Đặ t v ấn đề
Đất đai là tài nguyên thiết yếu, được ứng dụng rộng rãi trong mọi ngành sản xuất và lĩnh vực đời sống Tùy thuộc vào từng ngành và lĩnh vực sử dụng, đất đai được phân loại thành nhiều loại khác nhau và được đặt tên theo mục đích sử dụng cụ thể.
Trong lịch sử xã hội, mối quan hệ giữa con người và đất đai ngày càng trở nên chặt chẽ, với đất đai được xem là nguồn tài nguyên vô tận nuôi sống nhân loại Đất đai là thành phần thiết yếu cho mọi ngành sản xuất và quá trình lao động, không có nó, sự tồn tại của con người sẽ bị đe dọa Đặc biệt trong nông nghiệp, đất đai đóng vai trò quan trọng trong việc sản xuất thực phẩm Hầu hết các quốc gia đều xây dựng nền kinh tế dựa vào nông nghiệp, khai thác tiềm năng của đất để thúc đẩy sự phát triển của các ngành khác Do đó, việc tổ chức và sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên đất đai là nhiệm vụ quan trọng nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững cho nông nghiệp.
Diện tích đất nông nghiệp hiện nay đang bị thu hẹp do chuyển đổi sang các hình thức sử dụng đất khác như đất ở và đất sản xuất phi nông nghiệp Trong khi đó, dân số ngày càng tăng, kéo theo nhu cầu về sản phẩm nông nghiệp cũng tăng cao về cả số lượng và chất lượng Điều này tạo ra áp lực lớn cho ngành nông nghiệp.
Israel, với diện tích chỉ hơn 20.000 km2, được biết đến như “thung lũng Silicon” của thế giới trong lĩnh vực nông nghiệp và công nghệ nước Mặc dù chỉ có 2,5% dân số làm nông nghiệp, Israel xuất khẩu khoảng 3 tỷ USD nông sản hàng năm, đứng trong top các nước xuất khẩu hàng đầu Đặc biệt, sản phẩm rau quả từ thung lũng Arava, một trong những nơi khô cằn nhất thế giới, chiếm hơn 60% tổng sản lượng rau và 10% hoa xuất khẩu của Israel Thung lũng Arava, kéo dài từ phía Nam Biển Chết đến Vịnh Eliat, có lượng mưa trung bình chỉ từ 20-50 mm mỗi năm và nhiệt độ mùa hè có thể lên tới 40 độ C Với độ ẩm cực thấp và chênh lệch nhiệt độ lớn, Arava là một trong những vùng đất khô cằn nhất thế giới, nhưng lại là nơi mà khoa học công nghệ đã biến sa mạc thành những vườn hoa nở rộ.
Để xác định các loại hình sử dụng đất phù hợp và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng đất, cần đáp ứng yêu cầu phát triển nông nghiệp bền vững, đồng thời góp phần thay đổi cơ cấu kinh tế và cải thiện đời sống nhân dân trên toàn quốc.
Mỗi vùng nông nghiệp có phương thức canh tác riêng, phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên của khu vực Điều kiện tự nhiên thuận lợi sẽ nâng cao hiệu quả sử dụng đất Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn và được sự đồng ý của ban chủ nhiệm khoa Quản Lý Tài Nguyên tại Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, dưới sự hướng dẫn của Th.S Nguyễn Đình Thi, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp tại Trang trại Tzu, Moshav Einyahav, Arava, Israel”.
M ụ c tiêu nghiên c ứ u
- Khái quát tình hình cơ bản về Trang trại Tzu, Moshav Einyahav, Arava, Israel
- Đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội, môi trường của các loại hình sử dụng đất nông nghiệp
- Đánh giá tình hình sản xuất, chế biến và tiêu thụ Ớt chuông và Chà là tại Tranag trại
- Lựa chọn loại hình sử dụng đất có hiệu quả cao hơn.
Ý nghĩa nghiên cứu của đề tài
ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học:
- Củng cố kiến thức đã được tiếp thu trong nhà trường và những kiến thức thực tế cho sinh viên trong quá trình thực tập tại cơ sở
- Nâng cao khả năng tiếp cận, thu thập số liệu và xử lý thông tin của sinh viên trong quá trình làm đề tài
Trên cơ sở đánh giá hiệu quả sử dụng nhóm đất nông nghiệp từ đó đề xuất được những giải pháp sử dụng đất đạt hiệu quả cao
T ổ ng quan c ủa đề tài
T ổ ng quan v ề đất nướ c ISRAEL
Israel, hay Nhà nước Israel, là một quốc gia cộng hòa nằm ở khu vực Trung Đông bên bờ Địa Trung Hải.
- Tên đầy đủ: Quốc gia Israel
- Vị trí địa lý: Nằm ở Trung Đông, tiếp giáp biển Địa Trung Hải, nằm giữa Ai cập và Lebanon;
- Tài nguyên thiên nhiên: Gỗ xây dựng, mỏ đồng, khí tự nhiên, đá photphat, magie bromua, kali cacbonat, đất sét, cát;;
- Dân tộc: Người Do Thái, người Ả Rập;
- Hệ thống pháp luật: Dựa theo hệ thống luật pháp và quy định của Anh;
- Lực lượng lao động theo lĩnh vực nghề nghiệp:
- Sản phẩm Nông nghiệp: Cam quýt, rau, bông, thịt bò, gia cầm, các sản phẩm từ sữa;
Ngành công nghiệp bao gồm nhiều sản phẩm đa dạng như hàng không, thông tin liên lạc, sản xuất, và sợi quang học Ngoài ra, còn có gỗ và sản phẩm giấy, kali cacbonnat, photphat, thực phẩm, đồ uống, thuốc lá, natri hydroxit, xi măng, xây dựng, sản phẩm kim loại, hóa chất, chất dẻo, cắt kim cương, dệt may và giày dép.
- Mặt hàng xuất khẩu: Máy móc và thiết bị, phần mềm, cắt kim cương, sản phẩm nông sản, hóa chất, dệt may và đồ thêu trang trí;
- Mặt hàng nhập khẩu: Nguyên liệu, thiết bị quân đội, đầu tư, kim cương thô, nhiên liệu,lương thực, hàng tiêu dùng;
Theo thể chế Dân chủ nghị viện, chế độ một viện từ năm 1948 không có Hiến pháp thành văn, chỉ tồn tại các điều luật riêng rẽ Quốc hội gồm 120 thành viên được bầu qua hệ thống bầu cử đại diện tỷ lệ với nhiệm kỳ 4 năm Thủ tướng được bầu trực tiếp trong tổng tuyển cử và cũng có nhiệm kỳ 4 năm, trong khi các thành viên Quốc hội có nhiệm kỳ 5 năm nhưng không nắm quyền hành pháp, quyền này thuộc về Thủ tướng.
Theo nghị quyết 181 (II) của Liên hợp quốc, Nhà nước Israel thành lập ngày
Vào ngày 14 tháng 5 năm 1948, Israel được thành lập trên diện tích 14.100 km² Tuy nhiên, sau các cuộc xung đột với các nước Ả-rập, diện tích mà Israel quản lý đã tăng lên khoảng 28.000 km² Nằm trong khu vực Trung Cận Đông, Israel theo biên giới năm 1949 bao gồm một đồng bằng hẹp và màu mỡ ven biển Địa Trung Hải, vùng núi Giu-đa ở trung tâm, sa mạc Nê-gếp ở phía nam và một phần của thung lũng Gioóc-đan ở đông bắc.
- Sông chính: sông Gioóc-đan, 321km
Khí hậu Israel có đặc điểm Địa Trung Hải ở phía bắc và khô cằn ở phía nam Mùa hè, khu vực này chịu ảnh hưởng của cao cận nhiệt đới, với bầu trời quang đãng và không có mưa Trong khi đó, mùa đông, nửa phía nam vẫn duy trì thời tiết cận nhiệt đới cao, còn nửa phía bắc có mưa vừa phải do áp thấp từ Địa Trung Hải Lượng mưa trung bình ở miền bắc đạt khoảng 700 mm (28 in), chủ yếu tập trung từ tháng 10 đến tháng 3, và giảm nhanh khi di chuyển về phía nam.
Ngân sách quốc phòng lớn và tình hình chính trị căng thẳng đã gây ra những vấn đề kinh tế nghiêm trọng, cản trở thương mại giữa Israel và các nước láng giềng Israel nổi bật với sản lượng xuất khẩu hoa quả, đặc biệt là bưởi Hầu hết diện tích canh tác ở Israel thuộc về các tập thể và hợp tác xã, trong khi tài nguyên thiên nhiên của nước này khá hạn chế Ngành công nghiệp gia công kim cương nhập khẩu đóng góp đáng kể vào nguồn thu ngoại tệ Ngoài ra, du lịch đến các vùng đất Thánh cũng rất quan trọng cho ngân sách quốc gia Trong năm qua, xuất khẩu của Israel đạt 23,5 tỷ USD, trong khi nhập khẩu là 30,6 tỷ USD, dẫn đến nợ nước ngoài lên tới 18,7 tỷ USD.
Israel nổi bật với nền nông nghiệp và khoa học - kỹ thuật tiên tiến, đóng góp vào việc quản lý kinh tế hiệu quả Là một trong những quốc gia có thu nhập đầu người cao nhất thế giới, Israel chuyên sản xuất thực phẩm, kim cương chế tác, hàng dệt, thiết bị điện, giao thông, thiết bị quân sự và hàng điện tử công nghệ cao Nước này cũng sản xuất 35,4 tỷ kWh điện năng và tiêu thụ 31,8 tỷ kWh.
Số người biết đọc, biết viết 95% :
Tỷ lệ nữ sinh trong hệ thống giáo dục đạt 93%, với chế độ giáo dục bắt buộc 11 năm miễn phí Người dân có quyền lựa chọn trường học dạy bằng tiếng Ả-rập hoặc tiếng Hebrew Hệ thống giáo dục được chia thành ba bậc: tiểu học 6 năm, trung học 3 năm và trên trung học 2 năm Bằng tốt nghiệp của cả ba cấp này có giá trị để thi vào đại học và tìm kiếm việc làm Ngoài ra, các hình thức đại học mở và đại học dạy từ xa cũng đang phát triển mạnh mẽ.
Người dân được hưởng bảo hiểm y tế từ Nhà nước, đảm bảo quyền lợi chăm sóc sức khỏe Hệ thống y tế tư nhân cũng hoạt động hiệu quả, cung cấp dịch vụ chất lượng cao với thiết bị hiện đại.
Khám phá những danh thắng du lịch hấp dẫn như thành phố cổ Jerusalem, biển Chết huyền bí, vườn địa đàng tuyệt đẹp ở Haifa, bãi biển Địa Trung Hải tại Tel Aviv, và biển Đỏ quyến rũ Những điểm đến này không chỉ mang đến trải nghiệm nghỉ ngơi mà còn là cơ hội để khám phá vẻ đẹp văn hóa và thiên nhiên độc đáo của khu vực.
Tổng quan về Moshav Einyahav
Moshav Ein Yahav nằm gần biên giới Jordan, có dân số tầm 600 người, hơn
Tại đây, 150 hộ gia đình chủ yếu phát triển nông nghiệp và du lịch, cung cấp dịch vụ cho thuê phòng Bungalow kiểu B&B và tổ chức các tour tham quan farm Các Bungalow được bố trí khắp moshav, mang đến vẻ đẹp sang trọng và thu hút, tạo nên một ngôi làng với nhiều căn nhà gỗ Xen kẽ giữa những ngôi nhà là các công viên xanh mát và lối đi bộ an toàn cho trẻ em, kết nối từ nhà đến trạm xe buýt.
Hoa trồng ven đường thay đổi theo mùa, với hoa chịu nhiệt vào mùa hè và hoa chịu lạnh vào mùa đông, đảm bảo có hoa quanh năm với màu sắc rực rỡ Ngoài ra, khu vực này còn trồng nhiều hương thảo và các loại cây có mùi hương tương tự Tất cả cây cối đều được tưới bằng hệ thống nhỏ giọt, từ cây cổ thụ lâu năm đến cây cỏ bụi ven bờ, do nơi đây không có mưa.
Hình 2.2 Mô hình nhà kính được chụp từ đỉnh Moshav Ein Yahav
Tổng quan về nền nông nghiệp ISRAEL
Ngành nông nghiệp Israel phát triển mạnh mẽ mặc dù phải đối mặt với điều kiện địa lý khắc nghiệt, với hơn một nửa diện tích đất là sa mạc Đến năm 2014, 24,2% diện tích Israel được sử dụng cho nông nghiệp, đóng góp 2,5% vào tổng GDP và 3,6% giá trị xuất khẩu Mặc dù chỉ 3,7% lực lượng lao động làm việc trong nông nghiệp, Israel tự sản xuất 95% nhu cầu thực phẩm, phần còn lại được bổ sung qua nhập khẩu Đặc biệt, Israel là nơi phát triển hai mô hình cộng đồng nông nghiệp độc đáo là Kibbutz và Moshav, do những người Do Thái hồi hương từ khắp nơi trên thế giới sáng lập.
Sự phát triển của nông nghiệp ở Palestine gắn liền với phong trào phục quốc Do Thái và làn sóng nhập cư của người Do Thái vào cuối thế kỷ 19 Những người nhập cư này đã mua lại những vùng đất gần như hoang vu, bị cằn cỗi do khai thác rừng, xói mòn và bỏ hoang Họ đã tích cực cải tạo đất, thu dọn đá sỏi, chống ngập, trồng rừng và xử lý đất mặn Kể từ khi độc lập vào năm 1948, diện tích đất canh tác đã tăng từ 408.000 mẫu Anh lên 1.070.000 mẫu Anh.
(4.300 km 2 ), số cộng đồng nông nghiệp tăng từ 400 lên 725 Sản lượng nông nghiệp tăng 16 lần, nhanh gấp 3 lần tốc độ tăng dân số
Thiếu nước là một vấn đề nghiêm trọng ảnh hưởng đến nhiều vùng miền trong nước Lượng mưa trung bình hàng tháng từ tháng 9 đến tháng 4 có sự chênh lệch đáng kể giữa các khu vực, điều này góp phần vào tình trạng khan hiếm nước.
70 cm ở miền bắc cho tới 2cm ở miền nam Nguồn nước tái tạo hàng năm vào khoảng
Israel sử dụng 160 triệu mét khối nước, trong đó 75% phục vụ cho nông nghiệp Hệ thống thủy lợi quốc gia của Israel kết nối hầu hết các nguồn nước ngọt, bao gồm trạm bơm, hồ chứa, kênh và ống dẫn, giúp vận chuyển nước từ miền bắc đến miền nam đất nước.
Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP đang có xu hướng giảm, từ gần 6% vào năm 1979 xuống 5,1% vào năm 1985 và hiện nay chỉ còn 2,5% Năm 1995, cả nước có 43.000 đơn vị canh tác với diện tích trung bình 13,5 hecta Trong số đó, 19,8% có diện tích nhỏ hơn 1 hecta, 75,7% từ 1 đến 9 hecta, 3,3% từ 10 đến 49 hecta, và 0,4% có diện tích từ 50 hecta trở lên.
Năm 1995, tổng diện tích đất canh tác đạt 380.000 hecta, trong đó 20,8% được sử dụng toàn thời gian và 79,2% được sử dụng bán thời gian Đáng chú ý, 160.000 hecta trong số đó được dành cho các mục đích khác ngoài trồng trọt Các vùng trồng trọt chủ yếu tập trung ở đồng bằng ven biển phía Bắc, vùng đồi nội địa và thung lũng sông Jordan.
Năm 2006, sản lượng nông nghiệp giảm 0,6% sau khi tăng 3,6% vào năm 2005, trong khi chi phí đầu tư tăng 1,2% (không bao gồm chi phí lao động) Từ năm 2004 đến 2006, rau củ chiếm 35% tổng sản lượng nông nghiệp, hoa chiếm 20%, trái cây (không tính cam chanh) chiếm 15%, trái cây thuộc chi cam chanh chiếm 10%, và ngũ cốc, cotton cùng các nông sản khác chiếm 18% Trong năm 2006, 36,7% sản phẩm nông nghiệp được tiêu thụ nội địa, 33,9% là đầu vào cho sản xuất trong nước, và 22% dành cho xuất khẩu Cũng trong năm này, 33% rau củ, 27% hoa, 15,5% trái cây (không tính cam chanh), 9% cam chanh, và 16% ngũ cốc, cotton cùng các nông sản khác đã được xuất khẩu.
Sản lượng nông nghiệp ở Israel đã tăng 26% từ năm 1999 đến 2009, mặc dù số lượng nông dân giảm từ 23.500 xuống còn 17.000 Điều này cho thấy nông dân Israel đã cải thiện hiệu suất sản xuất, khi họ tạo ra nhiều sản phẩm hơn với lượng nước tiêu thụ giảm 12%.
Ngành nông nghiệp Israel chủ yếu dựa trên các nguyên tắc hợp tác từ đầu thế kỷ 20, với hai mô hình độc đáo là Kibbutz và Moshav Kibbutz là cộng đồng nơi sản phẩm được sở hữu chung, trong khi Moshav là làng nông nghiệp mà mỗi gia đình sở hữu đất riêng nhưng hợp tác trong mua bán và tiếp thị Cả hai hình thức này đều hướng đến việc xây dựng cộng đồng công bằng, hợp tác và hỗ trợ lẫn nhau, đồng thời nâng cao năng suất Hiện nay, 76% sản phẩm nông nghiệp quốc gia đến từ các Kibbutz và Moshav, bao gồm nhiều loại thực phẩm đóng hộp.
Hình 2.3 Mô hình nhà kính
Với sự đa dạng về đất đai và khí hậu, Israel có khả năng trồng nhiều loại cây khác nhau Diện tích trồng lúa mì, cây thuộc chi lúa và bắp lên tới 215,000 hecta, trong đó 156,000 hecta được canh tác vào mùa đông.
Trái cây và rau củ của Israel rất đa dạng, bao gồm cam chanh, bơ, kiwi, ổi, xoài và nho, chủ yếu được trồng ở đồng bằng ven biển Địa Trung Hải Cà chua, dưa leo, tiêu và bí là những loại rau củ phổ biến khắp cả nước, trong khi dưa gang thường được trồng vào mùa đông ở các thung lũng Các vùng cận nhiệt đới thích hợp cho việc trồng chuối và chà là, trong khi khu vực đồi núi phía bắc tập trung vào táo, lê và cherry Đặc biệt, vườn nho phát triển mạnh mẽ, góp phần vào sự cạnh tranh của ngành chế biến rượu Israel trên thị trường toàn cầu.
Năm 1997, giá trị sợi bông vải trồng ở Israel đạt 107 triệu USD, với hầu hết đơn hàng được đặt trước khi trồng Diện tích trồng bông vải là 28.560 hecta, tất cả đều được tưới bằng hệ thống nhỏ giọt Năng suất bông vải trung bình của giống Acala là 5,5 tấn mỗi hecta, trong khi giống Pima đạt 5 tấn mỗi hecta, đây là mức năng suất cao nhất thế giới.
Bò sữa của Israel cho lượng sữa trung bình hàng năm cao nhất thế giới,
Năm 2009, sản lượng sữa trung bình của bò sữa Israel đạt 10.208 kg, tương đương khoảng 10.000 lít, vượt qua các quốc gia khác như Mỹ (9.331 kg), Nhật Bản (7.497 kg), châu Âu (6.139 kg) và Úc (5.601 kg) Đến năm 2010, tổng sản lượng sữa từ đàn bò Israel đạt 1.304 triệu lít.
Sản lượng sữa chủ yếu của Israel đến từ các trang trại nuôi bò Israel-Holsteins, giống bò nổi tiếng với năng suất cao và khả năng kháng bệnh tốt Bên cạnh đó, Israel cũng tham gia vào việc xuất khẩu sữa cừu, góp phần đa dạng hóa nguồn cung sản phẩm từ sữa.
Biển Địa Trung Hải cung cấp nguồn cá nước mặn, trong khi cá nước ngọt được đánh bắt tại hồ Kinneret (biển hồ Galilee) Tại sa mạc Negev, công nghệ tiên tiến được áp dụng để nuôi cá trong các hồ nhân tạo Các nhà khoa học tại trung tâm Bengis thuộc đại học Ben-Gurion đã phát hiện rằng nguồn nước lợ ở sa mạc có thể kết hợp trồng trọt và nuôi trồng thủy sản, dẫn đến việc nuôi cá, tôm và động vật giáp xác Đánh bắt cá ở biển phía đông Địa Trung Hải đã giảm mạnh do nguồn cá cạn kiệt, trong khi nguồn cung cá nước ngọt chủ yếu dựa vào nuôi trồng Cá từ hồ Galilee bao gồm cá mè trắng Hoa Nam, cá trắm cỏ, cá đối đầu dẹt, cá rô phi và nhiều loại khác Cá nuôi trong lồng dưới mặt nước biển bao gồm cá tráp đầu vàng, cá chẽm châu Âu và cá meager Nam Mỹ, trong khi cá hương và cá hồi được nuôi trong các hồ đặc biệt với nước từ sông Dan chảy qua.
Hình 2.4 Thu ho ạ ch cà chua
Hình 2.5 Thu ho ạ ch bí Sukini
Cơ sở khoa h ọ c c ủa đánh giá hiệ u qu ả s ử d ụng đấ t
Khái ni ệ m v ề đất đai và đấ t nông nghi ệ p
2.3.1.1 Khái niệm về đất đai
Đất là lớp phủ lục địa của trái đất, nằm trên đá và khoáng sản, đồng thời dưới thảm thực bì và khí quyển Đây là lớp mặt tươi xốp có khả năng sản sinh ra sản phẩm cây trồng, và được xem là thổ quyển - một vật thể tự nhiên Nguồn gốc của đất xuất phát từ sự hợp điểm của bốn thể tự nhiên: thạch quyển, khí quyển, thủy quyển và sinh quyển Sự tương tác giữa các quyển này và thổ quyển diễn ra một cách thường xuyên và cơ bản.
Theo Đôkutraiep, đất là một vật thể tự nhiên được hình thành từ sự tương tác của năm yếu tố chính: khí hậu, đá mẹ, địa hình, sinh vật và thời gian Đất không chỉ là một thành phần tĩnh mà còn được coi là một thể sống, luôn vận động và phát triển theo thời gian.
Đất là tư liệu sản xuất cơ bản và quý giá nhất trong nông nghiệp, đóng vai trò thiết yếu cho sự tồn tại và phát triển bền vững của nhiều thế hệ nhân loại.
Theo các nhà kinh tế, thổ nhưỡng và quy hoạch Việt Nam cho rằng:
Đất đai là phần bề mặt của trái đất nơi cây cối có thể phát triển Khái niệm đất đai có thể hiểu đơn giản là một không gian có giới hạn, bao gồm khí hậu, lớp phủ thổ nhưỡng, thảm thực vật, động vật, diện tích mặt nước, tài nguyên nước ngầm và khoáng sản Theo chiều ngang, đất đai là sự kết hợp của thổ nhưỡng, địa hình, thủy văn và thảm thực vật, đóng vai trò quan trọng trong hoạt động sản xuất và cuộc sống xã hội của con người.
2.3.1.2 Khái niệm về đất nông nghiệp Đất nông nghiệp là đất sử dụng vào mục đích sản xuất, nghiên cứu, thí nghiệm về nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối và mục đích bảo vệ, phát triển rừng: Bao gồm đất sản xuất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối và đất sản xuất nông nghiệp khác(Luật Đất đai, 2003)[20].
Vai trò và ý nghĩa của đất đai trong nông nghiệ p
Đất đóng vai trò thiết yếu trong mọi quá trình sản xuất của các ngành kinh tế và hoạt động của con người C.Mac đã nhấn mạnh tầm quan trọng của đất khi nói rằng “Đất là một phòng thí nghiệm vĩ đại, kho tàng cung cấp các tư liệu lao động, vật chất, là vị trí để định cư, là nền tảng của tập thể.”
Đất đai đóng vai trò quan trọng trong nông nghiệp, không chỉ là điều kiện vật chất mà còn là đối tượng lao động chịu tác động trong quá trình sản xuất như cày, bừa, xới, xáo Đồng thời, đất cũng là công cụ và phương tiện lao động cần thiết cho hoạt động trồng trọt và chăn nuôi Mối quan hệ giữa quá trình sản xuất nông nghiệp và độ phì nhiêu cùng quá trình sinh học tự nhiên của đất là rất chặt chẽ.
Trong suốt quá trình phát triển của xã hội loài người, mọi nền văn minh và thành tựu khoa học công nghệ đều được hình thành và phát triển dựa trên một nền tảng cơ bản là việc sử dụng đất.
Trong nông nghiệp ngoài vai trò là cơ sở không gian đất còn có hai chức năng đặc biệt quan trọng:
- “Là đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của con người trong quá trình sản xuất
Đất đóng vai trò quan trọng trong sản xuất nông nghiệp, cung cấp nước, muối khoáng và các chất dinh dưỡng thiết yếu cho sự sinh trưởng và phát triển của cây trồng Do đó, đất được coi là công cụ sản xuất chính Năng suất và chất lượng sản phẩm nông nghiệp phụ thuộc vào độ phì nhiêu của đất, điều này cho thấy đất là tư liệu sản xuất duy nhất có chức năng này trong nông nghiệp.
Chính vì vậy, có thể nói rằng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu và đặc biệt trong nông nghiệp.
Sử dụng đất và những quan điểm sử dụng đất
S ử d ụng đấ t và nh ữ ng nhân t ố ảnh hưởng đế n s ử d ụng đấ t
2.4.1.1 Sử dụng đất là gì?
Sử dụng đất là một hệ thống biện pháp nhằm điều hòa mối quan hệ giữa con người và đất, kết hợp với các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác và môi trường Dựa trên quy luật phát triển kinh tế xã hội và yêu cầu ổn định, bền vững về mặt sinh thái, việc xác định phương hướng và mục tiêu sử dụng đất hợp lý là rất quan trọng để phát huy tối đa công dụng của đất, từ đó đạt được hiệu ích sinh thái, kinh tế và xã hội cao nhất Do đó, sử dụng đất không chỉ là hoạt động kinh tế mà còn liên quan đến các phương thức sản xuất, yêu cầu phải căn cứ vào thuộc tính tự nhiên của đất đai Vai trò của đất như một yếu tố sản xuất được thể hiện qua các nhiệm vụ và nội dung cụ thể trong quá trình sử dụng.
- Sử dụng đất hợp lý về không gian, hình thành hiệu quả kinh tế không gian sử dụng đất
- Phân phối hợp lý cơ cấu đất đai trên diện tích đất đai được sử dụng, hình thành cơ cấu kinh tế sử dụng đất
- Quy mô sử dụng đất cần có sự tập trung thích hợp, hình thành quy mô kinh tế sử dụng đất
- Giữ mật độ sử dụng đất đai thích hợp, hình thành việc sử dụng đất đai một cách kinh tế, tập trung, thâm canh (Lương Văn Hinh và cs, 2003)[21]
2.4.1.2 Những nhân tố ảnh hưởng đến việc sử dụng đất
Phạm vi, cơ cấu và phương thức sử dụng đất chịu ảnh hưởng từ cả điều kiện sinh thái tự nhiên lẫn các yếu tố kinh tế - xã hội và kỹ thuật Do đó, các điều kiện và nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến việc sử dụng đất bao gồm các quy luật sinh thái, tình hình kinh tế, và các yếu tố kỹ thuật.
Điều kiện tự nhiên bao gồm nhiều yếu tố quan trọng như ánh sáng, nhiệt độ, lượng mưa, thủy văn và không khí Trong số đó, khí hậu là yếu tố hàng đầu ảnh hưởng đến việc sử dụng đất đai, tiếp theo là điều kiện đất đai, chủ yếu liên quan đến địa hình, thổ nhưỡng và các yếu tố khác.
Điều kiện khí hậu đóng vai trò quan trọng trong sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt của con người Tổng tích ôn, nhiệt độ, và sự biến đổi nhiệt độ theo thời gian và không gian ảnh hưởng trực tiếp đến sự phân bố và phát triển của cây trồng Lượng mưa và mức độ bốc hơi cũng quyết định khả năng giữ nhiệt độ và độ ẩm của đất, từ đó ảnh hưởng đến khả năng cung cấp nước cho cây và động vật trong quá trình sinh trưởng và phát triển.
Điều kiện đất đai, bao gồm sự khác biệt về địa hình, địa mạo, độ cao so với mực nước biển và độ dốc, ảnh hưởng đáng kể đến khí hậu và sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp Địa hình và độ dốc quyết định phương thức sử dụng đất nông nghiệp, từ đó là cơ sở cho việc lựa chọn cơ cấu cây trồng, thiết kế đồng ruộng, xây dựng hệ thống thủy lợi và áp dụng cơ giới hóa trong canh tác.
Mỗi vùng địa lý có những đặc điểm riêng về ánh sáng, nhiệt độ, nguồn nước và điều kiện tự nhiên, ảnh hưởng lớn đến khả năng và hiệu quả sử dụng đất Do đó, việc tuân thủ quy luật tự nhiên và khai thác những lợi thế này là cần thiết để đạt hiệu quả tối ưu về kinh tế, xã hội và môi trường.
* Yếu tố về kinh tế– xã hội
Các yếu tố như chế độ xã hội, dân số, lao động, thông tin quản lý, sức sản xuất, cơ cấu kinh tế, và điều kiện tự nhiên đều ảnh hưởng đến việc sử dụng đất đai Yếu tố kinh tế – xã hội đóng vai trò quyết định trong việc xác định phương hướng sử dụng đất, phù hợp với yêu cầu xã hội và mục tiêu kinh tế trong từng thời kỳ Điều kiện tự nhiên giúp xác định khả năng thích ứng của đất, và hiệu quả sử dụng đất phản ánh sự tác động của các yếu tố này Thực trạng sử dụng đất liên quan đến lợi ích kinh tế của người sở hữu và sử dụng, nhưng chính sách ưu đãi có thể cải thiện tình hình, ngăn chặn việc bóc lột đất đai Ngược lại, sự chú trọng quá mức vào lợi nhuận tối đa có thể dẫn đến việc sử dụng đất không hợp lý và hủy hoại môi trường.
Các nhân tố điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội có ảnh hưởng lớn đến việc sử dụng đất đai, nhưng mỗi yếu tố lại đóng vai trò và tác động khác nhau Do đó, việc phân tích các yếu tố này là cần thiết để xác định những thuận lợi và khó khăn trong việc sử dụng đất, từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng đất đai.
Quan điể m s ử d ụng đấ t b ề n v ữ ng
2.4.2.1 Sử dụng đất nông nghiệp theo quan điểm sinh thái bền vững
Trước những biến đổi mạnh mẽ của môi trường toàn cầu, các quốc gia đang chuyển hướng sang phát triển bền vững, tức là phát triển để đáp ứng nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng đến khả năng đáp ứng nhu cầu của thế hệ tương lai Mục tiêu của phát triển bền vững là nâng cao chất lượng cuộc sống của con người trong giới hạn của các hệ sinh thái Tất cả các hoạt động sản xuất được coi là bền vững khi đạt được các mục tiêu thực tiễn và có thể duy trì liên tục.
Hiện nay, phong trào “nông nghiệp hữu cơ” đang phát triển tại các nước tiên tiến, mặc dù sản phẩm có năng suất thấp hơn nhưng lại sạch hơn và có giá bán cao hơn, từ đó mang lại hiệu quả kinh tế cao Tuy nhiên, số lượng khách hàng yêu cầu sản phẩm hữu cơ vẫn còn hạn chế, khiến phong trào này chưa phổ biến rộng rãi Vì vậy, nông nghiệp bền vững cần được ưu tiên phát triển, nhằm đáp ứng nhu cầu sản phẩm nông nghiệp có năng suất cao và giá cả hợp lý, đồng thời bảo vệ môi trường và đảm bảo tính bền vững về kinh tế, xã hội và sinh thái trong tương lai.
Ngày nay, nhiều quốc gia đang hướng tới việc xây dựng nền nông nghiệp sinh thái, điều này đòi hỏi sự phát triển của khoa học sinh thái nông nghiệp Nông nghiệp sinh thái không chỉ đơn thuần là nông nghiệp sinh học hay hữu cơ, mà còn nhấn mạnh việc trở lại với các phương pháp truyền thống như sử dụng phân hữu cơ và luân canh, đồng thời hạn chế sử dụng phân hóa học và thuốc trừ sâu Tuy nhiên, nông nghiệp sinh thái không hoàn toàn loại bỏ hóa chất mà sử dụng chúng một cách hợp lý để tránh ô nhiễm môi trường Mục tiêu là phát triển một hệ thống nông nghiệp bền vững, đảm bảo năng suất cao và đáp ứng các yêu cầu về kinh tế, xã hội và môi trường, nhằm tạo ra một hệ thống sinh thái bền vững mà không làm thoái hóa đất đai hay ô nhiễm môi trường.
1 (Nguyễn Xuân Thảo, 2004/[24] Góp phần phát triển bền vững nông thôn Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội)
2 ; (World Bank, 2002/[40] Implementing reform for faster growth and poverty reduction, world bank, Hanoi.
Nông nghiệp bền vững là phương thức sản xuất lương thực và thực phẩm cho con người cũng như thức ăn cho chăn nuôi, vượt trội hơn so với các hệ thống tự nhiên Mục tiêu của nông nghiệp bền vững là khai thác nguồn năng lượng và tài nguyên thiên nhiên phong phú mà không làm tổn hại đến chúng Đồng thời, cần bảo vệ các hệ sinh thái tự nhiên hiện có và khôi phục những hệ sinh thái đã bị suy thoái.
Để phát triển nền sản xuất nông nghiệp bền vững, cần kết hợp hài hòa với thiên nhiên và xem xét toàn bộ hệ thống trong sự vận động của nó Việc này không chỉ nhằm lợi ích của từng bộ phận mà còn phải hướng tới lợi ích tổng thể Cần thu thập đầy đủ thông tin về điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội liên quan đến mục đích sử dụng đất Quan trọng là lựa chọn giải pháp phù hợp để bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên và hạn chế tối đa tác động tiêu cực từ quá trình sử dụng đất.
2.4.2.2 Quản lý và sử dụng đất nông nghiệp bền vững
Với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, các phát minh và sáng chế đã làm thay đổi đáng kể môi trường tự nhiên Hiện nay, việc quản lý và sử dụng quỹ đất nông nghiệp trở thành vấn đề cấp bách tại nhiều quốc gia Sự khai thác quá mức tài nguyên đất đai và năng lượng tự nhiên đã dẫn đến sự cạn kiệt nguồn lực, trong khi sự bùng nổ dân số càng làm gia tăng áp lực giữa nhu cầu ngày càng cao và khả năng cung cấp hạn chế của nguồn năng lượng tự nhiên.
Kể từ năm 1980, Hội nghị quốc tế bảo vệ thiên nhiên và Tài nguyên Môi trường (IUCN), Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hiệp Quốc (FAO) và Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP) đã phát động chiến lược toàn cầu (WCS) nhằm bảo vệ môi trường Mục tiêu của chiến lược này là duy trì các nguồn gen, bảo vệ việc sử dụng hợp lý và phát triển bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên có thể tái tạo.
Theo FAO, sự suy thoái đất ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất nông, lâm nghiệp và môi trường Để bảo vệ sự sống, cần sử dụng hợp lý tài nguyên đất, nước và thực vật, tránh tình trạng suy thoái và hủy hoại Chính phủ có trách nhiệm bảo vệ và cải thiện bền vững khả năng sử dụng đất đai Để đạt được mục tiêu này, các nhà khoa học và tổ chức quốc tế đang nghiên cứu và phát triển các lĩnh vực như khí hậu, thổ nhưỡng, địa hình, và các hệ thống quản lý đất đai, bao gồm tưới tiêu và quy hoạch sử dụng đất.
Theo Phạm Chí Thành và Đào Châu Thu (1998), cũng như Nguyễn Khang (1998), để phát triển các hệ thống nông nghiệp bền vững trong sử dụng đất, cần chú trọng đến bốn nội dung chính.
Sử dụng đất hợp lý không chỉ giúp hình thành hiệu quả kinh tế mà còn tạo ra không gian sử dụng đất bền vững Đây là một yếu tố quan trọng trong chiến lược phát triển nông nghiệp bền vững, góp phần nâng cao giá trị và hiệu quả của nguồn tài nguyên đất.
- Quy mô sử dụng đất có sự tập trung thích hợp, hình thành quy mô kinh tế sử dụng đất
- Phân phối hợp lý cơ cấu đất trên diện tích đất được sử dụng
Để đảm bảo sử dụng đất đai hiệu quả và bền vững, cần giữ mật độ sử dụng đất hợp lý, hình thành mô hình sử dụng đất kinh tế và tập trung Điều này đòi hỏi sự đầu tư thâm canh hợp lý, đồng thời tuân thủ các tiêu chuẩn quản lý phát triển nông nghiệp bền vững.
Các chuyên gia về nông nghiệp đều thống nhất về quy mô quản lý nông nghiệp bền vững phải có những đặc trưng cơ bản như:
Đa dạng hóa sản xuất là yếu tố quan trọng, bao gồm sự đa dạng trong các chủng loại cây trồng, chế độ canh tác và chức năng lao động Việc áp dụng hệ thống canh tác phong phú và đa dạng không chỉ tạo ra một hệ thống sản xuất ổn định mà còn giúp dễ dàng thích ứng với những biến động về môi trường và xã hội.
- Kết hợp nhiều ngành, nhiều bộ môn: Nông nghiệp, lâm nghiệp, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, kết hợp kinh tế học và xã hội học;
- Có biện pháp thích hợp để sử dụng các diện tích đất quá xấu, quá hẹp;
Tận dụng các đặc tính tự nhiên của vật nuôi và cây trồng, cùng với mối quan hệ của chúng với cảnh quan thiên nhiên, sẽ giúp phát triển một nền nông nghiệp bền vững và bảo vệ môi trường.
Theo Vũ Việt Linh và Nguyễn Ngọc Bình, (1995)[27] nền nông nghiệp bền vững phải đạt được cả ba mục đích:
- Gìn giữ và làm phong phú môi trường;
- Đạt hiểu quả kinh tế cao;
- Đảm bảo công bằng kinh tế và công bằng xã hội
Trong phiên họp thứ 8 diễn ra vào tháng 4-5 năm 2000, Ủy ban về phát triển bền vững của Liên Hiệp Quốc đã chỉ ra bốn đặc trưng chính của nền nông nghiệp bền vững.
- Nuôi dưỡng các nguồn tài nguyên của toàn thế giới phù hợp với địa phương.
- Áp dụng ở mõi địa phương có những cách làm nông nghiệp phù hợp với địa phương
- Bảo đảm vai trò chủ động của nông dân (người lao động nông nghiệp và người chủ nông trại) trong mọi khâu của quá tŕnh ra quyết định
- Phân phối quyền tiếp cận các nguồn tài nguyên và các sản phẩm nông nghiệp công bằng hơn
Nền nông nghiệp bền vững cần đạt được các tiêu chuẩn như năng suất cao hơn so với nông nghiệp hiện tại, không gây hại cho môi trường, đảm bảo khả năng thực thi và giảm thiểu sự phụ thuộc vào vật tư kỹ thuật và hàng hóa nhập khẩu Đồng thời, độ phì nhiêu của đất phải được duy trì để tạo ra sự cân bằng giữa các thành phần nông nghiệp như cây trồng, vật nuôi, thủy sản và cây rừng Các giải pháp quản lý sử dụng đất bền vững là yếu tố quan trọng để đạt được những mục tiêu này.
Tình hình s ử d ụng đấ t nông nghi ệ p trên Th ế gi ớ i và Vi ệ t Nam
2.4.3.1 Tình hình sử dụng đất nông nghiệp trên thế giới
Tổng diện tích bề mặt của Trái Đất là 510 triệu km², trong đó đại dương chiếm 361 triệu km² (71%) và lục địa chỉ chiếm 149 triệu km² (29%) Bắc bán cầu có diện tích lớn hơn Nam bán cầu Diện tích đất có khả năng sản xuất nông nghiệp toàn cầu là 3.256 triệu ha, tương đương 22% tổng diện tích đất liền Phân bố đất nông nghiệp không đều, với Châu Mỹ chiếm 35%, Châu Á 26%, Châu Âu 13% và Châu Phi 6% Bình quân đất nông nghiệp trên thế giới là 12.000 m² Đất trồng trọt toàn cầu đạt 1,5 tỷ ha, chiếm 10,8% tổng diện tích đất đai, trong khi 54% đất có khả năng sản xuất nông nghiệp vẫn chưa được khai thác.
Diện tích đất đang canh tác trên thế giới chỉ chiếm 10% tổng diện tích đất tự nhiên (khoảng 1.500 triệu ha), được đánh giá là:
- Đất có năng suất cao: 14%
- Đất có năng suất trung bình: 28%
- Đất có năng suất thấp: 58%
Tài nguyên đất trên thế giới đang bị suy giảm, đặc biệt là đất nông nghiệp do chuyển đổi mục đích sử dụng Đồng thời, dân số toàn cầu tăng từ 80 - 85 triệu người mỗi năm, dẫn đến nhu cầu cần thiết khoảng 0,2 – 0,4 ha đất nông nghiệp cho mỗi người để đảm bảo lương thực Trước những thách thức này, việc đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp trở nên cấp bách hơn bao giờ hết.
2.4.3.2 Tình hình sử dụng đất nông nghiệp ở Việt Nam
Việt Nam có tổng diện tích tự nhiên 33.121,20 nghìn ha, trong đó đất nông nghiệp chiếm 74,56% với 24.696 nghìn ha Diện tích đất bình quân đầu người ở Việt Nam thuộc loại thấp nhất thế giới Áp lực dân số và đô thị hóa, cùng với xói mòn, rửa trôi và mất rừng, đã dẫn đến tình trạng đất đai suy giảm Tỷ lệ bón phân N:P:K của Việt Nam là 100:29:7, thiếu lân và kali nghiêm trọng, làm giảm diện tích đất nông nghiệp Bình quân đầu người, diện tích đất tự nhiên giảm 26,7% và đất nông nghiệp giảm 21,5%.
Vấn đề đảm bảo lương thực và thực phẩm đang đối mặt với áp lực lớn khi diện tích đất nông nghiệp ngày càng giảm Vì vậy, việc sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên đất nông nghiệp trở nên cực kỳ quan trọng đối với sự phát triển bền vững của đất nước.