1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Đánh giá tình hình an ninh tài chính ở việt nam trong giai đoạn hiện nay

101 8 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Đánh Giá Tình Hình An Ninh Tài Chính Ở Việt Nam Trong Giai Đoạn Hiện Nay
Tác giả TS. Lê Thị Mai Hương, TS. Đàng Quang Vắng, Ths. Bùi Tiến Thịnh
Trường học Trường Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật Thành Phố Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Kinh Tế
Thể loại báo cáo tổng kết đề tài nckh cấp trường
Năm xuất bản 2020
Thành phố Tp. Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 101
Dung lượng 13,65 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU (14)
    • 1.1 Lý do chọn đề tài (14)
    • 1.2. Mục tiêu nghiên cứu (15)
    • 1.3. Nội dung nghiên cứu (16)
    • 1.4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu (16)
      • 1.4.1 Đối tượng nghiên cứu (16)
      • 1.4.2 Phạm vi nghiên cứu (16)
    • 1.5. Phương pháp nghiên cứu (17)
      • 1.5.1 Cách tiếp cận (17)
      • 1.5.2 Phương pháp nghiên cứu (17)
    • 1.6. Ý nghĩa nghiên cứu (18)
      • 1.6.1 Ý nghĩa khoa học (18)
      • 1.6.2 Ý nghĩa thực tiễn (18)
  • CHƯƠNG 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ AN NINH TÀI CHÍNH (19)
    • 2.1 Một số khái niệm có liên quan (19)
      • 2.1.1 Khái niệm an ninh tài chính (19)
      • 2.1.2 Khái niệm đảm bảo an ninh tài chính (19)
    • 2.2 Vai trò của an ninh tài chính đối với sự phát triển kinh tế xã hội (20)
    • 2.3 Các công trình nghiên cứu có liên quan (22)
      • 2.3.1 Các nghiên cứu ngoài nước (22)
      • 2.3.2 Các nghiên cứu trong nước (24)
    • 2.4 Các chỉ tiêu đánh giá tình hình an ninh tài chính vĩ mô của một quốc gia (26)
    • 2.5 Kinh nghiệm quản lý an ninh tài chính ở một số quốc gia (27)
    • 3.1 Đánh giá tình hình an ninh tài chính vĩ mô ở Việt Nam qua các chỉ tiêu19 (32)
      • 3.1.1 Sức mạnh và hoạt động kinh tế (32)
      • 3.1.2 Năng lực hành chính và hiệu quả chính sách (44)
      • 3.1.3 Cán cân thanh toán quốc tế và ảnh hưởng đến bên ngoài (51)
      • 3.1.4 Hoạt động phát triển tài chính (56)
    • 3.2 Những thuận lợi và khó khăn của Việt Nam trong việc đảm bảo an ninh tài chính (60)
      • 3.2.1 Thuận lợi (60)
      • 3.2.2 Khó khăn (62)
  • CHƯƠNG 4: ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ GÓP PHẦN NÂNG CAO HOẠT ĐỘNG AN NINH TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM (64)
    • 4.1 Quan điểm, Chủ trương của Đảng và Nhà nước về nâng cao năng lực hoạt động an ninh tài chính (64)
    • 4.2 Đề xuất kiến nghị góp phần nâng cao hoạt động đảm bảo an ninh tài chính ở Việt Nam ................................................................................................ 52 TÀI LIỆU THAM KHẢO (65)

Nội dung

TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

Lý do chọn đề tài

An ninh tài chính ngày càng trở thành vấn đề sống còn đối với các quốc gia, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa và tự do hóa kinh tế - tài chính diễn ra mạnh mẽ Đối với Việt Nam, việc đảm bảo an ninh tài chính là điều kiện tiên quyết để phát triển kinh tế ổn định Thị trường tài chính Việt Nam phát triển nhanh chóng, nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức trong việc bảo đảm an ninh tài chính cho doanh nghiệp và quốc gia Những bất ổn từ thị trường tài chính thế giới ảnh hưởng trực tiếp đến tỷ giá, lãi suất và dòng vốn vào/ra Nhiều quốc gia đã chú trọng thiết kế hệ thống an ninh tài chính với các yêu cầu như thể chế tài chính lành mạnh, quyền can thiệp sớm vào ngân hàng gặp vấn đề, và thiết kế kế hoạch đảm bảo tiền gửi Sau hơn 30 năm cải cách, hệ thống tài chính Việt Nam đã hình thành đầy đủ các cấu phần cần thiết, nhưng vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế như cơ chế vận hành chưa hiệu quả và giám sát tài chính còn yếu kém.

Việt Nam đang đối mặt với hai cú sốc từ thị trường và việc điều tiết nguồn vốn từ bên ngoài vào nền kinh tế vẫn còn thấp, cùng với những rủi ro tiềm ẩn đối với sự ổn định của hệ thống tài chính Những vấn đề này đe dọa đến an ninh tài chính quốc gia, mặc dù Việt Nam đã thực hiện chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế theo nghị quyết số 40/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ Quá trình hội nhập này có tác động tích cực và tiêu cực đến an ninh tài chính và tăng trưởng kinh tế, làm cho công tác đảm bảo an ninh tài chính trở nên khó khăn hơn Do đó, việc nghiên cứu “Đánh giá tình hình an ninh tài chính ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” là cần thiết để phân tích tình hình an ninh tài chính vĩ mô dựa trên các chỉ tiêu cụ thể, từ đó giúp các cơ quan liên quan có cái nhìn đúng đắn và có biện pháp ứng phó hiệu quả nhằm đảm bảo an ninh tài chính quốc gia và phát triển kinh tế.

Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu tổng quát của nghiên cứu là đánh giá tình hình an ninh tài chính tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay Để thực hiện mục tiêu này, đề tài đã xác định các mục tiêu cụ thể cần nghiên cứu.

Thứ nhất, xác định các chỉ tiêu đánh giá tình hình an ninh tài chính vĩ mô ở Việt Nam

Thứ hai, đánh giá tình hình an ninh tài chính ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

Đề xuất kiến nghị nhằm đảm bảo an ninh tài chính ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay rất quan trọng Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, bài viết sẽ xây dựng các câu hỏi nghiên cứu liên quan đến vấn đề này.

Câu hỏi 1: Tình hình an ninh tài chính ở Việt Nam được đánh giá, phân tích như thế nào?

Câu hỏi 2: Các chỉ tiêu nào được sử dụng để đánh giá tình hình an ninh tài chính vĩ mô ở Việt Nam

Câu hỏi 3: Các đề xuất kiến nghị gì góp phần đảm bảo an ninh tài chính ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

Nội dung nghiên cứu

Nghiên cứu tình hình an ninh tài chính của Việt Nam từ góc độ vĩ mô sử dụng các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô để đánh giá Nội dung chính của đề tài tập trung vào việc xác định các chỉ tiêu và đánh giá tình hình an ninh tài chính vĩ mô tại Việt Nam.

Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu

1.4.1 Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tình hình an ninh tài chính của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay Cụ thể tập trung phân tích an ninh tài chính vĩ mô dựa trên hai khía cạnh chính là (1) sức mạnh hoạt động của nền kinh tế và môi trường chính sách và (2) đánh giá khu vực tài chính

Sức mạnh kinh tế của một quốc gia được đánh giá thông qua hoạt động kinh tế, cán cân thanh toán quốc tế và ảnh hưởng từ bên ngoài Năng lực hành chính của chính phủ cùng với các chính sách tài chính và tiền tệ đóng vai trò quan trọng trong việc định hình môi trường chính sách, từ đó ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của nền kinh tế.

Đánh giá khu vực tài chính bao gồm việc phân tích hoạt động tài chính, mức độ phát triển của hệ thống tài chính, quyền kiểm soát tài chính cũng như sự ổn định trong lĩnh vực này Những yếu tố này đóng vai trò quan trọng trong việc xác định sức khỏe và tiềm năng phát triển của nền kinh tế.

1.4.2 Phạm vi nghiên cứu Đề tài tập trung phân tích tình hình an ninh tài chính của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay Do đó, đề tài sẽ chú trọng nghiên cứu cơ sở lý thuyết, thực tiễn, các chỉ tiêu đánh giá an ninh tài chính vĩ mô của IMF, và đề xuất kiến nghị, không nghiên cứu các chỉ tiêu đánh giá an ninh tài chính vi mô

Phạm vi không gian: đề tài nghiên cứu tình hình an ninh tài chính ở Việt Nam

Bài viết phân tích và đánh giá tình hình an ninh tài chính ở Việt Nam trong giai đoạn 2000 – 2018, nhằm đề xuất các kiến nghị nhằm đảm bảo an ninh tài chính quốc gia.

Phương pháp nghiên cứu

1.5.1 Cách tiếp cận Để đề tài có tính khoa học, khách quan, chúng tôi dựa trên 3 cách tiếp cận chính: (1) Nghiên cứu cơ sở lý luận và các công trình khoa học đã công bố có liên quan; (2) Phân tích dữ liệu thu thập; (3) Đánh giá tình hình an ninh tài chính của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

Phương pháp thu thập dữ liệu sử dụng dữ liệu thứ cấp về an ninh tài chính ở cấp độ vĩ mô, bao gồm các văn bản từ các cơ quan như IMF, WB, ASEAN Stats, Tổng cục thống kê và Tổng cục Hải quan, cùng với các tạp chí khoa học chuyên ngành Dựa trên những tài liệu này, tiến hành thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp và đánh giá nội dung nghiên cứu để đưa ra những nhận định chính xác về tình hình an ninh tài chính.

Nghiên cứu này áp dụng phương pháp phân tích định tính, tập trung vào việc sử dụng phân tích mô tả số liệu thống kê để hiểu rõ hơn về dữ liệu.

Phương pháp thống kê mô tả:

Phương pháp thống kê mô tả là công cụ quan trọng để mô tả các đặc tính cơ bản của dữ liệu từ nghiên cứu thực nghiệm Nó cung cấp tóm tắt đơn giản về mẫu và các thước đo, kèm theo phân tích đồ thị, tạo nền tảng cho các phân tích định lượng Các kỹ thuật thống kê mô tả có thể được phân loại thành hai nhóm chính: biểu diễn dữ liệu bằng đồ thị để mô tả và so sánh dữ liệu về an ninh tài chính, và sử dụng bảng số liệu từ nguồn dữ liệu thứ cấp để mô tả đặc điểm của các chỉ số an ninh tài chính qua nhiều tiêu thức khác nhau.

Thông qua phương pháp thống kê mô tả, bài viết đánh giá tình hình an ninh tài chính của Việt Nam dựa trên các yếu tố chính như sức mạnh và hoạt động kinh tế, năng lực hành chính và hiệu quả chính sách, cán cân thanh toán quốc tế cùng với ảnh hưởng từ bên ngoài, cũng như hoạt động và phát triển của thị trường tài chính.

Phương pháp phân tích, tổng hợp:

Phương pháp phân tích tổng hợp được áp dụng xuyên suốt quá trình thực hiện đề tài, nhằm tổng hợp và phân tích các dữ liệu thu thập được Qua đó, đánh giá tình hình an ninh tài chính của Việt Nam dựa trên các tiêu chí đã được xác định.

Phương pháp so sánh: so sánh và đánh giá các chỉ tiêu về an ninh tài chính của Việt Nam so với các quốc gia trong khu vực

Phương pháp xử lý số liệu:

Phần mềm tương thích như Excel được sử dụng chủ yếu trong nghiên cứu kinh tế xã hội để thu thập thông tin sơ cấp, phục vụ cho việc xử lý, phân tích và trình bày kết quả nghiên cứu một cách hiệu quả.

Vận dụng lý thuyết kinh tế vi mô, kinh tế vĩ mô để giải thích, phân tích và đánh giá kết quả nghiện cứu.

Ý nghĩa nghiên cứu

Bài viết cung cấp cơ sở lý thuyết cần thiết để đánh giá tình hình an ninh tài chính vĩ mô, đặc biệt là an ninh tài chính của Việt Nam Đồng thời, nó cũng đưa ra những đánh giá thực tế về tình hình an ninh tài chính tại Việt Nam thông qua các chỉ tiêu cụ thể.

Là tài liệu tham khảo cho các nghiên cứu kinh tế nói chung và nghiên cứu tiếp theo về an ninh tài chính nói riêng

Nghiên cứu này nhằm cung cấp thông tin cho các cơ quan ban ngành liên quan, giúp họ điều chỉnh chính sách và xây dựng chiến lược hiệu quả nhằm nâng cao hoạt động an ninh tài chính tại Việt Nam.

Các cơ quan tài chính Việt Nam xác định được những nhân tố chính yếu tác động đến tình hình an ninh tài chính ở Việt Nam

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ AN NINH TÀI CHÍNH

Một số khái niệm có liên quan

2.1.1 Khái niệm an ninh tài chính

An ninh tài chính, theo Koval (2013), là một phần quan trọng của an ninh kinh tế, bao gồm các mối quan hệ tài chính giữa các thực thể như hộ gia đình, công ty, nhà nước và các khu vực khác Nó phản ánh sự thiếu vắng các mối đe dọa thực sự và khả năng chống lại các nguy cơ tiềm ẩn trong quá trình phân phối và tái phân phối tổng sản phẩm trong nước ở các cấp độ vi mô, trung gian và vĩ mô.

Theo Pochenchuk (2014), an ninh tài chính không chỉ đơn thuần là ổn định tài chính mà còn cần xem xét tình trạng tài chính công của chính phủ Tác giả nhấn mạnh rằng để đánh giá an ninh tài chính của một quốc gia, cần phải xem xét ba yếu tố chính: ổn định tài chính, ổn định tiền tệ và tính bền vững của nền tài chính công.

An ninh tài chính, theo Trần Thọ Đạt (2015), được định nghĩa là trạng thái ổn định của hệ thống tài chính, cho phép nhận diện và kiểm soát hiệu quả các cú sốc Điều này đảm bảo rằng hệ thống tài chính có thể thực hiện các chức năng của mình một cách an toàn và bền vững Khi xảy ra cú sốc, hệ thống vẫn có khả năng hấp thụ, phản ứng và phục hồi, từ đó duy trì hoạt động mà không bị gián đoạn.

Vũ Đình Anh (2017): an ninh tài chính là một khái niệm cơ bản để chỉ một tình trạng tài chính ổn định, an toàn và vững mạnh

Như vậy an ninh tài chính được hiểu là tình trạng nền kinh tế nói chung ổn định, an toàn, vững mạnh và không bị khủng hoảng

2.1.2 Khái niệm đảm bảo an ninh tài chính

Lê Thị Thùy Vân (2017) định nghĩa an ninh tài chính của thị trường tài chính là duy trì sự ổn định và lành mạnh trong hoạt động của thị trường và các định chế tài chính, từ đó giảm thiểu rủi ro cho thị trường và hệ thống tài chính.

Vũ Đình Anh (2017) nhấn mạnh rằng việc đảm bảo an ninh tài chính cho các tổ chức tín dụng, đặc biệt là ngân hàng, là rất quan trọng Điều này bao gồm việc áp dụng các biện pháp nhằm duy trì sự ổn định, an toàn và bền vững cho tài sản, tránh tình trạng khủng hoảng tài chính.

Đảm bảo an ninh tài chính là việc áp dụng các biện pháp nhằm duy trì sự ổn định, an toàn và vững mạnh cho hệ thống tài chính, ngăn chặn nguy cơ khủng hoảng.

Vai trò của an ninh tài chính đối với sự phát triển kinh tế xã hội

Hệ thống tài chính ổn định, an toàn và vững mạnh đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế, góp phần vào sự tăng trưởng bền vững và tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn.

An ninh tài chính đóng vai trò then chốt trong việc duy trì ổn định giá cả, mục tiêu chính của ngân hàng trung ương Sự ổn định này giúp Nhà nước hoạch định chiến lược phát triển kinh tế hiệu quả, loại bỏ biến động giá cả Đồng thời, nó tạo ra môi trường đầu tư ổn định, thu hút vốn đầu tư và khai thác tối đa nguồn lực xã hội, thúc đẩy các doanh nghiệp và cá nhân sản xuất, mang lại lợi ích cho cả họ và xã hội.

An ninh tài chính đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sự ổn định tài chính, tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư và người gửi tiền Sự ổn định này không chỉ nâng cao hiệu quả hoạt động của trung gian tài chính mà còn cải thiện chức năng của các thị trường tài chính, đồng thời tăng cường phân phối nguồn lực, góp phần phát triển hệ thống tài chính lành mạnh và minh bạch Một hệ thống tài chính ổn định có khả năng hấp thụ cú sốc và giảm thiểu rủi ro hệ thống, từ đó hỗ trợ phát triển kinh tế bền vững Hơn nữa, sự ổn định tài chính phản ánh một hệ thống tài chính vững mạnh, tạo niềm tin và ngăn ngừa các hiện tượng hỗn loạn như mất khả năng thanh toán hay phá sản.

Việc giảm thiểu rủi ro vỡ nợ của các ngân hàng và các định chế tài chính khác là rất quan trọng để bảo vệ an toàn vĩ mô của nền kinh tế Điều này giúp hạn chế những tác động tiêu cực đến sự ổn định tài chính và phát triển kinh tế bền vững.

An ninh tài chính đóng vai trò quan trọng trong việc lành mạnh hóa các định chế tài chính, thể hiện qua sự tăng trưởng ổn định của các thị trường ngân hàng, chứng khoán và bảo hiểm Việc này giúp giảm thiểu chi phí giao dịch cho người tiết kiệm và nhà đầu tư, bao gồm chi phí tìm kiếm, thực hiện giao dịch và chi phí do quy mô Đồng thời, sự đa dạng của các loại hình định chế tài chính và sản phẩm dịch vụ giúp giảm thiểu rủi ro cho nhà đầu tư thông qua việc đa dạng hóa danh mục đầu tư và nâng cao tính chuyên nghiệp Hơn nữa, các định chế tài chính cũng tạo lập cơ chế thanh toán hiệu quả, đặc biệt là trong việc phát triển các phương thức thanh toán không dùng tiền mặt, góp phần vào sự vận hành nhanh chóng và hiệu quả của thị trường.

An ninh tài chính đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sự vận hành hiệu quả của thị trường tài chính Một thị trường tài chính lành mạnh không chỉ thúc đẩy tăng trưởng mà còn ổn định nền kinh tế vĩ mô, nhờ vào việc luân chuyển vốn linh hoạt từ khu vực tài chính sang khu vực kinh tế thực Điều này giúp phân bổ nguồn lực hiệu quả vào các lĩnh vực ưu tiên, góp phần quan trọng trong quá trình tái cơ cấu nền kinh tế và hỗ trợ khu vực tư nhân, động lực chính cho sự phát triển.

Hệ thống tài chính ổn định và hợp lý giữa các thị trường tiền tệ, vốn và bảo hiểm đóng vai trò quan trọng trong việc huy động tiết kiệm và phân bổ nguồn vốn Sự phát triển lành mạnh của hệ thống tài chính không chỉ đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô mà còn nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, từ đó thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững và hỗ trợ thực hiện các chiến lược phát triển hiệu quả.

9 cơ cấu lại nền kinh tế, tăng năng suất, hiệu quả và sức mạnh của nền kinh tế, sẽ góp phần hỗ trợ phát triển kinh tế bền vững

Các công trình nghiên cứu có liên quan

2.3.1 Các nghiên cứu ngoài nước

Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) vào năm 1998 đã đề xuất một chỉ tiêu để đánh giá an ninh tài chính vĩ mô của các quốc gia, dựa trên hai khía cạnh chính là sức mạnh kinh tế và môi trường chính sách cùng với đánh giá khu vực tài chính Chỉ tiêu này bao gồm bốn yếu tố quan trọng: sức mạnh và hoạt động kinh tế, năng lực hành chính và hiệu quả chính sách, cán cân thanh toán quốc tế và ảnh hưởng từ bên ngoài, cũng như hoạt động và phát triển tài chính Cụ thể, 19 chỉ số được sử dụng để đo lường các yếu tố này, bao gồm GDP thực/đầu người, quy mô kinh tế, mức độ phát triển, ổn định kinh tế, hiệu quả chính sách tài khóa, mức nợ chính phủ, chi phí tài chính, khả năng chi trả nợ, rủi ro vỡ nợ, sự phụ thuộc vào nước ngoài, thu chi tài khóa, lạm phát và ổn định giá trị tiền tệ.

Grib (2015) đã xác định các chỉ tiêu đánh giá an ninh tài chính tại lãnh thổ Krasnoyarsk (Krai) thông qua hai nhóm chỉ tiêu với tổng cộng 12 tiêu chí cụ thể Nhóm đầu tiên tập trung vào các yếu tố quyết định ngân sách và an ninh thuế khu vực, bao gồm tỷ lệ thâm hụt ngân sách, tỷ lệ nợ công, tỷ lệ tăng trưởng, tổng số tiền thuế và tỷ lệ hỗ trợ từ tiền thuế quốc gia Nhóm thứ hai liên quan đến an ninh tài chính khu vực, với các chỉ tiêu như tỷ lệ vốn đầu tư trong tổng vốn, tỷ số đổi mới của tài sản cố định, tỷ lệ tăng trưởng thu nhập so với chi tiêu tiêu dùng, và tỷ lệ giá trị thị trường của tài sản so với thu nhập trung bình hàng năm của hộ gia đình Những chỉ tiêu này tạo nền tảng cho việc đánh giá thực trạng an ninh tài chính tại Krai.

Chen.X (2015) đã tiến hành đánh giá an ninh tài chính tại Trung Quốc thông qua việc phân tích và khảo sát sức mạnh cũng như hoạt động kinh tế cả trong nước và quốc tế, đồng thời xem xét cán cân thanh toán.

10 yếu tố quốc tế và ảnh hưởng bên ngoài tác động đến năng lực hành chính của chính phủ, bao gồm chính sách tài khóa, chính sách tài chính, hoạt động tài chính và mức độ phát triển, cũng như khả năng kiểm soát tài chính.

Bộ chỉ số lành mạnh tài chính (Financial Soundness Indicators: FSIs) do IMF (2017) đề xuất nhằm đo lường sự lành mạnh tài chính của các quốc gia, bao gồm 40 chỉ số tài chính Trong đó, 25 chỉ số tập trung vào khu vực tổ chức nhận tiền gửi (gồm 12 chỉ số cốt lõi và 13 chỉ số khuyến khích), 2 chỉ số cho khu vực tổ chức tài chính khác, 5 chỉ số cho khu vực tổ chức phi tài chính, 2 chỉ số cho khu vực hộ gia đình, 2 chỉ số về thanh khoản thị trường, và 4 chỉ số về thị trường bất động sản.

Bảng 2.1: Các nghiên cứu về an ninh tài chính trên thế giới

Tác giả Biến kết quả Biến giải thích Phương pháp Địa bàn

Grib (2015) An ninh tài chính vĩ mô

Các yếu tố quyết định ngân sách và an ninh thuế

Các yếu tố quyết định an ninh tài chính

Thống kê mô tả Krai

IMF (1998) An ninh tài chính vĩ mô

Sức mạnh kinh tế và môi trường chính sách Đánh giá khu vực tài chính

Thống kê mô tả, đánh giá dựa trên các chỉ tiêu

An ninh tài chính quốc gia

Sức mạnh kinh tế quốc gia được thể hiện qua hoạt động kinh tế trong và ngoài nước, cùng với cán cân thanh toán quốc tế và ảnh hưởng từ các yếu tố bên ngoài Năng lực hành chính của chính phủ đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện các chính sách tài khóa, nhằm thúc đẩy sự phát triển bền vững và tăng cường ổn định kinh tế.

Thống kê mô tả, đánh giá an ninh tài chính dựa trên các chỉ tiêu

11 chính sách tài chính, hoạt động tài chính và mức độ phát triển, khả năng kiểm soát tài chính IMF (2017) Thị trường tài chính lành mạnh

Bài viết này đề cập đến 25 chỉ số tài chính quan trọng của khu vực tổ chức nhận tiền gửi, bao gồm 12 chỉ số cốt lõi và 13 chỉ số khuyến khích Ngoài ra, còn có 2 chỉ số phản ánh tình hình tài chính của khu vực tổ chức tài chính khác, 5 chỉ số cho khu vực tổ chức phi tài chính, và 2 chỉ số liên quan đến tài chính của hộ gia đình.

(v) 2 chỉ số phản ánh tình hình thanh khoản của thị trường; (vi) 4 chỉ số phản ánh tình hình của thị trường bất động sản

Thống kê mô tả dựa trên bộ chỉ số lành mạnh tài chính

(Nguồn: Tổng hợp của tác giả ) 2.3.2 Các nghiên cứu trong nước

Võ Trí Thành và Lê Xuân Sang (2014) đã phân tích ảnh hưởng của quá trình quốc tế hóa đồng nhân dân tệ cùng với khủng hoảng tài chính toàn cầu đối với an ninh tài chính của Việt Nam Nghiên cứu chỉ ra rằng khủng hoảng tài chính toàn cầu đã tác động tiêu cực đến tăng trưởng GDP, làm gia tăng lạm phát và nợ xấu Qua đó, tác giả đã đề xuất các giải pháp nhằm cải thiện tình hình kinh tế trong bối cảnh hiện tại.

12 pháp ứng phó với quá trình quốc tế hóa đồng nhân dân tệ và các giải pháp phát triển thị trường tài chính lành mạnh

Trần Thọ Đạt (2015) đã tiến hành đánh giá an ninh tài chính ở Việt Nam trong giai đoạn 2006-2014 từ cả hai góc độ vĩ mô và vi mô Ở cấp độ vĩ mô, nghiên cứu xem xét các chỉ tiêu như tăng trưởng kinh tế, thâm hụt cán cân vãng lai, dự trữ ngoại hối, thâm hụt ngân sách nhà nước, nợ nước ngoài, nợ công và lạm phát Trong khi đó, ở góc độ vi mô, tình hình an ninh tài chính được đánh giá thông qua các chỉ tiêu an toàn vốn, chất lượng tài sản và khả năng sinh lời.

Lê Thị Thùy Vân (2017) chỉ ra rằng việc đảm bảo an toàn tài chính trên thị trường tài chính được thực hiện thông qua các tiêu chí giám sát an toàn trong các lĩnh vực như thị trường tiền tệ-ngân hàng, thị trường chứng khoán và thị trường bảo hiểm Nghiên cứu cũng nêu ra những thách thức trong việc duy trì an ninh tài chính và đề xuất các giải pháp nhằm cải thiện an ninh trên thị trường tài chính.

Nguyễn Thị Ngọc Loan (2019) đã chỉ ra rằng doanh nghiệp phải đối mặt với nhiều rủi ro tài chính như rủi ro pháp lý, tín dụng, thanh khoản, nợ xấu, lãi suất, tỷ giá và giá cổ phiếu Bà cũng đã phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến an ninh tài chính của doanh nghiệp và đưa ra kinh nghiệm ứng phó với khủng hoảng tài chính thông qua các giải pháp vĩ mô và vi mô.

Bảng 2.2: Các nghiên cứu về an ninh tài chính ở Việt Nam

Tác giả Biến kết quả Biến giải thích Phương pháp Địa bàn

Tăng trưởng GDP, lạm phát, nợ xấu Thống kê mô tả Việt

Tăng trưởng kinh tế, thâm hụt cán cân vãng lai, dự trữ ngoại hối, thâm hụt ngân sách nhà nước, nợ nước ngoài, nợ công, lạm phát

Chỉ tiêu vi mô và vi mô cộng gộp:

An toàn vốn, chất lượng tài sản, chỉ tiêu về sinh lời

(2017) Đảm bảo an ninh tài chính

Các tiêu chí giám sát an toàn tài chính trên thị trường tiền tệ - ngân hàng, thị trường chứng khoán và thị trường bảo hiểm.

Thống kê mô tả Việt

Nhận diện rủi ro tài chính và ổn định an ninh tài chính doanh nghiệp

Các rủi ro tài chính doanh nghiệp, nhân tố ảnh hưởng đến an ninh tài chính doanh nghiệp

(Nguồn: Tổng hợp của tác giả )

Các chỉ tiêu đánh giá tình hình an ninh tài chính vĩ mô của một quốc gia

Các nghiên cứu của IMF (1998), Grib (2015), Chen (2015), Trần Thọ Đạt (2016) và Lê Thị Thùy Vân (2017) đã chỉ ra rằng an ninh tài chính ở cấp độ vĩ mô được đánh giá qua hai khía cạnh chính, bao gồm bốn yếu tố cốt lõi và tổng cộng 19 chỉ số.

Hai khía cạnh chính bao gồm: (1) sức mạnh hoạt động của nền kinh tế và môi trường chính sách và (2) đánh giá khu vực tài chính

Sức mạnh kinh tế và môi trường chính sách của một quốc gia được đánh giá thông qua các yếu tố như hoạt động kinh tế, cán cân thanh toán quốc tế, và ảnh hưởng từ bên ngoài Năng lực hành chính của chính phủ cùng với các chính sách tài chính và tiền tệ cũng đóng vai trò quan trọng trong việc định hình sức mạnh kinh tế quốc gia.

Đánh giá khu vực tài chính bao gồm việc phân tích hoạt động tài chính, mức độ phát triển của hệ thống tài chính, quyền kiểm soát tài chính và sự ổn định trong lĩnh vực tài chính.

Bốn yếu tố chính bao gồm:

Sức mạnh và hoạt động kinh tế được đo lường qua mức độ giàu có của người dân (GDP thực trên đầu người), quy mô và mức độ phát triển của nền kinh tế (GDP thực và tốc độ tăng trưởng kinh tế) Triển vọng tăng trưởng kinh tế được phản ánh qua tốc độ tăng trưởng GDP thực bình quân đầu người, trong khi sự ổn định kinh tế được xác định bởi biến động của GDP bình quân đầu người và tỷ lệ thất nghiệp.

Năng lực hành chính và hiệu quả chính sách được thể hiện qua các chỉ số như hiệu lực của chính sách tài khóa, tỷ lệ thay đổi nợ chính phủ so với GDP, mức nợ chính phủ tính trên GDP, chi phí tài chính liên quan đến nợ của chính phủ.

Năng chi trả nợ, được đo bằng nghĩa vụ nợ so với kim ngạch xuất khẩu, đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá khả năng thanh toán của một quốc gia Rủi ro vỡ nợ, thể hiện qua tỷ lệ nợ công so với GDP, là yếu tố cần xem xét để đảm bảo sự bền vững tài chính Sự phụ thuộc vào nước ngoài, với tỷ lệ nợ nước ngoài trên GDP, có thể ảnh hưởng đến độc lập kinh tế Ngoài ra, thu và chi tài khóa, được phản ánh qua thâm hụt ngân sách so với GDP, là chỉ số quan trọng để theo dõi sức khỏe tài chính quốc gia Cuối cùng, lạm phát và ổn định giá trị tiền tệ, đo bằng chỉ số CPI, là những yếu tố quyết định đến sự ổn định kinh tế tổng thể.

Cán cân thanh toán quốc tế chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố bên ngoài, bao gồm mức độ định hướng xuất khẩu thể hiện qua sự phụ thuộc vào ngoại thương và tỷ lệ cán cân thương mại/GDP Bên cạnh đó, mức độ cân bằng của thanh toán quốc tế được đánh giá qua tỷ lệ cán cân vãng lai/GDP Tài khoản vốn cũng đóng vai trò quan trọng, phản ánh dòng vốn vào hoặc ra so với GDP Cuối cùng, tính thanh khoản và quy mô hợp lý của dự trữ ngoại hối, được thể hiện qua tổng dự trữ ngoại hối, là những yếu tố không thể thiếu trong việc đánh giá cán cân thanh toán quốc tế.

Hoạt động phát triển tài chính bao gồm các yếu tố quan trọng như mức độ phát triển tài chính, thể hiện qua tăng trưởng tín dụng và sự phát triển của thị trường chứng khoán Ngoài ra, giá tài sản tài chính, đặc biệt là lãi suất thực, cùng với biến động tỷ giá hối đoái cũng đóng vai trò quan trọng trong quá trình này.

Dựa trên các chỉ tiêu đánh giá tình hình an ninh tài chính vĩ mô của IMF và tổng hợp nghiên cứu trong và ngoài nước, bài viết này đánh giá an ninh tài chính vĩ mô ở Việt Nam thông qua bốn yếu tố chính Sử dụng cả tiêu chí định tính và định lượng, nghiên cứu đưa ra nhận định về mức độ an ninh tài chính tại Việt Nam trong giai đoạn hiện tại.

Kinh nghiệm quản lý an ninh tài chính ở một số quốc gia

2.5.1 Kinh nghiệm quản lý an ninh tài chính ở một số quốc gia

Liên minh Châu Âu (EU): khủng hoảng nợ công Châu Âu bắt đầu từ năm

Năm 2009, khủng hoảng tài chính tại EU xuất phát từ nhiều nguyên nhân chủ quan như việc kiểm soát nợ công lỏng lẻo, không tuân thủ các tiêu chuẩn an toàn nợ công, và sử dụng nợ công không hiệu quả, dẫn đến mất khả năng trả nợ Hơn nữa, công tác giám sát thị trường tài chính yếu kém và các quy định của EU hạn chế khả năng phòng ngừa rủi ro nợ công, cùng với mức độ tự chủ hạn chế của các thành viên EU, đã làm gia tăng khủng hoảng Ngoài ra, tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu cũng là một nguyên nhân khách quan Để đối phó với tình hình này, các thành viên EU đã nhận được sự hỗ trợ từ Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và thực hiện các biện pháp thắt chặt ngân sách, cũng như thành lập quỹ bình ổn tài chính nhằm ổn định tình hình tài chính.

Các biện pháp cắt giảm thâm hụt ngân sách của Âu (EFSF) đã được thực hiện theo lộ trình rõ ràng, giúp giảm thâm hụt ngân sách xuống còn 3% GDP và nợ công dưới 60% GDP.

Cuộc khủng hoảng ngân hàng ở Hoa Kỳ năm 2007-2008 xuất phát từ thâm hụt thương mại nặng nề và sự mất cân đối giữa tiết kiệm và đầu tư, cùng với sự phát triển nhanh chóng của các công cụ tài chính mới như chứng khoán hóa các khoản cho vay thế chấp bất động sản, dẫn đến rủi ro cho hệ thống tài chính Để khắc phục khủng hoảng, Hoa Kỳ đã triển khai nhiều biện pháp, bao gồm việc áp dụng tiêu chuẩn Basel III cho vốn cho vay, đảm bảo tỷ lệ thanh khoản theo chuẩn mực, giám sát chặt chẽ các tổ chức tài chính lớn, cải cách quy định về mô hình chứng khoán hóa, và thực hiện nguyên tắc kế toán GAAP trong một số giao dịch tài chính.

Malaysia đã thực hiện cải cách tài chính để đối phó với hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông Nam Á năm 1997 Các biện pháp bao gồm mở cửa thị trường tài chính, áp dụng cách tiếp cận tài chính cẩn trọng và đảm bảo nguồn vốn cho khu vực sản xuất Kết quả là nền kinh tế Malaysia phát triển ổn định, với các chỉ số rủi ro (nợ xấu) và hiệu quả hoạt động (ROA, ROE) được cải thiện rõ rệt.

Ngân hàng trung ương Nga (CBR) đóng vai trò chủ chốt trong việc giám sát và xử lý các ngân hàng cùng tổ chức tài chính khác, với quyền quyết định các biện pháp giám sát Tuy nhiên, cơ quan bảo hiểm tiền gửi (DIA) có quyền phủ quyết các đề xuất liên quan đến bảo hiểm tiền gửi của CBR Mặc dù CBR có quyền giám sát toàn bộ hệ thống tài chính, DIA thường tham gia vào các biện pháp xử lý liên quan đến an ninh tài chính Bộ Tài chính Nga không trực tiếp tham gia vào xử lý ngân hàng nhưng hỗ trợ tài chính cho DIA, thể hiện sự liên kết giữa các cơ quan này trong việc duy trì sự ổn định tài chính.

Ủy Ban ổn định tài chính Nga là một phần quan trọng trong mạng lưới an ninh tài chính, đảm nhận vai trò đưa ra các khuyến nghị và giải pháp nhằm duy trì sự ổn định tài chính.

Kinh nghiệm của Trung Quốc

Trung Quốc thực hiện các chính sách bảo hộ tài chính thông qua kiểm soát vốn và quy định giám sát chặt chẽ, với mục tiêu kiểm soát lạm phát và hạn chế dòng vốn nước ngoài Chính sách kiểm soát vốn đã được áp dụng trong nhiều năm, nhằm quản lý các khoản vay nợ nước ngoài và ngăn chặn chuyển vốn để hưởng chênh lệch lãi suất Mặc dù gia nhập WTO mở ra cơ hội cho ngân hàng nước ngoài, nhưng hạn chế vẫn tồn tại, như việc một định chế nước ngoài chỉ được sở hữu tối đa 20% vốn của ngân hàng Trung Quốc Ngoài ra, sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường cổ phiếu và trái phiếu cũng bị giới hạn, với việc các nhà đầu tư nước ngoài chỉ được tham gia từ năm 2002 và hạn mức cho chương trình này chỉ gần 10 tỷ USD vào năm 2007 Chính phủ Trung Quốc đã thực hiện nới lỏng vốn một cách thận trọng, vẫn duy trì mức độ bảo hộ cho thị trường trong nước.

2.5.2 Bài học kinh nghiệm đảm bảo an ninh tài chính cho Việt Nam

Từ kinh nghiệm đảm bảo an ninh tài chính ở nhiều quốc gia, Việt Nam có thể rút ra bài học rằng mỗi quốc gia có trình độ phát triển, quy mô kinh tế và hệ thống tài chính riêng biệt Do đó, khi áp dụng các biện pháp bảo đảm an ninh tài chính, cần xem xét sự phù hợp với điều kiện cụ thể của từng quốc gia.

Mặc dù nền kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể, nhưng vẫn đối mặt với nhiều khó khăn, đặc biệt trong hệ thống tài chính ngân hàng Việt Nam cần chú trọng đến các rủi ro về an toàn tài chính, đặc biệt là liên quan đến nợ xấu, nợ công và thâm hụt ngân sách nhà nước.

Dựa trên kinh nghiệm của các quốc gia khác, bài viết đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường an ninh tài chính cho Việt Nam trong thời gian tới.

Cần tăng cường giám sát của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đối với hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại, đặc biệt là nhóm ngân hàng cổ phần hoạt động kém hiệu quả Việc sử dụng các công cụ thị trường để kiểm soát và ngăn chặn rủi ro hệ thống trong các định chế tài chính là rất quan trọng Đồng thời, cần mở rộng đối tượng chịu sự giám sát đối với các định chế có hoạt động ngân hàng.

Để đảm bảo can thiệp kịp thời vào các bất ổn của ngân hàng, cần quy định rõ ràng phương thức trao đổi thông tin cùng với quyền hạn và trách nhiệm của các đơn vị trong mạng lưới an ninh tài chính.

Để giảm thiểu rủi ro cho hệ thống tài chính phụ thuộc vào ngân hàng, cần ổn định thị trường tiền tệ và quản lý rủi ro thanh khoản hiệu quả Đồng thời, việc đa dạng hóa các hình thức sử dụng vốn cũng rất quan trọng nhằm giảm thiểu rủi ro thua lỗ cho ngân hàng, tránh tình trạng tập trung quá mức vào hoạt động tín dụng.

Để nâng cao khả năng cạnh tranh của các tổ chức tín dụng (TCTD), cần thu hút các nguồn lực hợp pháp từ nhiều phương thức khác nhau Các TCTD có thể huy động lợi nhuận để lại, xử lý tài sản không sinh lời, phát hành cổ phiếu để thu hút cổ đông trong và ngoài nước, hoặc phát hành trái phiếu chuyển đổi Những biện pháp này nhằm nâng cao năng lực tài chính và đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn thực theo chuẩn.

Basel 2, đảm bảo thanh khoản, không để xảy ra tình trạng đột biến rút tiền, tránh đổ vỡ hệ thống

Để nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam, cần đáp ứng yêu cầu phát triển ổn định và hiệu quả theo tiêu chuẩn quốc tế Các NHTM cần xây dựng chiến lược tăng vốn kết hợp với việc sử dụng vốn hợp lý nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững.

Đánh giá tình hình an ninh tài chính vĩ mô ở Việt Nam qua các chỉ tiêu19

3.1.1 Sức mạnh và hoạt động kinh tế

Chỉ tiêu này được đo lường bởi các yếu tố sau:

(1) Mức độ giàu có của người dân: Để đo lường mức độ giàu có của người dân người ta thường dùng chỉ tiêu

Chỉ số GDP (Tổng sản phẩm quốc nội) là một thước đo quan trọng để đánh giá sức mạnh và hoạt động kinh tế Theo nghiên cứu của Cheng (2015) và nhiều tác giả khác, GDP bình quân đầu người thực được sử dụng như một chỉ tiêu để đo lường sự giàu có của người dân Do đó, nhóm tác giả đã lựa chọn chỉ tiêu GDP bình quân thực, đã loại bỏ ảnh hưởng của sự thay đổi giá cả, nhằm mục đích so sánh hiệu quả hơn.

GDP bình quân đầu người theo thời gian và so sánh sự thịnh vượng của Việt

Việt Nam có quy mô dân số đa dạng và để đánh giá mức độ giàu có của quốc gia này, chúng ta sẽ dựa trên dữ liệu từ Ngân hàng Thế giới (World Bank) Bằng cách so sánh GDP bình quân đầu người của Việt Nam với các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới, chúng ta có thể có cái nhìn rõ ràng hơn về vị thế kinh tế của Việt Nam Đồ thị 3.1 minh họa GDP bình quân đầu người của Việt Nam cùng với các quốc gia trong khu vực, cho thấy sự khác biệt và tương đồng về mặt kinh tế.

(Nguồn: World Bank ) (https://databank.worldbank.org/indicator/NY.GDP.PCAP.CD/1ff4a498/Popular

Theo dữ liệu từ Ngân hàng Thế giới, GDP bình quân thực tính trên đầu người của Việt Nam đã tăng nhanh từ năm 2000 Cụ thể, năm 2000, GDP thực bình quân đạt 390,1 USD/người/năm, và đến năm 2010 con số này đã tăng lên 1317,9 USD, tương đương với mức tăng 3,37 lần.

Năm 2018, GDP thực bình quân đầu người của Việt Nam đạt 2.566,6 USD, tăng 6,5 lần so với năm 2000, 1,9 lần so với năm 2010 và 1,08 lần so với năm 2017 Sự tăng trưởng này thể hiện sự phát triển kinh tế mạnh mẽ của Việt Nam trong giai đoạn 2000-2018.

Trong giai đoạn 2010-2018, GDP bình quân thực đầu người của Việt Nam đạt 1.967,1 USD/năm, với mức 1.824,6 USD/người/năm vào năm 2018 Sự phát triển kinh tế của Việt Nam trong 30 năm qua, đặc biệt từ khi đổi mới năm 1986, đã giúp hơn 45 triệu người thoát nghèo, giảm tỷ lệ nghèo từ trên 70% xuống dưới 6% Tuy nhiên, GDP thực bình quân đầu người của Việt Nam vẫn thấp so với các nước ASEAN như Singapore, Brunei, Malaysia, Thái Lan và Indonesia Cụ thể, năm 2018, GDP thực bình quân đầu người của Singapore gấp 25,8 lần Việt Nam, trong khi Malaysia gấp 4,5 lần Mặc dù GDP đầu người đã tăng 2,5 lần từ năm 2008 đến 2018, Việt Nam vẫn nằm trong nhóm nước có GDP thực bình quân đầu người trung bình thấp, ngang bằng với các quốc gia như Malaysia năm 1988 và Hàn Quốc năm 1982 Trong khu vực ASEAN, GDP thực bình quân đầu người của Việt Nam chỉ cao hơn Lào, Campuchia và Myanmar, cho thấy sự chênh lệch trong phát triển kinh tế giữa các quốc gia trong khu vực.

Mức độ giàu có của người dân Việt Nam hiện nay còn thấp so với các quốc gia trong khu vực, cho thấy khoảng cách kinh tế giữa Việt Nam và các nước láng giềng vẫn còn khá xa.

Tại Việt Nam, bất bình đẳng kinh tế, hay còn gọi là bất bình đẳng thu nhập, đang là một vấn đề đáng lo ngại, thể hiện qua sự chênh lệch trong phân phối tài sản và thu nhập giữa các cá nhân, nhóm xã hội và quốc gia Nghiên cứu chỉ ra rằng bất bình đẳng thu nhập không chỉ gây ra nhiều hệ lụy xã hội mà còn ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế Cụ thể, nó làm giảm chất lượng cuộc sống, gia tăng tỷ lệ nghèo đói và cản trở sự phát triển trong lĩnh vực y tế và giáo dục Đặc biệt, những người nghèo thường phải chịu tác động nặng nề hơn, với tình trạng tội phạm gia tăng do bất bình đẳng Theo John W (2003), trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế 10%, người nghèo chỉ hưởng lợi rất ít, trong khi người giàu có nhiều cơ hội để gia tăng phúc lợi Điều này cho thấy rằng, mặc dù tăng trưởng kinh tế có thể giúp xóa đói giảm nghèo, nhưng đồng thời cũng làm gia tăng khoảng cách giàu nghèo Tác giả Võ Hồng Đức (2019) cũng nhấn mạnh rằng bất bình đẳng thu nhập không chỉ ảnh hưởng tiêu cực đến phát triển kinh tế mà còn làm chậm tốc độ tăng trưởng kinh tế.

Trong giai đoạn 2000-2018, nền kinh tế Việt Nam đã có những cải thiện đáng kể, nâng cao đời sống và chất lượng cuộc sống của người dân Tuy nhiên, để đánh giá sự bình đẳng trong thu nhập, cần sử dụng nhiều thước đo khác nhau như hệ số Gini, hệ số giãn cách thu nhập và tiêu chuẩn 40WB Hệ số giãn cách thu nhập được tính bằng tỷ số giữa thu nhập của 20% dân số có thu nhập cao nhất và 20% dân số có thu nhập thấp nhất; hệ số này càng lớn thì mức độ bất bình đẳng càng cao Tiêu chuẩn 40WB, do Ngân hàng Thế giới đề xuất, tính bằng tỷ lệ thu nhập của 40% dân số có thu nhập thấp nhất so với tổng thu nhập của toàn bộ dân cư.

22 tỷ lệ này trên 17%, ta có bất bình đẳng ở mức thấp, từ 12% đến 17%, ta có bất bình đẳng ở mức vừa, dưới 12% là bất bình đẳng ở mức cao

Hệ số Gini cho thấy mức độ bất bình đẳng trong phân phối thu nhập tại Việt Nam đang gia tăng So với mức thấp nhất vào năm 2002, đến năm 2018, mức độ bất bình đẳng đã tăng 0,4 điểm phần trăm, và con số chính thức có thể còn cao hơn Trong suốt hai giai đoạn này, đã có hai chu kỳ tăng đạt đỉnh vào năm 2018.

Năm 2008 đánh dấu cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, ảnh hưởng sâu rộng đến mọi quốc gia Đến năm 2016, nền kinh tế thế giới vẫn ảm đạm, đối mặt với nhiều thách thức như khủng hoảng người di cư và quyết định của Anh rời khỏi Liên minh châu Âu (EU).

Hệ số giãn cách thu nhập và tỷ trọng thu nhập của 40% người nghèo nhất cho thấy bất bình đẳng gia tăng không ngừng qua các năm, bất chấp các khủng hoảng hay biến cố Dữ liệu từ Tổng cục Thống kê vào năm 2018 chỉ ra rằng mức độ bất bình đẳng đã đạt đỉnh cao nhất trong suốt giai đoạn, với nhóm giàu nhất có thu nhập gấp 10 lần nhóm nghèo nhất, tăng từ 8 lần vào năm 2002 Mặc dù vậy, so với tiêu chuẩn 40WB của Ngân hàng Thế giới, tình hình vẫn còn nhiều thách thức.

Mức độ bất bình đẳng thu nhập tại Việt Nam hiện nay đang ở mức cao, mặc dù tỷ lệ này luôn duy trì trên 17%, cho thấy sự ổn định tương đối so với thế giới Đồ thị 3.2 minh họa sự khác biệt trong mức độ bất bình đẳng thu nhập giữa khu vực nông thôn và thành thị.

(Nguồn số liệu: Tổng cục Thống kê - (Trích theo Nguyễn Thanh Hằng) )

Bất bình đẳng thu nhập đang gia tăng trên toàn quốc, với nhóm dân cư nghèo nhất là đối tượng chịu ảnh hưởng nặng nề nhất Theo tiêu chí “Mức độ giàu có của người dân” của Cheng, tình trạng này càng trở nên rõ ràng hơn.

Giai đoạn 2000-2018, Việt Nam đạt thứ hạng thứ 2 về mức độ an ninh tài chính thấp, cho thấy sự giàu có của người dân vẫn ở mức thấp Điều này đồng nghĩa với việc mức độ an ninh tài chính của quốc gia cũng không được cao.

(2) Quy mô kinh tế và mức độ phát triển

Quy mô kinh tế Việt Nam được thể hiện qua chỉ số GDP thực, liên tục tăng trưởng từ năm 2000 đến nay Cụ thể, GDP thực của Việt Nam năm 2000 đạt 31,17 tỷ USD, tăng lên 115,93 tỷ USD vào năm 2010 Đến năm 2018, GDP thực đã đạt 245,21 tỷ USD, tương đương với mức tăng 2,11 lần so với năm 2010 và 7,86 lần so với năm 2000.

(https://databank.worldbank.org/indicator/NY.GDP.PCAP.CD/1ff4a498/Popular -Indicators)

Những thuận lợi và khó khăn của Việt Nam trong việc đảm bảo an ninh tài chính

Trong bối cảnh hội nhập tài chính ngày càng sâu rộng, những bất ổn trên thị trường tài chính toàn cầu có tác động trực tiếp đến an ninh tài chính của Việt Nam, ảnh hưởng đến các thị trường tiền tệ, chứng khoán và bảo hiểm Giai đoạn 2000-

Năm 2007, Việt Nam có mức độ hội nhập quốc tế thấp, dẫn đến nền kinh tế và an ninh tài chính quốc gia ít bị ảnh hưởng bởi các cú sốc bên ngoài, trong khi hệ thống tài chính phát triển ổn định trong giai đoạn này.

Từ năm 2007 đến nay, Việt Nam đã hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu, đặc biệt sau khi gia nhập WTO Tuy nhiên, sự bất ổn của nền kinh tế thế giới vào năm 2008 đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh tài chính quốc gia, dẫn đến nhiều rủi ro Các chỉ tiêu vĩ mô như tăng trưởng kinh tế giảm, lạm phát tăng, thu nhập bình quân đầu người thấp hơn so với các nước trong khu vực, nợ công cao và nợ xấu gia tăng đã thể hiện rõ những thách thức này.

Trước sự biến động của tỷ giá hối đoái trong 48 giờ qua, Chính phủ và các cơ quan liên quan đã triển khai nhiều biện pháp nhằm đảm bảo sự phát triển an toàn của hệ thống tài chính, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô Việt Nam đã có nhiều thuận lợi để thực hiện mục tiêu này.

Việt Nam có chế độ chính trị ổn định, có sự lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt của

Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương Đảng cùng các cơ quan liên quan đang tích cực tổ chức và thực hiện các chủ trương, giải pháp nhằm đảm bảo an ninh và an toàn cho hệ thống tài chính.

An ninh tài chính đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế bền vững và ổn định Các nghị quyết của Đảng và chiến lược phát triển tài chính qua từng giai đoạn đã thể hiện rõ điều này Đặc biệt, Chỉ thị số 12-CT/TW, ban hành ngày 5-1-2017, nhấn mạnh việc tăng cường lãnh đạo của Đảng trong công tác bảo đảm an ninh kinh tế, phù hợp với phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế Đây là chỉ thị đầu tiên của Bộ Chính trị liên quan đến bảo đảm an ninh kinh tế.

Chính phủ Việt Nam đã triển khai Chương trình hành động cụ thể theo Nghị quyết số 30/NQ-CP nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và khai thác các nguồn lực của nền kinh tế, với mục tiêu phát triển nguồn nhân lực, vật lực và tài lực Việt Nam đã vượt qua các cấm vận kinh tế và chủ động hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu, mở rộng quan hệ quốc tế, thương mại và đầu tư Điều này đã tạo điều kiện cho Việt Nam phát huy lợi thế so sánh, cải thiện các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng kinh tế ổn định và thu hút vốn đầu tư nước ngoài Hội nhập kinh tế quốc tế còn góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, đảm bảo an toàn trong hệ thống tài chính và linh hoạt trong chính sách tài chính – tiền tệ.

Tình hình thế giới hiện đang biến động phức tạp, với kinh tế toàn cầu vừa phục hồi sau khủng hoảng tài chính nhưng tốc độ tăng trưởng đang chậm lại Sự chậm lại này tiềm ẩn nguy cơ khủng hoảng và suy thoái, ảnh hưởng đáng kể đến nền kinh tế Việt Nam và an ninh tài chính của quốc gia.

Mặc dù Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu kinh tế, nhưng tăng trưởng vẫn chưa phát huy hết tiềm năng Mô hình tăng trưởng hiện tại, chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên thiên nhiên, lao động giá rẻ và đầu tư nước ngoài, đã đến giới hạn của nó (Lê Đăng Doanh, 2016).

Chủ trương của Đảng về an ninh kinh tế và tài chính đã được khẳng định qua nhiều nghị quyết, nhưng nhận thức về hội nhập và phòng ngừa rủi ro tài chính vẫn chưa đầy đủ Hệ thống pháp luật và chính sách quản lý, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính, thương mại và đầu tư, còn thiếu hoàn thiện và đồng bộ, gây ra nguy cơ cho an ninh tài chính.

Khi Việt Nam hội nhập sâu vào nền kinh tế toàn cầu, bên cạnh những lợi ích rõ ràng, cũng tồn tại nguy cơ gia tăng bất ổn cho nền kinh tế.

Rủi ro tài chính tại Việt Nam đang gia tăng, bao gồm các khoản nợ nước ngoài không kiểm soát, rủi ro trong kinh doanh chứng khoán, và nợ công vượt mức an toàn so với GDP Thêm vào đó, rủi ro tỷ giá và sự thoái lui đầu tư từ nước ngoài cũng đang là những mối lo ngại lớn Mặc dù quy mô thị trường tài chính Việt Nam đã được mở rộng, nhưng vẫn còn khá nhỏ so với các quốc gia trong khu vực, khiến cho thị trường này dễ bị ảnh hưởng bởi những biến động từ thị trường quốc tế.

Hệ thống tài chính hiện tại chủ yếu mang tính hành chính, với tín dụng chủ yếu được cấp cho các tập đoàn và tổng công ty nhà nước với lãi suất thấp Điều này dẫn đến sự phân bổ nguồn lực không hiệu quả, khi doanh nghiệp nhà nước tiêu tốn nhiều vốn nhưng đóng góp cho tăng trưởng kinh tế lại chưa tương xứng.

Hệ thống giám sát tài chính đang đối mặt với thách thức lớn trong việc theo dõi việc thực hiện các quy định của các định chế tài chính, đặc biệt trong bối cảnh thị trường đang thay đổi nhanh chóng.

Sự tăng trưởng mạnh mẽ và tính chất xuyên biên giới của 50 lĩnh vực đang diễn ra, tuy nhiên, việc cập nhật công nghệ quản lý thông tin và dữ liệu quy mô lớn vẫn còn chậm trễ Điều này dẫn đến nhiều khoảng trống trong quản lý và giám sát thị trường, cần khắc phục để đảm bảo hiệu quả hoạt động.

ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ GÓP PHẦN NÂNG CAO HOẠT ĐỘNG AN NINH TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM

Ngày đăng: 06/01/2022, 16:59

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Andrew Berg, Jonathan D.Ostry, Jeromin Zettelmeyer, “What makes growth sustained”, IMF Working Paper, Washington Sách, tạp chí
Tiêu đề: What makes growth sustained
Tác giả: Andrew Berg, Jonathan D.Ostry, Jeromin Zettelmeyer
Nhà XB: IMF Working Paper
2. Cheng.X (2015), “Research of China’s Financial Safety Indicator”, Proceedings of 2015 2nd International Conference on Industrial Economics System and Industrial Security Engineering ISBN 978-981-287-655-3,p 119-126 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Research of China’s Financial Safety Indicator
Tác giả: Cheng.X
Nhà XB: Proceedings of 2015 2nd International Conference on Industrial Economics System and Industrial Security Engineering
Năm: 2015
3. Fujing,Y (2007) “Financial Opening and Financial Security” Chinese Journal of International Politics, 1, pp 559 - 587 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Financial Opening and Financial Security
Tác giả: Fujing, Y
Nhà XB: Chinese Journal of International Politics
Năm: 2007
4.IMF, 1998, World Economic Outlook 1998: Financial Crises: Causes and Indicators, Washington, D.C, The International Monetary Fund, 1998 Sách, tạp chí
Tiêu đề: World Economic Outlook 1998: Financial Crises: Causes and Indicators
Tác giả: IMF
Nhà XB: The International Monetary Fund
Năm: 1998
5. John W. và các cộng sự (2003), “Kinh tế vĩ mô của giảm nghèo: Nghiên cứu trường hợp Việt Nam – Việt Nam tìm kiếm bình đẳng trong tăng trưởng”, Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kinh tế vĩ mô của giảm nghèo: Nghiên cứu trường hợp Việt Nam – Việt Nam tìm kiếm bình đẳng trong tăng trưởng
Tác giả: John W., các cộng sự
Nhà XB: Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP)
Năm: 2003
6. Koval, L.P (2013) “Concepts and categorical apparatus of financial security investigation” Financial Space, 3(11) pp 101-103 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Concepts and categorical apparatus of financial security investigation
Tác giả: Koval, L.P
Nhà XB: Financial Space
Năm: 2013
7. Pochenchuk, G, 2014, Issues of country financial security govemance. Forum Scientiae Oeconomina 2(2) p 29-37 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Issues of country financial security govemance
8. Svetlana N. Grib (2015) “Financial Security Assessment of The Krasnoyarsk Territory (Krai)” Journal of Siberian Federal University. Humanities &Social Sciences 11 (2015 8) 2316-2324 Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Financial Security Assessment of The Krasnoyarsk Territory (Krai)”
9. Temasek Foundation. (2014), Risk assessment Framwork for banks - CRAFT, July 2014 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Risk assessment Framwork for banks - CRAFT
Tác giả: Temasek Foundation
Năm: 2014
11.Vũ Đình Ánh (2017) “An ninh tài chính trong hoạt động ngân hàng” truy cập: bcsi.edu.vn/.../6__AN_NINH_TaI_CHiNH_TRONG_HOaT_doNG_NGaN_HaNG.pdf Sách, tạp chí
Tiêu đề: An ninh tài chính trong hoạt động ngân hàng
Tác giả: Vũ Đình Ánh
Năm: 2017
13. Trần Thọ Đạt, Tô Trung Thành (2015) “Đánh giá an ninh tài chính Việt Nam thông qua các chỉ tiêu an toàn tài chính giai đoạn 2006-2014” Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 216(II) , 6/2015 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đánh giá an ninh tài chính Việt Nam thông qua các chỉ tiêu an toàn tài chính giai đoạn 2006-2014
14. Nguyễn Thị Hạnh (2016) “Thực trạng và giải pháp giảm thất nghiệp ở Việt Nam hiện nay” Tạp chí Công Thương 1/2016 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thực trạng và giải pháp giảm thất nghiệp ở Việt Nam hiện nay
Tác giả: Nguyễn Thị Hạnh
Nhà XB: Tạp chí Công Thương
Năm: 2016
15. Nguyễn Thanh Hằng (2019) “Thực trạng bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam giai đoạn 2002-2018” Tạp chí Con số và sự kiện , 12/2019 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thực trạng bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam giai đoạn 2002-2018
Tác giả: Nguyễn Thanh Hằng
Nhà XB: Tạp chí Con số và sự kiện
Năm: 2019
16. Nguyễn Thị Hòa (2018) “Các mô hình giám sát tài chính phổ biến trên thế giới và liên hệ Việt Nam” Tạp chí khoa học ngân hàng, 5/2018 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Các mô hình giám sát tài chính phổ biến trên thế giới và liên hệ Việt Nam
Tác giả: Nguyễn Thị Hòa
Nhà XB: Tạp chí khoa học ngân hàng
Năm: 2018
17. Phùng Ngọc Khánh (2018) “ Phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam” Tạp chí Tài chính, số 1/2018 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam
Tác giả: Phùng Ngọc Khánh
Nhà XB: Tạp chí Tài chính
Năm: 2018
10. Temasek Foundation,.(2014), On-site Supervision of Banks, July 2014. Tiếng Việt Khác

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

1  Bảng 2.1: Các nghiên cứu về an ninh tài chính trên thế giới  10 - Đánh giá tình hình an ninh tài chính ở việt nam trong giai đoạn hiện nay
1 Bảng 2.1: Các nghiên cứu về an ninh tài chính trên thế giới 10 (Trang 8)
Bảng 2.1: Các nghiên cứu về an ninh tài chính trên thế giới - Đánh giá tình hình an ninh tài chính ở việt nam trong giai đoạn hiện nay
Bảng 2.1 Các nghiên cứu về an ninh tài chính trên thế giới (Trang 23)
Bảng 2.2: Các nghiên cứu về an ninh tài chính ở Việt Nam - Đánh giá tình hình an ninh tài chính ở việt nam trong giai đoạn hiện nay
Bảng 2.2 Các nghiên cứu về an ninh tài chính ở Việt Nam (Trang 25)
Đồ thị 3.1: GDP bình quân đầu người của Việt Nam và các quốc gia trong - Đánh giá tình hình an ninh tài chính ở việt nam trong giai đoạn hiện nay
th ị 3.1: GDP bình quân đầu người của Việt Nam và các quốc gia trong (Trang 32)
Đồ thị 3.2: Mức độ bất bình đẳng thu nhập khu vực nông thôn và thành thị - Đánh giá tình hình an ninh tài chính ở việt nam trong giai đoạn hiện nay
th ị 3.2: Mức độ bất bình đẳng thu nhập khu vực nông thôn và thành thị (Trang 35)
Đồ thị 3.4: GDP thực của Việt Nam và số nước trong khu vực ASEAN năm - Đánh giá tình hình an ninh tài chính ở việt nam trong giai đoạn hiện nay
th ị 3.4: GDP thực của Việt Nam và số nước trong khu vực ASEAN năm (Trang 37)
Đồ thị 3.5: Tốc độ tăng trưởng GDP thực bình quân đầu người hàng năm - Đánh giá tình hình an ninh tài chính ở việt nam trong giai đoạn hiện nay
th ị 3.5: Tốc độ tăng trưởng GDP thực bình quân đầu người hàng năm (Trang 40)
Bảng 3.1: Tỷ lệ thất nghiệp của Việt Nam và các quốc gia trong khu vực - Đánh giá tình hình an ninh tài chính ở việt nam trong giai đoạn hiện nay
Bảng 3.1 Tỷ lệ thất nghiệp của Việt Nam và các quốc gia trong khu vực (Trang 43)
Bảng 3.2: Các chỉ số dùng để đánh giá mức độ nợ của Ngân hàng thế giới - Đánh giá tình hình an ninh tài chính ở việt nam trong giai đoạn hiện nay
Bảng 3.2 Các chỉ số dùng để đánh giá mức độ nợ của Ngân hàng thế giới (Trang 45)
Bảng 3.3: Một số chỉ tiêu chính về nợ nước ngoài của Việt Nam - Đánh giá tình hình an ninh tài chính ở việt nam trong giai đoạn hiện nay
Bảng 3.3 Một số chỉ tiêu chính về nợ nước ngoài của Việt Nam (Trang 46)
Hình  3.6  :  Nợ  công/GDP  của  Việt  Nam  và  một  số  quốc  gia  khu  vực  Đông  Nam Á năm 2018 - Đánh giá tình hình an ninh tài chính ở việt nam trong giai đoạn hiện nay
nh 3.6 : Nợ công/GDP của Việt Nam và một số quốc gia khu vực Đông Nam Á năm 2018 (Trang 49)
Đồ thị 3.7: Tỷ lệ thâm hụt ngân sách trên tổng thu ngân sách ở Việt Nam - Đánh giá tình hình an ninh tài chính ở việt nam trong giai đoạn hiện nay
th ị 3.7: Tỷ lệ thâm hụt ngân sách trên tổng thu ngân sách ở Việt Nam (Trang 49)
Đồ thị 3.8: Lạm phát và tăng trưởng kinh tế ở Việt  Nam giai đoạn 2000  – - Đánh giá tình hình an ninh tài chính ở việt nam trong giai đoạn hiện nay
th ị 3.8: Lạm phát và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam giai đoạn 2000 – (Trang 51)
Đồ thị 3.9 : Cán cân thương mại, cán cân vãng lai và cán cân thanh toán - Đánh giá tình hình an ninh tài chính ở việt nam trong giai đoạn hiện nay
th ị 3.9 : Cán cân thương mại, cán cân vãng lai và cán cân thanh toán (Trang 52)
Đồ thị 3.10: Tốc độ tăng trưởng tín dụng của Việt Nam giai đoạn 2010-2018 - Đánh giá tình hình an ninh tài chính ở việt nam trong giai đoạn hiện nay
th ị 3.10: Tốc độ tăng trưởng tín dụng của Việt Nam giai đoạn 2010-2018 (Trang 57)

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w