao trong các ngành có thể dẫn đến kết quả kinh tế kém, giảm sản lượng và hình thành giá độc quyền Ngược lại, RMP, do Hymer (1970) phát triển, cho rằng sự tập trung trong thị trường ngân hàng làm tăng lãi suất cho vay và giảm lãi suất huy động do cạnh tranh giảm Theo Berger (1995), các công ty có thị phần lớn và sản phẩm khác biệt có khả năng thực hiện quyền lực thị trường, cho phép họ đạt được lợi nhuận không cạnh tranh, ví dụ như các ngân hàng lớn có thể tăng giá sản phẩm và dịch vụ để tối đa hóa hiệu quả tài chính.
Lý thuyết hiệu quả cấu trúc (ES) do Demsetz (1973) đề xuất cho rằng mối quan hệ giữa cấu trúc thị trường và hiệu quả của công ty được xác định bởi hiệu quả của công ty Olweny và Shipho (2011) nhấn mạnh rằng các ngân hàng đạt lợi nhuận cao hơn nhờ vào hoạt động hiệu quả hơn Theo Al-Muharrami và Matthews (2009), hiệu quả X cho thấy các công ty hiệu quả thường có lợi nhuận cao và thị phần lớn hơn nhờ khả năng giảm thiểu chi phí sản xuất Trong khi đó, Olweny và Shipho (2011) lại tiếp cận từ góc độ quy mô, cho rằng các ngân hàng lớn hơn có chi phí sản xuất thấp hơn, dẫn đến hiệu quả cao hơn do tính kinh tế theo quy mô Lý thuyết ES chỉ ra rằng hiệu quả tài chính cao hơn của doanh nghiệp là kết quả từ các yếu tố bên trong doanh nghiệp.
Lý thuyết MP và ES được sử dụng để phân tích hiệu quả tài chính của ngân hàng, chịu tác động từ cả yếu tố nội tại và ngoại tại Những lý thuyết này là nền tảng cho các nhà nghiên cứu khi đưa các biến vào mô hình nhằm đánh giá ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính.
2.2.3 Đo lường hiệu quả tài chính
Rose (2012) và Kithinij (2017) cho rằng hiệu quả tài chính được đo lường thông qua các chỉ số ROA, ROE, NIM như sau:
ROE (Return On Equity) Lợi nhuận sau thuế Vốn chủ sở hữu
ROA (Return On Assets) Lợi nhuận sau thuế Tổng tài sản
Tỷ lệ ROA (Return on Assets) phản ánh hiệu quả sử dụng tài sản của ngân hàng thương mại (NHTM), cho biết lợi nhuận thu được trên mỗi đồng tài sản; ROA cao cho thấy khả năng sử dụng tài sản hiệu quả (Rose, 2012) Ngược lại, ROE (Return on Equity) thể hiện hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu, với ROE càng cao đồng nghĩa với việc NHTM sử dụng vốn hiệu quả hơn Bên cạnh đó, tỷ lệ NIM (Net Interest Margin) cho thấy thu nhập lãi thuần mà NHTM đạt được trên mỗi đồng tài sản, phản ánh hiệu quả hoạt động kinh doanh chính của ngân hàng trong việc huy động vốn và cho vay.
Dữ liệu lợi nhuận sau thuế, thu nhập lãi và chi phí lãi được trích từ báo cáo kết quả kinh doanh, phản ánh kết quả cả năm, trong khi tổng tài sản và vốn chủ sở hữu được lấy từ bảng cân đối kế toán, thể hiện số liệu tại thời điểm cuối năm tài chính Theo Tepla (1995), tổng tài sản và vốn chủ sở hữu của ngân hàng thương mại (NHTM) cần được tính toán dựa trên thông tin trung bình cả năm, do đó, tác giả áp dụng công thức sử dụng tổng tài sản bình quân và vốn chủ sở hữu bình quân.
Phương pháp đo lường hiệu quả tài chính phụ thuộc vào thông tin thị trường, bao gồm dữ liệu thị trường vốn và ngành ngân hàng Trong nhóm hệ số giá trị thị trường, Marris và Tobin’s Q là hai công cụ đánh giá hiệu quả tài chính của ngân hàng Hệ số Marris được tính theo một công thức cụ thể.
Lợi nhuận sau thuế Tổng tài sản bình quân
Vốn chủ sở hữu bình quân
NIM (Net Interest Margin) Thu nhập lãi – Chi phí lãi Tổng tài sản bình quân
NIM (Net Interest Margin) Thu nhập lãi – Chi phí lãi Tổng tài sản
CÁC LÝ THUYẾT GIẢI THÍCH TÁC ĐỘNG CỦA TÁI CẤU TRÚC ĐẾN HIỆU QUẢ TÀI CHÍNH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Các hệ số Marris và Tobin’s Q là công cụ hữu ích để đánh giá hiệu quả tương lai của ngân hàng, vì chúng phản ánh đánh giá của thị trường về tiềm năng lợi nhuận của ngân hàng thông qua giá cổ phiếu Điều này phù hợp với các phương pháp định giá cổ phiếu, trong đó dòng tiền tương lai được chiết khấu về hiện tại theo mức rủi ro xác định Do đó, Tian và Estrin (2008) khẳng định rằng định giá trên thị trường luôn dựa vào dòng tiền tương lai cùng với rủi ro kỳ vọng.
2.3 CÁC LÝ THUYẾT GIẢI THÍCH TÁC ĐỘNG CỦA TÁI CẤU TRÚC ĐẾN HIỆU QUẢ TÀI CHÍNH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
2.3.1 Lý thuyết trung gian tài chính
Lý thuyết về trung gian tài chính được nghiên cứu đầu tiên bởi Gurley và Shaw (1960)
Lý thuyết về sự tồn tại của các trung gian tài chính được xây dựng dựa trên ba yếu tố chính: sự bất cân xứng thông tin, chi phí giao dịch cao và phương pháp điều tiết.
Trong nghiên cứu lý thuyết trung gian tài chính, yếu tố chính được nhấn mạnh là sự bất cân xứng thông tin giữa người cho vay và người đi vay Sự bất đối xứng này có thể dẫn đến vấn đề lựa chọn bất lợi và rủi ro đạo đức, đồng thời gây ra chi phí xác minh thông tin kiểm toán Hệ quả là, sự bất cân xứng thông tin tạo ra những khiếm khuyết trên thị trường, làm sai lệch so với lý thuyết thị trường hoàn hảo Trong mối quan hệ giữa ngân hàng và người đi vay, khía cạnh này đóng vai trò quan trọng.
Hệ số Marris Tổng giá trị thị trường của vốn chủ sở hữu
Tổng giá trị sổ sách của vốn chủ sở hữu
Hệ số Tobin’s Q Giá trị thị trường của vốn chủ sở hữu Tổng giá trị sổ sách của tổng tài sản
Giá trị thị trường của nợ phải trả phản ánh chức năng của ngân hàng trong việc lựa chọn và theo dõi các khoản vay đã cấp Tuy nhiên, ngân hàng cũng có thể đối mặt với các vấn đề như lựa chọn bất lợi và rủi ro đạo đức trong quá trình này.
Cách tiếp cận thứ hai trong lý thuyết trung gian tài chính, được phát triển bởi Benston và Smith (1976) cùng với Fama (1980), tập trung vào chi phí giao dịch và không mâu thuẫn với lý thuyết thị trường hoàn hảo Nó nhấn mạnh sự khác biệt trong công nghệ giữa các người tham gia, coi các trung gian như một cầu nối giữa các tổ chức tài chính và người vay cá nhân, khai thác nền kinh tế ở cấp độ giao dịch Khái niệm chi phí giao dịch bao gồm không chỉ chi phí chuyển nhượng mà còn cả chi phí thẩm định, đánh giá và giám sát Do đó, vai trò của các trung gian tài chính là chuyển đổi các đặc điểm của tài sản, như ngày đáo hạn và tính thanh khoản, từ đó mang lại tính thanh khoản và cơ hội đa dạng hóa cho các hoạt động tài chính.
Cách tiếp cận thứ ba của lý thuyết trung gian tài chính, được phát triển bởi Guttentag và Lindsay (1968) cùng Merton (1995), tập trung vào việc điều tiết việc tạo ra tiền tệ, tiết kiệm và tài trợ cho nền kinh tế Lý thuyết này nhấn mạnh sự cần thiết của các trung gian tài chính do sự tồn tại của thông tin bất cân xứng, chi phí giao dịch và chi phí giám sát lớn, cũng như các quy định trong lĩnh vực tài chính Nó cho thấy tầm quan trọng của việc phân bổ nguồn lực trong một thị trường hoàn hảo và hoàn chỉnh, đồng thời chỉ ra rằng thị trường thường gặp phải các mâu thuẫn như chi phí giao dịch và bất cân xứng thông tin Những yếu tố này rất quan trọng để hiểu và đánh giá vai trò của các trung gian tài chính, vì thông tin bất cân xứng dẫn đến sự không hoàn hảo của thị trường và các khiếm khuyết trong giao dịch cùng với chi phí giám sát cụ thể (Merton, 1995).
Sàng lọc trong các định chế tài chính giúp giảm thiểu lựa chọn bất lợi và giảm nguy cơ đạo đức trong thị trường tài chính thông qua cơ chế giám sát nợ Thông tin bất cân xứng giữa các đơn vị kinh tế thặng dư và thâm hụt gây ra khiếm khuyết trong thị trường Các tổ chức tài chính có lợi thế quy mô có khả năng cắt giảm chi phí giao dịch khi giao dịch trực tiếp Quy định trong khu vực tài chính rất quan trọng để kiểm soát tiết kiệm và đầu tư, chẳng hạn như yêu cầu duy trì mức thanh khoản tối thiểu và tỷ lệ ký quỹ cụ thể đối với vốn (Andries và Cuza, 2009).
Các ngân hàng thực hiện tái cấu trúc để nâng cao năng lực trung gian tài chính thông qua cải tiến quy trình, công nghệ và sắp xếp lại mạng lưới Việc sử dụng chi phí hợp lý và nắm bắt sự đổi mới tài chính giúp các ngân hàng tăng cường vai trò của mình trong lĩnh vực này Lý thuyết này cung cấp cơ sở cho việc tái cấu trúc nhằm cải thiện hiệu quả tài chính, do đó, tái cấu trúc hoạt động là cần thiết để nâng cao hiệu quả trung gian tài chính (Chang và cộng sự, 2014).
Quan điểm dựa trên tài nguyên của công ty (RBV) và lý thuyết nguồn lực (RBT) là khuôn khổ quan trọng giúp giải thích và dự đoán lợi thế cạnh tranh cũng như hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp (Barney và cộng sự, 2011; Slotegraaf và cộng sự, 2003) Mặc dù đã có những nghiên cứu trước đây chỉ ra rằng các nguồn lực tổ chức đóng vai trò quan trọng trong thành công của doanh nghiệp (Penrose, 1959), nhưng đến những năm 1980, RBV mới thực sự hình thành Theo Peteraf và Barney (2003), một công ty có thể đạt được lợi thế cạnh tranh khi tạo ra giá trị kinh tế cao hơn so với đối thủ trong thị trường sản phẩm của mình.
Quan điểm dựa trên tài nguyên (RBV) nhấn mạnh tầm quan trọng của nguồn lực doanh nghiệp trong việc đạt được và duy trì lợi thế cạnh tranh Một công ty sẽ thành công khi sở hữu các nguồn lực phù hợp và tốt nhất cho chiến lược kinh doanh của mình Nguồn lực cần phải có giá trị, với các đặc điểm như hiếm có, khả năng tạo ra giá trị cho khách hàng, và khó bị bắt chước hoặc thay thế hoàn toàn (Barney, 1991).
Theo lý thuyết RBV, tài nguyên mà một công ty sở hữu đóng vai trò quyết định trong hiệu quả hoạt động và tạo ra lợi thế cạnh tranh bền vững Tài nguyên này bao gồm tất cả các loại tài sản, nguồn vốn, khả năng, quy trình tổ chức, thuộc tính công ty, thông tin và kiến thức mà công ty kiểm soát, cho phép họ xây dựng và thực hiện các chiến lược nhằm nâng cao hiệu quả.
Dựa trên lý thuyết RBV, hiệu quả của một công ty chủ yếu phụ thuộc vào các tài nguyên mà công ty sở hữu, có khả năng thúc đẩy hiệu quả tổ chức Quan điểm này không chỉ phân tích nguồn lực bên trong mà còn liên kết với môi trường bên ngoài, tạo thành cơ sở cho nghiên cứu về tác động của các nguồn lực như vốn, nợ phải trả, và quá trình tái cấu trúc tài chính của ngân hàng thương mại (NHTM), cũng như các yếu tố vĩ mô đến hiệu quả tài chính của NHTM.
2.3.3 Lý thuyết người đại diện
Lý thuyết người đại diện của Jensen và Meckling (1976) cho rằng con người có xu hướng cá nhân, cơ hội và tư lợi, dẫn đến sự đối kháng về lợi ích giữa cổ đông và nhà quản trị Cổ đông tập trung vào giá trị công ty và giá cổ phiếu, trong khi nhà quản trị thường ưu tiên lợi ích cá nhân như lương và thưởng Sự khác biệt này tạo ra chi phí người đại diện (Agency Cost), và chi phí này chỉ bằng không khi cổ đông cũng là Giám đốc Tuy nhiên, trong các công ty cổ phần, Giám đốc thường được thuê từ bên ngoài, do đó chi phí người đại diện là không thể tránh khỏi do sự không đồng nhất về lợi ích giữa Giám đốc và cổ đông.
Nghiên cứu của Fama và Jensen (1983) mở rộng lý thuyết chi phí đại diện và cấu trúc sở hữu, chỉ ra rằng trong một công ty, quyền sở hữu và quyền kiểm soát thường tách biệt Điều này dẫn đến việc các cổ đông, những người sở hữu thực sự, không tham gia vào việc quản lý công ty, tạo ra tình trạng bất cân xứng thông tin giữa nhà quản lý và cổ đông Nhà quản lý, với thông tin vượt trội về tình hình công ty, có khả năng lợi dụng quyền lực của mình để trục lợi cá nhân.
Nghiên cứu về ảnh hưởng của mức độ sở hữu của các nhà đầu tư tổ chức đến chi phí đại diện cho thấy rằng các nhà đầu tư tổ chức có khả năng và động lực kiểm soát công ty, từ đó giảm chi phí đại diện (Brickley, 1988) Ngược lại, các công ty có vốn đầu tư Nhà nước thường gặp khó khăn trong việc kiểm soát, dẫn đến chi phí đại diện cao hơn (Mak & Li, 2001) Hơn nữa, tỷ lệ sở hữu của các nhà đầu tư nước ngoài cũng ảnh hưởng đến chi phí đại diện; cụ thể, tại Trung Quốc, tỷ lệ này càng cao thì công ty càng được kiểm soát tốt hơn, nâng cao hiệu quả và giảm chi phí đại diện (Xu, Zhu & Lin, 2005) Lý thuyết người đại diện hỗ trợ cho việc hiểu rõ tác động của sở hữu nhà nước và sở hữu nước ngoài đối với hiệu quả của các ngân hàng thương mại.
CÁC NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM
2.4 CÁC NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM
2.4.1 Các nghiên cứu thực nghiệm về hiệu quả tài chính của ngân hàng thương mại
2.4.1.1 Các nghiên cứu thực nghiệm về hiệu quả tài chính của ngân hàng thương mại trên thế giới
Nghiên cứu về hiệu quả tài chính của các ngân hàng thương mại (NHTM) đã thu hút sự quan tâm của nhiều tác giả, những người áp dụng các phương pháp đa dạng và nghiên cứu trong nhiều bối cảnh khác nhau Họ so sánh hiệu quả giữa các nhóm NHTM như NHTM nhà nước với NHTM tư nhân, NHTM nước ngoài với NHTM cổ phần, cũng như phân tích hiệu quả tài chính trong các giai đoạn khác nhau như trước và sau khủng hoảng hay trước và sau tái cấu trúc, từ đó đưa ra nhiều kết quả đáng chú ý.
Bhaumik và Dimova (2004) đã nghiên cứu hiệu quả tài chính của các ngân hàng Ấn Độ giai đoạn 1995 – 2004 thông qua chỉ tiêu ROA Kết quả cho thấy ROA không có xu hướng rõ ràng theo thời gian, với nhóm ngân hàng thương mại nhà nước (NHTM_NN) có hiệu quả tài chính thấp hơn so với nhóm ngân hàng tư nhân trong giai đoạn 1995 – 1997 Tuy nhiên, từ năm 1998 – 1999, hiệu quả tài chính của NHTM_NN đã được cải thiện, thu hẹp khoảng cách với ngân hàng tư nhân và nước ngoài nhờ vào áp lực cạnh tranh Đến giai đoạn 2000 – 2004, áp lực cạnh tranh và quyền sở hữu không còn ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính của các ngân hàng Ấn Độ.
Nghiên cứu của Can và Ariff (2008) đã phân tích hiệu quả của các ngân hàng thương mại tại bốn quốc gia Đông Á: Hàn Quốc, Indonesia, Thái Lan và Philippines, từ năm 1991 đến 2005 Sử dụng phương pháp bao dữ liệu (DEA), kết quả cho thấy hiệu quả của các ngân hàng không có sự cải thiện đáng kể trước và sau khi triển khai các chương trình tái cấu trúc do Quỹ Tiền tệ Quốc tế hỗ trợ Đặc biệt, trong ngắn hạn, các ngân hàng tham gia tái cấu trúc thể hiện sự kém hiệu quả Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng khủng hoảng tài chính đã ảnh hưởng tiêu cực và lâu dài đến các ngân hàng ở Đông Á Sau khủng hoảng, không có sự khác biệt rõ rệt về hiệu quả giữa ngân hàng nhà nước và ngân hàng tư nhân, cũng như giữa ngân hàng niêm yết và chưa niêm yết trong khu vực này.
Thoraneenitiyan và Avkiran (2009) đã áp dụng phương pháp DEA và SFA để đánh giá hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại tại Đông Á trong giai đoạn tái cấu trúc sau khủng hoảng từ 1999 đến 2001 Kết quả nghiên cứu cho thấy, mặc dù việc sáp nhập trong nước đã tạo ra các ngân hàng hoạt động hiệu quả hơn, nhưng tái cấu trúc tổng thể không cải thiện hiệu quả của hệ thống ngân hàng Nguyên nhân chính của sự thiếu hiệu quả này chủ yếu xuất phát từ các điều kiện đặc thù của từng quốc gia, bao gồm lãi suất cao, thị trường tập trung và mức độ phát triển kinh tế.
Kumbirai và Webb (2010) đã sử dụng thống kê mô tả để phân tích hiệu quả tài chính của các ngân hàng thương mại lớn ở Nam Phi trong giai đoạn 2005 – 2009, với tỷ lệ ROA và ROE làm chỉ số đo lường Năm ngân hàng này chiếm 84,6% tổng tài sản của hệ thống ngân hàng thương mại Nam Phi vào năm 2009, đảm bảo tính đại diện cho mẫu nghiên cứu Nghiên cứu đã so sánh hiệu quả tài chính trước và sau khủng hoảng kinh tế năm 2007, cho thấy ROA và ROE tăng từ 2005 đến 2006, nhưng giảm sút sau khủng hoảng Sử dụng kiểm định t, các tác giả đã chứng minh sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hiệu quả tài chính giai đoạn trước (2005 – 2006) và sau khủng hoảng (2008 – 2009), chỉ ra xu hướng giảm sút hiệu quả tài chính trong giai đoạn sau.
Cornett và cộng sự (2010a) đã tiến hành nghiên cứu về hiệu quả tài chính của ngân hàng thương mại (NHTM) tại 16 quốc gia châu Á trong giai đoạn 1989 – 2004 Qua việc sử dụng kiểm định t-test để phân tích chỉ số ROA, nghiên cứu cho thấy nhóm NHTM nhà nước có ROA thấp hơn so với NHTM tư nhân, tuy nhiên khoảng cách này đã dần được thu hẹp theo thời gian Các tác giả đã phân chia giai đoạn nghiên cứu thành hai phần: trước khủng hoảng (1989 – 1996) và trong giai đoạn khủng hoảng bắt đầu từ năm 1997.
Giai đoạn từ năm 2000 đến sau khủng hoảng 2001 – 2004 cho thấy khoảng cách về tỷ suất sinh lời trên tài sản (ROA) giữa ngân hàng thương mại nhà nước (NHTM_NN) và ngân hàng thương mại tư nhân (NHTM tư nhân) là rất lớn, với ROA của NHTM_NN thấp hơn nhiều so với NHTM tư nhân trong thời kỳ khủng hoảng.
Nghiên cứu của Zhao và cộng sự (2010) chỉ ra rằng hiệu quả và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng Ấn Độ đã được cải thiện sau quá trình tái cấu trúc, dựa trên phương pháp DEA với mẫu 65 ngân hàng thương mại trong giai đoạn 1992 – 2004 Kết quả cho thấy ngân hàng nước ngoài hoạt động hiệu quả hơn ngân hàng tư nhân, trong khi ngân hàng tư nhân lại có hiệu quả thấp hơn ngân hàng nhà nước Tương tự, Hsiao và cộng sự (2010) cũng phát hiện rằng hiệu quả của các ngân hàng thương mại Đài Loan đã tăng lên sau tái cấu trúc vào các năm 2004 và 2005, mặc dù hiệu quả trong giai đoạn trước và trong quá trình tái cấu trúc (2000, 2001 và 2002, 2003) lại thấp hơn mức trung bình.
Nghiên cứu của Bhattacharyya và Pal (2011) về hiệu quả của các nhóm ngân hàng thương mại tại Ấn Độ trong giai đoạn 1989 – 2009 cho thấy hiệu quả của các ngân hàng giảm sau tái cấu trúc, chủ yếu do ngân hàng nhà nước chiếm khoảng 75% hệ thống tài chính và có nhiều mục tiêu xã hội Việc cho vay dựa trên mối quan hệ đã dẫn đến cho vay dưới mức tiêu chuẩn, trong khi ngân hàng nhà nước có hiệu quả cao hơn ngân hàng tư nhân nhờ phục vụ các chương trình vay của chính phủ và nhận hỗ trợ từ nhà nước Ngân hàng tư nhân Ấn Độ thường duy trì hiệu quả cao hơn so với ngân hàng tư nhân nước ngoài, do ngân hàng nước ngoài cần thời gian để ổn định hoạt động và không được hưởng lợi từ cấu trúc kinh doanh đã thiết lập Việc sử dụng công nghệ tốn kém và chi tiêu lớn cho vay bán lẻ cũng góp phần vào hiệu quả kém của các ngân hàng nước ngoài.
Lai và cộng sự (2015) đã nghiên cứu tác động của sáp nhập ngân hàng tại Malaysia, so sánh hiệu quả hoạt động trước (1999-2001) và sau (2002-2010) sáp nhập Phương pháp nghiên cứu bao gồm phân tích bao dữ liệu (DEA) và kiểm tra giá trị t Kết quả cho thấy hiệu quả tài chính của các ngân hàng sau sáp nhập không cải thiện đáng kể Viện Ngân hàng Malaysia (IBBM) có thể đóng vai trò tư vấn cho các cơ quan quản lý trong việc xác định kế hoạch mua bán và sáp nhập trong tương lai, nhằm đánh giá liệu ngân hàng thâu tóm có thực sự thu được lợi ích từ việc mua lại ngân hàng kém hiệu quả hơn Do đó, các nhà quyết định cần thận trọng hơn khi xem xét sáp nhập như một giải pháp để nâng cao hiệu quả.
Nghiên cứu của Defung (2018) về 101 ngân hàng thương mại tại Indonesia từ năm 1993 đến 2011 bằng phương pháp DEA cho thấy rằng hiệu quả hoạt động của các ngân hàng này không đạt yêu cầu trong quá trình tái cấu trúc Tuy nhiên, có dấu hiệu cải thiện hiệu quả vào cuối giai đoạn tái cấu trúc.
2.4.1.2 Các nghiên cứu thực nghiệm về hiệu quả tài chính của ngân hàng thương mại tại Việt Nam
Nghiên cứu hiệu quả tài chính tại Việt Nam đã được thực hiện bởi nhiều tác giả thông qua các phương pháp phân tích đa dạng và các hướng tiếp cận khác nhau.
Nguyễn Việt Hùng (2008) đã áp dụng phương pháp nghiên cứu DEA và SFA để phân tích hiệu quả tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn 2001-2005 Nghiên cứu này sử dụng thang điểm từ 0 đến 1 để đo lường hiệu quả ngân hàng, với điểm số càng gần 1 thì hiệu quả càng cao Kết quả cho thấy nhóm ngân hàng thương mại nhà nước (NHTM_NN) có hiệu quả tốt hơn so với nhóm ngân hàng thương mại cổ phần (NHTM_CP).
Vu và Tunrnell (2010) đã áp dụng phương pháp SFA để đánh giá hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam trong giai đoạn 2000 – 2006 Kết quả cho thấy rằng hiệu quả kiểm soát chi phí của NHTM Việt Nam khá tốt, tuy nhiên có xu hướng giảm dần theo thời gian Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng chỉ ra sự khác biệt về hiệu quả giữa các ngân hàng thương mại nhà nước (NHTM_NN) và các ngân hàng liên doanh cũng như chi nhánh nước ngoài.
Nghiên cứu của Liễu Thu Trúc và Võ Thành Danh (2012) đã chỉ ra rằng trong giai đoạn 2006 – 2009, các ngân hàng thương mại (NHTM) có quy mô lớn có lợi thế về chi phí so với các NHTM quy mô nhỏ, thông qua việc áp dụng phương pháp phân tích tổng năng suất nhân tố (Total Factor Productivity) và DEA.