Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại mang tính rủi ro, chủ yếu bao gồm huy động vốn và cho vay Để điều chỉnh các quan hệ pháp luật liên quan đến giao dịch bảo đảm, pháp luật đã ban hành nhiều văn bản quy phạm, như Luật và các Nghị định, Thông tư Tuy nhiên, sau một thời gian dài, nhiều quy định vẫn chưa được áp dụng hoặc thực hiện hiệu quả, dẫn đến những khó khăn trong việc triển khai các biện pháp như cầm cố, thế chấp và bảo lãnh tài sản.
Hoạt động cho vay luôn tiềm ẩn rủi ro, khi khách hàng không thể trả nợ gốc và lãi, ngân hàng thương mại (NHTM) phải tự bù đắp khoản vay Việc xử lý tài sản bảo đảm từ khoản vay là nhiệm vụ quan trọng của NHTM Khi khách hàng không trả nợ, ngân hàng sẽ xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ Theo quy định pháp luật, ngân hàng có thể thỏa thuận với khách hàng về việc xử lý tài sản hoặc tự xử lý mà không cần sự đồng ý của khách hàng Nếu cần thiết, ngân hàng có thể khởi kiện khách hàng tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền để giải quyết.
Trong những năm gần đây, sự tăng trưởng tín dụng mạnh mẽ đã dẫn đến sự gia tăng nhanh chóng của nợ xấu tại Việt Nam, nguyên nhân đến từ cả yếu tố chủ quan lẫn khách quan.
Nợ xấu là một trong những nguyên nhân chính cản trở sự phát triển của các ngân hàng, ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động kinh doanh, giảm năng lực tài chính và khả năng cạnh tranh, từ đó làm suy giảm uy tín và khả năng hội nhập quốc tế của các ngân hàng Nhiều ngân hàng đã rơi vào tình trạng khó khăn, dẫn đến việc sáp nhập hoặc bị Ngân hàng Nhà nước mua lại cổ phần với giá không đồng Chính vì vậy, việc xử lý nợ xấu đã trở thành ưu tiên hàng đầu của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng thương mại Tài sản cầm cố, thế chấp và bảo lãnh thực hiện hợp đồng tín dụng chiếm phần lớn giá trị khoản nợ của ngân hàng, do đó, việc xử lý các tài sản này sẽ góp phần giảm tỷ lệ nợ xấu Xuất phát từ tầm quan trọng của việc xử lý tài sản cầm cố và thực trạng thu hồi nợ, luận văn Thạc sĩ luật học của tôi sẽ tập trung nghiên cứu về hợp đồng tín dụng tại tỉnh Quảng Trị.
Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
2.1 Khái quát về tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Hiện nay, có nhiều bài viết về giao dịch cầm cố, thế chấp và bảo lãnh thực hiện hợp đồng tín dụng, tuy nhiên, hầu hết chỉ tập trung vào một khía cạnh nhất định Mỗi tác giả đều có cách tiếp cận riêng đối với từng đề tài này.
Luận văn Thạc sĩ của Trần Thị Thụy Anh, mang tên “Pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay tại các tổ chức tín dụng - Thực trạng và hướng hoàn thiện”, tập trung phân tích các quy định pháp lý liên quan đến việc xử lý tài sản bảo đảm trong giao dịch vay vốn Nghiên cứu này không chỉ đánh giá thực trạng hiện tại mà còn đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật, đảm bảo tính hiệu quả và minh bạch trong hoạt động tín dụng.
Bài luận văn năm 2013 này tập trung vào việc làm rõ các vấn đề lý luận liên quan đến xử lý tài sản bảo đảm cho khoản vay tại các tổ chức tín dụng Nó cũng nêu bật thực trạng xử lý tài sản bảo đảm tại các tổ chức tín dụng và đề xuất các hướng hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu quả trong quá trình này.
Luận văn thạc sĩ của Vũ Thị Kim Oanh, năm 2017, mang tên “Cơ sở pháp lý để xử lý tài sản bảo đảm nhằm thu hồi nợ cho các ngân hàng thương mại” phân tích các quy định pháp luật hiện hành liên quan đến việc xử lý tài sản bảo đảm nhằm thu hồi nợ cho ngân hàng thương mại Tác giả chỉ ra những bất cập trong hệ thống pháp luật hiện tại, ảnh hưởng đến quyền thu hồi nợ của các ngân hàng, đồng thời đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện khung pháp lý này.
Luận văn Thạc sĩ của tác giả Phạm Nguyễn Đức Tài, năm 2014, mang tiêu đề “Xử lý tài sản có đăng ký giao dịch bảo đảm để thu hồi nợ cho các tổ chức tín dụng theo pháp luật Thi hành án dân sự từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” Tác phẩm này tập trung làm rõ lý luận về thi hành án dân sự và nguyên tắc xử lý tài sản có đăng ký giao dịch bảo đảm, đồng thời phân tích thực trạng xử lý tài sản trong bối cảnh hiện nay và đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật liên quan.
- Nguyễn Thị Nam (2017), Pháp luật về thế chấp quyền sử dụng đất ở Việt Nam, Luận án Tiến sỹ QTKD, Đại học Quốc gia Hà Nội;
Ngô Ngọc Linh (2015) đã thực hiện nghiên cứu về việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay là bất động sản trong bối cảnh hoạt động của các tổ chức tín dụng Luận văn Thạc sỹ Luật học của tác giả được trình bày tại Đại học Quốc gia Hà Nội, cung cấp cái nhìn sâu sắc về các vấn đề pháp lý liên quan đến xử lý tài sản bảo đảm trong lĩnh vực tín dụng.
Phan Hồng Điệp (2012) trong luận văn Thạc sĩ của mình tại Đại học Quốc gia Hà Nội đã nghiên cứu về pháp luật liên quan đến thế chấp quyền sử dụng đất trong các tổ chức tín dụng Bài viết tập trung vào thực tiễn áp dụng pháp luật này và đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật hiện hành.
Dương Thị Phương Liên (2014) đã thực hiện nghiên cứu về cầm cố và thế chấp tài sản tại Ngân hàng thương mại cổ phần Dầu khí Toàn Cầu (GP.Bank) trong luận văn Thạc sĩ Luật học của mình, được bảo vệ tại Đại học Quốc gia Hà Nội Nghiên cứu này cung cấp cái nhìn sâu sắc về các quy định pháp lý liên quan đến cầm cố và thế chấp tài sản trong lĩnh vực ngân hàng, đồng thời phân tích thực tiễn áp dụng tại GP.Bank.
Ngoài các luận văn cao học và luận án tiến sĩ khác, có thể kể đến Luận văn Thạc sĩ Luật học của Lê Thu Hiền (2013) với chủ đề "Bảo đảm tiền vay ngân hàng - thực trạng và giải pháp" tại Đại học Luật, Hà Nội, cùng với Luận văn Thạc sĩ Luật học của Ma Văn.
Hiếu (2014) đã nghiên cứu về việc xử lý tài sản cầm cố, thế chấp và bảo lãnh nhằm đảm bảo thực hiện hợp đồng tín dụng trong pháp luật Việt Nam trong luận văn của mình tại Đại học Luật Hà Nội.
Hoàng Anh Tuấn (2014) đã trình bày trong luận văn thạc sĩ của mình về pháp luật đảm bảo nghĩa vụ trả nợ trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại tại Việt Nam, nêu rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan Luận án được thực hiện tại Đại học Quốc gia Hà Nội, góp phần làm rõ các khía cạnh pháp lý trong lĩnh vực tài chính ngân hàng.
Nguyễn Thị Nga (2009) trong luận văn Thạc sĩ Luật học của mình đã nghiên cứu về "Pháp luật về xử lý tài sản cầm cố, thế chấp, bảo lãnh đảm bảo thực hiện hợp đồng tín dụng ở Việt Nam" Nghiên cứu này cung cấp cái nhìn sâu sắc về các quy định pháp lý liên quan đến việc xử lý tài sản đảm bảo trong lĩnh vực tín dụng, góp phần làm rõ vai trò của tài sản cầm cố và thế chấp trong việc bảo vệ quyền lợi của các bên tham gia hợp đồng tín dụng.
Lương Minh Trí (2011), “Bảo đảm tiền vay tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp
Thạc sĩ Luật học Phan Hồng Điệp (2012) đã nghiên cứu về "Pháp luật xử lý tài sản cầm cố, thế chấp và bảo lãnh đảm bảo thực hiện hợp đồng tín dụng" tại Đại học Quốc gia Hà Nội Luận văn này không chỉ phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật mà còn đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp lý liên quan.
Phùng Văn Hiếu (2012) đã nghiên cứu về việc xử lý tài sản cầm cố, thế chấp và bảo lãnh nhằm đảm bảo thực hiện hợp đồng tín dụng, tập trung vào thực tiễn áp dụng tại Ngân hàng thương mại quốc tế Việt Nam Bài viết cũng đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến vấn đề này.
Quốc gia Hà Nội đã có nhiều nghiên cứu quan trọng về việc xử lý tài sản cầm cố, thế chấp và bảo lãnh nhằm đảm bảo thực hiện hợp đồng tín dụng Luận văn Luật học của Vũ Thị Hồng (2013) tại Đại học Luật Tp.HCM và luận văn Thạc sĩ Luật học của Nguyễn Hồng Vân (2015) tại Đại học Quốc gia Hà Nội đều tập trung vào các quy định của pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành liên quan đến vấn đề này.
2.2 Những nội dung luận văn kế thừa và tiếp tục nghiên cứu qua việc nghiên cứu liên quan đến đề tài
Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Để đạt được các mục tiêu của đề tài, nghiên cứu được thực hiện dựa trên phương pháp duy vật biện chứng Luận văn áp dụng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, cùng với các đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Trong quá trình nghiên cứu và trình bày, luận văn sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học khác nhau bao gồm:
Phương pháp phân tích và tổng hợp là kỹ thuật quan trọng được áp dụng trong tất cả các chương của luận văn, nhằm mục đích phân tích các khái niệm, quy định pháp luật và số liệu liên quan.
Phương pháp so sánh là một công cụ quan trọng trong luận văn, giúp phân tích và đối chiếu các quy định pháp luật từ các văn bản khác nhau Phương pháp này chủ yếu được áp dụng trong chương 2 của luận văn, nhằm làm nổi bật sự khác biệt và tương đồng giữa các quy định pháp lý.
Phương pháp diễn giải quy nạp là kỹ thuật quan trọng trong luận văn, giúp phân tích và giải thích các số liệu cùng với các nội dung trích dẫn liên quan Phương pháp này được áp dụng xuyên suốt tất cả các chương của luận văn, đảm bảo tính logic và sự liên kết giữa các phần nội dung.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng những phương pháp nghiên cứu khác:phương pháp thống kê,
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn này đóng góp vào việc xây dựng cơ sở khoa học cho việc hoàn thiện pháp luật, nhằm nâng cao hiệu quả thực thi các quy định liên quan đến xử lý tài sản cầm cố, thế chấp và bảo lãnh trong hợp đồng tín dụng.
Chúng tôi sẽ hỗ trợ chính quyền và các cơ quan chức năng trong việc nghiên cứu, hoàn thiện chính sách nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật liên quan đến xử lý tài sản cầm cố, thế chấp và bảo lãnh, đảm bảo thực hiện hợp đồng tín dụng trong thời gian tới.
Cơ cấu của luận văn
Cơ cấu của luận văn bao gồm: phần mở đầu; phần nội dung gồm 03 chương:
Chương 1 đề cập đến các vấn đề lý luận và pháp luật liên quan đến việc xử lý tài sản cầm cố, thế chấp và bảo lãnh nhằm đảm bảo thực hiện hợp đồng tín dụng Nội dung này phân tích các quy định pháp lý hiện hành, vai trò của tài sản bảo đảm trong giao dịch tín dụng, và các phương thức xử lý tài sản khi bên vay vi phạm hợp đồng Việc hiểu rõ các quy định này là cần thiết để bảo vệ quyền lợi của các bên liên quan trong hoạt động cho vay và đảm bảo tính minh bạch trong giao dịch tài chính.
Chương 2: Phân tích thực trạng pháp luật liên quan đến việc xử lý tài sản cầm cố, thế chấp và bảo lãnh nhằm đảm bảo thực hiện hợp đồng tín dụng tại tỉnh Quảng Trị, đồng thời đánh giá thực tiễn thi hành các quy định này trong bối cảnh địa phương.
Chương 3 tập trung vào việc xác định định hướng và các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật liên quan đến tài sản cầm cố, thế chấp và bảo lãnh, từ đó nâng cao hiệu quả trong việc xử lý các tài sản này để đảm bảo thực hiện hợp đồng tín dụng Việc cải cách pháp lý sẽ góp phần tạo ra một môi trường tín dụng minh bạch và an toàn, giúp các bên liên quan dễ dàng thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH VỀ XỬ LÝ TÀI SẢN CẦM CỐ, THẾ CHẤP, BẢO LÃNH ĐẢM BẢO THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
Khái quát về cầm cố, thế chấp, bảo lãnh bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng 5 1 Khái niệm hợp đồng tín dụng và đặc điểm của hợp đồng tín dụng
1.1.1 Khái niệm hợp đồng tín dụng và đặc điểm của hợp đồng tín dụng
1.1.1.1 Khái niệm hợp đồng tín dụng và đặc điểm của hợp đồng tín dụng
Nhà nước không chỉ yêu cầu các bên giao kết hợp đồng phù hợp với lợi ích chung và đạo đức xã hội, mà còn can thiệp để đảm bảo các bên thực hiện đúng cam kết đã thỏa thuận Các bên phải tuân thủ quyền và nghĩa vụ của mình dưới sự hỗ trợ của pháp luật Theo Bộ luật Dân sự 2015, hợp đồng tín dụng được định nghĩa là việc bên vay nhận khoản tiền từ bên cho vay (tổ chức tín dụng, ngân hàng) để sử dụng vào mục đích xác định trong một thời gian nhất định, với nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi Do đó, hợp đồng vay chính là hợp đồng tín dụng.
Hợp đồng tín dụng có những dấu hiệu, đặc trưng như:
Bên cho vay trong hợp đồng tín dụng là tổ chức tín dụng hoặc ngân hàng đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật Bên vay có thể là tổ chức hoặc cá nhân, miễn là họ đủ điều kiện vay vốn theo quy định pháp luật hiện hành.
Hợp đồng tín dụng có đối tượng là tiền tệ, động sản hoặc bất động sản, được xác định rõ ràng trong văn bản hợp đồng mà các bên đã thỏa thuận và ký kết theo quy định pháp luật.
Kéo dài thời gian trả nợ giữa bên vay và bên cho vay gia tăng nguy cơ rủi ro cho cả hai bên Theo cam kết trong hợp đồng tín dụng, bên cho vay chỉ có quyền đòi nợ khi hết thời hạn vay, điều này dẫn đến rủi ro lớn cho quyền lợi của cả hai bên Do đó, khả năng phát sinh tranh chấp từ hợp đồng tín dụng cao hơn so với nhiều loại hợp đồng khác.
Trong hợp đồng tín dụng, bên cho vay có nghĩa vụ chuyển giao tiền vay ngay sau khi hai bên ký kết hợp đồng và hoàn tất các giấy tờ theo quy định của pháp luật Việc này tạo điều kiện cho bên vay thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình Khi hợp đồng tín dụng có hiệu lực pháp luật, bên cho vay có quyền yêu cầu bên vay thực hiện các nghĩa vụ đã thỏa thuận rõ ràng trong hợp đồng.
1.1.2 Khái niệm và đặc điểm cầm cố, thế chấp, bảo lãnh bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng
1.1.2.1 Khái niệm cầm cố tài sản
Cầm cố tài sản là hành động mà bên cầm cố giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên nhận cầm cố nhằm đảm bảo thực hiện nghĩa vụ, thường là nghĩa vụ trả nợ Nếu tài sản cầm cố có đăng ký quyền sở hữu, các bên có thể thỏa thuận về việc bên cầm cố giữ tài sản hoặc giao cho bên thứ ba giữ Hiện nay, các tổ chức tín dụng thường cầm cố bằng các giấy tờ có giá như tín phiếu Ngân hàng Nhà nước, trái phiếu Chính phủ và các loại trái phiếu khác được Chính phủ bảo lãnh thanh toán 100% giá trị gốc và lãi khi đến hạn.
1.1.2.2 Khái niệm thế chấp tài sản
Thế chấp là hình thức vay vốn trong đó người vay chuyển giao giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu tài sản bảo đảm cho ngân hàng, nhằm đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ Khi thế chấp toàn bộ bất động sản hoặc động sản có vật phụ, các vật phụ cũng trở thành tài sản thế chấp Bằng cách này, người vay có thể sử dụng tài sản bảo đảm cho hoạt động sản xuất kinh doanh, mang lại lợi ích Tuy nhiên, việc sử dụng tài sản có thể làm biến dạng nó, và ngân hàng gặp khó khăn trong việc kiểm soát tài sản bảo đảm, dẫn đến nguy cơ khách hàng có thể làm giảm giá trị tài sản.
Trần Thị Thụy Anh (2016) trong luận văn Thạc sĩ Luật học đã chỉ ra rằng, việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay tại các tổ chức tín dụng hiện nay còn nhiều bất cập, gây thiệt hại cho ngân hàng Do đó, khi thực hiện cho vay dựa trên bảo đảm bằng thế chấp, ngân hàng cần phải xem xét kỹ lưỡng vật thế chấp và đảm bảo rằng phần mô tả vật thế chấp được ghi rõ trong hợp đồng thế chấp, ký kết cùng với hợp đồng vay vốn.
1.1.2.3 Khái niệm bảo lãnh tài sản
Theo Điều 335 Bộ luật Dân sự 2015, bảo lãnh được định nghĩa là cam kết của bên bảo lãnh (người thứ ba) với bên nhận bảo lãnh (bên có quyền) nhằm thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh (bên có nghĩa vụ) trong trường hợp bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ Các bên có thể thỏa thuận rằng bên bảo lãnh chỉ thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình.
1.1.2.4 Đặc điểm cầm cố, thế chấp, bảo lãnh
1.1.2.4.1 Đặc điểm cầm cố tài sản
Pháp luật Việt Nam công nhận hai phương thức cầm cố: có chuyển giao và không chuyển giao tài sản cầm cố Điểm đặc trưng của cầm cố là việc giao tài sản cho bên nhận cầm cố, với tài sản đăng ký quyền sở hữu thường ít hơn so với tài sản không đăng ký Các tài sản cầm cố dễ thực hiện chuyển giao, có thể được lưu giữ tại ngân hàng hoặc bên thứ ba do ngân hàng chỉ định, và phải đáp ứng các điều kiện của ngân hàng Tài sản cầm cố thường bao gồm kim loại quý, hàng hóa và giấy tờ có giá.
1.1.2.4.2 Đặc điểm thế chấp tài sản
Thế chấp tài sản cần được lập thành văn bản, có thể là văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính Nếu pháp luật yêu cầu, văn bản thế chấp phải được công chứng, chứng thực hoặc đăng ký.
Thời hạn thế chấp tài sản được xác định qua thỏa thuận giữa các bên; nếu không có thỏa thuận cụ thể, thời hạn thế chấp sẽ kéo dài cho đến khi nghĩa vụ được đảm bảo bằng thế chấp được chấm dứt.
Bên thế chấp tài sản có nghĩa vụ bảo quản và giữ gìn tài sản, đồng thời thực hiện các biện pháp cần thiết để khắc phục tình trạng tài sản Nếu việc khai thác tài sản dẫn đến nguy cơ mất giá trị hoặc giảm sút giá trị, bên thế chấp phải ngừng hoạt động khai thác để đảm bảo tài sản không bị tổn thất.
Bên thế chấp tài sản có quyền khai thác công dụng và hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản, trừ trường hợp hoa lợi, lợi tức thuộc tài sản thế chấp theo thỏa thuận Họ cũng có quyền đầu tư để tăng giá trị tài sản thế chấp và được phép bán hoặc thay thế tài sản thế chấp nếu tài sản đó là hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh.
Bên nhận thế chấp tài sản có nghĩa vụ hoàn trả giấy tờ liên quan đến tài sản thế chấp cho bên thế chấp khi chấm dứt hợp đồng thế chấp, nếu các bên đã thỏa thuận về việc giữ giấy tờ này Ngoài ra, bên nhận thế chấp cũng cần yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện việc xóa đăng ký giao dịch bảo đảm theo các quy định hiện hành.
Khái niệm và đặc điểm, nguyên tắc xử lý tài sản cầm cố, thế chấp, bảo lãnh đảm bảo thực hiện hợp đồng tín dụng
1.2.1 Khái niệm xử lý xử lý tài sản cầm cố, thế chấp, bảo lãnh đảm bảo thực hiện hợp đồng tín dụng
Xử lý tài sản cầm cố, thế chấp và bảo lãnh trong hợp đồng tín dụng là quá trình xem xét và giải quyết các tài sản bảo đảm nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bên nhận bảo đảm.
1.2.2 Nguyên tắc xử lý tài sản cầm cố, thế chấp, bảo lãnh đảm bảo thực hiện hợp đồng tín dụng
Việc xử lý tài sản được thực hiện dựa trên thỏa thuận giữa các bên, có thể được thiết lập ngay tại thời điểm giao dịch bảo đảm, nhằm đảm bảo việc xử lý tài sản bảo đảm (TSBĐ) diễn ra hiệu quả.
Việc xử lý tài sản bảo đảm cần phải được tiến hành một cách khách quan, công khai và minh bạch, nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của tất cả các bên liên quan trong giao dịch bảo đảm, bao gồm cả cá nhân và tổ chức, đồng thời phải tuân thủ các quy định pháp luật hiện hành.
Việc xử lý tài sản bảo đảm (TSBĐ) để thu hồi nợ không được coi là hoạt động kinh doanh của bên nhận bảo đảm, tuy nhiên, theo quy định pháp luật, bên này vẫn phải nộp thuế giá trị gia tăng từ số tiền thu được sau khi xử lý TSBĐ Người xử lý TSBĐ có thể là bên nhận bảo đảm hoặc người được ủy quyền, trừ khi có thỏa thuận khác giữa các bên tham gia giao dịch Việc xử lý TSBĐ sẽ được thực hiện dựa trên các điều khoản đã thỏa thuận trong hợp đồng bảo đảm mà không cần phải có văn bản ủy quyền từ bên bảo đảm.
Trong trường hợp tài sản bảo đảm (TSBĐ) là quyền sử dụng đất hoặc nhà ở, tổ chức và cá nhân mua TSBĐ hoặc nhận TSBĐ để thực hiện nghĩa vụ thay cho bên bảo đảm cần phải thuộc đối tượng được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
(vi) Thực hiện các thỏa thuận về xử lý TSBĐ đã được xác lập hợp pháp và các quy định khác có liên quan của pháp luật.
Không được cản trở hoặc chống đối việc thu giữ tài sản bảo đảm (TSBĐ) hợp pháp Các bên liên quan không được phép che giấu, tẩu tán TSBĐ hoặc trốn tránh nghĩa vụ được bảo đảm.
1.2.2 Đặc điểm xử lý tài sản cầm cố, thế chấp, bảo lãnh đảm bảo thực hiện hợp đồng tín dụng
Mục đích chính của việc xử lý tài sản cầm cố, thế chấp và bảo lãnh là nhằm thu hồi khoản nợ của tổ chức tín dụng (TCTD) khi bên vay không thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng tín dụng.
Thời điểm xử lý tài sản cầm cố, thế chấp, và bảo lãnh để đảm bảo thực hiện hợp đồng tín dụng sẽ xảy ra khi có vi phạm nghĩa vụ.
Xử lý tài sản bảo đảm tiền phải tuân thủ các nguyên tắc của luật dân sự và các quy định liên quan đến tài sản cầm cố, thế chấp, bảo lãnh nhằm đảm bảo thực hiện hợp đồng tín dụng theo pháp luật về tổ chức tín dụng.
Vào thứ tư, tài sản bảo đảm tiền đóng vai trò là nguồn thu thứ hai cho tổ chức tín dụng (TCTD), do đó, việc xử lý tài sản này cần được thực hiện nhanh chóng Điều này giúp TCTD đảm bảo khả năng thanh toán, khả năng chi trả và cung cấp tín dụng cho nền kinh tế.
Do đó, để xử lý tài sản bảo đảm tiền có hiệu quả cần một cơ chế linh hoạt, chủ động cho các chủ thể.
Các yếu tố ảnh hưởng đến thực thi pháp luật về xử lý tài sản cầm cố, thế chấp, bảo lãnh đảm bảo thực hiện hợp đồng tín dụng
1.3.1 Yếu tố thể chế chính sách, pháp luật
Yếu tố quan trọng trong việc thực hiện quyền xử lý tài sản là quyền thu giữ tài sản bảo đảm của người nhận bảo đảm Theo quy định tại Nghị định 163/2006/NĐ-CP và Thông tư liên tịch số 16/2014/TTLT-BTP-BTNMT-NHNN, người giữ tài sản bảo đảm phải giao tài sản cho người xử lý trong thời hạn quy định; nếu không, người xử lý có quyền thu giữ tài sản Tuy nhiên, thực tế cho thấy nhiều tổ chức tín dụng không thực hiện được quyền này do bên bảo đảm không hợp tác Điều này dẫn đến việc tổ chức tín dụng không thể xử lý tài sản, có nguy cơ vi phạm hợp đồng bán tài sản nếu bên giữ không giao tài sản cho bên mua Khi không thực hiện được quyền thu giữ, tổ chức tín dụng buộc phải khởi kiện và theo đuổi con đường tố tụng để giải quyết vấn đề.
1.3.2 Yếu tố văn hóa pháp lý
Văn hóa pháp lý trong thực tiễn vẫn còn hạn chế, ảnh hưởng đến quá trình xử lý tài sản Một ví dụ điển hình là trường hợp của vợ chồng ông Đặng Văn Anh và bà Trần Thị Duyên, cư trú tại Phường 5 - TP Đông Hà, khi họ bị Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (Agribank) Chi nhánh Quảng Trị đòi nợ sau gần 20 năm, mặc dù tài sản thế chấp đã được bán đấu giá Năm 1996, gia đình bà Trần Thị Hà đã thế chấp nhà và đất để vay 49 triệu đồng, với tài sản được định giá 100 triệu đồng và thời hạn vay 12 tháng Tuy nhiên, do gặp rủi ro từ dịch bệnh và thiên tai, gia đình bà không thể trả nợ, dẫn đến tình trạng nợ kéo dài.
Vào năm 1997, ngân hàng đã gửi thông báo yêu cầu thanh toán nợ Nếu sau 30 ngày mà khoản nợ vẫn không được trả, ngân hàng sẽ tiến hành bán phát mãi tài sản thế chấp để thu hồi số tiền nợ.
1.3.3 Yếu tố tập quán, lối sống
Các tranh chấp xã hội thường được giải quyết bằng tình cảm, do người dân ngại đưa ra tòa, dẫn đến nhiều xung đột không được giải quyết triệt để Họ thường không muốn "vạch áo cho người xem lưng", ngay cả khi phải chịu thiệt hại Khi gặp bất công, đặc biệt từ các cơ quan công quyền, tâm lý "con kiến kiện củ khoai" xuất hiện vì thiếu niềm tin vào pháp luật Mô hình tổ chức dân cư ở nông thôn Bắc bộ, đặc biệt qua các công xã, thể hiện tính cục bộ mạnh mẽ, tạo ra sức mạnh cho cộng đồng nhưng cũng khiến người dân dễ bao che cho nhau vì sợ bị chỉ trích hoặc tẩy chay.
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (CMCN 4.0) không chỉ tạo ra sự cạnh tranh khốc liệt mà còn mở ra cơ hội cho các tổ chức tài chính và kế toán phát triển dịch vụ chuyên nghiệp, góp phần nâng cao tính minh bạch và chất lượng dịch vụ Điều này đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người dân Tuy nhiên, hiệu quả hoạt động của các cơ quan phụ thuộc vào chức năng, nhiệm vụ và các yếu tố như kinh phí, cơ sở vật chất Nếu không đảm bảo đủ và phù hợp, các chủ thể có thẩm quyền sẽ gặp khó khăn trong việc triển khai nhiệm vụ, ảnh hưởng đến quyền tham gia của các cơ quan, tổ chức và người dân trong việc xử lý tài sản cầm cố, thế chấp, bảo lãnh thực hiện hợp đồng tín dụng.
Nội dung quy định xử lý tài sản cầm cố, thế chấp, bảo lãnh đảm bảo thực hiện hợp đồng tín dụng
1.4.1 Xử lý tài sản bảo đảm theo thỏa thuận Đầu tiên phải kể đến chính là phương thức bán TSBĐ Xử lý tài sản theo thỏa thuận bằng việc bán TSBĐ của các bên có thể được quy định trước trong hợp đồng giao kết hoặc tại thời điểm xử lý tài sản Các bên trong giao dịch bảo đảm có quyền và không bị bất kì ràng buộc nào về việc thỏa thuận bán TSBĐ (trừ một số trường hợp theo luật định) Các bên có thể thỏa thuận bán TSBĐ thông qua bán đấu giá hoặc không thông qua bán đấu giá Một TSBĐ cho nhiều nghĩa vụ thì khi bán tài sản đó để thực hiện nghĩa vụ cho nghĩa vụ đầu tiên đến hạn thì các nghĩa vụ còn lại đương nhiên được coi là đến hạn, các bên nhận bảo đảm đều được tham gia xử lý tài sản Người xử lý tài sản phải thông báo cho các bên nhận bảo đảm còn lại, và tiến hành xử lý tài sản trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác, trong trường hợp người xử lý tài sản không thông báo cho các bên nhận bảo đảm còn lại mà gây thiệt hại thì phải bồi thường Trong trường hợp có nhiều TSBĐ cho một nghĩa vụ thì bên nhận bảo đảm có quyền lựa chọn tài sản xử lý, trừ trường hợp các bên đã có thỏa thuận từ trước thứ tự tài sản được xử lý Bên nhận bảo đảm cũng chỉ có quyền xử lý tài sản trong phạm vi nghĩa vụ của bên bảo đảm, nếu xử lý quá số tài sản cần thiết và gây thiệt hại cho bên bảo đảm thì bên nhận bảo đảm phải bồi thường thiệt hại do mình gây ra Chủ thể xử lý tài sản cần lưu ý quyền ưu tiên mua của một số chủ thể trong quá trình xử lý tài sản theo quy định của pháp luật về hạn chế quyền định đoạt của chủ sở hữu.
Quyền ưu tiên mua có thể được thỏa thuận trước hoặc theo quy định pháp luật TSBĐ thường được xử lý qua phương thức bán, áp dụng cho các giao dịch như cầm cố, thế chấp, đặt cọc, ký cược, bảo lãnh Pháp luật không yêu cầu việc bán TSBĐ phải lập thành văn bản hay công chứng, nhưng việc này phát sinh khi bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng Mặc dù không bắt buộc thông báo bằng văn bản cho các bên liên quan, việc ghi rõ trong hợp đồng về việc bán TSBĐ là cần thiết để bảo đảm quyền lợi và làm cơ sở cho tranh chấp Do đó, các bên nên lập văn bản thông báo trong quá trình xử lý TSBĐ.
1.4.2 Bán đấu giá tài sản bảo đảm
Bán đấu giá tài sản bảo đảm (TSBĐ) là phương thức hiệu quả để xử lý tài sản mà các bên có thể lựa chọn Phương thức này thường gắn liền với các giao dịch bảo đảm như cầm cố và thế chấp Trong khi đó, giao dịch bảo lãnh không xác định rõ TSBĐ, và các biện pháp như ký quỹ hay đặt cọc áp dụng cơ chế riêng khi xử lý TSBĐ.
Bán đấu giá tài sản bảo đảm (TSBĐ) diễn ra khi các bên thống nhất về việc bán đấu giá hoặc theo quy định của pháp luật Mặc dù giao dịch cầm cố và thế chấp cần được lập thành văn bản, pháp luật không yêu cầu các bên phải có thỏa thuận bằng văn bản riêng cho việc bán đấu giá TSBĐ Việc thực hiện bán đấu giá TSBĐ phải tuân thủ quy trình và thủ tục theo quy định của pháp luật về Bán đấu giá tài sản.
1.4.3 Xử lý tài sản bảo đảm thông qua trọng tài, tòa án, thi hành án
Trong giao dịch dân sự hàng ngày, tranh chấp giữa các bên là điều khó tránh khỏi, đặc biệt trong giao dịch bảo đảm Mặc dù các bên có thể thỏa thuận để giải quyết mâu thuẫn, nhưng không phải lúc nào cũng hiệu quả Do đó, nhiều chủ thể chọn giải quyết tranh chấp thông qua trọng tài hoặc khởi kiện tại tòa án để bảo vệ quyền lợi hợp pháp Để khởi kiện, bên khởi kiện cần chứng minh mình là bên có quyền trong giao dịch bảo đảm Tranh chấp thường liên quan đến việc bảo đảm quyền lợi và xử lý tài sản bảo đảm để thực hiện nghĩa vụ Sau khi có bản án có hiệu lực, có hai khả năng xảy ra: bên có nghĩa vụ tự nguyện thi hành án hoặc bên có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án thực hiện bản án.
1.4.3.1 Xử lý tài sản bảo đảm thông qua quy trình xử lý nợ xấu
Nghị quyết 42/2017 của Quốc hội đã cải thiện hành lang pháp lý trong việc xử lý nợ xấu, cho phép ngân hàng tăng cường quyền chủ động trong xử lý tài sản bảo đảm Mặc dù Nghị quyết đã rút gọn quy trình tố tụng, nhưng việc triển khai thực tế còn hạn chế Điều 12 của Thông tư 09/2015/TT-NHNN quy định việc định giá tài sản bảo đảm Quyền thu giữ tài sản bảo đảm của tổ chức tín dụng được xem là một đột phá của Nghị quyết 42, yêu cầu bên bảo đảm phải giao tài sản kèm theo giấy tờ hợp lệ cho tổ chức tín dụng hoặc đơn vị xử lý nợ xấu Nếu bên bảo đảm không giao tài sản, tổ chức tín dụng có quyền thu giữ tài sản đó Điều kiện để thu giữ bao gồm: xử lý tài sản theo quy định tại Điều 299 Bộ luật Dân sự, thỏa thuận trong hợp đồng bảo đảm, đăng ký giao dịch bảo đảm, tài sản không tranh chấp tại tòa án, và tổ chức tín dụng đã hoàn thành nghĩa vụ công khai thông tin.
1.4.3.2 Xử lý tài sản bảo đảm thông qua quy trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản
Luật Phá sản năm 2014 đã có những thay đổi quan trọng trong việc xác định địa vị pháp lý của chủ nợ, phân biệt rõ giữa chủ nợ có bảo đảm và không có bảo đảm nhằm bảo vệ quyền lợi của các chủ nợ có bảo đảm Theo Điều 54, tài sản của doanh nghiệp sẽ được phân chia theo thứ tự ưu tiên, bắt đầu từ chi phí phá sản, nợ lương, nợ phát sinh sau khi mở thủ tục phá sản, nghĩa vụ tài chính với Nhà nước, và cuối cùng là các khoản nợ không có bảo đảm và có bảo đảm Quản tài viên có trách nhiệm đề xuất cách xử lý các khoản nợ có bảo đảm, trong đó tài sản bảo đảm có thể được sử dụng để phục hồi kinh doanh hoặc xử lý theo hợp đồng Nếu tài sản bảo đảm có nguy cơ bị hủy hoại, Quản tài viên có thể đề nghị xử lý ngay để đảm bảo quyền lợi cho chủ nợ.
Việc xử lý tài sản bảo đảm theo quy định được thực hiện như sau: Khoản nợ có bảo đảm trước khi Tòa án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản sẽ được thanh toán bằng tài sản bảo đảm Nếu giá trị tài sản bảo đảm không đủ, phần nợ còn lại sẽ được thanh toán trong quá trình thanh lý tài sản của doanh nghiệp; nếu giá trị lớn hơn, phần chênh lệch sẽ nhập vào giá trị tài sản doanh nghiệp Theo Điều 54 của Luật Phá sản, ngoài ba hàng thứ tự phân chia tài sản cần thiết, còn có chi phí cho quá trình giải quyết vụ việc tuyên bố phá sản và khoản nợ liên quan đến quyền lợi của người lao động Khoản nợ được đảm bảo sẽ xếp ngay sau ba hàng thứ tự này Tuy nhiên, về nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước, tiền án phí phải nộp cho cơ quan thi hành án theo bản án đã có hiệu lực sẽ được xếp cao hơn so với khoản nợ có đảm bảo, theo quy định tại khoản 1 Điều 47 của Luật Thi hành án dân sự.
Chương 1 luận văn tìm hiểu những khái niệm cơ bản về xử lý tài sản cầm cố, thế chấp, bảo lãnh đảm bảo thực hiện hợp đồng tín dụng; phân tích sở lý luận của quy định pháp luật xử lý tài sản cầm cố, thế chấp, bảo lãnh đảm bảo thực hiện hợp đồng tín dụng hiện nay để làm sáng tỏ trong pháp luật về xử lý TS có bảo đảm để có có sở tiếp tục nghiên cứu tại Chương 2 cơ sở pháp lý bảo đảm an toàn cho xử lý tài sản trong giai đoạn hiện nay là một yêu cầu tất yếu, khách quan nhằm loại bỏ những quy định không phù hợp Hoàn thiện pháp luật về xử lý tài sản không chỉ hướng tới mục tiêu có một hệ thống pháp luật cụ thể, rõ ràng, đơn giản và thuận lợi cho người dân trong quá trình áp dụng, mà còn phải hướng tới một hệ thống pháp luật linh hoạt, dễ tiếp cận, hài hòa giữa pháp luật quốc gia với pháp luật quốc tế.
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ TÀI SẢN CẦM CỐ, THẾ CHẤP, BẢO LÃNH ĐẢM BẢO THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI TỈNH QUẢNG TRỊ
Thực trạng pháp luật về xử lý tài sản cầm cố, thế chấp, bảo lãnh đảm bảo thực hiện hợp đồng tín dụng
2.1.1 Những kết quả đạt được
2.1.1.1 Quy định về xác định giá trị tài sản đảm bảo thực hiện hợp đồng tín dụng
Khung thể chế về xác định giá trị tài sản đảm bảo cho hợp đồng tín dụng bất động sản đã được hoàn thiện, với việc giá trị tài sản được xác định theo thỏa thuận giữa các bên Hoạt động xử lý tài sản nhằm quy đổi giá trị để thực hiện nghĩa vụ cho bên nhận bảo đảm, do đó, giá trị bất động sản thế chấp có ảnh hưởng lớn đến quyền lợi của các bên Bộ luật Dân sự 2005 không quy định nguyên tắc định giá tài sản mà chỉ đề cập đến việc xác định giá trị tài sản trong các giao dịch dân sự Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 cũng nêu ra các vấn đề liên quan đến định giá và thẩm định giá tài sản, nhưng không đưa ra nguyên tắc cụ thể Thông tư 02/2014/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP-BTC hướng dẫn về nguyên tắc và thỏa thuận định giá tài sản, góp phần làm rõ hơn quy định này.
3 Để xác định giá trị tài sản, qua nghiên cứu tác giả thấy rằng, tại điều điểm e Điều
Nghị định 17/2010/NĐ-CP quy định về bán đấu giá tài sản, nêu rõ rằng giá khởi điểm cho tài sản thuộc sở hữu của cá nhân hoặc tổ chức được xác định bởi chính tổ chức hoặc cá nhân đó, hoặc có thể ủy quyền cho bên khác thực hiện việc xác định giá khởi điểm.
Quy định rõ ràng về cơ chế xác định giá trị tài sản đảm bảo cho hợp đồng tín dụng liên quan đến bất động sản thông qua thẩm định giá là cần thiết Việc xác định giá trị bất động sản thế chấp thường gặp khó khăn do các bên không thống nhất, vì vậy, việc thuê tổ chức thẩm định giá được xem là giải pháp hiệu quả Tại thời điểm giao kết hợp đồng thế chấp, các bên có thể thỏa thuận lựa chọn một tổ chức thẩm định giá để đảm bảo quyền và lợi ích của mình.
Việc xác định lại giá trị tài sản đảm bảo thực hiện hợp đồng tín dụng, đặc biệt là bất động sản, cần tuân thủ cơ chế linh hoạt và tự do thỏa thuận Đây là một yếu tố quan trọng trong quá trình xử lý bất động sản thế chấp Tuy nhiên, quy trình định giá bất động sản không phải lúc nào cũng được thực hiện đúng theo quy định pháp luật, dẫn đến khả năng xảy ra sai sót từ các bên tham gia Đặc biệt, có thể xảy ra vi phạm nghiêm trọng từ các chấp hành viên trong việc định giá tài sản kê biên, gây ra sự sai lệch trong kết quả định giá.
2.1.1.2 Quy định về thỏa thuận xử lý tài sản tài sản đảm bảo thực hiện hợp đồng tín dụng
Cơ chế thỏa thuận nhận để cấn trừ nghĩa vụ là phương thức phổ biến tại Việt Nam, yêu cầu sự đồng thuận giữa các bên và có sự khác biệt về giá trị tài sản tại thời điểm giao kết và xử lý Do đó, các bên cần cân nhắc kỹ lưỡng khi thỏa thuận nhận tài sản đảm bảo thực hiện hợp đồng tín dụng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình Để đảm bảo tính khách quan, nên thuê một tổ chức thẩm định giá độc lập và chuyên nghiệp để định giá tài sản tại thời điểm xử lý.
Các tổ chức tín dụng thường nhận tài sản đảm bảo để thực hiện hợp đồng tín dụng, trong đó thời gian nắm giữ bất động sản và tỷ lệ vốn điều lệ được sử dụng để mua, đầu tư vào tài sản cố định phục vụ cho hoạt động kinh doanh là rất quan trọng Thực tế cho thấy nhiều tổ chức tín dụng đã thực hiện việc này nhằm đầu tư vào tài sản cố định, phục vụ cho mục đích kinh doanh hiệu quả.
Cũng có nhiều tổ chức nhận tài sản đảm bảo thực hiện hợp đồng tín dụng để sử dụng sau đó mới bán tài sản.
2.1.1.3 Quy định về bán đấu giá tài sản xử lý tài sản tài sản đảm bảo thực hiện hợp đồng tín dụng
Cơ chế mới về bán đấu giá tài sản đảm bảo thực hiện hợp đồng tín dụng đã được xây dựng, cho phép các bên thỏa thuận phương thức xử lý tài sản với tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp Bán đấu giá tài sản, một giao dịch dân sự lâu đời, giúp chủ sở hữu thu được giá trị cao hơn so với bán thông thường, từ đó nâng cao giá trị tài sản đảm bảo và khả năng thực hiện nghĩa vụ Phương thức này mang lại lợi ích cho cả hai bên, cho phép họ tự do thỏa thuận hoặc bán đấu giá tài sản nếu không đạt được thỏa thuận Tài sản đảm bảo có thể được bán đấu giá theo ý muốn của bên thế chấp hoặc theo sự thỏa thuận của các bên, với nguyên tắc tự do thỏa thuận được pháp luật tôn trọng.
Để đảm bảo việc bán đấu giá diễn ra thuận lợi, các bên cần lập văn bản thỏa thuận với những nội dung quan trọng như: đối chiếu các khoản nợ, mô tả hiện trạng tài sản đảm bảo thực hiện hợp đồng tín dụng, và sự đồng ý của bên bảo đảm trong việc bàn giao tài sản cho bên nhận bảo đảm để ký kết hợp đồng đấu giá Ngoài ra, cần xác định giá khởi điểm của tài sản, thỏa thuận về biên độ giá, cách xử lý khoản tiền thu được, cùng với các cam kết khác Người yêu cầu bán đấu giá cũng phải cung cấp đầy đủ giấy tờ tài liệu liên quan đến việc xử lý tài sản đảm bảo.
2.1.1.4 Quy định về xử lý tài sản đảm bảo thực hiện hợp đồng tín dụng theo con đường trọng tài, tòa án, thi hành án
Việc kê biên và giao bảo quản tài sản đảm bảo thực hiện hợp đồng tín dụng chỉ diễn ra khi bên có nghĩa vụ không tự nguyện thi hành án theo quy định của pháp luật dân sự Điều này được quy định trong cả Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 và Luật Thi hành án dân sự.
Luật sửa đổi bổ sung năm 2008 và 2014 không định nghĩa rõ ràng về kê biên tài sản đảm bảo thực hiện hợp đồng tín dụng Theo Điều 114 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, kê biên tài sản là biện pháp khẩn cấp tạm thời Hành động kê biên tài sản đảm bảo thực hiện hợp đồng tín dụng chủ yếu nhằm ngăn chặn việc tẩu tán hoặc hủy hoại tài sản bởi người giữ tài sản Thời điểm xử lý tài sản này được đề cập trong các luận văn liên quan đến thi hành án dân sự.
Quá trình kê biên tài sản đảm bảo thực hiện hợp đồng tín dụng được quy định rõ ràng bởi pháp luật Biên bản kê biên phải ghi đầy đủ thông tin như ngày tháng, tên của chấp hành viên, đương sự, người được ủy quyền, người lập biên bản, người làm chứng và các bên liên quan Ngoài ra, biên bản cần mô tả tình trạng của từng tài sản, diễn biến kê biên, yêu cầu của đương sự và ý kiến của người làm chứng Trước khi thực hiện kê biên, chấp hành viên phải thông báo cho đại diện chính quyền cấp xã hoặc tổ dân phố nơi diễn ra việc cưỡng chế ít nhất ba ngày.
Bảo quản tài sản thi hành án là một yếu tố quan trọng trong quá trình thi hành án nhằm đảm bảo giá trị tài sản không bị giảm sút hoặc thất thoát Đối với những tài sản có giá trị thấp hoặc dễ lưu thông, việc bảo quản có thể không cần thiết, nhưng nhiều loại tài sản khác cần được bảo quản trong thời gian dài Pháp luật quy định các phương thức bảo quản như giao tài sản cho người phải thi hành án, người thân thích của họ, cá nhân hoặc tổ chức có khả năng bảo quản, hoặc bảo quản tại kho của cơ quan thi hành án dân sự.
2.1.2 Những hạn chế, tồn tại
Nhiều quy định pháp luật về xử lý tài sản đảm bảo trong hợp đồng tín dụng hiện không còn phù hợp, dẫn đến mâu thuẫn và chồng chéo, cùng với những khoảng trống trong cách hiểu và áp dụng pháp luật Việc định giá tài sản trong ngân hàng thiếu khung pháp lý chung, khiến các ngân hàng chủ yếu tự thỏa thuận theo cách riêng Hệ thống pháp lý phức tạp về quyền sử dụng đất và những bất cập trong Luật Nhà ở đã tạo ra nhiều khó khăn trong việc thực hiện quyền xử lý tài sản bảo đảm của các tổ chức tín dụng.
- Tính pháp lý của văn bản điều chỉnh trong lĩnh vực này còn thấp (tầm Nghị định).
Hệ thống văn bản pháp luật hiện hành về đăng ký giao dịch bảo đảm đang gặp phải nhiều bất cập, thiếu sự đồng bộ và cụ thể Điều này dẫn đến tình trạng phân tán và chưa được pháp điển hoá trong một văn bản luật rõ ràng.
Hướng dẫn về nguyên tắc vật quyền bảo đảm hiện chưa đầy đủ và không phù hợp với thực tiễn giao dịch bảo đảm hiện nay Tài sản thế chấp rất đa dạng, bao gồm không chỉ vật mà còn quyền sử dụng đất, quyền sở hữu trí tuệ, khoản phải thu và quyền đòi nợ Bộ luật Dân sự tiếp cận các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ từ góc độ hợp đồng, dẫn đến việc các nguyên tắc pháp lý liên quan đến vật bảo đảm chưa được thể hiện một cách rõ ràng.
- Chưa có quy định cụ thể, chặt chẽ về các bước của quá trình tố tụng của Bộ luật
Thực tiễn áp dụng pháp luật về xử lý tài sản cầm cố, thế chấp, bảo lãnh đảm bảo thực hiện hợp đồng tín dụng tại tỉnh Quảng Trị
2.2.1 Trong hoạt động giải quyết tại các cơ quan tố tụng
Nghiên cứu cho thấy, theo ý kiến của các chuyên gia tại Quảng Trị, việc sử dụng tội phạm để thu nợ trong kinh doanh có tỷ lệ thành công lên đến 90% trong thời gian 15 đến 30 ngày, nhưng phải chấp nhận mất 40%-70% giá trị khoản nợ Ngược lại, nếu khởi kiện tại tòa án và qua cơ quan thi hành án, chủ nợ phải chi 20%-30% giá trị khoản nợ cùng các chi phí khác Trong khi đó, thuê dịch vụ thu nợ hợp pháp chỉ đạt tỷ lệ thành công 70%-80% và thời gian thu nợ từ 60 đến 90 ngày Việc khởi kiện để giải quyết tranh chấp giữa các doanh nghiệp cho thấy mâu thuẫn đã trở nên rất gay gắt.
Việc xử lý tranh chấp trong lĩnh vực tài chính trở nên phức tạp do sự không nhất quán trong nhận thức của các cơ quan tài phán, gây khó khăn cho các Tổ chức tín dụng trong việc thực hiện quyền xử lý tài sản bảo đảm Một ví dụ điển hình là việc không công nhận thế chấp tài sản bất động sản thông qua ủy quyền cho người thứ ba, mặc dù tài sản đủ điều kiện thế chấp và hợp đồng ủy quyền hợp pháp Theo Bộ luật dân sự 2015, cá nhân và pháp nhân có quyền thực hiện giao dịch qua người đại diện, do đó, việc thế chấp quyền sử dụng đất trong trường hợp này hoàn toàn hợp pháp Quyết định của Tòa phúc thẩm về việc hợp đồng thế chấp không có hiệu lực là không có cơ sở pháp lý, tạo ra tiền lệ xấu khi bên vay vi phạm nghĩa vụ trả nợ vẫn có thể từ chối giao tài sản cho tổ chức tín dụng.
Tòa án Quảng Trị không công nhận hợp đồng thế chấp của bên thứ ba dùng tài sản để bảo đảm nghĩa vụ của người khác, coi đó là hợp đồng bảo lãnh thế chấp Việc này dẫn đến việc Tòa án không chú trọng vào bản chất giao dịch, mà chỉ dựa vào yếu tố hình thức, làm mất quyền xử lý tài sản của tổ chức tín dụng Trong thực tiễn, tổ chức tín dụng thường không muốn đưa vụ việc ra tòa, nhưng khi xảy ra tranh chấp và bên bảo đảm không hợp tác, họ buộc phải khởi kiện yêu cầu khách hàng trả nợ Quy trình xét xử từ sơ thẩm đến phúc thẩm thường kéo dài, và nếu giao dịch bảo đảm không bị vô hiệu, việc thi hành án cũng gặp nhiều khó khăn.
Hiệu lực thi hành án kém và tốc độ triển khai chậm đã khiến các tổ chức tín dụng (TCTD) mất niềm tin, với vi phạm thời hạn luật định trong thi hành án diễn ra phổ biến nhưng thiếu chế tài xử lý Điều này dẫn đến thiệt hại nặng nề cho các TCTD do thu hồi nợ chậm và phát sinh chi phí phụ Luật Thi hành án dân sự rườm rà khi yêu cầu tòa án phải ra 12 loại văn bản và 17 quyết định liên quan đến thi hành án, làm cho quy trình giải quyết tranh chấp trở nên phức tạp Từ đó, cơ chế hiện tại đặt TCTD vào thế yếu, gây khó khăn trong việc xử lý tài sản bảo đảm.
2.2.2 Trong hoạt động thu giữ tài sản bảo đảm
Bất động sản, đặc biệt là quyền sử dụng đất, chiếm tỷ trọng lớn trong tài sản bảo đảm của các tổ chức tín dụng do giá trị ổn định và khả năng quản lý tốt Tuy nhiên, việc thu giữ tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất gặp nhiều khó khăn, tốn thời gian và chi phí, thường gây bế tắc vì đây là nơi sinh sống hoặc sản xuất của bên vay Nguyên nhân là do ý thức pháp luật kém của các bên liên quan và các quy định pháp luật chưa rõ ràng, thiếu thực tiễn Mặc dù có quy định về thu giữ tài sản bảo đảm, nhưng việc thực hiện vẫn gặp nhiều trở ngại, khiến cho người xử lý tài sản phải đối mặt với nhiều thách thức trong việc thu hồi tài sản.
2.2.3 Trong hoạt động định giá tài sản bảo đảm
Xử lý tài sản bảo đảm (TSBĐ) thông qua bán đấu giá là phương pháp đảm bảo quyền lợi cho các bên và xác định giá trị tài sản đúng với giá thị trường Tuy nhiên, nhiều tổ chức tín dụng chọn cách tự bán TSBĐ theo thỏa thuận hợp đồng để thu hồi nợ nhanh chóng, khiến việc xác định giá trị tài sản trở nên quan trọng Ngay cả trong trường hợp bán đấu giá, việc xác định giá khởi điểm cũng cần được chú trọng Mặc dù định giá chỉ mang tính tham khảo về mặt pháp lý, nhưng cần đảm bảo độ tin cậy để làm căn cứ xử lý Nếu giá trị tài sản không được xác định dựa trên căn cứ pháp lý rõ ràng, có thể dẫn đến tranh chấp kéo dài và cản trở việc chuyển nhượng tài sản, khiến tổ chức tín dụng không thu hồi được vốn Thực tế cho thấy, khi TSBĐ bị xử lý, các bên thường viện lý do tài sản bán thấp hơn giá thị trường để khiếu kiện, tạo ra tranh chấp giả nhằm ngăn cản tổ chức tín dụng thực hiện thủ tục sang tên và cấp Giấy chứng nhận cho bên mua.
2.2.4 Trong hoạt động bán tài sản bảo đảm
Trong thực tế cho vay, hầu hết các khoản nợ tồn đọng của các TCTD đều có tài sản bảo đảm (TSBĐ), chủ yếu là quyền sử dụng đất và công trình xây dựng Tuy nhiên, việc TCTD tự nhận các tài sản này để khấu trừ nợ vay gặp nhiều khó khăn, do không có nhu cầu sử dụng hoặc đã vượt quá tỷ lệ tài sản cố định so với vốn chủ sở hữu Hơn nữa, việc nhận và bán lại hoặc cho thuê tài sản cũng không được phép theo Luật các TCTD Khi TCTD tự bán tài sản, họ phải đối mặt với nhiều rào cản, bao gồm sự hợp tác của bên bảo đảm và quy trình thủ tục phức tạp từ cơ quan nhà nước Do đó, trong khuôn khổ pháp luật hiện hành, dù có thỏa thuận, TCTD vẫn chưa được toàn quyền xử lý TSBĐ khi khách hàng không trả nợ.
Việc áp dụng pháp luật xử lý tài sản cầm cố, thế chấp và bảo lãnh trong hợp đồng tín dụng tại Quảng Trị đang gặp nhiều vướng mắc và khó khăn Những vấn đề này chủ yếu xuất phát từ sự thiếu đồng bộ trong quy định pháp lý, nhận thức hạn chế của các bên liên quan về quyền và nghĩa vụ, cũng như sự bất cập trong thực tiễn thực thi Điều này không chỉ ảnh hưởng đến quyền lợi của các bên trong giao dịch tín dụng mà còn gây cản trở cho hoạt động kinh doanh và phát triển kinh tế địa phương.
Thực tiễn áp dụng pháp luật liên quan đến xử lý tài sản cầm cố, thế chấp và bảo lãnh để đảm bảo thực hiện hợp đồng tín dụng đã chỉ ra một số hạn chế xuất phát từ các nguyên nhân sau đây:
Pháp luật xử lý tài sản bảo đảm tại Việt Nam hiện còn nhiều bất cập, chồng chéo và thiếu rõ ràng, mặc dù đã có nhiều sửa đổi theo Hiến pháp 2013 và các văn bản luật liên quan như Luật Đất đai 2013 và Bộ luật Dân sự 2015 Các quy định chưa đầy đủ và thiếu hướng dẫn chi tiết, dẫn đến việc một số chủ thể lợi dụng sự không thống nhất này để thực hiện các cam kết vi phạm pháp luật, gây khó khăn cho Tòa án và các cơ quan giải quyết tranh chấp Đặc biệt, Bộ luật Dân sự 2015 đã loại bỏ quyền thu giữ tài sản bảo đảm của bên nhận bảo đảm, tạo ra một bước lùi trong quyền lợi của tổ chức tín dụng Do đó, pháp luật hiện hành vẫn chưa trao quyền năng tối đa cho tổ chức tín dụng trong việc xử lý tài sản bảo đảm, tạo điều kiện cho con nợ.
Hiện tại, chưa có quy định rõ ràng về việc xác định tư cách của bên thứ ba trong việc thế chấp tài sản để bảo lãnh cho nghĩa vụ của người phải thi hành án, cho dù là một phần hay toàn bộ tài sản.
Để tổ chức thi hành án đúng pháp luật, cần xác định rõ ai là người phải thi hành án và ai là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Hiện tại, pháp luật thi hành án dân sự chưa quy định cụ thể về việc hoãn thi hành án hoặc xử lý tài sản bảo đảm liên quan đến vụ án hình sự, nhất là khi tài sản này không bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Các quy định về xử lý tài sản hình thành trong tương lai và tài sản bảo đảm cho các dự án vẫn chưa khả thi, dẫn đến khó khăn trong việc kê biên tài sản Thêm vào đó, quy định về lãi phạt và lãi chậm thi hành án trong hợp đồng tín dụng còn mơ hồ, gây ra tranh chấp giữa các bên về mức lãi suất Mặc dù pháp luật hiện hành bảo vệ quyền lợi của người mua trúng đấu giá, nhưng vẫn thiếu các quy định cụ thể về trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong việc bảo vệ quyền này.
Luật Thi hành án dân sự 103 đã cập nhật quy định về cưỡng chế giao tài sản cho người trúng đấu giá Tuy nhiên, thực tế cho thấy việc giao tài sản cho người mua vẫn gặp khó khăn do thiếu sự đồng thuận từ các cơ quan liên quan Bên cạnh đó, việc áp dụng Nghị quyết 42/2017 cũng ảnh hưởng đến quyền lợi của người mua trong quá trình chuyển quyền và cấp giấy tờ.
Quy định về nghĩa vụ kê khai của người phải thi hành án hiện đang gặp khó khăn trong việc thực thi, đặc biệt là trong việc xác định thứ tự ưu tiên thanh toán tiền thi hành án và trách nhiệm nộp thuế, phí liên quan đến chuyển quyền sở hữu Điều 74 của Luật THADS quy định về xử lý tài sản chung, đồng thời giao cho Chấp hành viên nhiệm vụ xác định, phân chia và xử lý tài sản chung của vợ chồng cũng như tài sản chung của hộ gia đình theo quy định tại điểm c khoản 2.
Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết về Luật Thi hành án dân sự, nhưng thực tiễn thi hành vẫn gặp nhiều khó khăn và rủi ro cho Chấp hành viên Việc ủy thác thi hành án cho cơ quan thi hành án dân sự ở nơi khác chỉ có thể thực hiện sau khi xử lý xong tài sản kê biên tại địa bàn, trong khi tình trạng tài sản thi hành án bán nhiều lần không thành vẫn diễn ra, dẫn đến việc thi hành án kéo dài mặc dù còn có tài sản ở địa bàn khác.