CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KHIẾU NẠI VÀ TỐ CÁO
KHÁI NIỆM VÀ QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ KHIẾU NẠI, TỐ CÁO VÀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO
VỀ KHIẾU NẠI, TỐ CÁO VÀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO
1 Khái niệm về khiếu nại, tố cáo Ở nước ta, từ trước đến nay, đều ghi nhận khiếu nại, tố cáo là một trong những quyền cơ bản của công dân, trong đó Hiến pháp 1992 ghi nhận tại Điều 74: “Công dân có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào Việc khiếu nại, tố cáo phải được cơ quan nhà nước xem xét và giải quyết trong thời hạn pháp luật quy định …” Quy định này đã được Hiến pháp 2013 sửa đổi, bổ sung tại Điều 30, cụ thể là: “ Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự theo quy định của pháp luật. Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác”.
Khiếu nại và tố cáo là hai khái niệm khác nhau, và việc phân biệt chúng rất quan trọng để công dân thực hiện quyền của mình một cách đúng đắn Điều này không chỉ giúp người dân gửi đơn khiếu nại, tố cáo đến đúng cơ quan có thẩm quyền mà còn hỗ trợ các cơ quan nhà nước trong việc giải quyết nhanh chóng và chính xác các vụ việc này Nhằm nâng cao hiệu quả trong việc giải quyết khiếu nại và tố cáo, vào ngày 11 tháng 11 năm 2011, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật Khiếu nại và Luật Tố cáo.
Hai luật mới có hiệu lực từ ngày 01/7/2012, thay thế Luật Khiếu nại, tố cáo, đánh dấu lần đầu tiên khiếu nại và tố cáo được tách thành hai luật riêng biệt Các luật này quy định rõ ràng về khái niệm, thẩm quyền, trình tự và thủ tục giải quyết, thể hiện sự khác biệt đáng kể trong cách thức xử lý khiếu nại và tố cáo.
Theo Luật khiếu nại 2011, khiếu nại là hành động của công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính của cơ quan nhà nước, khi có lý do cho rằng các quyết định hoặc hành vi đó vi phạm pháp luật và xâm phạm quyền lợi hợp pháp của họ.
Khiếu nại là yêu cầu của cá nhân hoặc tổ chức bị ảnh hưởng trực tiếp bởi quyết định hành chính, hành vi hành chính, hoặc quyết định kỷ luật Đề nghị này thường xuất phát từ nhận thức của người khiếu nại khi họ cảm thấy quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm bởi các quyết định hoặc hành vi không đúng pháp luật.
Theo khoản 3 điều 2 Luật khiếu nại, đối tượng khiếu nại bao gồm công dân, cơ quan, tổ chức và cán bộ công chức, trong đó công dân Việt Nam thường là chủ thể khiếu nại chủ yếu Cá nhân và tổ chức nước ngoài cũng có quyền khiếu nại Quyền khiếu nại được thực hiện qua người đại diện hợp pháp, thường là thủ trưởng cơ quan hoặc người đứng đầu tổ chức, có thể ủy quyền cho người khác theo quy định pháp luật Người được ủy quyền có trách nhiệm thực hiện khiếu nại đúng theo nội dung được ủy quyền.
- Về đối tượng của khiếu nại, là quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật cán bộ, công chức.
Quyết định hành chính là một văn bản do cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền ban hành, nhằm giải quyết một vấn đề cụ thể trong quản lý hành chính và áp dụng cho một hoặc một số đối tượng nhất định Theo khoản 8 điều 2 của Luật Khiếu nại năm 2011, quyết định này chỉ bao gồm các quyết định hành chính cá biệt, được thể hiện bằng văn bản và do cơ quan hành chính có thẩm quyền phát hành.
Hành vi hành chính, theo khoản 9 điều 2 Luật Khiếu nại 2011, được hiểu là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan đó thực hiện hoặc không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định pháp luật Những hành vi này có thể xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân Ví dụ, khi cơ quan công chứng từ chối yêu cầu công chứng hợp pháp của công dân, hành vi không thực hiện nhiệm vụ này sẽ trở thành đối tượng khiếu nại.
Quyết định kỷ luật là văn bản của người đứng đầu cơ quan, tổ chức nhằm áp dụng hình thức kỷ luật đối với cán bộ, công chức thuộc quyền quản lý, theo quy định pháp luật Tuy nhiên, quyết định này không áp dụng cho người lao động làm công ăn lương theo bộ luật lao động Bên cạnh đó, khái niệm tố cáo cũng cần được hiểu rõ trong bối cảnh này.
Theo Khoản 1 Điều 2 Luật Khiếu nại năm 2011, tố cáo là hành động mà công dân thông qua các thủ tục quy định của luật để thông báo cho cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền về các hành vi vi phạm pháp luật Những hành vi này có thể gây thiệt hại hoặc đe dọa đến lợi ích của Nhà nước, cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan và tổ chức.
Công dân có quyền tố cáo hành vi vi phạm pháp luật, bất kể họ có bị ảnh hưởng trực tiếp hay không Khi thực hiện quyền này, công dân sẽ thiết lập quan hệ pháp luật với cơ quan nhà nước và phải chịu trách nhiệm về thông tin cung cấp Nội dung tố cáo rất đa dạng, bao gồm các hành vi trái pháp luật của cán bộ, công chức trong thực hiện nhiệm vụ công vụ, cũng như những sai phạm trong quản lý của các cơ quan nhà nước Thêm vào đó, công dân còn có thể tố cáo các hành vi vi phạm đạo đức và lối sống của cán bộ, công chức.
Quyền tố cáo của công dân không chỉ thể hiện sự làm chủ trong việc xây dựng và củng cố bộ máy nhà nước, mà còn góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước và xã hội Thực hiện quyền này giúp xác định trách nhiệm của công dân trong việc giám sát hoạt động của nhà nước, nhằm xây dựng một bộ máy nhà nước trong sạch và vững mạnh, đồng thời cải thiện đội ngũ cán bộ công chức, bảo đảm họ thực sự là "người đại biểu của nhân dân" Tuy nhiên, công dân thường phải đối mặt với rủi ro như bị hành hung, đe dọa và trả thù khi thực hiện quyền tố cáo Để bảo vệ quyền lợi của người tố cáo, trong những năm qua, luật Khiếu nại, Tố cáo đã được sửa đổi và bổ sung, quy định rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan, tạo điều kiện thuận lợi cho công dân thực hiện quyền của mình.
Quyền khiếu nại và tố cáo là những quyền chính trị cơ bản của công dân, giúp bảo vệ và thực hiện các quyền lợi hợp pháp khác, đồng thời bảo đảm lợi ích của nhà nước và xã hội Những quyền này cũng cung cấp thông tin quan trọng về tình trạng pháp chế trong quản lý hành chính, củng cố mối liên hệ giữa nhà nước và công dân Qua đó, quyền khiếu nại và tố cáo phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, thể hiện bản chất tốt đẹp của Nhà nước ta - Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
2 Quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo
Nhà nước dân chủ nhân dân của chúng ta luôn coi nhân dân là mục tiêu và động lực chính trong mọi hoạt động Đảng và Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân phát huy quyền làm chủ, thông qua quyền khiếu nại và tố cáo Nhờ đó, người dân có thể phát hiện những sai phạm, thiếu sót của cán bộ, từ đó đề xuất và kiến nghị nhằm hoàn thiện hoạt động quản lý nhà nước.
Trong việc giải quyết khiếu nại và tố cáo, cán bộ, công chức và các cơ quan nhà nước cần phải xử lý nhanh chóng và hiệu quả các yêu cầu của nhân dân Điều này không chỉ giúp người dân hiểu rõ quyền lợi dân chủ của mình mà còn khuyến khích họ sử dụng quyền đó một cách đúng đắn Theo quan điểm của Đảng và Bác Hồ, khiếu nại và tố cáo là quyền lợi chính đáng của nhân dân, phản ánh bản chất dân chủ của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Đây cũng là một trong những cách thức thể hiện quyền giám sát của nhân dân đối với bộ máy nhà nước.
MỤC ĐÍCH, Ý NGHĨA CỦA VIỆC GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO
Luật khiếu nại, tố cáo quy định rõ nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn có trách nhiệm tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định Việc kiểm tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo là hoạt động thiết yếu của các cơ quan quản lý nhà nước, giúp bảo vệ quyền lợi chính đáng của công dân và nâng cao trách nhiệm quản lý Qua công tác này, các cơ quan thanh tra có thể nắm bắt tình hình khiếu nại, tố cáo, từ đó phát hiện thiếu sót và vướng mắc trong thực hiện chính sách pháp luật, kịp thời đề xuất sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật.
THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO CỦA CHÍNH QUYỀN CẤP CƠ SỞ
1 Thẩm quyền giải quyết khiếu nại
Theo Khoản 11 Điều 2 của Luật Khiếu nại, giải quyết khiếu nại được hiểu là quá trình thụ lý, xác minh, kết luận và ra quyết định về khiếu nại.
Giải quyết khiếu nại có thể diễn ra qua nhiều cấp độ khác nhau, bắt đầu từ cơ sở Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn là người có thẩm quyền giải quyết lần đầu các vụ việc khiếu nại Theo Điều 17 của Luật Khiếu nại, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã và thủ trưởng các cơ quan thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có quyền giải quyết khiếu nại liên quan đến quyết định và hành vi hành chính của họ hoặc của những người mà họ quản lý trực tiếp.
Như vậy, thẩm quyền giải quyết khiếu nại của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã bao gồm 2 loại vụ việc:
Các khiếu nại liên quan đến quyết định hành chính và hành vi hành chính của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã thường xuất phát từ các quyết định bằng văn bản hoặc hành vi trong quá trình thi hành công vụ mà người khiếu nại cho rằng vi phạm pháp luật, xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Khiếu nại là hành động phản ánh về việc làm của cán bộ, nhân viên thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được giao bởi Ủy ban nhân dân hoặc Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã.
2 Thẩm quyền giải quyết tố cáo
Theo Khoản 7 Điều 2 Luật Tố cáo, việc giải quyết tố cáo bao gồm quá trình tiếp nhận, xác minh và kết luận nội dung tố cáo, cũng như xử lý các tố cáo bởi người có thẩm quyền.
Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn có thẩm quyền giải quyết tố cáo về hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức thuộc quyền quản lý trực tiếp Việc giải quyết tố cáo có thể diễn ra qua nhiều cấp khác nhau, theo quy định tại Khoản 1, Điều 13 Luật Tố cáo.
Như vậy, thẩm quyền giải quyết tố cáo của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã bao gồm các loại vụ việc sau:
Cơ quan hoặc tổ chức có thẩm quyền quản lý người bị tố cáo sẽ phải chịu trách nhiệm giải quyết các hành vi vi phạm pháp luật mà người đó thực hiện.
Người đứng đầu cơ quan, tổ chức có trách nhiệm giải quyết các tố cáo liên quan đến hành vi vi phạm quy định về nhiệm vụ, công vụ của nhân viên thuộc cơ quan, tổ chức mình.
Người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp có trách nhiệm giải quyết các tố cáo về hành vi vi phạm quy định liên quan đến nhiệm vụ và công vụ của người đứng đầu cơ quan, tổ chức dưới quyền.
Cơ quan nhà nước có trách nhiệm giải quyết các tố cáo liên quan đến hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực chức năng quản lý của mình.
* Những vụ việc sau không thuộc thẩm quyền giải quyết tố cáo của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã đó là:
Trong trường hợp có tố cáo liên quan đến hành vi vi phạm nhiệm vụ công vụ của Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã, thẩm quyền giải quyết vụ việc này không thuộc về Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã, mà thuộc về Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện.
Các tố cáo về hành vi phạm tội không thuộc thẩm quyền của các cơ quan hành chính nhà nước, bao gồm cả Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã Khi nhận được các tố cáo này, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã cần chuyển ngay cho cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền giải quyết theo đúng thời hạn quy định.
Khi xem xét và giải quyết tố cáo, nếu Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã phát hiện hành vi vi phạm nhiệm vụ, công vụ có dấu hiệu tội phạm, họ phải chuyển vụ việc cùng các thông tin, tài liệu liên quan cho cơ quan chức năng để xử lý theo đúng quy định của pháp luật.
TRÌNH TỰ, THỦ TỤC GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO CỦA CHÍNH QUYỀN CẤP CƠ SỞ
1 Trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại
Trình tự và thủ tục giải quyết khiếu nại ở cấp xã (giải quyết khiếu nại lần đầu) được quy định bởi Luật Khiếu nại số 02/2011/QH13, Nghị định số 75/2012/NĐ-CP và Thông tư số 07/2013/TT-TTCP Những văn bản này hướng dẫn chi tiết quy trình giải quyết khiếu nại hành chính, đảm bảo quyền lợi cho công dân trong việc khiếu nại các quyết định hành chính.
Theo quy định này, quy trình giải quyết khiếu nại gồm 3 bước:
- Bước 1: Thụ lý, chuẩn bị xác minh nội dung khiếu nại, bao gồm
+ Thụ lý giải quyết khiếu nại, thông báo việc thụ lý ( hoặc không thụ lý);
+ Kiểm tra lại quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật cán bộ, công chức bị khiếu nại;
+ Quyết định xác minh nội dung khiếu nại;
+ Xây dựng và phê duyệt kế hoạch xác minh nội dung khiếu nại.
- Bước 2: Tiến hành xác minh nội dung khiếu nại, bao gồm
+ Công bố quyết định xác minh nội dung khiếu nại;
+ Làm việc trực tiếp với người khiếu nại, người đại diện, người được ủy quyền, luật sư, trợ giúp viên pháp lý của người khiếu nại;
+ Làm việc trực tiếp với người bị khiếu nại;
+ Yêu cầu cơ quan, tố chức, đơn vị, cá nhân có liên quan cung cấp thông tin, tài liệu, bằng chứng;
+ Tiếp nhận, xử lý thông tin, tài liệu, bằng chứng
+ Làm việc với các bên trong quá trình xác minh nội dung khiếu nại;
+ Tạm đình chỉ việc thi hành quyết định hành chính bị khiếu nại (nếu cần thiết); + Báo cáo kết quả xác minh nội dung khiếu nại;
+ Đình chỉ việc giải quyết khiếu nại;
+ Tham khảo ý kiến tư vấn trong việc giải quyết khiếu nại (nếu cần thiết);
+ Tổ chức đối thoại (nếu yêu cầu của người khiếu nại và kết quả xác minh còn khác nhau).
- Bước 3: Kết thúc giải quyết khiếu nại, gồm
+ Ban hành, gửi, công khai quyết định giải quyết khiếu nại;
+ Lập, quản lý hồ sơ giải quyết khiếu nại.
2 Trình tự, thủ tục giải quyết tố cáo
Trình tự và thủ tục giải quyết tố cáo ở cấp xã được quy định bởi Luật Tố cáo số 03/2011/QH13, Nghị định số 76/2012/NĐ-CP, và Thông tư số 06/2013/TT-TTCP Các văn bản này hướng dẫn chi tiết về quy trình giải quyết tố cáo, đảm bảo tính minh bạch và hiệu quả trong việc xử lý các khiếu nại của công dân tại cấp xã.
Theo quy định này, quy trình giải quyết tố cáo gồm 3 bước:
- Bước 1: Thụ lý, chuẩn bị xác minh nội dung tố cáo gồm các hoạt động cơ bản như
+ Thụ lý, chuẩn bị xác minh nội dung như tiếp nhận tố cáo, kiểm tra điều kiện thụ lý tố cáo;
+ Ban hành quyết định thụ lý và thành lập Tổ xác minh;
+ Thông báo việc thụ lý tố cáo, kế hoạch xác minh nội dung tố cáo.
- Bước 2: Tiến hành xác minh nội dung tố cáo, gồm
+ Thông báo quyết định thành lập Tổ xác minh;
+ Làm việc trực tiếp với người tố cáo, người bị tố cáo;
+ Yêu cầu cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân liên quan cung cấp thông tin, tài liệu, bằng chứng;
+ Thu thập, xử lý thông tin, tài liệu, bằng chứng liên quan đến nội dung tố cáo; + Xác minh thực tế;
+ Gia hạn giải quyết tố cáo ( nếu cần thiết);
+ Báo cáo kết quả xác minh nội dung tố cáo và tham khảo ý kiến tư vấn ( khi xét thấy cần thiết).
- Bước 3: Kết thúc giải quyết tố cáo, gồm các hoạt động
+ Thông báo dự thảo kết luận nội dung tố cáo;
+ Kết luận nội dung tố cáo;
+ Việc xử lý tố cáo của người giải quyết tố cáo;
Công khai kết luận về nội dung tố cáo, quyết định xử lý các hành vi vi phạm bị tố cáo và thông báo kết quả giải quyết tố cáo cho người đã tố cáo là những bước quan trọng nhằm đảm bảo tính minh bạch và trách nhiệm trong quá trình xử lý các vấn đề liên quan.
+ Lập, quản lý hồ sơ giải quyết tố cáo.
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN XÃ NGHĨA SƠN TRONG THỜI GIAN QUA
MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM, TÌNH HÌNH
1 Đặc điểm tình hình chung
Nghĩa Sơn là một xã được tách ra từ Ủy ban thị trấn Nông trường 19/5 theo Nghị định 83/NDD-CP ngày 25 tháng 11 năm 1995 Xã nằm ở phía Tây Bắc huyện Nghĩa Đàn, cách trung tâm hành chính huyện 14 km, với tổng diện tích 1.640 ha Nghĩa Sơn có 896 hộ dân, tổng cộng 3.875 nhân khẩu, được tổ chức thành 09 khu dân cư Về địa giới hành chính, xã tiếp giáp với xã Nghĩa Yên ở phía Tây và xã Nghĩa Lâm ở phía Đông, Nam, Bắc.
Nhân dân địa phương chủ yếu là cán bộ, công nhân viên chức đã nghỉ hưu cùng với con em họ, tạo nên một trình độ dân trí đồng đều Họ tự giác chấp hành các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước Ngành nghề chính của cộng đồng là kinh doanh dịch vụ và sản xuất nông nghiệp.
An ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội luôn được duy trì ổn định Hàng năm, Đảng ủy và chính quyền xã chú trọng lãnh đạo, chỉ đạo các ngành và cấp thực hiện hiệu quả các Chỉ thị, Nghị quyết từ cấp trên cũng như địa phương.
Cơ cấu tổ chức bộ máy xã Nghĩa Sơn bao gồm Đảng ủy, HĐND, UBND, cùng với các đoàn thể chính trị - xã hội như Ủy ban MTTQ, Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, và Đoàn TNCS Hồ Chí Minh Ngoài ra, còn có các tổ chức xã hội nghề nghiệp như Hội Người cao tuổi, Hội Khuyến học, Hội làm vườn, Hội Cựu TNXP, và Hội Cựu giáo chức.
Tổng số cán bộ, công chức tại xã là 21 người Về trình độ chuyên môn có 13 đ/c Đại học chiếm 60%; có 6 đ/c trung cấp chiếm 20%.
2 Về lãnh đạo, chỉ đạo công tác tiếp dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo
Công tác tiếp dân và giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo được chính quyền địa phương chú trọng và chỉ đạo thực hiện kịp thời UBND xã đã triển khai Nghị định số 89/NĐ-CP ngày 07/8/1997 về Quy chế tổ chức tiếp công dân tại bộ phận một cửa từ tháng 7 năm 2007 Các quy định về tiếp công dân được niêm yết công khai tại trụ sở UBND xã và phòng tiếp công dân để đảm bảo tính minh bạch và dễ dàng tiếp cận cho người dân.
Việc giải quyết đơn thư khiếu nại và tố cáo được thực hiện theo Quyết định số 65/2011/QĐ-UBND ngày 11/8/2011 của UBND xã Nghĩa Sơn Quy trình này bao gồm việc phân công cán bộ trực theo định kỳ, ghi chép đầy đủ vào sổ sách, và quy định lịch tiếp dân vào các ngày thứ 2, 4, 6 hàng tuần.
Thành phần tham gia tiếp dân và giải quyết các đơn thư khiếu nại, tố cáo bao gồm các cán bộ thuộc ban ngành chuyên môn của UBND xã, như chánh, phó chủ tịch UBND xã, văn phòng, tư pháp, địa chính và chỉ huy trưởng quân sự Các đơn vị này phối hợp chặt chẽ để đảm bảo quyền lợi và giải quyết kịp thời các vấn đề của công dân.
TT HĐND xã và trởng các đoàn thể chính trị xã hội.
NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC VÀ NGUYÊN NHÂN
1 Đặc điểm ảnh hưởng đến tình hình khiếu nại, tố cáo trên địa bàn
Trong những năm qua, quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn đã thúc đẩy sự phát triển cơ sở hạ tầng như đường, trường, điện, và các công trình phúc lợi Tuy nhiên, chính sách đền bù giải phóng mặt bằng cho các dự án lớn vẫn chưa đồng bộ và thỏa đáng, đặc biệt từ năm 2009 khi dự án chăn nuôi bò sữa quy mô công nghiệp tại huyện Nghĩa Đàn được triển khai Tình trạng đơn thư kiến nghị và khiếu nại gia tăng do đền bù chưa hợp lý, nhà đầu tư chậm thực hiện cam kết, cùng với các tác động tiêu cực như ô nhiễm môi trường và bụi bặm ảnh hưởng đến đời sống người dân.
2 Những kết quả đạt được
Đảng ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân xã đã nhận thức rõ vai trò quan trọng trong việc tiếp dân và giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo Các ban ngành đoàn thể và Hội đồng tiếp công dân được chỉ đạo triển khai hiệu quả công tác này, nhằm giải quyết dứt điểm các vụ việc Điều này không chỉ ngăn chặn tình trạng phát sinh điểm nóng mà còn góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn.
Trong quá trình giải quyết khiếu nại, tố cáo, Ủy ban nhân dân xã cần đảm bảo thực hiện đúng thẩm quyền và tuân thủ các quy định về trình tự, thủ tục cũng như thời gian giải quyết.
Từ năm 2009 đến giữa năm 2014, các cơ quan, ban ngành cấp xã và UBND các xã đã tiếp nhận tổng cộng 137 đơn khiếu nại, tố cáo, kiến nghị và phản ánh.
Trong năm qua, UBND xã đã tiếp nhận 48 đơn khiếu nại, tố cáo và đã giải quyết 46 vụ việc, đạt tỷ lệ 95,8% Đồng thời, 89 đơn đã được chuyển đến các cơ quan, đơn vị liên quan, trong đó 72 đơn đã nhận được phản hồi, đạt tỷ lệ 80,8% Qua quá trình giải quyết, UBND xã đã kiến nghị thu hồi cho Nhà nước và công dân tổng số tiền 25.000.000 đồng, xử lý hành chính 6 cá nhân, kỷ luật 1 người, và chuyển 2 vụ việc đến cơ quan điều tra để xem xét trách nhiệm hình sự đối với 2 người.
- Năm 2009: tiếp nhận 03 đơn KNTC, đã giải quyết 03 đơn (đạt tỷ lệ 100%). Qua giải quyết đơn thư xử phạt vi phạm hành chính 1 người.
Năm 2010, cơ quan đã tiếp nhận 12 đơn thư, trong đó có 09 đơn khiếu nại, tố cáo và kiến nghị thuộc thẩm quyền Đến nay, đã giải quyết 08 đơn, đạt tỷ lệ 90% Qua quá trình giải quyết, đã thu hồi cho cá nhân số tiền 25.000.000đ và xử phạt vi phạm hành chính đối với 02 người.
1 vụ việc sang cơ quan Điều tra Công an huyện để làm rõ.
- Năm 2011: tiếp nhận 18 đơn thư, trong đó có 07 đơn khiếu nại, tố cáo, kiến nghị thuộc thẩm quyền, đã giải quyết 07 đơn (đạt tỷ lệ 100%)
Năm 2012, cơ quan đã tiếp nhận 21 đơn thư, bao gồm 13 đơn khiếu nại, tố cáo và kiến nghị thuộc thẩm quyền Trong số đó, 12 đơn đã được giải quyết, đạt tỷ lệ 90% Qua quá trình giải quyết, đã xử phạt vi phạm hành chính một cá nhân.
Năm 2013, đơn vị đã tiếp nhận 77 đơn thư kiến nghị, trong đó có 12 đơn khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền và đã giải quyết toàn bộ 12 đơn, đạt tỷ lệ 100% Qua quá trình giải quyết, đã xử phạt vi phạm hành chính 02 cá nhân, kỷ luật 01 trường hợp (đồng chí Phó trưởng Công an xã vì hành vi đánh người gây thương tích) và chuyển 1 vụ việc sang cơ quan Điều tra Công an huyện để làm rõ.
Tình hình khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của công dân tại xã Nghĩa Sơn chủ yếu xoay quanh các vấn đề như tranh chấp đất đai, đền bù giải phóng mặt bằng và chính sách xã hội Những kết quả từ việc xử lý các vụ việc này đã đóng góp quan trọng vào việc duy trì ổn định an ninh, chính trị, đồng thời thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội trong khu vực trong những năm qua.
NHỮNG MẶT HẠN CHẾ, VÀ NGUYÊN NHÂN
Công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân đã có nhiều chuyển biến tích cực và hiệu quả, nhờ vào sự chỉ đạo quyết liệt của Đảng ủy và UBND xã Việc thực hiện Luật Khiếu nại và Luật Tố cáo được tổ chức chặt chẽ, đồng thời tuân thủ nghiêm Chỉ thị 09/CT-TW của Ban bí thư Trung ương Đảng và Chỉ thị 26 của Thủ tướng Chính phủ, nhằm giải quyết kịp thời các vấn đề khiếu nại, tố cáo của công dân, đặc biệt là nông dân.
- Sự vào cuộc của Đảng ủy xã, HĐND, UBND xã trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trên địa bàn xã
Hội đồng tiếp công dân và công chức Tư pháp xã đã hỗ trợ UBND xã hiệu quả trong việc giải quyết khiếu nại và tố cáo ngay từ giai đoạn đầu, nhằm ngăn chặn tình trạng đơn thư vượt cấp và kéo dài, góp phần duy trì an ninh trật tự tại địa phương.
Ban chỉ đạo Phổ biến tuyên truyền giáo dục pháp luật của xã, cùng với một số cán bộ và đảng viên, đã thực hiện hiệu quả công tác tuyên truyền và giáo dục pháp luật Hoạt động này đã giúp người dân nâng cao nhận thức về quyền và nghĩa vụ của họ trong việc tham gia khiếu nại và tố cáo.
Cán bộ giải quyết khiếu nại, tố cáo (KNTC) được trang bị đầy đủ năng lực chuyên môn và phẩm chất chính trị, đồng thời thường xuyên được bồi dưỡng để phù hợp với thực tiễn Việc tổ chức các khóa tập huấn nâng cao trình độ nghiệp vụ giúp nâng cao hiệu quả công tác ngày càng rõ rệt.
Cơ sở vật chất và trang thiết bị phục vụ công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo luôn được chú trọng, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân Điều này không chỉ thể hiện sự nghiêm túc của cơ quan nhà nước mà còn mang lại cảm giác gần gũi và ấm cúng cho người dân khi đến trình bày ý kiến và phản ánh của mình.
III NHỮNG HẠN CHẾ VÀ NGUYÊN NHÂN
Mặc dù công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân tại xã Nghĩa Sơn đã đạt được nhiều ưu điểm trong những năm qua, nhưng vẫn tồn tại một số hạn chế và khuyết điểm cần được khắc phục.
Quản lý, phân loại và xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo tại cơ sở hiện còn thiếu chặt chẽ và chưa kịp thời theo quy định Nhiều vụ việc khiếu nại, tố cáo chưa được giải quyết đúng trình tự và thủ tục Hơn nữa, việc kết hợp giữa giải quyết khiếu nại, tố cáo và công tác hòa giải ở cơ sở chưa hiệu quả, dẫn đến tình trạng công dân vẫn tiếp tục khiếu nại sau khi đã có quyết định giải quyết.
Trong quá trình giải quyết khiếu nại và tố cáo, việc nể nang và ngại va chạm đã ảnh hưởng đến hiệu quả tổ chức đối thoại, dẫn đến sự chậm trễ Hơn nữa, việc xử lý thu hồi sai phạm kinh tế và xử lý cán bộ chưa được thực hiện nghiêm túc và dứt điểm, tạo điều kiện cho công dân lợi dụng tình hình để khiếu nại và tố cáo vượt cấp.
Công tác xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo (KNTC) mặc dù đã nhận được sự quan tâm từ các cấp, ngành và cơ quan, nhưng đội ngũ cán bộ thực hiện công việc này còn thiếu đồng đều và chưa được đào tạo bài bản về nghiệp vụ Họ chủ yếu dựa vào kinh nghiệm thực tế, dẫn đến khó khăn trong việc xác định đúng nội dung đơn để đưa ra phương án giải quyết Nhiều vụ việc cho thấy cán bộ tiếp nhận và xử lý sai bản chất nội dung đơn, gây ra sai sót trong việc tham mưu cho lãnh đạo, từ đó dẫn đến vi phạm quy trình và thủ tục.
Do tính chất phức tạp của đơn thư khiếu nại, tố cáo liên quan đến nhiều chủ thể quản lý, quá trình giải quyết thường đòi hỏi sự phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị Tuy nhiên, việc phối hợp này đôi khi chưa hiệu quả, với tình trạng các cơ quan có liên quan không tham gia góp ý kiến trong quá trình xử lý vụ việc, dẫn đến hiện tượng đùn đẩy trách nhiệm, chuyển đơn lòng vòng và trả lời thiếu thống nhất.
Các cơ quan, đơn vị đã chủ trì giải quyết các vụ việc khiếu nại, tố cáo; tuy nhiên, việc báo cáo lên cấp trên không kịp thời và giải quyết chưa đúng thủ tục, dẫn đến khó khăn trong việc theo dõi và đôn đốc.
Việc tổ chức đối thoại thường mang tính hình thức, thiếu sự lắng nghe và giải thích rõ ràng cho người khiếu nại, dẫn đến tình trạng nhiều người dân vẫn tiếp tục khiếu nại lên cấp trên, mặc dù đơn đã được giải quyết đúng thẩm quyền.
Việc thực hiện các quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo (KNTC) của cá nhân sau khi đã có kết luận nhưng không được thực hiện nghiêm túc đang gặp nhiều khó khăn Mặc dù có quy định rõ ràng, nhưng thiếu chế tài xử lý khiến việc buộc các đối tượng thực hiện các quyết định này trở nên phức tạp và thiếu hiệu quả.
Một số chính sách liên quan đến quyền và lợi ích của công dân thường thay đổi, nhưng công tác tuyên truyền chưa được thực hiện một cách sâu rộng, dẫn đến việc người dân chưa nắm rõ và giám sát hiệu quả các chủ trương này.
Công tác tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật về quyền khiếu nại, tố cáo cần được thực hiện thường xuyên hơn ở các khu dân cư Việc này nhằm nâng cao nhận thức của công dân, giúp họ hiểu rõ quyền lợi và nghĩa vụ của mình, từ đó hạn chế tình trạng khiếu kiện không đúng pháp luật do thiếu hiểu biết.
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN XÃ NGHĨA SƠN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Việc thực hiện Luật Khiếu nại và Luật Tố cáo không chỉ là trách nhiệm của cơ quan nhà nước mà còn là nghĩa vụ của toàn cộng đồng Để cải thiện chất lượng giải quyết khiếu nại và tố cáo tại xã Nghĩa Sơn trong bối cảnh hiện nay, cần triển khai một số giải pháp cụ thể.
1 Cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng ủy, sự giám sát của HĐND và chỉ đạo thường xuyên của UBND xã
Cần phát huy sức mạnh của toàn bộ hệ thống chính trị trong việc giải quyết đơn thư, khiếu nại và tố cáo Vai trò và trách nhiệm của lãnh đạo cấp ủy, chính quyền địa phương là rất quan trọng trong việc chỉ đạo và xử lý các vấn đề này Cấp ủy và chính quyền cần xây dựng kế hoạch và chương trình cụ thể, đồng thời phân công trách nhiệm rõ ràng để đảm bảo hiệu quả trong việc giải quyết đơn thư khiếu nại và tố cáo trên địa bàn.
Để nâng cao sự lãnh đạo của Đảng ủy, cần có Nghị quyết chuyên đề về giải quyết khiếu nại, tố cáo tại xã, nhằm định hướng và lãnh đạo thống nhất giữa các ban ngành, đoàn thể Tăng cường giáo dục và quản lý cán bộ, đảng viên, đồng thời đấu tranh chống tham ô, tham nhũng để giảm thiểu nguyên nhân phát sinh khiếu nại Đảng ủy cần kiểm tra và tổng kết việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, chỉ đạo kịp thời để không để tồn đọng Cấp ủy Đảng cần định hướng đúng đắn dựa trên pháp luật, phù hợp với điều kiện địa phương, và xử lý nghiêm túc các cán bộ, đảng viên vi phạm.
Hội đồng nhân dân xã cần tăng cường chức năng giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân bởi đây là một nhiệm vụ quan trọng Trong các kỳ họp HĐND, cần đưa nội dung xem xét vấn đề này, đồng thời các đại biểu HĐND phải nắm bắt và phản ánh tình hình khiếu nại, tố cáo trong khu vực Mối liên hệ chặt chẽ giữa đại biểu HĐND và cử tri thông qua hoạt động tiếp xúc là kênh thông tin quan trọng để ghi nhận những bức xúc của nhân dân, đại diện cho nguyện vọng chính đáng và yêu cầu các cơ quan giải quyết theo quy định.
Ủy ban nhân dân xã cần thực hiện đầy đủ nhiệm vụ và quyền hạn của mình, đồng thời lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của người dân để thực hiện tốt công tác dân vận Việc giải quyết kịp thời và đúng pháp luật các khiếu nại, tố cáo là rất quan trọng, giúp chấm dứt vụ việc nhanh chóng Nếu không xử lý ngay hoặc giải quyết không đúng, tình hình có thể trở nên phức tạp, dẫn đến khiếu kiện lên cấp trên hoặc hình thành điểm nóng, gây mất ổn định chính trị.
2 Cần tăng cường trách nhiệm của chính quyền cơ sở
Ủy ban nhân dân xã cần nhận thức đầy đủ về quyền khiếu nại, tố cáo của công dân, đồng thời nhận thấy những lợi ích tích cực từ việc này Việc nâng cao trách nhiệm trong công tác tiếp công dân và giải quyết kịp thời các khiếu nại, tố cáo nên được xem là nhiệm vụ thường xuyên và quan trọng.
Khi xảy ra khiếu nại, tố cáo tại xóm, cần phải giải quyết kịp thời và không ỷ lại vào cấp trên Việc này giúp phát hiện những bất cập trong công tác chỉ đạo và điều hành Cần dũng cảm nhận trách nhiệm, thừa nhận sai lầm và sửa chữa, thay vì che đậy hay phủ nhận Nếu không, sẽ dẫn đến tình trạng công dân bức xúc và tập hợp để khiếu nại.
Khi có khiếu nại tố cáo, cần chỉ đạo giải quyết kịp thời, đúng pháp luật và có lý, có tình ngay tại địa phương Đặc biệt, công tác hòa giải ở cơ sở rất quan trọng, nhất là trong các tranh chấp nội bộ Nếu chính quyền địa phương chú trọng hòa giải từ sớm, vụ việc sẽ được giải quyết nhanh chóng, tránh phức tạp Việc hòa giải cần phối hợp chặt chẽ với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể như Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh, và Đoàn Thanh niên để thuyết phục công dân hiểu rõ chính sách, pháp luật, đồng thời củng cố tình làng nghĩa xóm.
Phát huy vai trò của ban thanh tra nhân dân và Hội nông dân cấp xã trong đối thoại và giải quyết khiếu nại là rất quan trọng Hình thức giám sát này cho phép nhân dân thông qua đại diện của mình tham gia trực tiếp vào việc thực hiện chính sách và pháp luật Hoạt động thanh tra nhân dân hiệu quả giúp lãnh đạo xã nắm bắt nhanh chóng ý kiến phản ánh của người dân, từ đó nhận diện được những yếu kém và bất cập trong công việc của chính quyền.
Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở là cần thiết để mở rộng dân chủ trực tiếp, giúp người dân dễ dàng tiếp xúc với cơ quan công quyền và có khả năng giám sát cán bộ, công chức, đặc biệt là những người làm việc trực tiếp với dân Cần công khai hóa các nội dung và cơ chế giám sát của các cơ quan chức năng, đoàn thể và quần chúng nhân dân đối với việc thực hiện pháp luật, chính sách và chế độ của nhà nước.
Để thực hiện hiệu quả quy định tiếp công dân tại trụ sở UBND xã, cần có kế hoạch cụ thể phân công lãnh đạo tiếp công dân theo đúng pháp luật, bố trí địa điểm thuận tiện với đầy đủ điều kiện vật chất cần thiết Cán bộ tiếp công dân phải thường xuyên có phẩm chất tốt, am hiểu pháp luật và có ý thức trách nhiệm cao Công tác tiếp công dân cần gắn liền với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, chủ động xử lý ngay khi khiếu kiện phát sinh và tăng cường đối thoại với nhân dân Khi đã giải quyết, cần kiên quyết thực hiện đến nơi đến chốn, đảm bảo công khai, dứt điểm và đúng quy trình.
Tăng cường kiểm tra và đánh giá hiệu quả trong việc tiếp dân và giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của cán bộ, công chức là rất cần thiết Điều này cần gắn liền với việc đánh giá trách nhiệm và hiệu quả trong công tác chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền Đồng thời, cần xử lý nghiêm khắc đối với những cán bộ, công chức thiếu trách nhiệm, không tuân thủ chỉ đạo của cấp trên trong việc giải quyết các đơn thư khiếu nại, tố cáo.
Trong quá trình giải quyết đơn thư khiếu nại và tố cáo, cần có cán bộ có năng lực, phẩm chất và kinh nghiệm trong công tác tiếp dân Đối với các vụ việc phức tạp, lãnh đạo địa phương nên trực tiếp tham gia tiếp dân, lắng nghe ý kiến và chỉ đạo giải quyết khiếu nại, tố cáo với tinh thần bảo đảm an dân Việc tăng cường tiếp xúc với công dân là cần thiết để hiểu rõ nguyên nhân và nguồn gốc phát sinh khiếu nại, đồng thời thu thập chứng cứ và tài liệu làm căn cứ cho việc giải quyết hiệu quả các đơn thư.
3 Cần nâng cao năng lực của cơ quan, người có thẩm quyền trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo
Cần kiện toàn Hội đồng tiếp công dân và giải quyết đơn thư khiếu nại tại xã, đặc biệt khi có sự thay đổi, luân chuyển cán bộ Phân công rõ ràng trách nhiệm và nhiệm vụ cho từng thành viên trong Hội đồng tiếp công dân là rất quan trọng Đồng thời, cần sửa đổi quy chế tiếp công dân để phù hợp với tình hình thực tế qua các giai đoạn Việc này sẽ giúp khắc phục tình trạng chồng chéo và đùn đẩy trách nhiệm, từ đó giảm thiểu khó khăn và chậm trễ trong công việc cũng như giải quyết khiếu kiện của công dân.
- Cần có những biện pháp để ngăn ngừa khiếu nại, tố cáo ngay ở cơ sở, không để đơn thư vượt cấp làm tình hình phức tạp thêm
Việc xử lý đơn thư cần được coi trọng, yêu cầu phân định rõ ràng nội dung vụ việc tồn đọng, phức tạp hay mới phát sinh, cùng với thẩm quyền giải quyết Đặc biệt, nếu đơn thư chứa cả nội dung khiếu nại và tố cáo, cần tách ra thành hai vụ việc riêng biệt và thụ lý theo quy trình đã quy định.