CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Khái niệm, đặc điểm, chủ thể tổ chức thực hiện pháp luật cán bộ, công chức
1.1.1 Khái niệm công chức và tổ chức thực hiện pháp luật về cán bộ, công chức
Vào ngày 13 tháng 11 năm 2008, Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật Cán bộ, công chức, và luật này đã được sửa đổi, bổ sung vào năm 2019 Theo Khoản 1 Điều 1 của Luật sửa đổi năm 2019, công chức được định nghĩa là công dân.
Việt Nam tuyển dụng và bổ nhiệm nhân sự vào các vị trí việc làm trong biên chế, hưởng lương từ ngân sách Nhà nước tại các cơ quan của Đảng Cộng sản, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở các cấp trung ương, tỉnh, huyện; cũng như tại các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân và Công an nhân dân, không bao gồm sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng hay sĩ quan, hạ sĩ quan phục vụ theo chế độ chuyên nghiệp.
Công chức được phân loại dựa trên trình độ đào tạo và vị trí công tác Theo trình độ đào tạo, công chức được chia thành bốn loại: A, B, C và D Về vị trí công tác, công chức được phân thành hai nhóm chính: công chức lãnh đạo (có trách nhiệm chỉ huy và điều hành) và công chức chuyên môn nghiệp vụ.
Công chức có ba đặc điểm chính: được tuyển dụng và bổ nhiệm vào một vị trí công vụ ổn định trong cơ quan nhà nước; được phân loại theo ngạch, thể hiện tính ổn định trong công việc; và nhận lương từ ngân sách nhà nước.
Công chức là những cá nhân được Nhà nước tuyển dụng và bổ nhiệm vào các vị trí công vụ thường xuyên, làm việc liên tục trong các cơ quan nhà nước hoặc các đơn vị thuộc quân đội và công an nhân dân Họ được phân loại dựa trên trình độ đào tạo và ngành chuyên môn, xếp vào ngạch hành chính hoặc đơn vị sự nghiệp, có biên chế và nhận lương từ ngân sách nhà nước.
1.1.1.2 Khái niệm tổ chức thực hiện pháp luật cán bộ, công chức
Khái niệm thực hiện pháp luật:
Thực hiện pháp luật là một yêu cầu thiết yếu của xã hội, Nhà nước, cá nhân và tổ chức Các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác – Lênin nhấn mạnh rằng việc thực hiện pháp luật không chỉ là việc thể hiện ý chí của Nhà nước mà còn là một yếu tố quan trọng trong pháp chế xã hội chủ nghĩa Nội dung cốt lõi của pháp chế chính là sự tuân thủ pháp luật một cách triệt để Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm thực hiện pháp luật.
Theo quan điểm thứ nhất, thực hiện pháp luật được định nghĩa là hành vi hoặc không hành vi của con người phù hợp với các quy định pháp luật Tất cả các hoạt động của cá nhân và tổ chức nếu tuân thủ quy định pháp luật đều được coi là thực hiện pháp luật Hành vi thực hiện pháp luật thể hiện qua sự tuân thủ của con người đối với các quy định pháp lý.
Quan điểm thứ hai nhấn mạnh rằng việc thực hiện pháp luật là một hoạt động có mục đích, nhằm đảm bảo các quy định pháp luật được áp dụng và thực thi trong thực tiễn, từ đó đưa các quy định này vào cuộc sống.
Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh đã xuất bản Giáo trình xây dựng đảng dành cho hệ cử nhân chính trị vào năm 2006 Tài liệu này được phát hành bởi Nhà xuất bản Lý luận chính trị tại Hà Nội, và cung cấp những kiến thức quan trọng về xây dựng đảng, góp phần vào việc nâng cao năng lực lãnh đạo và quản lý trong lĩnh vực chính trị.
Theo Giáo trình Lý luận chung Nhà nước và Pháp luật của Đại học Quốc gia Hà Nội, việc thực hiện pháp luật không chỉ là hành vi của cá nhân mà còn bao gồm hoạt động của các tổ chức và cơ quan nhà nước nhằm tuân thủ các quy định pháp luật Để các quy định này trở thành hành vi hợp pháp, cần có công tác tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật Tuy nhiên, tác giả Nguyễn Minh Đoan đã đưa ra những quan điểm khác về vấn đề này.
Việc thực hiện pháp luật là cần thiết để đảm bảo các chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước Tất cả các nhà nước đều phải xây dựng và ban hành quy phạm pháp luật để quản lý xã hội, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phục vụ lợi ích và mục đích chung của Nhà nước và xã hội.
Để thực hiện vai trò quản lý xã hội, Nhà nước cần đồng thời xây dựng, hoàn thiện và thực hiện pháp luật Thực hiện pháp luật là một hình thức quan trọng để Nhà nước thực hiện chức năng của mình Tóm lại, các quan điểm và cách tiếp cận về thực hiện pháp luật đều mang đến những hiểu biết và luận giải khác nhau Dựa trên những quan điểm này, chúng ta có thể đưa ra một cách hiểu chung nhất về thực hiện pháp luật.
Thực hiện pháp luật là quá trình có mục đích nhằm biến các quy định pháp luật thành hiện thực trong đời sống, phục vụ cho mục tiêu quản lý của Nhà nước.
Nhà nước Việt Nam là một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phục vụ lợi ích của nhân dân Cán bộ và công chức Nhà nước được xem như là những "công bộc" của dân, thể hiện trách nhiệm và nghĩa vụ trong việc phục vụ cộng đồng.
17 Phạm Hồng Thái (2008), Lý luận chung về Nhà nước và Pháp luật, Nxb Giao thông vận tải, Hà Nội, tr.463
Pháp luật do Nhà nước ban hành nhằm bảo vệ quyền lợi của nhân dân và điều chỉnh hành vi của cán bộ, công chức trong hoạt động công vụ Tuy nhiên, việc pháp luật có được thực thi hiệu quả trong thực tế hay không phụ thuộc vào khả năng tổ chức và thực hiện của đội ngũ cán bộ, công chức Qua việc phân tích, khái niệm thực hiện pháp luật và thực hiện pháp luật của cán bộ, công chức được làm rõ hơn.
Nội dung tổ chức thực hiện pháp luật cán bộ, công chức
1.2.1 Tổ chức, phổ biến, tuyên truyền pháp luật cán bộ, công chức
Tổ chức tuyên truyền và phổ biến pháp luật cho cán bộ, công chức là một nhiệm vụ quan trọng nhằm đảm bảo họ không vi phạm các quy định pháp luật Qua việc này, cán bộ, công chức sẽ nâng cao nhận thức về những hành vi hợp pháp theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức Công tác tuyên truyền có thể được thực hiện qua nhiều hình thức đa dạng như tuyên truyền miệng, tổ chức các cuộc thi tìm hiểu, phát tờ rơi, và sử dụng hệ thống thông tin đại chúng.
Tuyên truyền miệng về pháp luật là hình thức phổ biến, trong đó người nói trực tiếp truyền đạt thông tin pháp luật nhằm nâng cao nhận thức và niềm tin của người nghe đối với pháp luật Hình thức này có nhiều ưu điểm như tính linh hoạt, khả năng diễn ra ở mọi nơi và điều kiện, cũng như tạo cơ hội cho việc giải thích và hỏi đáp trực tiếp Tuyên truyền miệng đóng vai trò quan trọng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và thường được kết hợp chặt chẽ với các hình thức khác để đạt hiệu quả cao hơn.
Tuyên truyền và phổ biến pháp luật cho cán bộ, công chức có thể được thực hiện thông qua việc biên soạn và phát hành các tài liệu pháp luật đa dạng, như đề cương tuyên truyền, văn bản pháp luật, sách hướng dẫn, sách hỏi đáp pháp luật, tờ rơi và bản tin Trong các hoạt động giảng dạy và học tập, tài liệu pháp luật đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục và nâng cao nhận thức pháp luật cho cán bộ, công chức Để đạt hiệu quả cao trong công tác này, chất lượng nội dung và hình thức của các tài liệu pháp luật cần được chú trọng.
Để pháp luật về cán bộ, công chức trở nên gần gũi và dễ tiếp cận trong quản lý nhà nước, việc tuyên truyền và phổ biến pháp luật là rất quan trọng Điều này có thể thực hiện thông qua tổ chức các cuộc thi tìm hiểu pháp luật, tăng cường hoạt động thực thi pháp luật và thực hiện cam kết không vi phạm pháp luật.
1.2.2 Bảo đảm cán bộ, công chức thực thi đúng các quyền và nghĩa vụ đối với cán bộ, công chức
Theo Điều 8 Luật cán bộ, công chức, công chức có nghĩa vụ trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bảo vệ danh dự Tổ quốc, tôn trọng và phục vụ nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân Họ phải chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước Theo Điều 9, công chức cần thực hiện đúng nhiệm vụ, có ý thức tổ chức kỷ luật, tuân thủ nội quy và báo cáo hành vi vi phạm pháp luật Họ cũng phải bảo vệ bí mật nhà nước, phối hợp chặt chẽ trong công vụ, giữ gìn đoàn kết, quản lý và sử dụng hiệu quả tài sản nhà nước, đồng thời chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình.
Việc thực hiện pháp luật đối với cán bộ, công chức cần bảo đảm đầy đủ quyền lợi của họ theo quy định của pháp luật.
Theo Điều 11, quyền được bảo đảm các điều kiện thi hành công vụ bao gồm việc được giao quyền tương xứng với nhiệm vụ, đảm bảo trang thiết bị và các điều kiện làm việc theo quy định pháp luật, cung cấp thông tin liên quan đến nhiệm vụ và quyền hạn, cũng như được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ Ngoài ra, pháp luật cũng bảo vệ quyền lợi của cá nhân khi thi hành công vụ.
Công chức có quyền được hưởng lương và các chế độ liên quan đến tiền lương, với mức lương đảm bảo tương xứng với nhiệm vụ và quyền hạn được giao, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước Những công chức làm việc ở miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, và các khu vực có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn sẽ được hưởng phụ cấp và chính sách ưu đãi theo quy định Họ cũng có quyền nhận tiền làm thêm giờ, tiền làm đêm, công tác phí và các chế độ khác theo quy định của pháp luật.
Công chức có quyền được nghỉ ngơi theo Điều 13, bao gồm nghỉ hàng năm, nghỉ lễ và nghỉ để giải quyết việc riêng theo quy định của pháp luật lao động Nếu vì yêu cầu nhiệm vụ mà cán bộ, công chức không sử dụng hoặc sử dụng không hết số ngày nghỉ hàng năm, họ sẽ được thanh toán thêm một khoản tiền tương đương với tiền lương cho những ngày không nghỉ ngoài lương cơ bản.
Công chức có nhiều quyền lợi theo Điều 14, bao gồm quyền học tập, nghiên cứu khoa học, và tham gia các hoạt động kinh tế, xã hội Họ cũng được hưởng các chính sách ưu đãi về nhà ở, phương tiện đi lại, cũng như chế độ bảo hiểm xã hội và y tế theo quy định pháp luật Đặc biệt, nếu công chức bị thương hoặc hy sinh trong quá trình thi hành công vụ, họ sẽ được xem xét hưởng chế độ và chính sách như thương binh hoặc có thể được công nhận là liệt sĩ, cùng với các quyền lợi khác theo quy định của pháp luật.
Cán bộ, công chức có nghĩa vụ tuân thủ đầy đủ các quy định pháp luật liên quan đến chức trách của mình Mỗi cá nhân trong đội ngũ này cần thực hiện nghĩa vụ một cách nghiêm túc, đảm bảo sự minh bạch và hiệu quả trong công việc.
Cán bộ công chức có nghĩa vụ thực hiện các chuẩn mực đạo đức công vụ, bao gồm đạo đức công chức, văn hoá giao tiếp trong công sở và với nhân dân Điều 15 quy định về các phẩm chất cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư trong hoạt động công vụ Điều 16 nêu rõ văn hoá giao tiếp trong công sở, trong khi Điều 17 đề cập đến văn hoá giao tiếp với nhân dân, nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng phục vụ.
Nghĩa vụ không được thực hiện các hành vi trái pháp luật bao gồm việc vi phạm đạo đức công vụ (Điều 18), tiết lộ bí mật nhà nước (Điều 19), và các hành vi khác liên quan đến sản xuất, kinh doanh, nhân sự theo quy định của Luật phòng, chống tham nhũng, Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, cùng những quy định khác từ pháp luật và cơ quan có thẩm quyền.
1.2.3 Bảo đảm hoạt động quản lý cán bộ, công chức
Theo Điều 5 Luật cán bộ, công chức, việc quản lý cán bộ, công chức cần tuân thủ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự quản lý của Nhà nước, kết hợp giữa tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm và chỉ tiêu biên chế Nguyên tắc tập trung dân chủ, trách nhiệm cá nhân và phân công rõ ràng cũng phải được thực hiện Việc sử dụng, đánh giá và phân loại cán bộ, công chức dựa trên phẩm chất chính trị, đạo đức và năng lực thi hành công vụ, đồng thời thực hiện bình đẳng giới Các hoạt động quản lý bao gồm tuyển dụng, phân công công tác, sử dụng, đánh giá và phân loại công chức.
Tuyển dụng công chức là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng thực thi công vụ, cần căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ, vị trí việc làm và chỉ tiêu biên chế Tất cả công dân Việt Nam đủ điều kiện đều có cơ hội tham gia dự tuyển mà không phân biệt dân tộc, giới tính, thành phần xã hội hay tín ngưỡng Theo Nghị quyết Trung ương 5 Khoá X, việc tuyển dụng cho các vị trí tương ứng với ngạch chuyên viên trở xuống sẽ thực hiện thông qua hợp đồng có thời hạn, trong khi các vị trí tương ứng với ngạch chuyên viên chính trở lên sẽ được tuyển dụng lâu dài qua quyết định tuyển dụng Luật cán bộ, công chức quy định nguyên tắc tuyển dụng phải đảm bảo bình đẳng, công khai, khách quan và cạnh tranh, ưu tiên cho người có tài năng, người có công với nước và người dân tộc thiểu số Người trúng tuyển phải trải qua thời gian thử việc trước khi chính thức nhận nhiệm vụ.
Các yếu tố bảo đảm tổ chức thực hiện pháp luật cán bộ, công chức
Yếu tố pháp luật đóng vai trò quan trọng trong việc tổ chức thực hiện pháp luật cán bộ, công chức Các quy định pháp lý này tạo nền tảng cho các cơ quan nhà nước và công chức tuân thủ trong quá trình thực thi công vụ, đảm bảo sự hiệu quả và minh bạch trong hoạt động của bộ máy nhà nước.
Pháp luật cán bộ, công chức đóng vai trò quan trọng trong quản lý nhà nước, yêu cầu xác định rõ chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan, đơn vị Để đảm bảo hiệu quả hoạt động của bộ máy Nhà nước, cần thiết lập mối quan hệ hợp lý giữa các đơn vị và áp dụng phương pháp tổ chức phù hợp Tuy nhiên, thực tế tại Việt Nam cho thấy sự thiếu hụt hệ thống pháp luật về công chức đã dẫn đến tình trạng chồng chéo, không đúng chức năng, gây cồng kềnh và giảm hiệu quả quản lý công chức, đồng thời chưa tạo động lực cho họ trong việc thực thi công vụ.
Quản lý nhà nước là lĩnh vực rộng lớn, bao gồm nhiều mối quan hệ cần được điều chỉnh, trong đó quản lý nhân sự là vấn đề quan trọng của nền hành chính Pháp luật về cán bộ, công chức được quy định bởi hệ thống văn bản quy phạm pháp luật với thứ bậc khác nhau, điều chỉnh các vấn đề như tiêu chuẩn, quyền và nghĩa vụ của cán bộ, công chức, quy trình tuyển dụng, điều động, đánh giá, thôi việc, nghỉ hưu, khen thưởng, xử lý kỷ luật, và các chế độ chính sách như chế độ thai sản.
1.3.2 Yếu tố kinh tế - xã hội Điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước có ảnh hưởng rất lớn tới việc hoàn thiện pháp luật nói chung và pháp luật cán bộ, công chức nói riêng Mức độ hoàn thiện tổ chức thực hiện pháp luật cán bộ, công chức phản chiếu tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước Trong bất kỳ một xã hội, một quốc gia nào, thể chế quản lý cán bộ, công chức thường phản ánh trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước Kinh tế - xã hội càng phát triển, sẽ thúc đẩy cán bộ, công chức phát triển và ngược lại Pháp luật cán bộ, công chức chính là hệ thống văn bản pháp luật quản lý cán bộ, công chức Đứng trên lập trường chủ nghĩa duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin, trong mối quan hệ giữa kinh tế và pháp luật thì điều kiện kinh tế, các quan hệ kinh tế quyết định trực tiếp đến sự ra đời của pháp luật, đồng thời quyết định toàn bộ nội dung, hình thức, cơ cấu và sự phát triển của nó Các Mác đã viết:
Trong mọi thời đại, vua chúa luôn phải tuân theo các điều kiện kinh tế, thay vì có thể ra lệnh cho chúng Chế độ pháp luật, cả về chính trị lẫn dân sự, chỉ là phương tiện để phản ánh và ghi chép quyền lực xuất phát từ các mối quan hệ kinh tế.
Trong bối cảnh kinh tế - xã hội Việt Nam hiện nay, sự chuyển mình của đất nước đòi hỏi nhận thức sâu sắc về tác động của nền kinh tế thị trường Để đáp ứng yêu cầu này, một bộ máy Nhà nước năng động và hiệu quả là điều cần thiết Tuy nhiên, hiệu quả hoạt động của bộ máy Nhà nước phụ thuộc vào quyết định của đội ngũ công chức từ Trung ương đến cơ sở Do đó, việc hoàn thiện pháp luật liên quan đến cán bộ, công chức là rất quan trọng, nhằm xây dựng một hệ thống pháp luật đồng bộ và ổn định Điều này sẽ góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ công chức, từ đó cải thiện hiệu lực và hiệu quả quản lý của chính quyền địa phương trong thời kỳ mới.
1.3.3 Yếu tố năng lực của cán bộ, công chức
Năng lực của cán bộ, công chức luôn liên quan đến mục tiêu tổng thể và chiến lược phát triển của tổ chức, đồng thời phải phù hợp với lĩnh vực và điều kiện cụ thể Năng lực này gắn liền với quy trình và phương pháp làm việc hiệu quả, cũng như ứng dụng khoa học công nghệ Khi tình hình công việc và nhiệm vụ thay đổi, yêu cầu về năng lực cũng sẽ thay đổi theo Do đó, năng lực thực thi trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước của cán bộ, công chức được hiểu là khả năng hoàn thành nhiệm vụ được giao trong những điều kiện và hoàn cảnh nhất định.
Trong quản lý nhà nước, năng lực của công chức được định nghĩa là khả năng thực hiện hiệu quả các hoạt động tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước, nhằm quản lý đối tượng theo trật tự hành chính đã được quy định Điều này phải phù hợp với ý chí của nhà quản lý và đảm bảo tính hiệu quả trong quá trình thực hiện.
Năng lực thực thi công vụ là khả năng của công chức trong việc vận dụng kiến thức, kỹ năng, trình độ, thái độ và hành vi để hoàn thành nhiệm vụ được giao Nó không chỉ đơn thuần là các yếu tố riêng lẻ mà còn bao gồm khả năng kết hợp hài hoà những yếu tố này trong các tình huống cụ thể, nhằm đạt được hiệu quả công việc cao nhất.
Con người luôn là trung tâm của mọi vấn đề và là nguồn lực quan trọng nhất trong xã hội Sự tồn tại và phát triển của tổ chức phụ thuộc vào cách thức quản lý và định hướng con người, không thể áp đặt cứng nhắc Trong một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, pháp luật về công chức cần phải phù hợp với năng lực và nhận thức của đội ngũ công chức Việc xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật quản lý công chức phải được thực hiện bởi những tổ chức và cá nhân có trách nhiệm Mức độ tổ chức thực hiện pháp luật về công chức còn phụ thuộc vào năng lực của các cơ quan và cá nhân tham gia vào quá trình này.
1.3.4 Truyền thống, văn hoá, phong tục, tập quán
Văn hóa truyền thống dân tộc Việt Nam ảnh hưởng mạnh mẽ đến cách thức hoạt động của các tổ chức, với trọng tâm là cộng đồng và tập thể, dẫn đến việc cá nhân thường ít được chú trọng và thường chờ đợi sự chỉ đạo từ cấp trên Điều này tạo ra tình trạng trì trệ, ỷ lại và thiếu trách nhiệm trong công việc, đặc biệt trong hoạt động công vụ của công chức, khi mà chất lượng và hiệu quả thực thi thường bị xem nhẹ Thói quen tiêu dùng lãng phí và coi tài sản tập thể như "của chùa" cũng là vấn đề phổ biến Bên cạnh đó, sự né tránh mâu thuẫn và ngần ngại trước thay đổi phản ánh đặc tính văn hóa hành chính Việt Nam, gây khó khăn cho các nhà quản lý trong việc thu thập thông tin phản hồi Việc cải cách hành chính nhằm tái thiết những thói quen này trong khuôn khổ đã định ra là cần thiết để nâng cao hiệu lực và hiệu quả của nền hành chính, đồng thời phù hợp với xu thế phát triển toàn cầu.
Tổ chức thực hiện pháp luật cán bộ, công chức đóng vai trò quan trọng trong cải cách hành chính ở Việt Nam, đặc biệt tại tỉnh Lạng Sơn Việc nâng cao hiệu quả tổ chức này là cần thiết để đáp ứng yêu cầu thực tiễn Chương 1 của luận văn trình bày hệ thống lý luận về công chức và tổ chức thực hiện pháp luật cán bộ, công chức, đồng thời nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng như kinh tế - xã hội, pháp luật, con người, và văn hóa Những vấn đề lý luận này sẽ là cơ sở cho việc đánh giá thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật cán bộ, công chức trong Chương 2 của luận văn.
THỰC TRẠNG CỦA TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP TỈNH – TỪ THỰC TIỄN TỈNH LẠNG SƠN
Đặc điểm tình hình kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của tỉnh Lạng Sơn
2.1.1 Về vị tri địa lý, địa hình, đất đai
Lạng Sơn là tỉnh miền núi biên giới thuộc vùng Đông Bắc Việt Nam, có diện tích 8.310,09 km² Tỉnh nằm trên các tuyến quốc lộ 1A, 1B, 4A, 4B và 279, tạo điều kiện thuận lợi cho giao lưu kinh tế với các tỉnh như Cao Bằng, Thái Nguyên, Bắc Kạn, Quảng Ninh, Bắc Giang và khu tự trị dân tộc Choang, Quảng Tây, Trung Quốc Lạng Sơn có hai cửa khẩu quốc tế Hữu Nghị và Đồng Đăng, cùng với cửa khẩu chính Chi Ma và chín cửa khẩu phụ, góp phần thúc đẩy thương mại và du lịch trong khu vực.
Tài nguyên rừng của khu vực này bao gồm 512.559 ha đất lâm nghiệp có rừng, chiếm 61,6% tổng diện tích đất tự nhiên Mặc dù tài nguyên khoáng sản không phong phú, nhưng vẫn có khoảng 40 mỏ đá vôi đang được khai thác với tổng trữ lượng đạt 405 triệu m³, chủ yếu phục vụ cho ngành xây dựng.
2.1.3 Dân số, đơn vị hành chính
Dân số tỉnh Lạng Sơn năm 2019 đạt 782.811 người, trong đó 79,54% cư trú tại khu vực nông thôn Tỉnh có sự đa dạng về dân tộc với 07 nhóm chính, bao gồm Nùng chiếm 41,91%, Tày 35,43%, Kinh 16,99%, Dao 3,5%, Hoa 0,29%, Sán Chay 0,6%, Mông 0,17% và các dân tộc khác chiếm 0,11%.
Tỉnh Lạng Sơn có 11 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm 10 huyện và 01 thành phố loại II; 200 đơn vị hành chính cấp xã (gồm 181 xã, 05 phường và
20 Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Lạng Sơn, https://www.langson.gov.vn/index.php/en/node/68258, truy cập ngày 23 tháng 3 năm
Tính đến tháng 6/2020, tỉnh có tổng cộng 1.850 thôn và tổ dân phố, bao gồm 1.707 thôn và 143 tổ dân phố Trong số đó, có 31 xã thuộc khu vực I, 57 xã khu vực II, và 112 xã khu vực III Đặc biệt, tỉnh còn có 107 xã đặc biệt khó khăn, 04 xã an toàn khu, 03 xã biên giới, cùng 83 thôn đặc biệt khó khăn thuộc 24 xã khu vực II được đầu tư theo Chương trình 135.
Từ năm 2011 đến 2017, tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình hàng năm đạt 8 - 9%, với ngành nông, lâm nghiệp tăng 3 - 4%, công nghiệp - xây dựng tăng 9 - 11% và dịch vụ tăng 10 - 12% Cơ cấu kinh tế đang chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng của ngành nông, lâm nghiệp và tăng tỷ trọng của ngành công nghiệp.
Nông lâm nghiệp đóng góp 20,30%, công nghiệp - xây dựng chiếm 19,68%, trong khi dịch vụ chiếm tỷ lệ cao nhất với 49,78% Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm là 10,24% Năm 2018, thu nhập bình quân đầu người đạt 38,4 triệu đồng.
2.1.5 Về văn hoá – xã hội
- Tỷ lệ thôn, khối phố có nhà văn hóa đến năm 2018 đạt 96%
- Số trường đạt chuẩn quốc gia đến năm 2018 là 192 trường trên tổng số 694 trường
- Đến hết năm 2018, tổng số xã đạt Bộ tiêu chí quốc gia về y tế là 114 xã, chiếm 50,4% số xã Có 10,5 bác sỹ/vạn dân, 28,3 giường bệnh/vạn dân,
Tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế đạt 95,5%
- Tỷ lệ lao động qua đào tạo năm 2018 đạt 50%, lao động được giải quyết việc làm hàng năm trên 14.600 người
- Giảm tỷ lệ hộ nghèo hàng năm đều giảm trên 3%, năm 2017 giảm 3,3%, năm 2018 giảm 3,24% Hiện còn 30.583 hộ nghèo, chiếm 15,83%; 21.267 hộ cận nghèo, chiếm 11,01%.
Những thành tựu đạt được trong công tác tổ chức thực hiện pháp luật cán bộ, công chức của cấp tỉnh Lạng Sơn
2.2.1 Về kết quả sắp xếp tổ chức bộ máy
Thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương về việc đổi mới và sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, UBND tỉnh Lạng Sơn đã triển khai 03 đợt sắp xếp tổ chức bộ máy trong các năm qua nhằm nâng cao hiệu quả và tính hiệu lực của hoạt động chính quyền.
2017, 2019 và 2020 Kết quả thực hiện đến nay cụ thể như sau:
Về tổ chức hành chính
- Cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh:
Thời gian Số lượng cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh
Từ ngày 30 tháng 4 năm 2015 đến 30 tháng 6 năm 2020, số lượng Sở, ngành thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn không có sự thay đổi Điều này cho thấy tính ổn định trong cơ cấu tổ chức của tỉnh, không xảy ra tình trạng chia tách hay sáp nhập các đơn vị.
- Tổ chức hành chính khác ở cấp tỉnh (Văn phòng HĐND tỉnh, Ban Quản lý
KKTCK Đồng Đăng - Lạng Sơn):
Báo cáo của Uỷ ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn cung cấp kết quả sắp xếp tổ chức bộ máy và quản lý biên chế công chức trong giai đoạn 2015-2020 Nội dung báo cáo nêu rõ số lượng người làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập và tình hình hợp đồng lao động trên địa bàn tỉnh.
Thời gian Số lượng hành chính khác cấp tỉnh
Trong giai đoạn từ 30/4/2015 đến 30/6/2020, số lượng đơn vị hành chính cấp tỉnh không có sự thay đổi, cho thấy tính ổn định của các đơn vị hành chính này vẫn được duy trì.
- Các tổ chức và tương đương thuộc cơ cấu tổ chức của Sở, ngành:
Thời điểm Số lượng phòng và tương đương thuộc Sở, ngành
Tính đến ngày 30/4/2015, số lượng phòng và tương đương là 155, nhưng đến ngày 30/6/2020, con số này đã giảm xuống còn 102, tương ứng với mức giảm 53 phòng, tức là 34,19% Việc giảm số lượng phòng và tương đương trong cơ cấu tổ chức của Sở, ngành đã thể hiện rõ chủ trương cắt giảm đầu mối một cách hiệu quả.
- Chi cục và tương đương:
Thời điểm Số lượng Chi cục và tương đương
Tính đến ngày 30/4/2015, có 15 chi cục và tương đương, nhưng đến ngày 30/6/2020, số lượng này đã giảm xuống còn 12 chi cục, tương đương với việc cắt giảm 3 chi cục, đạt tỷ lệ giảm 20% Sự giảm bớt này thể hiện rõ ràng chủ trương giảm thiểu đầu mối của các đơn vị, tổ chức.
Giải thể Chi cục phát triển lâm nghiệp, Chi cục Phòng chống tệ nạn xã hội và Chi cục Văn thư lưu trữ, đồng thời chuyển Chi cục Quản lý thị trường về Bộ Công Thương Bên cạnh đó, thành lập Trung tâm Phục vụ hành chính công nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước.
- Phòng thuộc cơ cấu tổ chức của chi cục và tương đương thuộc Sở:
Số lượng phòng thuộc cơ cấu tổ chức của chi cục và tương đương thuộc Sở
- Nhận xét: Thời điểm 30/4/2015 có 66 phòng; thời điểm 30/6/2020 có
Chi cục đã giảm 16 phòng, tương đương với tỷ lệ giảm 24,24%, từ tổng số 50 phòng Việc giảm số lượng phòng thuộc cơ cấu tổ chức của chi cục và các đơn vị tương đương thuộc Sở đã được thực hiện, nhằm thực hiện kế hoạch và chủ trương giảm thiểu số lượng đơn vị, tổ chức.
- Văn phòng, phòng, ban thuộc cơ cấu tổ chức của tổ chức hành chính khác ở cấp tỉnh:
Thời điểm Số lượng văn phòng, phòng, ban thuộc cơ cấu tổ chức hành chính khác ở cấp tỉnh
- Nhận xét: Thời điểm 30/4/2015 có 09 phòng; thời điểm 30/6/2020 có
06 phòng, giảm 03 phòng, tỷ lệ giảm 33,33%
Về biên chế và tinh giản biên chế
Về quản lý biên chế: a) Về biên chế trong cơ quan, tổ chức hành chính:
- Số biên chế công chức được giao:
Năm Số biên chế công chức được giao
Số biên chế công chức hành chính tại tỉnh Lạng Sơn đã giảm 315/2.398 biên chế, tương đương tỷ lệ 13,13% kể từ năm 2015, trong đó có 108 biên chế quản lý thị trường được chuyển về Tổng cục Quản lý thị trường thuộc Bộ Công Thương Việc này không chỉ giảm bớt gánh nặng cho ngân sách Nhà nước trong việc chi trả lương mà còn giúp bộ máy hành chính địa phương trở nên gọn nhẹ hơn.
- Số công chức có mặt tại thời điểm 30/6/2020 là 1.891/2.083 biên chế; số biên chế công chức chưa sử dụng là 192/2.083 biên chế
Số biên chế có mặt 1.891/2.083
Số biên chế công chức chưa sử dụng 192/2.083
Uỷ ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn chưa sử dụng hết 192 biên chế công chức trong tổng số 2.083 chỉ tiêu được giao Tính đến ngày 30/6/2020, việc không sử dụng đầy đủ số lượng biên chế này đã góp phần cắt giảm chi phí hành chính cho ngân sách Nhà nước.
- Số lượng người làm việc được giao:
Năm Số lượng người làm việc được giao
23 Nếu không tính 108 biên chế QLTT chuyển về Bộ Công Thương thì tỷ lệ giao giảm đạt
9%, (giảm 206/2.289 biên chế giao năm 2015) (2.289 = 2.398 - 109 biên chế Chi cục
QLTT thời điểm giao năm 2015)
Từ năm 2015 đến năm 2020, số lượng người làm việc được giao đã giảm từ 24.102 người xuống còn 22.438 người, tương ứng với mức giảm 1.876 người, chiếm tỷ lệ 7,72% Sự giảm sút này không chỉ giúp cắt giảm chi phí mà còn đảm bảo tính hiệu quả cho ngân sách Nhà nước.
- Số lượng người làm việc có mặt tại thời điểm 30/6/2020 là 21.231/22.438 người; số lượng người làm việc chưa thực hiện là 1.207 người
Số lượng người làm việc có mặt 21.231
Số lượng người làm việc chưa thực hiện 1.207
Việc chưa đạt được số lượng 1.207 người lao động đã giúp giảm chi phí hành chính cho ngân sách Nhà nước Hợp đồng lao động được thực hiện theo Nghị định số 68/2000/NĐ-CP, đã được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 161/2018/NĐ-CP.
* HĐLĐ 68 trong cơ quan hành chính:
- Số giao: Năm 2015 giao 258 hợp đồng lao động 68; Năm 2020 thực hiện giao 281 hợp đồng lao động 68
Năm Số lượng hợp đồng lao động
- Nhận xét: Số lượng lao động hợp đồng lao động 68 được tăng từ 258 (năm 2015) lên 281 (năm 2020) số lượng tăng lên là 23 người
- Số có mặt tại thời điểm 30/6/2020 là 271/281 người; số hợp đồng lao động chưa sử dụng là 10 hợp đồng
Số hợp đồng lao động chưa sử dụng 10
Việc chưa sử dụng hết số hợp đồng lao động được giao là một trong những biện pháp giúp Uỷ ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn cắt giảm chi phí hành chính, từ đó góp phần tiết kiệm ngân sách Nhà nước.
* HĐLĐ 68 trong các đơn vị sự nghiệp công lập:
Tính đến ngày 30/4/2015, tỉnh Lạng Sơn chưa thực hiện việc giao hợp đồng lao động, với tổng số hợp đồng lao động tại các đơn vị sự nghiệp công lập chỉ đạt 1.100 hợp đồng Đến năm 2020, tỉnh đã thực hiện giao 2.048 hợp đồng lao động, cho thấy sự cải thiện đáng kể trong công tác quản lý và sử dụng lao động tại các đơn vị này.
Số lượng lao động hợp đồng có mặt 2.015/2.048
Số người chưa thực hiện 33/2.048
Tính đến ngày 30/6/2020, tổng số hợp đồng lao động có hiệu lực là 2.015/2.048, trong khi số hợp đồng chưa thực hiện là 33/2.048 Nguyên nhân của việc chưa thực hiện hợp đồng chủ yếu do một số lao động đã nghỉ việc nhưng chưa kịp hoàn tất thủ tục, cùng với đó là một số đơn vị gặp khó khăn trong việc tìm người thay thế để thực hiện hợp đồng.
Về tinh giản biên chế: a) Về xây dựng kế hoạch, đề án tinh giản biên chế:
Những hạn chế, bất cập trong công tác tổ chức thực hiện pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức của chính quyền địa phương cấp tỉnh
2.3.1 Về quản lý, sử dụng biên chế công chức, số lượng người làm việc và hợp đồng lao động 68:
Khó khăn trong quản lý, sử dụng biên chế công chức, viên chức:
Năm 2015, Bộ Nội vụ đã phê duyệt danh mục vị trí việc làm tại các cơ quan hành chính tỉnh Lạng Sơn, nhưng chưa có hướng dẫn cụ thể về định mức biên chế tối thiểu cho từng vị trí Đến ngày 01/6/2020, Chính phủ ban hành Nghị định 62/2020/NĐ-CP quy định về vị trí việc làm và biên chế công chức, nhưng vẫn cần chờ các Bộ, ngành Trung ương hướng dẫn Điều này gây khó khăn trong việc phân bổ biên chế cho các cơ quan hành chính theo vị trí việc làm đã được phê duyệt.
Theo Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, việc tăng biên chế chuyên trách cho các Ban của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh và huyện là cần thiết Tuy nhiên, từ năm 2015 đến nay, tỉnh Lạng Sơn vẫn chưa nhận được sự giao bổ sung biên chế công chức cho các Ban của HĐND từ Chính phủ và Bộ Nội vụ theo quy định.
Từ năm 2015 đến hết năm 2021, việc quy định tinh giản biên chế tối thiểu 10% đã dẫn đến tình trạng các cơ quan, tổ chức, đơn vị không đủ biên chế để thực hiện nhiệm vụ Sự cắt giảm này ảnh hưởng đặc biệt đến các đơn vị sự nghiệp, như giáo dục và y tế, nơi mà số lượng nhân viên được bố trí theo định mức như giáo viên trên lớp học hay bác sĩ trên giường bệnh không còn được đảm bảo.
Báo cáo của Uỷ ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn năm 2020 trình bày kết quả sắp xếp tổ chức bộ máy, quản lý và sử dụng biên chế công chức, cũng như số lượng người làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập và hợp đồng lao động giai đoạn 2015-2020 trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn.
Tỉnh Lạng Sơn đã thực hiện Đề án 500, thí điểm tuyển chọn trí thức trẻ tình nguyện từ 2013-2020, nhằm phát triển nông thôn miền núi, với 24 đội viên được bố trí làm việc tại các xã đặc biệt khó khăn Đến nay, chỉ có 3 trong số 24 đội viên được tuyển dụng vào công chức cấp xã và viên chức tại các đơn vị công lập, trong khi 21 đội viên còn lại gặp khó khăn trong việc tuyển dụng sau khi hoàn thành nhiệm vụ vào tháng 7/2020 Hiện tại, chưa có quy định rõ ràng về việc tuyển dụng công chức không qua thi tuyển cho nhóm đối tượng này.
Khó khăn, vướng mắc về hợp đồng lao động 68:
Hiện nay, việc giao hợp đồng 68 cho các cơ quan, tổ chức hành chính tại tỉnh Lạng Sơn chủ yếu áp dụng cho các vị trí bảo vệ, tạp vụ và lái xe, nhằm đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ chính trị của UBND tỉnh Trong năm 2020, tỉnh Lạng Sơn đã thực hiện giao giảm 08/34 chỉ tiêu theo yêu cầu của Bộ Nội vụ Đồng thời, các hợp đồng 68 trên địa bàn cũng đã được ký kết theo quy định tại Nghị định số 161/2018/NĐ-CP.
- Đối với đơn vị sự nghiệp công lập:
Hiện nay, tại tỉnh Lạng Sơn, việc giao chỉ tiêu hợp đồng lao động theo Nghị định số 68/2000/NĐ-CP chủ yếu tập trung vào các vị trí như bảo vệ (mỗi cơ quan thường có 01 chỉ tiêu) và nấu ăn cho các trường PTDT nội trú, bán trú cùng các trường mầm non có tổ chức nấu ăn cho học sinh Các vị trí này được quy định trong Điều 6, Thông tư liên tịch số 06/2015/TTLT-BGDĐT-BNV, nhằm đảm bảo tính ổn định và lâu dài cho các cơ quan, đơn vị Hiện tại, với số lượng đơn vị sự nghiệp công lập chưa được giao quyền tự chủ, nhu cầu hợp đồng lao động theo Nghị định số 68/2000/NĐ-CP tại Lạng Sơn là khoảng 2.238 chỉ tiêu, trong đó yêu cầu tối thiểu đối với các đơn vị sự nghiệp cấp tỉnh là từ 01 đến 02 chỉ tiêu bảo vệ.
Tổng số chỉ tiêu hợp đồng lao động trong các đơn vị sự nghiệp công lập đã vượt xa so với số chỉ tiêu mà Bộ Nội vụ thẩm định năm 2020, gây khó khăn trong việc giảm số lượng hợp đồng lao động theo yêu cầu của Bộ Ngoài ra, việc xã hội hóa các vị trí hợp đồng lao động tại Lạng Sơn cũng gặp nhiều trở ngại do địa hình miền núi, giao thông khó khăn, và thiếu cơ sở dịch vụ ăn uống đáp ứng yêu cầu về số lượng và chất lượng suất ăn cho học sinh, đặc biệt tại các xã xa trung tâm.
Hiện nay, các bữa ăn của trẻ tại trường Mầm non phải được tính toán khẩu phần ăn qua phần mềm để đảm bảo năng lượng theo Thông tư số 28/2016/TT-BGDĐT Đồng thời, thực đơn cần được xây dựng trong 10 ngày không lặp lại Việc để nhà hàng cung cấp thực phẩm có thể dẫn đến khó khăn trong việc kiểm soát chất lượng và sức khỏe của trẻ.
Theo kế hoạch số 196/BC-UBND ngày 28/5/2020 của UBND tỉnh Lạng Sơn, số lượng người làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập năm 2021 đã được gửi đến Bộ Nội vụ Việc đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm được thực hiện theo quy định Tuy nhiên, dịch vụ cung cấp bảo vệ tại tỉnh Lạng Sơn vẫn còn hạn chế, đặc biệt là ở những khu vực xa trung tâm huyện, thị, nơi mà các công ty cung cấp dịch vụ bảo vệ chưa hoạt động.
Khó khăn trong việc giao biên chế cho các hội đặc thù:
Kết luận số 102-KL/TW ngày 22/9/2014 của Bộ Chính trị chỉ đạo giữ ổn định biên chế và kinh phí hoạt động cho các hội đến hết năm 2016, và từ năm 2017 đến 2020 sẽ thực hiện khoán kinh phí theo lộ trình phù hợp Tuy nhiên, Thông báo số 158-TB/TW ngày 02/01/2020 yêu cầu các cơ quan liên quan ban hành tiêu chí để giao biên chế, dẫn đến sự không thống nhất trong việc thực hiện biên chế cho các tổ chức hội, gây khó khăn trong quá trình triển khai.
Khó khăn trong triển khai vị trí việc làm:
Tỉnh Lạng Sơn đã hoàn thành việc phê duyệt mô tả công việc và khung năng lực cho 100% cơ quan, đơn vị công chức Tuy nhiên, theo Nghị định số 62/2020/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 01/6/2020, có hiệu lực từ 01/7/2020, các Bộ, ngành cần hướng dẫn thực hiện quy định về vị trí việc làm và biên chế công chức.
VTVL công chức nghiệp vụ chuyên ngành, định mức biên chế vị trí việc làm và cơ cấu ngạch công chức là những vấn đề quan trọng Mặc dù Nghị định số 62/2020/NĐ-CP đã có hiệu lực, nhưng vẫn chưa đủ cơ sở để triển khai thực hiện hiệu quả.
Theo Nghị định số 41/2012/NĐ-CP ngày 08/5/2012, Bộ Nội vụ có thẩm quyền quyết định vị trí việc làm (VTVL) trong các đơn vị sự nghiệp công lập Tuy nhiên, vào ngày 10/10/2016, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 89/NQ-CP về Phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 9, nhằm điều chỉnh và cập nhật các quy định liên quan đến VTVL trong các đơn vị này.
Năm 2016, Chính phủ đã phân cấp thẩm quyền quyết định vị trí việc làm, cơ cấu viên chức theo chức danh nghề nghiệp và số lượng nhân sự trong các đơn vị sự nghiệp công lập, nhằm thúc đẩy cơ chế tự chủ và giúp các đơn vị này hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị Tuy nhiên, đến nay, Nghị định và Thông tư hướng dẫn thực hiện vị trí việc làm cho các đơn vị sự nghiệp công lập vẫn chưa được sửa đổi và bổ sung.
Do đó, trong quá trình triển khai thực hiện gặp những khó khăn nhất định
Một số bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn tổ chức thưc hiện pháp luật cán bộ, công chức của tỉnh Lạng Sơn
Để nâng cao hiệu quả tổ chức bộ máy và quản lý biên chế công chức, cũng như số lượng nhân sự trong các đơn vị sự nghiệp công lập, tác giả đề xuất Chính phủ có các biện pháp tăng cường quản lý và sử dụng hợp lý nguồn lực lao động trong giai đoạn tiếp theo.
Bộ Nội vụ và các Bộ, ngành Trung ương một số nội dung sau:
Đề nghị điều chỉnh tiêu chuẩn quy mô dân số và diện tích tự nhiên cho đơn vị hành chính cấp xã theo Nghị quyết số 1211/2016/UBTVQH13 nhằm phù hợp với thực tế tại các tỉnh miền núi, nơi có đặc thù về địa lý, điều kiện tự nhiên bị chia cắt và dân cư chủ yếu là người dân tộc thiểu số với phân bố không tập trung Việc này sẽ giúp các địa phương có cơ sở để định hướng quy hoạch và sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã một cách hợp lý và thực tiễn hơn.
Hai là, xem xét giao bổ sung số lượng người làm việc 37 của tỉnh năm
2021, nhất là sự nghiệp giáo dục và y tế:
Ngày 6 tháng 4 năm 2020, UBND tỉnh Lạng Sơn đã ban hành Văn bản số 1.186, bổ sung số lượng người làm việc trong các đơn vị sự nghiệp giáo dục và đào tạo, đảm bảo đủ định mức theo Thông tư số 16/2017/TT-BGDĐT của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Văn bản này cũng quy định việc tăng cường giáo viên Mầm non theo Thông tư liên tịch số 06/2015/TTLT-BGDĐT-BNV, nhằm đáp ứng nhu cầu giáo dục trong các cơ sở giáo dục phổ thông và mầm non công lập.
Vào ngày 17/4/2020, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã gửi Văn bản số 1326/BGDĐT-NGCBQLGD về việc bổ sung biên chế cho ngành giáo dục tỉnh Lạng Sơn, sau khi nhận được đề nghị từ 336/UBND-NC gửi tới Bộ Giáo dục và Đào tạo cùng Bộ Y tế về nhu cầu số lượng nhân viên trong các đơn vị sự nghiệp giáo dục và y tế Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đồng ý và đề nghị Bộ Nội vụ xem xét, báo cáo Thủ tướng Chính phủ bổ sung 1.186 biên chế cho tỉnh Lạng Sơn nhằm đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị được giao.
- Giao bổ sung 925 người làm việc trong các đơn vị sự nghiệp y tế theo định mức
Đề nghị xem xét lại việc giảm tỷ lệ 10% đối với hợp đồng lao động 68 trong các cơ quan và tổ chức hành chính là cần thiết để đảm bảo quyền lợi cho người lao động và duy trì sự ổn định trong lực lượng lao động.
Kế hoạch 101/KH-UBND ngày 16/6/2020 đã đề xuất tăng thêm 2.172 người làm việc tại tỉnh Lạng Sơn so với năm 2020, nhằm phù hợp với lộ trình phát triển Đồng thời, cần có biện pháp cụ thể để xử lý việc giảm hợp đồng lao động 68, đảm bảo các cơ quan hoàn thành nhiệm vụ Đối với hợp đồng lao động 68 trong cơ quan hành chính, đề nghị giảm tỷ lệ 10% so với năm 2017, do năm 2015 tỉnh chưa thực hiện giao hợp đồng này Cuối cùng, cần sớm ban hành Luật về Hội và sửa đổi Nghị định liên quan đến quản lý tổ chức hội, biên chế và chế độ chính sách cho người làm việc tại hội.
Để khắc phục những tồn tại trong lĩnh vực đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, công chức, cần nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu trong việc xây dựng văn hóa học tập, tạo điều kiện cho cán bộ, công chức được đào tạo theo năng lực và vị trí việc làm Cần thay đổi tư duy trong quản lý đào tạo, tập trung vào năng lực, đồng thời thiết lập sự phân công, phân cấp và quản lý chặt chẽ Hướng chuyển từ bồi dưỡng kiến thức sang phát triển năng lực đội ngũ là cần thiết, xây dựng chương trình đào tạo đáp ứng yêu cầu bổ sung kiến thức và kỹ năng còn thiếu, đồng thời đa dạng hóa các hình thức đào tạo, bồi dưỡng.
Nội dung bồi dưỡng cần trang bị đầy đủ kiến thức và kỹ năng nghiệp vụ theo yêu cầu công vụ, tập trung vào việc xử lý tình huống thực tiễn để rèn luyện kỹ năng cho học viên Đối với cán bộ, công chức, cần chú trọng bồi dưỡng kỹ năng phối hợp, tham mưu, xử lý tình huống, thu thập thông tin và giải quyết vấn đề Các lớp bồi dưỡng nên kết hợp giảng viên thỉnh giảng là các chuyên gia và giảng viên cơ hữu có kiến thức sâu rộng Cần hoàn thiện cơ chế, chính sách đào tạo để khuyến khích cán bộ tự lựa chọn nội dung và hình thức bồi dưỡng, đồng thời rà soát chế độ hỗ trợ để ưu tiên đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao Ngoài ra, cần nghiên cứu chính sách thu hút nhà khoa học trẻ, tài năng và sinh viên xuất sắc về cống hiến cho tỉnh, kết hợp với các chính sách đãi ngộ cho cán bộ có đóng góp nổi bật cho sự phát triển kinh tế - xã hội địa phương.
Thực hiện pháp luật cán bộ, công chức là một yếu tố chiến lược quan trọng trong cải cách hành chính nhà nước Tại tỉnh Lạng Sơn, việc phân tích thực hiện pháp luật này đã cho thấy những chuyển biến tích cực, góp phần đổi mới công tác tổ chức cán bộ và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội địa phương.
Mặc dù đã đạt được một số kết quả tích cực, việc thực hiện pháp luật về cán bộ, công chức tại tỉnh Lạng Sơn vẫn gặp một số hạn chế, đặc biệt trong đào tạo, bồi dưỡng và tuyển dụng cán bộ, công chức Dựa trên những ưu điểm và khuyết điểm đã phân tích trong Chương 2 của luận văn, tác giả sẽ đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về cán bộ, công chức trong Chương 3.