TỔNG QUAN VỀ CÁC HOẠT ĐỘNG CỦA BỆNH VIỆN VÀ Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG DO CHẤT THẢI CỦA BỆNH VIỆN
Hoạt động của bệnh viện
Ngành Y tế Việt Nam đã trải qua những biến đổi sâu sắc trên nhiều phương diện, đồng hành cùng sự phát triển của đất nước và tiến bộ khoa học kỹ thuật Sự hiện đại hóa trang thiết bị y tế đã nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe cho người dân Từ nhận thức tư tưởng đến tổ chức bộ máy, phương thức hoạt động trong ngành Y tế ngày càng được cải thiện, bao gồm cả y tâm, y thuật và y đức của các cán bộ y tế.
Theo thống kê, trên cả nước hiện nay tổng số cơ sở khám chữa bệnh năm
Năm 2006, tổng số cơ sở y tế đạt 13.232, bao gồm các loại hình như bệnh viện, phòng khám đa khoa khu vực, bệnh viện điều dưỡng và phục hồi chức năng, trạm y tế xã, phường, cũng như trạm y tế thuộc các cơ quan, xí nghiệp và các cơ sở y tế khác.
Hệ thống y tế tư nhân tại Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ với 19.895 cơ sở y tế, 14.048 cơ sở dược phẩm và 7.015 cơ sở y học cổ truyền, cùng với 5 bệnh viện tư có vốn đầu tư nước ngoài Sự hình thành này đã giúp giảm tải cho các bệnh viện nhà nước, nâng cao chất lượng dịch vụ y tế cho người dân.
Tại TPHCM, có tổng cộng 60 bệnh viện, bao gồm 28 bệnh viện thuộc sự quản lý của Sở Y tế, trong đó có 8 bệnh viện đa khoa và 20 bệnh viện chuyên khoa, với tổng số 13.638 giường bệnh Ngoài ra, thành phố còn có 24 trung tâm y tế quận huyện, thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về y tế và khám chữa bệnh tại tuyến quận huyện, nhằm giảm bớt áp lực cho các bệnh viện tuyến trên Hệ thống y tế thành phố phục vụ khoảng 22 triệu lượt người khám và điều trị mỗi năm, theo số liệu của Sở Y tế năm 2004.
Ngoài hệ thống y tế thành phố, hiện có 19 bệnh viện và trung tâm y tế thuộc Bộ Y tế cùng các bộ ngành khác trên địa bàn Gần đây, với chủ trương xã hội hóa y tế, nhiều nguồn lực chăm sóc sức khỏe cho nhân dân được huy động, dẫn đến sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống bệnh viện tư nhân và nước ngoài, hiện có 13 bệnh viện và hàng chục phòng khám đa khoa đã đi vào hoạt động chính thức.
Hàng năm, thành phố gia tăng số lượng bác sĩ được đào tạo, nhưng tỷ lệ bác sĩ trên 10.000 dân vẫn còn thấp, trong khi số lượng bệnh nhân điều trị ngày càng tăng.
Biểu đồ 2.1 Biểu đồ tỉ lệ bác sĩ/10 000 dân qua các năm
Biểu đồ 2.2 Biểu đồ số bệnh nhân điều trị nội trú
Từ năm 2001-2003, số lượng bệnh nhân điều trị nội trú đã tăng nhanh, cho thấy người dân ngày càng chú trọng đến sức khỏe của mình Điều này đặt ra yêu cầu cấp thiết cho thành phố trong việc mở rộng hoặc xây dựng thêm các cơ sở khám và chữa bệnh mới Việc đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh cho 5.660.000 người (UB Dân số Gia đình và trẻ em thành phố, 2004) là một thách thức lớn, đặc biệt khi số lượng giường bệnh hiện tại còn hạn chế (Bảng 2.1).
Bảng 2.1 Tổng số lượng giường bệnh của các bệnh viện và trung tâm y tế
Tên Bệnh viện TT Y Tế Tổng cộng
Sự quá tải tại các bệnh viện và ngành y tế tại TPHCM đang trở thành vấn đề cấp bách Để giảm thiểu tình trạng này và áp lực cho cán bộ y tế, một số bệnh viện như trung tâm y khoa Medic và bệnh viện Triều An đã bắt đầu mở phòng khám từ 4-5 giờ sáng Trong tương lai, TPHCM dự kiến sẽ tiếp tục phát triển và xây dựng nhiều cơ sở khám chữa bệnh mới nhằm cải thiện chất lượng dịch vụ y tế.
Theo ước tính, hiện nay, các bệnh viện trên TPHCM đã thải ra:
• Tổng tải lượng ô nhiễm theo chất hữu cơ: L≈1.1-2.5 Tấn /ngày.
• Thành phần tính chất nước thải đặc trưng các bệnh viện ở TPHCM
Bảng 2.2 Thành phần và tính chất nước thải bệnh viện ở TPHCM
Chỉ tiêu Đơn vị Giá trị max Giá trị min Giá trị trung bình pH - 7 6 6 5 7.1
Khi thành phố gia tăng số lượng bệnh viện, lượng nước thải phát sinh cũng sẽ tăng lên Vì vậy, việc xử lý nước thải bệnh viện trở thành một vấn đề cần được chú trọng, đặc biệt khi chỉ số Tổng Coliform MPN/100 ml đạt mức cao như 6.4*10^4, 2.1*10^4 và 3.4*10^4.
Tác động môi trường do hoạt động bệnh viện gây ra
Hoạt động y tế tại Việt Nam, đặc biệt là tại bệnh viện Quận Tân Phú, đang được cải thiện hàng ngày, nhằm nâng cao khả năng khám chữa bệnh cho người dân Tuy nhiên, bên cạnh đó, bệnh viện cũng thải ra một lượng lớn chất thải có thể gây ảnh hưởng đến môi trường Dựa trên loại hình hoạt động và danh mục trang thiết bị, các vấn đề môi trường tiềm ẩn của bệnh viện đã được xác định.
2.2.1.1 Các nguồn phát sinh chất thải rắn
Nguồn gốc phát sinh chất thải rắn: chất thải rắn sinh ra do các cơ sở y tế được phân thành 5 nhóm như sau:
• Chất thải nhiễm khuẩn bao gồm: bông, băng, gạc, găng tay, bột bó, đồ vải, các túi hậu môn nhân tạo, dây chuyền dịch, các ống thông.
• Các vật sắc nhọn bao gồm: bơm tiêm, lưỡi và cán dao mỗ, cưa, các ống tiêm, mảnh thủy tinh vở…
• Những chất có nguy cơ lây nhiễm cao bao gồm: găng tay, lam kính, ống nghiệm, bệnh phẩm sau khi sinh thiết/xét nghiệm/nuôi cấy, túi đựng máu…
Chất thải dược phẩm bao gồm các loại thuốc đã hết hạn sử dụng, thuốc bị nhiễm khuẩn, thuốc bị đổ, cũng như những loại thuốc không còn nhu cầu sử dụng và có khả năng gây độc cho tế bào.
• Các mô và các cơ quan người – động vật bao gồm: tất cả các mô cơ thể, các cơ quan tay chân, rau thai, bào thai, xác súc vật…
Chất thải phóng xạ: bệnh viện không sử dụng chất phóng xạ.
Chất thải hóa học được chia thành hai loại chính: loại không gây nguy hại như đường, acid béo, và một số muối vô cơ, hữu cơ; và loại nguy hại bao gồm fomaldehid, các hóa chất quang hóa học, dung môi, và oxit ethylen.
Các bình chứa có áp suất: bao gồm bình đựng oxy, CO2, bình gas, bình khí dung và các bình đựng khí dung một lần.
Chất thải sinh hoạt bao gồm các loại chất thải không chứa các yếu tố nguy hại như giấy báo, tài liệu, thùng các tông và túi nilon, cùng với chất thải ngoại cảnh.
Chất thải rắn của bệnh viện bao gồm bông băng, phẩm vật y tế, dược phẩm phế thải, bệnh phẩm, đồ nhựa, nilon, thủy tinh, kim loại, cao su và các tạp chất khác Việc phân loại các chất thải này được thực hiện ngay từ đầu vào thông qua các thùng chứa khác nhau theo quy định.
Theo thống kê, mỗi người thải ra từ 0,25 đến 1,0 kg rác mỗi ngày Lượng rác thải sinh hoạt hàng ngày tỷ lệ thuận với số lượng bệnh nhân và cán bộ công nhân trong bệnh viện Chúng ta có thể ước lượng lượng rác sinh ra hàng ngày bằng một công thức cụ thể.
Bảng 2.3 Định mức rác thải theo số bệnh nhân Đối tượng
Người/ngày Định mức rác thải
Cán bộ công nhân viên (0,8 ÷ 1,1)N (0,5 ÷ 0,7)N
Sinh viên thực tập và khách vãng lai (0,7 ÷ 1,0)N (2,1 ÷ 2,8)N
Theo Hội thảo quốc gia về xử lý chất thải bệnh viện tổ chức tại Hà Nội vào tháng 7/1998, rác thải y tế chiếm khoảng 20% tổng lượng rác thải, tương đương từ 0,42 đến 0,56 kg/ngày, trong khi rác thải sinh hoạt chiếm 80%.
Chất thải rắn sinh hoạt chủ yếu bao gồm chất hữu cơ, cùng với các thành phần trơ và khó phân hủy như bao bì và hộp đựng đồ uống bằng PE và PET, tuy nhiên, lượng rác này tương đối ít Dưới đây là bảng thống kê thành phần của rác thải sinh hoạt.
Bảng 2.4 Thành phần cơ lý của rác thải sinh hoạt
STT Thành phần Tỷ lệ (%)
Nguồn: Công ty môi trường đô thị TPHCM.
Bảng 2.5 Thành phần vật lý của chất thải y tế
STT Thành phần rác y tế
Hàm lượng (%) Công thức phân tử
Nguồn: Tài liệu hướng dẫn thực hành quản lý chất thải y tế 2000.
2.2.1.1 Nguồn phát sinh nước thải
Nước thải từ bệnh viện phát sinh từ nhiều nguồn khác nhau, bao gồm các bộ phận khám chữa bệnh, phòng thí nghiệm và phòng xét nghiệm Ngoài ra, nước thải cũng đến từ khu vực vệ sinh, việc tắm rửa và giặt quần áo của bệnh nhân và nhân viên, cùng với nước mưa chảy tràn.
2.2.1.2 Các nguồn gây ô nhiễm không khí
Lưu lượng người và phương tiện giao thông cao có thể gây áp lực lên các khu vực như phòng xét nghiệm, khu vực chứa hóa chất dược phẩm và phòng vệ sinh bệnh viện Ngoài ra, cần đặc biệt chú ý đến các nguồn phát thải như phòng hấp tẩy, máy phát điện dự phòng và thiết bị X-quang Việc quản lý hiệu quả các nguồn hơi thải sau mỗi lần xả nồi hấp thanh trùng cũng là điều cần thiết để đảm bảo an toàn và vệ sinh trong môi trường y tế.
Tải lượng và nồng độ: tính trung bình mỗi ngày có hai chuyến xe cấp cứu và 250 xe máy của CBCNV và người bệnh nhân ra vào bệnh viện.
Bảng 2.6 Tải lượng khí thải
Chỉ tiêu Tải lượng (g/xe.10km) Khối lượng chất thải tính cho 1 ngày (g/10km)
37500,0 Nguồn: Tài liệu do Cục Quản Lý Môi Trường Hoa Kỳ (USAPA) và tổ chức y tế thế giới (WTO), 1993.
2.2.1.3 Tiếng ồn từ trang thiết bị, máy móc
Tiếng ồn tại bệnh viện chủ yếu phát sinh từ hoạt động của máy phát điện dự phòng, với mức ồn tối đa đạt khoảng 85 dBA khi đo cách nguồn 1m và thời gian tiếp xúc tối đa trong ngày không vượt quá 30 phút So với tiêu chuẩn vệ sinh lao động của Bộ Y tế, tiếng ồn tại khu vực máy phát điện vẫn nằm trong giới hạn cho phép.
2.2.2 Tác động môi trường của chất thải
2.2.2.1 Tác động đến môi trường nước
Theo khảo sát của Chi cục Bảo vệ môi trường, trên địa bàn TPHCM hiện có
109 bệnh viện và trung tâm y tế bao gồm 83, tập trung chủ yếu ở các Quận 1, 3, 5,
Tại Tân Bình, tổng lượng nước thải từ các bệnh viện và trung tâm y tế đạt khoảng 17.276 m³/ngày, nhưng phần lớn không được xử lý hiệu quả Nguồn nước thải này bao gồm nước giặt, vệ sinh của nhân viên y tế, cũng như nước từ các xét nghiệm và phẫu thuật, và đều bị ô nhiễm nghiêm trọng với mức vi sinh và hữu cơ vượt tiêu chuẩn cho phép từ 100 đến 1000 lần.
Hiện nay, chỉ có khoảng 3.120m³ nước thải/ngày được xử lý đạt tiêu chuẩn môi trường, với chỉ 78/109 bệnh viện và trung tâm y tế quận huyện có hệ thống xử lý nước thải Việc vận hành và bảo trì hệ thống này chưa được đầu tư đúng mức, dẫn đến tình trạng xuống cấp nghiêm trọng và phải ngừng hoạt động ở nhiều nơi Hơn nữa, do nhu cầu khám chữa bệnh tăng cao, nhiều cơ sở đã nâng công suất mà không đồng bộ hóa hệ thống xử lý nước thải.
NTBV gây ra ô nhiễm đặc trưng do khả năng phân hủy sinh học, tích lũy sinh học và lan truyền chất độc qua chuỗi thức ăn, ảnh hưởng xấu đến hệ sinh thái Nước thải chứa không chỉ dược phẩm điều trị mà còn các chất bổ trợ, với 75% thuốc kháng sinh được bài tiết ra ngoài mà không qua chuyển hóa Một vấn đề nghiêm trọng của NTBV là cách xả thải, đặc biệt tại các bệnh viện đô thị thiếu hệ thống xử lý nước thải hiệu quả, dẫn đến việc xả thải trực tiếp vào cống thoát, gây nguy hại cho sức khỏe con người và môi trường.
Hình 2.1 Mô tả vấn đề môi trường của NTBV
Nước thải từ việc khám và điều trị bệnh (máu, nước tiểu, phân, dung môi, dung dịch axit, kiềm, thuốc thử, nguyên tố phóng xạ, chất tẩy trùng)…
Sự phân phối sử dụng thuốc trong bệnh nhân
Sự bài tiết của người bệnh với phần dư của thuốc (thuốc và một phần đã chuyển hóa)
Hệ thống XLNT đô thị
Hệ thống lọc nước cấp
Nước thải sinh hoạt từ các khu kỹ thuật của bệnh viện
Cống thải trong bệnh viện a Đặc điểm nguy hại về mặt sinh học và hóa học của NTBV
• Ô nhiễm về mặt vi sinh
Nghiên cứu vi sinh tại NTBV đã chỉ ra sự hiện diện của mầm bệnh và kháng thuốc kháng sinh, bao gồm các virus chỉ thị ô nhiễm như Enterroviruses gây bệnh sởi và viêm màng não Số lượng vi sinh vật tại NTBV cao hơn nhiều so với mức xả thải, đạt khoảng 2.4.10³ - 3.10⁵ MPN/100 ml, dẫn đến ô nhiễm vi sinh cho nguồn tiếp nhận Bùn thải từ NTBV chứa nhiều vi sinh vật gây bệnh cho con người, cho thấy NTBV là nguồn lây bệnh nguy hiểm nếu không được xử lý triệt để.
1989), bùn thải sau xử lý nên chứa không quá 1000 Fecal coliform/100g và 1 trứng giun sán/kg, sau đó được chôn vào các hào sâu và dùng đất phủ kín.
Bảng 2.7 Nồng độ vi khuẩn trong bùn thải của NTBV sau xử lý
Vi sinh vật Đơn vị (cfug -1)
Một số giải pháp quản lý ô nhiễm bệnh viện
2.3.1 Quản lý ô nhiễm chất thải rắn
2.3.1.1 Chất thải rắn sinh hoạt
Chất thải rắn sinh hoạt tại bệnh viện được thu gom vào các thùng chứa kín, và hiện nay, việc thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải này được thực hiện hàng ngày bởi công ty môi trường Đô thị TPHCM.
Thu gom chất thải tại nơi phát sinh
Hộ lý hàng ngày có nhiệm vụ thu gom chất thải y tế nguy hại và chất thải sinh hoạt từ nguồn phát sinh và chuyển về nơi tập trung chất thải.
Chất thải lâm sàng cần được xử lý đúng cách bằng cách cho vào túi nilon màu vàng khi đưa ra khỏi phòng khoa Đối với chất thải hóa học và chất thải phóng xạ, chúng phải được đựng trong túi màu đen và có nhãn ghi rõ nơi phát sinh chất thải.
• Chất thải phát sinh tại các khoa phải được vận chuyển về nơi lưu giữ chất thải chung của cơ sở y tế ít nhất một lần một ngày.
• Các hộp màu vàng đựng vật sắc nhọn và các chất thải sau khi xử lý ban đầu phải cho vào túi nilon màu vàng và buộc kín miệng.
• Buộc các túi nilon chứa chất thải khi các túi đã đạt tới thể tích quy định là 2/3 thể tích túi
Lưu trử chất thải trong các cơ sở y tế phải đảm bảo các điều kiện sau
• Cách xa nơi chuẩn bị đồ ăn, nhà kho, lối đi.
• Có đường để xe chuyên chở chất thải từ bên ngoài đến.
• Phải lưu giữ chất thải y tế nguy hại riêng biệt với chất thải sinh hoạt.
• Phải có mái che, có hàng rào bảo vệ, có cửa và có khóa. Không để súc vật các loại gặm nhắm, côn trùng xâm nhập tự do.
• Có hệ thống thoát nước, nền không thấm nước và có hệ thống thông khí tốt.
• Phải được chở đi thiêu hủy hàng ngày, thời gian lưu giữ tối đa chất thải y tế nguy hại trong bệnh viện là 48 giờ.
Vận chuyển chất thải y tế
• Cơ sở y tế phải quy định đường vận chuyển và giờ vận chuyển chất thải.
Mỗi cơ sở y tế cần trang bị phương tiện phù hợp để vận chuyển chất thải từ các phòng, khoa đến khu vực lưu giữ chất thải của cơ sở.
Chất thải y tế phải được thu gom và xử lý theo đúng chương trình của Bộ Y tế
2.3.2 Quản lý ô nhiễm không khí
2.3.2.1 Khống chế vi khuẩn gây bệnh trong không khí
Để đảm bảo an toàn trong quá trình chăm sóc và theo dõi bệnh nhân, việc khử trùng và vệ sinh các trang thiết bị, máy móc là cực kỳ quan trọng Nên sử dụng kim tiêm và bơm tiêm một lần để giảm nguy cơ lây nhiễm Nếu sử dụng kim tiêm và bơm tiêm nhiều lần, cần phải tiến hành khử trùng triệt để Các bệnh phẩm phải được bảo quản cẩn thận, không để ngoài không khí và cần xử lý hàng ngày để ngăn ngừa sự phát triển của vi trùng và mùi hôi khó chịu Nước thải cũng cần được đặt xa khu vực bệnh nhân và phải được tiệt trùng trước khi thải ra nguồn tiếp nhận.
Thường xuyên thực hiện làm vệ sinh, khử trùng khu bệnh phẩm, chất thải rắn y tế.
2.3.2.2 Khống chế ô nhiễm mùi hôi do nước thải
Mùi hôi từ trạm xử lý nước thải (XLNT) chủ yếu phát sinh do quá trình phân hủy kỵ khí Bên cạnh đó, quá trình phân hủy hiếu khí cũng tạo ra mùi hôi, nhưng ở mức độ thấp hơn.
2.3.2.3 Cải thiện điều kiện vi khí hậu
Khu vực dưỡng bệnh cần thường xuyên mở cửa sổ để đón gió và lắp đặt hệ thống thông gió, nhằm ngăn chặn tình trạng không khí bị quẩn quanh khu vực bệnh nhân.
Thường xuyên khử trùng khu vực phòng bệnh để tiêu diệt các mầm bệnh còn sót lại, tránh tình trạng phát triển bệnh thành dịch.
Cán bộ, công nhân viên bệnh viện khi tiến hành công tác khám và chữa bệnh cho bệnh nhân phải mang khẩu trang, đeo bao tay, mặc áo blouse.
Quản lý chặt việc vệ sinh bệnh viện, khu tập trung rác thải, các nhà vệ sinh
Bệnh viện cần thành lập đội ngũ chuyên trách để thực hiện công tác dội rửa, vệ sinh và khử trùng Hàng ngày, bệnh viện tiến hành vệ sinh định kỳ các máy móc, thiết bị và phương tiện theo dõi sức khỏe của bệnh nhân để đảm bảo môi trường an toàn và sạch sẽ.
Đảm bảo diện tích cây xanh theo quy định, 15% tổng diện tích đất sử dụng.
Xây dựng phòng đặt máy hợp lý.
Các chân đế, bệ máy sẽ được gia cố bằng bêtông chất lượng cao.
Lắp đặt các đệm chống rung bằng cao su.
Lắp đặt các thiết bị cách âm.
Kiểm tra độ cân bằng của các máy móc và hiệu chỉnh nếu cần thiết.
Tiến hành kiểm tra, bôi trơn và bảo dưỡng các trang thiết bị máy móc định kỳ.
Để đảm bảo sự yên tĩnh tại các phòng và khoa cần thiết, cần hạn chế người qua lại Đồng thời, quy định rõ ràng thời gian ra vào khám chữa bệnh và thăm bệnh nhân để tạo điều kiện tốt nhất cho việc điều trị.
Quy định rõ đường đi, và thời gian cho các loại phương tiện ra vào bệnh viện.
Khống chế tiếng ồn, độ rung từ máy phát điện dự phòng bệnh viện sẽ tiến hành thực hiện các biện pháp.
Để bảo vệ sức khỏe khi làm việc trong môi trường ồn ào, hãy trang bị các vật dụng cá nhân cần thiết như nút bịt tai và thiết lập chế độ ca kíp hợp lý nhằm tránh làm việc quá lâu trong khu vực có tiếng ồn cao.
Tổng quan về nước thải bệnh viện
2.4.1 Nước thải sinh hoạt của bệnh viện
Nước thải phát sinh từ các phòng vệ sinh bệnh nhân, căn tin, nhà bếp bệnh viện, và khu vệ sinh của nhân viên chứa nhiều chất ô nhiễm tương tự như nước thải sinh hoạt từ các khu dân cư đô thị Thành phần nước thải này bao gồm chất cặn bã, chất hữu cơ hòa tan (BOD và COD), dinh dưỡng như nitơ và phốtpho, cùng với vi khuẩn Chất lượng nước thải này thường vượt quá tiêu chuẩn cho phép, dẫn đến nguy cơ ô nhiễm hữu cơ và giảm lượng ôxy hòa tan (DO), điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự sống của thủy sinh vật trong nguồn tiếp nhận.
2.4.2 Nước thải từ hoạt động khám và điều trị bệnh
Mỗi bệnh viện có các khu khám và điều trị với dịch vụ y khoa khác nhau, phù hợp với yêu cầu công việc riêng Các bệnh viện lớn thường đối mặt với vấn đề nước thải ô nhiễm vi sinh, cặn lơ lửng và hàm lượng chất hữu cơ cao, dẫn đến chỉ số BOD và COD trong nước thải sinh hoạt cao hơn.
Nhìn chung NTBV đặc trưng là chứa nhiều mầm bệnh đặc biệt là các bệnh truyền nhiễm
Nước thải khu giải phẩu bệnh lý (mô học): Chứa máu, bệnh phẩm, dịch cơ thể chất khử trùng như formaladehyl
Nước thải khu xét nghiệm: Chứa nhiều vi trùng gây bệnh khác nhau
Ngoài ra nước thải còn có khả năng nhiễm xạ từ các khu X-Quang, rửa phim
Việc xử lý nước thải nhiễm phóng xạ gặp nhiều khó khăn và tốn kém do chu kỳ phân hủy của các chất phóng xạ kéo dài Hiện tại, loại nước thải này chưa được đề cập cụ thể, mà chỉ được xử lý ở mức sơ bộ trong toàn bộ quy trình xử lý nước thải biogas.
Nước thải khu điều trị vật lý: Chứa nhiều hợp chất hữu cơ halogen hóa (AOX).
Nước thải từ các khoa như truyền máu, huyết thanh học và sản khoa chứa nhiều huyết thanh, bệnh phẩm và hóa chất độc hại như kim loại nặng (Hg), các chất đệm, photphate, chất oxy hóa cùng với dầu mỡ.
Nước thải từ các khu nghiên cứu, chứa các chất ô nhiễm:
Chất oxy hóa tẩy trùng môi trường: peroxides (H2O2).
Dầu mỡ từ các ống bơm chân không, các thiết bị quay…
Kim loại loại nặng trong các thuốc thử phân tích.
Các dung môi hữu cơ, huyết thanh, dịch cơ thể và thuốc tẩy tạo ra nguồn nước thải có hàm lượng BOD5 và COD thấp hơn so với khu khám điều trị, nhưng vẫn cao hơn mức trung bình của nước thải sinh hoạt.
2.4.3 Nước thải từ phòng giặt tẩy của bệnh viện
Các phòng giặt tẩy của bệnh viện chuyên sản xuất khăn trải giường, áo choàng và áo cho phòng thí nghiệm Nước thải từ quá trình này chứa nhiều chất vô cơ, chất béo, dầu mỡ và thuốc tẩy kiềm, dẫn đến sự biến đổi pH trong môi trường.
Các phương pháp xử lý nước thải
XLNT bằng phương pháp cơ học nhằm mục đích:
Tách các chất không hòa tan và vật chất lơ lửng có kích thước lớn như rác, nhựa, dầu mỡ, cặn lơ lửng và các tạp chất nổi ra khỏi nước thải là một bước quan trọng trong quá trình xử lý nước.
Loại bỏ cặn nặng như sỏi, cát, mảnh kim loại, thủy tinh…
Điều hòa lưu lượng và nồng độ các chất ô nhiễm trong nước thải.
Xử lý cơ học là giai đoạn chuẩn bị và tạo điều kiện thuận lợi cho các quá trình xử lý hóa lý và sinh học.
Song chắn rác, thường làm bằng kim loại, được lắp đặt tại cửa vào kênh dẫn để ngăn rác Chúng được phân loại thành ba loại: thô, trung bình và mịn, tùy thuộc vào kích thước khe hở giữa các thanh Song chắn rác thô có khoảng cách từ 60 – 100 mm, trong khi song chắn rác mịn có khoảng cách từ 10 – 25 mm Rác có thể được thu gom bằng phương pháp thủ công hoặc bằng thiết bị cào rác cơ khí.
Bể lắng cát đặt sau song chắn rác và đặt trước bể điều hòa lưu lượng và chất lượng, đặt trước bể lắng đợt một
Bể lắng cát đóng vai trò quan trọng trong việc loại bỏ cát, cuội, xỉ lò và các tạp chất vô cơ khác có kích thước từ 0,2 – 2 mm khỏi nước thải, giúp bảo vệ bơm khỏi sự bào mòn do cát và sỏi, đồng thời ngăn ngừa tắc nghẽn đường ống và bảo vệ công trình sinh học phía sau Dựa trên đặc tính dòng chảy, bể lắng cát có thể được phân loại thành nhiều loại, bao gồm bể lắng cát với dòng chảy ngang trong mương hình chữ nhật, bể lắng cát có dòng chảy dọc theo máng hình chữ nhật xung quanh bể tròn, bể lắng cát sục khí, bể lắng cát có dòng chảy xoáy và bể lắng cát ly tâm.
2.5.1.3 Bể điều hòa/ trung hòa
Do đặc điểm công nghệ sản xuất của một số ngành công nghiệp, lưu lượng và nồng độ nước thải thường biến đổi không đều theo thời gian trong ngày Sự dao động lớn này có thể gây ra những hậu quả tiêu cực đối với hoạt động của hệ thống xử lý nước thải (HTXL) Khi hệ số không điều hòa k > 1,4, việc xây dựng bể điều hòa là cần thiết để giúp các công trình xử lý hoạt động với lưu lượng ổn định trong suốt cả ngày, từ đó giảm thiểu sự cố vận hành do biến động về nồng độ và lưu lượng nước thải, đồng thời nâng cao hiệu suất của các quá trình xử lý sinh học Hiện có hai loại bể điều hòa được sử dụng.
Bể điều hòa lưu lượng và chất lượng nằm trực tiếp trên đường chuyển động của dòng chảy.
Bể điều hòa lưu lượng có thể được lắp đặt trực tiếp trên đường dẫn dòng chảy hoặc bên ngoài Tùy thuộc vào điều kiện đất đai và chất lượng nước thải, bể này thường được sử dụng để tích trữ nước mưa trong mạng lưới cống chung, trong khi ở hệ thống cống riêng và nơi có chất lượng nước thải biến đổi, bể điều hòa cả lưu lượng và chất lượng sẽ được áp dụng Bể điều hòa thường được đặt trước bể lắng I Để đảm bảo chức năng điều hòa, cần trang bị hệ thống khuấy trộn trong bể nhằm đồng nhất nồng độ chất bẩn, ngăn ngừa cặn lắng và pha loãng các chất độc hại, từ đó giảm thiểu hiện tượng sốc chất lượng khi xử lý sinh học.
Để điều chỉnh pH của nước thải, có thể thêm một khoang trung hòa trong bể điều hòa hoặc xây dựng một bể trung hòa sau bể điều hòa.
Các công trình xử lý nước thải công nghiệp thường được thiết kế để loại bỏ các tạp chất có khối lượng riêng nhỏ hơn nước, vì chúng có thể gây hại cho hệ thống thoát nước và quá trình xử lý sinh học Việc thu hồi các chất này là cần thiết trước khi nước thải đi vào các công trình xử lý tiếp theo, nhằm ngăn chặn tình trạng bít kín lỗ hổng giữa các hạt vật liệu lọc trong bể sinh học và bảo vệ cấu trúc của bùn hoạt tính.
Sử dụng các vật liệu lọc như cát, thạch anh, than cốc và than bùn để tách các phần tử lơ lững phân tán có kích thước nhỏ trong nước thải, sau khi nước thải đã qua bể lắng.
Quá trình lọc là một phần quan trọng trong công nghệ xử lý nước tái sử dụng, nhằm thu hồi các thành phần quý hiếm có trong nước thải Các loại bể lọc được phân loại dựa trên chức năng và ứng dụng của chúng trong quá trình xử lý nước.
Bể lọc với lớp vật liệu lọc dạng hạt.
Bể lắng là một công trình có hình dạng mặt bằng chữ nhật hoặc tròn, được thiết kế nhằm loại bỏ các hạt cặn trong nước bằng phương pháp trọng lực Nước sẽ chảy liên tục vào và ra khỏi bể, giúp quá trình lắng đọng diễn ra hiệu quả Một trong những loại bể lắng phổ biến là bể lắng ngang hình chữ nhật.
Nước thải được phân phối vào vùng lắng qua vách phân phối, di chuyển đều dọc bể và đi vào vùng thu hồi ở cuối bể Để đảm bảo phân phối nước đồng đều, máng có lỗ phân phối được thiết kế suốt chiều ngang bể hoặc các tấm có khe phân phối được bố trí trên toàn bộ diện tích vùng lắng Tại cuối bể, các máng thu nước được lắp đặt để thu gom nước đã lắng Cặn lắng được gạt về máng thu bằng máy có tấm gạt cặn chạy bằng dây xích hoặc tấm gạt gắn trên dầm cầu, giúp dồn cặn về máng thu ở đầu vào bể hoặc các máng thu cặn trên chiều ngang bể trong trường hợp bể lớn Bơm hút cặn được đặt gần máng đầu bể, cho phép một bơm có thể phục vụ nhiều máng thu cặn hoặc nhiều bể khác nhau.
Trong bể lắng hình tròn, nước thải di chuyển theo hướng bán kính (radian) khi vào buồng phân phối trung tâm Nước thải được phân phối đều qua vùng lắng và chảy vào máng thu nước ở vành ngoài bể Ngoài ra, nước thải cũng có thể được phân phối bằng máng có vách lửng quanh chu vi bể, di chuyển qua vùng lắng và vào máng thu nước đặt ở tâm bể.
Cả hai phương pháp phân phối nước đều mang lại hiệu quả lắng tương tự, nhưng bể lắng với buồng phân phối trung tâm thường được ưa chuộng hơn Ống dẫn nước vào buồng này có thể được lắp đặt từ đáy hoặc từ thành bể Buồng phân phối trung tâm có đường kính chiếm 15-20% đường kính bể lắng và chiều cao từ 1m đến 2,5m Máy cào cặn được trang bị 2 hoặc 4 thanh ngang với các tấm gạt bằng gỗ, hoạt động chậm nhờ động cơ có hộp số, giúp đưa cặn về hố thu ở trung tâm bể Phần trên của máy cào có các thanh gạt để thu gom bọt và váng nổi, đưa chúng về máng thu theo hướng bán kính đáy bể Đáy bể được thiết kế với độ dốc 1:12, dốc từ ngoài vào hố thu cặn, giúp hố thu có thể tích nhỏ do cặn được lấy ra liên tục.
Phương pháp hóa lý dựa trên các phản ứng hóa học giữa chất ô nhiễm và hóa chất bổ sung Các kỹ thuật phổ biến trong phương pháp này bao gồm ôxy hóa và trung hòa, thường kết hợp với quá trình kết tủa và nhiều hiện tượng khác để xử lý chất ô nhiễm hiệu quả.
Quá trình xử lý nước thải (XLNT) bằng phương pháp hóa lý chủ yếu sử dụng các kỹ thuật vật lý và hóa học để loại bỏ các chất ô nhiễm mà không thể tách ra bằng phương pháp lắng Các công trình tiêu biểu cho việc áp dụng phương pháp hóa học trong xử lý nước thải bao gồm nhiều công nghệ tiên tiến nhằm nâng cao hiệu quả xử lý.
2.5.2.1 Bể keo tụ, tạo bông