1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Khóa luận tốt nghiệp: KHAI THÁC GIÁ TRỊ ĐẶC SẢN TRUYỀN THỐNG Ở TỈNH AN GIANG GẮN VỚI PHÁT TRIỂN DU LỊCH

135 51 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Khai Thác Giá Trị Đặc Sản Truyền Thống Ở Tỉnh An Giang Gắn Với Phát Triển Du Lịch
Tác giả Trương Trung Tín
Người hướng dẫn ThS. Đỗ Thị Ngọc Uyển
Trường học Trường Đại Học Sài Gòn
Chuyên ngành Quan Hệ Quốc Tế
Thể loại khóa luận tốt nghiệp
Định dạng
Số trang 135
Dung lượng 1,74 MB
File đính kèm KHOA-LUAN-Autosaved.zip (2 MB)

Cấu trúc

  • LỜI CAM ĐOAN

  • LỜI CẢM ƠN

  • MỤC LỤC

  • QUI ƯỚC VỀ TRÍCH DẪN

  • DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

  • DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

  • PHẦN DẪN NHẬP

    • 1. Lý do chọn đề tài.

    • 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.

    • 3. Mục tiêu và mục đích nghiên cứu

      • 3.1 Mục tiêu:

      • 3.2 Mục đích:

    • 4. Nhiệm vụ nghiên cứu

    • 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.

      • 5.1 Đối tượng nghiên cứu

      • 5.2 Phạm vi nghiên cứu

    • 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài.

      • 6.1 Đóng góp về mặt khoa học:

      • 6.2 Đóng góp về mặt thực tiễn:

    • 7. Phương pháp nghiên cứu.

  • CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

    • 1.1. Cơ sở lý luận.

      • 1.1.1 Các khái niệm.

        • 1.1.1.1 Giá trị

        • 1.1.1.2 Đặc sản

        • 1.1.1.3 Văn hóa ẩm thực

        • 1.1.1.4 Bảo tồn.

        • 1.1.1.5 Du lịch.

      • 1.1.2. Mối quan hệ giữa bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá gắn với phát triển du lịch.

    • 1.2. Cơ sở thực tiễn

      • 1.2.1. Tổng quan về tỉnh An Giang

      • 1.2.2. Tài nguyên du lịch tại tỉnh An Giang

        • 1.2.2.1.Tài nguyên thiên nhiên

        • 1.2.2.2.Tài nguyên nhân văn

  • CHƯƠNG 2:

    • 2.1. Các giá trị của đặc sản truyền thống ở tỉnh An Giang

      • 2.1.1. Đặc sản ẩm thực

      • 2.1.2. Đặc sản thủ cổng mỹ nghệ

      • [8] [9]

    • 2.2. Những giá trị đặc sản truyền thống tỉnh an giang

      • 2.2.1. Giá trị văn hóa

      • 2.2.2. Giá trị về kinh tế

  • CHƯƠNG 3:

    • 3.1 Thực trạng công tác bảo tồn giá trị đặc sản truyền thống ở An Giang

    • 3.1.1 Thuận lợi

    • 3.3.2. Khó khăn

    • 3.2. Thực trạng công tác phát huy giá trị đặc sản truyền thống ở An Giang gắn với phát triển du lịch

    • 3.2.1. Thuận lợi

    • 3.2.2. Khó khăn

    • 3.3. Giải pháp khai thác giá trị đặc sản ẩm thực truyền thống ở tỉnh An Giang trong việc phục vụ du lịch

    • Đặc sản truyền thống vốn là niềm tự hào của nhiều địa phương trên đia bàn tỉnh An Giang. Tuy nhiên, chính vì sự yếu kém trong các khâu tiếp thị, quảng bá, xây dựng thương hiệu… đang là rào cản khiến đặc sản truyền thống chưa phát triển xứng tầm với tiềm năng đang có. Thực tế cho thấy, mặc dù tiềm năng và nhu cầu đối với các đặc sản ẩm thực và thủ công mỹ nghệ của tỉnh là rất lớn thế nhưng việc phát triển các sản phẩm này còn khá nhiều hạn chế. Trong khi nhận thức về giá trị và tiềm năng phát triển sản phẩm chưa được đầy đủ, cũng chưa có sự đánh giá, xây dựng kế hoạch phát triển dài hạn dựa trên những tiêu chí đánh giá, xây dựng giá trị thương hiệu sản phẩm đặc sản tại mỗi địa phương. Nếu như có giải pháp và cách làm đúng chắc chắn sẽ mang lại hiệu quả cao. Để có thể khắc phục những bất cập nhằm thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm bền vững, ổn định, đòi hỏi cần phải có những giải pháp thiết thực và hiệu quả hơn.

      • 3.3.1. Giải pháp trước mắt

      • 3.3.2. Giải pháp dài hạn

    • 3.4. Giải pháp khai thác giá trị đặc sản thủ công mỹ nghệ truyền thống ở tỉnh An Giang trong việc phục vụ du lịch

      • 3.4.1. Giải pháp trước mắt

      • 3.4.2. Giải pháp dài hạn

  • KẾT LUẬN

  • TÀI LIỆU THAM KHẢO

  • Tài liệu trong nước:

  • DANH MỤC PHỤ LỤC:

Nội dung

Ngày nay du lịch được đánh giá là một ngành công nghiệp không khói, là ngành kinh tế tổng hợp được tạo nên bởi nhiều nhóm ngành, nghề khác liên kết nhau. Chính vì thế ngành du lịch luôn chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế của mỗi quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam một đất nước có rất nhiều tiềm năng để phát triển du lịch.Tổ chức Du lịch Thế giới Liên hợp quốc từng đánh giá cao ngành du lịch và cho rằng: “Tại nhiều quốc gia đang phát triển, du lịch là nguồn thu nhập chính, ngành xuất khẩu hàng đầu, tạo ra nhiều công ăn việc làm và cơ hội cho sự phát triển” (WTOHL 2008). Ngành du lịch giữ một vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội; bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa tài nguyên thiên nhiên; góp phần tạo cơ hội việc làm cho người dân, nâng cao đời sống nhân dân; cải thiện môi trường đầu tư trong thời kỳ hội nhập; quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam. Hiện nay cả nước đang thực hiện hiệu quả nghị quyết số 08NQTW của Bộ Chính trị về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng ký ban hành Nghị quyết vào Ngày 1612017. Trong đó có tỉnh An Giang – một tỉnh có nhiều tiềm năng để phát triển, cùng với lợi thế tài nguyên du lịch phong phú đa dạng và nhiều di tích danh lam thắng cảnh đặc sắc. Nhằm khai thác tiềm năng, thế mạnh của du lịch địa phương, UBND tỉnh An Giang đã ban hành Quyết định 1008QĐUBND phê duyệt Quy hoạch tổng thể Phát triển ngành du lịch tỉnh An Giang từ năm 2014 đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030, với mục tiêu là sớm đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, tăng tỷ lệ đóng góp trong cơ cấu GDP chung của tỉnh; góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển các ngành dịch vụ, tạo việc làm cho xã hội; xây dựng thương hiệu và phấn đấu đưa An Giang trở thành trung tâm du lịch của vùng Đồng bằng sông Cửu Long và cả nước.

Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Các nghiên cứu trước đây về phát triển du lịch ở Đồng Bằng Sông Cửu Long, đặc biệt tại tỉnh An Giang, đã mang lại hiệu quả thiết thực khi được áp dụng vào thực tiễn Những công trình này đề xuất nhiều giải pháp cụ thể, góp phần nâng cao chất lượng du lịch và phát triển kinh tế địa phương.

Bài viết "Phát triển du lịch đồng bằng sông Cửu Long trong hội nhập quốc tế" của tác giả Nguyễn Hoàng Phương tập trung vào nghiên cứu hoạt động du lịch tại 13 tỉnh Đồng Bằng Sông Cửu Long Tác giả phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển du lịch, bao gồm việc phát triển sản phẩm du lịch và xúc tiến quảng bá du lịch cho vùng.

Bài viết của tác giả Tô Minh Châu phân tích thực trạng phát triển khu du lịch Núi Sam tại Thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang, với mục tiêu duy trì năng lực cạnh tranh và khắc phục tình trạng tính thời vụ trong ngành du lịch Các giải pháp được đề xuất nhằm nâng cao trải nghiệm du khách và phát triển bền vững cho khu vực này.

Du lịch An Giang tiềm năng và định hướng – của tác giả Lê Trịnh Hạ Ái.

Tiềm năng du lịch tỉnh An Giang đang được đánh giá cao, với nhiều điểm đến hấp dẫn và giá trị văn hóa độc đáo Tuy nhiên, thực trạng du lịch tại đây còn gặp nhiều thách thức, cần có giải pháp phát triển bền vững Để khai thác hiệu quả tài nguyên du lịch, cần tập trung vào việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa, lịch sử của địa phương Việc kết hợp giữa phát triển du lịch và bảo tồn tài nguyên sẽ giúp An Giang trở thành điểm đến thu hút du khách, đồng thời gìn giữ những giá trị quý báu cho thế hệ mai sau.

Ngành du lịch tỉnh An Giang được xác định là một trong những lĩnh vực kinh tế mũi nhọn, đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Để đạt được mục tiêu này, An Giang cần tận dụng các lợi thế sẵn có và thực hiện các khoản đầu tư hợp lý nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho sự phát triển của ngành du lịch.

Thông qua việc hệ thống hóa, có thể nhận thấy rằng bên cạnh các công trình nghiên cứu, còn tồn tại nhiều bài báo và sách văn hóa liên quan đến đặc sản của từng vùng miền.

Văn hóa ẩm thực Việt Nam, được phân tích bởi Trần Quốc Vượng và Nguyễn Thị Bảy, nổi bật với những đặc trưng phong phú từ các vùng miền khác nhau Đặc biệt, vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long, với tỉnh An Giang, thể hiện rõ nét sự đa dạng và độc đáo trong ẩm thực, phản ánh bản sắc văn hóa của người dân nơi đây.

Các nghiên cứu và tài liệu đã đề cập đến tình hình phát triển du lịch tại tỉnh An Giang, cũng như phân tích đặc sản ẩm thực của các vùng miền, trong đó có An Giang Tuy nhiên, những nghiên cứu này vẫn chỉ dừng lại ở mức độ khái quát và chưa đi sâu vào giá trị của các đặc sản truyền thống tại An Giang, một tiềm năng lớn vẫn chưa được khai thác triệt để.

Mục tiêu và mục đích nghiên cứu

Mục tiêu

Mục tiêu chung: Tìm hiểu các giá trị đặc sản truyền thống ở An Giang để khai thác giá phát triển du lịch

Khám phá giá trị của đặc sản ẩm thực và thủ công mỹ nghệ truyền thống tại tỉnh An Giang, đồng thời đánh giá những thuận lợi và thách thức trong việc phát triển du lịch liên quan đến các đặc sản này Đề xuất các giải pháp mới nhằm nâng cao giá trị của đặc sản truyền thống và phát triển du lịch An Giang một cách bền vững.

Mục đích

Bài nghiên cứu này nhằm đề xuất giải pháp mới để bảo tồn và phát huy giá trị đặc sản truyền thống của tỉnh An Giang, đồng thời khai thác hiệu quả tiềm năng phát triển du lịch theo hướng bền vững Nghiên cứu này được thực hiện dựa trên tiềm năng phát triển và cơ hội hiện có của tỉnh, cùng với những thành tựu mà các học giả trước đây đã đạt được, nhằm đáp ứng nhu cầu trong thời kỳ hội nhập hiện nay.

Nhiệm vụ nghiên cứu

Đề tài này được thực hiện theo yêu cầu của sinh viên ngành Việt Nam Học thuộc khoa Quan hệ Quốc tế tại trường Đại học Sài Gòn.

Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

Đóng góp về mặt khoa học

Đề tài này nhằm hệ thống hóa và làm rõ giá trị đặc sản truyền thống của tỉnh An Giang, đồng thời phân tích các khái niệm liên quan đến khoa học du lịch như giá trị, đặc sản truyền thống và phát triển du lịch Nghiên cứu sẽ chỉ ra đặc điểm và vai trò tích cực của đặc sản truyền thống trong việc thúc đẩy sự phát triển du lịch tại An Giang Ngoài ra, đề tài còn xem xét các mô hình phát triển giá trị đặc sản từ các địa phương khác trong và ngoài nước, rút ra bài học kinh nghiệm cho tỉnh An Giang Khi hoàn thành, đây sẽ là tài liệu tham khảo quý giá cho sinh viên các ngành Du lịch, Văn hóa – Du lịch, và Quản trị kinh doanh Lữ hành, góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế du lịch, cải thiện đời sống cộng đồng địa phương, và đảm bảo phát triển bền vững.

Đóng góp về mặt thực tiễn

Đề tài đã xác định các giá trị đặc sản truyền thống của tỉnh An Giang và vai trò của chúng trong phát triển du lịch, từ đó xây dựng mục tiêu chiến lược dài hạn Nghiên cứu thực trạng kinh doanh các đặc sản truyền thống An Giang cho thấy những khó khăn và thuận lợi trong lĩnh vực này Đồng thời, đề tài cũng đánh giá chính xác thực trạng du lịch tại tỉnh An Giang, đưa ra các đề xuất và giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy giá trị đặc sản truyền thống, góp phần nâng cao hiệu quả phục vụ du lịch.

Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu tài liệu đóng vai trò quan trọng trong việc thu thập thông tin từ các sách nghiên cứu khoa học và tài liệu liên quan đến ẩm thực, mỹ thuật, và du lịch tại tỉnh An Giang Việc này không chỉ giúp xác lập cơ sở lý luận cho các luận cứ lý thuyết mà còn cung cấp dữ liệu cần thiết để làm rõ tính mới của đề tài nghiên cứu.

Phương pháp nghiên cứu điều tra chọn mẫu tại An Giang, một tỉnh với tiềm năng du lịch đa dạng về dân tộc và tôn giáo, đã được thực hiện thông qua việc sử dụng phiếu khảo sát kết hợp với khảo sát trực tuyến Nghiên cứu này nhằm thu thập ý kiến từ khách du lịch quan tâm đến An Giang, từ đó tìm ra kết quả phục vụ cho đề tài nghiên cứu.

Phương pháp quan sát được áp dụng để mô tả các giá trị đặc sản truyền thống tại An Giang, đồng thời khám phá quy trình thực hiện các đặc sản này.

Phương pháp thu thập thông tin cho đề tài nghiên cứu bao gồm việc sử dụng tài liệu và giáo trình tham khảo, kết hợp với các tài liệu liên quan đến khái niệm Ngoài ra, thông tin cần thiết cũng được tìm kiếm và tải về từ các trang web uy tín.

Phương pháp thống kê trong nghiên cứu ẩm thực sử dụng dữ liệu từ tài liệu liên quan và sách hướng dẫn chế biến món ăn Sau khi thu thập, dữ liệu được thống kê và phân loại Từ kết quả thống kê, chúng tôi phân tích ngữ liệu để rút ra nhận xét và kết luận.

Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn đề cập đến các khái niệm, vai trò và sức ảnh hưởng của đặc sản truyền thống tỉnh An Giang đối với sự phát triển du lịch Phần này xây dựng cơ sở lý thuyết liên quan đến đề tài nghiên cứu, đồng thời cung cấp luận cứ khoa học cụ thể hỗ trợ cho cơ sở lý luận.

Chương 2: Bảo tồn và phát huy giá trị đặc sản truyền thống ở tỉnh An Giang gắn với phát triển du lịch

Tỉnh An Giang nổi bật với nhiều đặc sản truyền thống phong phú, mang lại giá trị văn hóa và kinh tế đáng kể Bài viết sẽ giới thiệu chi tiết về các đặc sản này, đồng thời đánh giá kết quả kinh doanh các mặt hàng đặc sản phục vụ du lịch Qua đó, chúng ta có cái nhìn toàn diện về những thành tựu đã đạt được cũng như những hạn chế còn tồn tại trong việc phát triển giá trị đặc sản truyền thống tại An Giang.

Chương 3: Giải pháp khai thác hiệu quả giá trị đặc sản truyền thống ở tỉnh An Giang

Ngành du lịch tỉnh An Giang đang trên đà phát triển nhưng vẫn gặp nhiều rào cản cần được nhận diện và giải quyết Bài viết sẽ phân tích nguyên nhân dẫn đến những bất cập trong lĩnh vực này và đề xuất các giải pháp thực tiễn nhằm tháo gỡ những vướng mắc Việc áp dụng các biện pháp kịp thời sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của ngành du lịch tại An Giang.

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

Cơ sở lý luận

Giá trị là khái niệm đa dạng với nhiều định nghĩa khác nhau, nhưng vẫn tồn tại những điểm tương đồng về nguyên tắc và tiêu chuẩn hướng dẫn hành động của con người Theo Phạm Lê Liên, giá trị là yếu tố làm cho một vật có ích lợi và ý nghĩa, thể hiện qua lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa Trần Ngọc Thêm lại định nghĩa giá trị là tính chất của khách thể được chủ thể đánh giá tích cực so với các khách thể khác trong một bối cảnh không gian-thời gian cụ thể.

Đặc sản là những món ăn, thức uống, trái cây và hàng quà đặc trưng của một địa phương, được tạo ra từ nguyên liệu đặc biệt có sẵn tại nơi đó hoặc qua cách chế biến sáng tạo, mang đến hương vị độc đáo Các nhà nghiên cứu ẩm thực đã đưa ra định nghĩa chi tiết về đặc sản, trong đó ban biên soạn chuyên từ điển mô tả rằng đặc sản là “sản vật đặc biệt của một vùng hay một tỉnh” (Ban biên soạn chuyên từ điển: NEW ERA, 2014, tr ).

Trong nghiên cứu này, chúng tôi tập trung vào các khái niệm liên quan đến đặc sản, bao gồm đặc sản truyền thống, đặc sản ẩm thực và sản phẩm thủ công mỹ nghệ Đặc sản truyền thống được định nghĩa là "sản vật đặc biệt của một vùng hay một tỉnh, được hình thành lâu đời và mang tính chất quen thuộc, được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác."

Ẩm thực đặc sản là yếu tố quan trọng giúp nhận diện một vùng miền, với những món ăn, thức uống và nguyên liệu độc đáo Những sản phẩm này không chỉ mang tính chất đặc thù mà còn thể hiện nét văn hóa và bản sắc riêng của địa phương Mỗi đặc sản đều có nguồn gốc rõ ràng và góp phần tạo nên sự phong phú trong ẩm thực của từng vùng miền.

Sản phẩm thủ công mỹ nghệ không chỉ mang tính truyền thống mà còn thể hiện sự độc đáo của từng vùng miền, với giá trị chất lượng cao Chúng được coi là sản phẩm văn hoá và nghệ thuật, có khả năng trở thành di sản văn hoá dân tộc nếu hội tụ đủ yếu tố Theo quan điểm truyền thống, sản phẩm thủ công mỹ nghệ là sự kết hợp của các đặc tính vật lý, hóa học, sinh học, nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống Những sản phẩm này không chỉ có giá trị văn hoá mà còn phản ánh quá trình sáng tạo của nghệ nhân, thỏa mãn nhu cầu văn hoá và tinh thần của cộng đồng Mỗi tác phẩm đều mang tính độc đáo, thể hiện phong cách riêng của người sáng tạo và được hình thành theo quy luật của cái đẹp, đồng thời cũng là hàng hoá đặc biệt trong thị trường văn hoá nghệ thuật.

Ẩm thực Việt Nam, như nhiều quốc gia khác, mang những đặc trưng riêng biệt, phản ánh văn hóa tự nhiên được hình thành từ lâu đời Đối với người Việt, ẩm thực không chỉ là yếu tố vật chất mà còn chứa đựng giá trị tinh thần sâu sắc, thể hiện bản sắc văn hóa độc đáo của dân tộc.

1 Nguồn: https://nganhangphapluat.thukyluat.vn/tu-van-phap-luat/van-hoa xa-hoi/khai-niem-ve-san-pham- tac-pham-thu-cong-my-nghe-trong-quy-che-phong-20482

Văn hóa ẩm thực bao gồm các tập quán, khẩu vị và ứng xử của con người trong việc ăn uống Nó phản ánh những phong tục kiêng kỵ, phương thức chế biến và bày biện món ăn, thể hiện giá trị nghệ thuật và thẩm mỹ Đồng thời, văn hóa ẩm thực còn thể hiện cách thưởng thức và đánh giá món ăn trong đời sống hàng ngày.

Văn hóa ẩm thực là một phần thiết yếu trong đời sống con người, không chỉ đáp ứng nhu cầu duy trì sự sống và tái sản xuất sức lao động, mà còn phản ánh các phong tục, tập quán và tín ngưỡng của một dân tộc hay địa phương Ăn uống, vì vậy, không chỉ là hành động sinh lý mà còn là một phạm trù văn hóa, góp phần tạo nên bản sắc văn hóa độc đáo của mỗi cộng đồng.

Bảo tồn là một chủ đề được các nhà khoa học ở Việt Nam và thế giới nghiên cứu từ nhiều góc độ khác nhau Mỗi loại hình sẽ có quan điểm bảo tồn riêng, nhằm hài hòa giữa việc giữ gìn giá trị nguyên gốc và phát huy giá trị đó trong xã hội hiện đại Theo định nghĩa, "bảo tồn là bảo vệ và giữ gìn sự tồn tại của sự vật hiện tượng theo dạng thức vốn có của nó, không để mất đi hay thay đổi." (Nguồn: Tạp chí Văn Hóa Nghệ Thuật số 345, tháng 3-2013 Nguyễn Toàn).

Thắng) Trong đó có 3 quan điểm cốt lõi quan điểm bảo tồn nguyên vẹn; quan điểm bảo tồn trên cơ sở kế thừa; Quan điểm bảo tồn phát triển.

Theo tác giả Nguyễn Thị Mỹ Liêm trong cuốn kỷ yếu hội thảo 60 năm đề cương văn hoá Việt Nam (1943-2003), "bảo tồn" được hiểu là việc giữ lại những giá trị văn hóa, không để chúng bị mất đi hay thay đổi Thuật ngữ này không bao hàm khái niệm "cải biến", "nâng cao" hay biến hoá, mà tập trung vào việc duy trì nguyên vẹn các yếu tố văn hóa truyền thống.

Phát triển đối tượng bảo tồn cần được xem là tinh hoa, khẳng định giá trị đích thực và khả năng tồn tại lâu dài Điều này cho thấy đối tượng bảo tồn có thể thích ứng với nhiều thể trạng và hình thức khác nhau.

Du lịch từ lâu đã trở thành một sở thích và hoạt động nghỉ ngơi tích cực của con người Với sự nâng cao đời sống, nhu cầu về tinh thần như vui chơi, giải trí và du lịch ngày càng được coi trọng, khiến du lịch trở thành một phần thiết yếu trong văn hóa xã hội, đặc biệt tại Việt Nam Nhiều quốc gia xem du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn, đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế toàn cầu cũng như từng quốc gia và địa phương Có nhiều khái niệm và định nghĩa khác nhau về du lịch, tùy thuộc vào hoàn cảnh và góc độ nghiên cứu của mỗi người.

Theo Tổ chức Du lịch Thế giới, du lịch là sự kết hợp của các mối quan hệ, hiện tượng và hoạt động kinh tế phát sinh từ những chuyến đi và lưu trú của cá nhân hoặc nhóm ngoài nơi cư trú thường xuyên, nhằm mục đích hòa bình Điểm đến không phải là nơi làm việc của họ.

Vào năm 1941, W Hunziker và Kraff (Thụy Sỹ) đã định nghĩa du lịch là tổng hợp các hiện tượng và mối quan hệ phát sinh từ việc di chuyển và dừng lại của con người tại những địa điểm không phải là nơi cư trú thường xuyên Họ lưu trú tại đó tạm thời và không thực hiện các hoạt động kiếm thu nhập tại địa điểm đến.

Du lịch tại Việt Nam được định nghĩa theo nhiều khía cạnh khác nhau Theo Luật Du lịch Việt Nam (2005), du lịch là các hoạt động liên quan đến chuyến đi của con người ra khỏi nơi cư trú thường xuyên, nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí và nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định.

Cơ sở thực tiễn

1.2.1 Tổng quan về tỉnh An Giang

An Giang có diện tích 3.536,7 km², chiếm 1,03% tổng diện tích cả nước, đứng thứ 4 trong 12 tỉnh đồng bằng sông Cửu Long Tỉnh này giáp tỉnh Đồng Tháp ở phía đông, hai tỉnh Kandal và Takéo của Campuchia ở phía bắc và tây bắc với đường biên giới dài gần 104 km, tỉnh Kiên Giang ở phía tây nam và thành phố Cần Thơ ở phía nam Điểm cực Bắc nằm ở xã Khánh An, huyện An Phú (vĩ độ 10°57'), cực Nam ở xã Thoại Giang, huyện Thoại Sơn (vĩ độ 10°12'), cực Tây tại xã Vĩnh Gia, huyện Tri Tôn (kinh độ 104°46') và cực Đông ở xã Bình Phước Xuân, huyện Chợ Mới (kinh độ 105°35') Chiều dài tỉnh theo hướng Bắc - Nam là 86 km và Đông - Tây là 87,2 km.

Tỉnh An Giang thời phong kiến

Theo Đại Nam nhất thống chí, An Giang xưa là Tầm Phong Long thuộc Chân Lạp, nằm giữa sông Tiền và sông Hậu Năm 1757, quốc vương Chân Lạp Nặc Tôn đã dâng đất này cho chúa Nguyễn Trước khi nhà Nguyễn quản lý, An Giang còn hoang hóa và dân cư thưa thớt Vào những năm đầu triều đại Gia Long, nhà Nguyễn mới tổ chức mộ dân đến khai hoang và định cư, đưa An Giang vào thuộc trấn Vĩnh Thanh, một trong năm trấn của thành Gia Định Năm Minh Mạng thứ 13 (1832), tỉnh Vĩnh Thanh được chia thành hai tỉnh mới.

Tỉnh An Giang, được chia thành hai phủ là Tuy Biên và Tân Thành, bao gồm bốn huyện: Tây Xuyên, Phong Phú, Đông Xuyên và Vĩnh An Đồng thời, An Giang và Hà Tiên được quản lý bởi một tổng đốc, với lỵ sở đặt tại Châu Đốc, tỉnh An Giang Vùng đất An Giang thời kỳ đó bao gồm các khu vực hiện nay là An Giang, Cần Thơ, Hậu Giang, Sóc Trăng và một phần tỉnh Đồng Tháp.

Tháng 4 âm năm 1824, Nặc Ông Chân (Ang Chan II), hiến tặng nhà Nguyễn thông qua Nguyễn Văn Thoại (để trả ơn ông Thoại), 3 vùng Chân Sum (còn gọi là Chân Thành hay Chân Chiêm, nằm giữa Giang Thành và Châu Đốc), Mật Luật (Ngọc Luật, cũng nằm giữa Giang Thành và Châu Đốc), Lợi Kha Bát (Prey Kabbas), Takeo) Nhà Nguyễn chỉ lấy 2 đất Chân Sum và Mật Luật (Mật Luật sau thành đất huyện Tây Xuyên) Chân Sum sau được phân vào hai huyện Hà Âm và Hà Dương từng thuộc phủ Tĩnh Biên tỉnh Hà Tiên, trước khi chia về cho tỉnh An Giang.

Năm 1833, tỉnh An Giang bị quân Lê Văn Khôi chiếm đóng, buộc triều đình nhà Nguyễn phải cử quân đội đến dẹp loạn Án sát An Giang, Bùi Văn Lý, đã thành công trong việc lấy lại Châu Đốc từ tay quân Khôi Trong khoảng thời gian 1833-1834, quân Xiêm La đã xâm nhập An Giang theo yêu cầu của Lê Văn Khôi nhưng bị đánh bại bởi lực lượng nhà Nguyễn do Trương Minh Giảng và Nguyễn Xuân chỉ huy trên sông Vàm Nao.

Năm 1835, trong triều đại Minh Mạng thứ 16, nhà Nguyễn đã sáp nhập đất Ba Thắc (Bassac, thuộc Cao Miên) vào An Giang và thành lập phủ Ba Xuyên Khu vực Ba Thắc được chia thành hai huyện là Phong Nhiêu và Phong Thịnh Ngoài ra, huyện Vĩnh Định từ tỉnh Vĩnh Long cũng được nhập vào phủ Ba Xuyên, tạo nên ba huyện gồm Phong Nhiêu, Phong Thịnh và Vĩnh Định.

Phân chia hành chánh tỉnh An Giang năm 1836:

Tổng An Hội gồm 1 xã Sùng Văn và 4 thôn: An Tịch, Tân Lâm, Tân Qui Đông, Tân Xuân

Tổng An Mỹ gồm 7 thôn: An Thuận, Phú An, Phú Hựu, Phú Nhơn, Tân An Đông, Tân Hựu, Tân Nhơn;

Tổng An Thạnh gồm 7 thôn: Hội An, Mỹ An, Tân An Trung, Tân Đông, Tân Khánh, Tân Khánh Tây, Tân Mỹ;

Tổng An Thới gồm 5 thôn: Nhơn Qưới, Tân Dương, Tân Long, Tân Thạnh, Vĩnh Thạnh;

Tổng An Tĩnh gồm 3 thôn: Phú An Đông, Tân Thuận, Tân Tịch;

Tổng An Trung gồm 6 thôn: Bình Tiên, Tân Phú Đông, Tân Phú Trung, Tân Phú, Tân Qui Tây, Vĩnh Phước;

Tổng An Trường gồm 8 thôn: Định Hòa, Đông Thành, Đông Thành Trung, Kim Bồn, Mỹ Thuận, Phù Ly, Tân Lộc Trung, Tân Phong;

Tổng Định An gồm 3 thôn: Đông Phú, Long Hưng, Phú Mỹ Đông;

Tổng Định Bảo gồm 8 thôn: Nhơn Ái, Tân An, Tân Lợi, Tân Thạnh Đông, Thới Bình, Thường Thạnh, Thường Thạnh Đông, Trường Thành;

Tổng Định Khánh gồm 11 thôn: An Khánh, An Thạnh Nhì, An Thạnh Nhứt, Châu Hưng, Châu Khánh, Đại Hòa, Đại Hữu, Đại Thạnh, Hòa Mỹ, Phong Phú, Phú Hữu;

Tổng Định Thới gồm 6 thôn: Bình Thủy, Phú Long, Tân Lộc Đông, Thới An, Thới An Đông, Thới Hưng;

Tổng An Lương bao gồm 12 thôn: Bình Thạnh Đông, Hòa Thạnh, Lý Nhơn, Mỹ Hội Đông, Nhơn An, Nhơn Lương, Tân Hưng, Toàn Đức, Vĩnh Hậu, Vĩnh Lộc, Vĩnh Toàn và Mỹ Lương.

Tổng An Phú gồm 7 thôn: An Hòa, Bình Hòa Tây, Nhơn Hòa, Tân Bình, Định

An, Long Hậu, Tân Lộc;

Tổng An Thành gồm 10 thôn: Long Hưng, Long Khánh, Long Sơn, Phú Lâm, Tân An, Tân Thiện, Vĩnh Hòa, Vĩnh Lạc, Vĩnh Lợi, Vĩnh Xương;

Tổng An Toàn gồm 9 thôn: Kiến Long, Kiến Thạnh, Mỹ Chánh, Mỹ Hưng, MỹLong, Mỹ Phú, Toàn Đức, Toàn Đức Đông, Tú Điền;

Tổng Châu Phú bao gồm 29 thôn, trong đó có các thôn nổi bật như An Nông, An Thạnh, Bình Thạnh, Hưng An, Khánh An, Long Thạnh, Nhơn Hòa, Nhơn Hội, và Phú Cường Ngoài ra, còn có các thôn Thân Nhơn Lý, Thới Hưng, Vĩnh Bảo, Vĩnh Điều, Vĩnh Hội, Vĩnh Khánh, Vĩnh Lạc, Vĩnh Ngươn, Vĩnh Phước, Vĩnh Tế Sơn, Vĩnh Thành, Vĩnh Thạnh, Vĩnh Thọ, Vĩnh Thông, Vĩnh Trung, Vĩnh Trường, Châu Phú, Vĩnh Gia, Vĩnh Hòa Trung, và Vĩnh Lạc Trung.

Tổng Định Phước gồm 9 thôn: Mỹ Phước, Mỹ Thạnh, Tân Thuận Đông, Thạnh Hòa Trung, Thoại Sơn, Thới Thuận, Vĩnh Chánh, Vĩnh Phú, Vĩnh Trinh;

Tổng Định Thành gồm 6 thôn: Bình Đức, Bình Hòa Trung, Bình Lâm, Bình Mỹ, Vĩnh Thạnh Trung, Vĩnh Thuận.

Năm Minh Mạng 20 (1839), nhà Nguyễn đã thành lập huyện An Xuyên từ huyện Vĩnh An, thuộc phủ Tân Thành Đồng thời, nhà Nguyễn cắt đất từ huyện Chân Thành của phủ Chân Chiêm, thuộc Trấn Tây Thành, để tạo ra hai huyện Hà Dương và Hà Âm, nằm hai bên sông Vĩnh Tế, thuộc tỉnh Hà Tiên (sau này trở thành tỉnh An Giang) Huyện Phong Phú được hình thành từ việc nhập thổ huyện Ô Môn, nơi có nhiều người Khmer sinh sống, cùng với thổ huyện Mật Luật (Ngọc Luật) từ Trấn Tây Thành vào huyện Tây Xuyên.

Năm 1842, Thiệu Trị đã sáp nhập phủ Tĩnh Biên cùng huyện Hà Dương thuộc tỉnh Hà Tiên vào An Giang Đến năm 1844, huyện Hà Âm cũng được nhập vào phủ Tĩnh Biên, tạo thành một đơn vị hành chính gồm hai huyện Tuy nhiên, vào năm 1850, triều Nguyễn đã bỏ phủ Tĩnh Biên và sáp nhập hai huyện Hà Âm và Hà Dương vào phủ Tuy Biên Thời điểm vua Tự Đức, tỉnh An Giang được tổ chức thành 3 phủ với 10 huyện: Hà Âm, Hà Dương, Phong Phú, Tây Xuyên, Đông Xuyên, Vĩnh An, An Xuyên, Phong Nhiêu, Phong Thịnh, và Vĩnh Định.

Huyện Hà Âm, trước đây thuộc huyện Châu Thành của nước Cao Miên, bao gồm 2 tổng là Thành Tín và Quy Đức, được tổ chức lại vào năm 1901 bên bờ kênh Vĩnh Tế thuộc tỉnh Châu Đốc, với 40 làng xã như Vĩnh Thông, Vĩnh Bảo, và Vĩnh Lạc Huyện này giáp với huyện Hà Châu tỉnh Hà Tiên ở phía tây, huyện Hà Dương ở phía nam, huyện Tây Xuyên ở phía đông, và nước Cao Miên ở phía bắc Theo Đại Nam nhất thống chí, huyện Hà Âm nằm bên bờ tả của sông Vĩnh Tế, thuộc khu vực giáp biên giới Campuchia, bao gồm phần đất huyện Kiri Vong và có thể cả các huyện Kaoh Andaet, Bourei Cholsar thuộc tỉnh Takeo, Campuchia.

Huyện Hà Dương (ខខ), nguyên là đất huyện Chân Thành nước Cao Miên, gồm

Khu vực gồm 4 tổng là Thành Tâm, Thành Ý, Thành Lễ và Thành Ngãi (hay Thành Nghĩa), bao gồm 40 làng xã như Vĩnh Quới, Hưng Nhượng, An Nông, An Thạnh, Phú Thạnh, Nhơn Hòa, Thới Sơn, Tà Đảnh, Thuyết Nạp, Trát Quan, Tu Tế, Văn Giáo, Vĩnh Trung và Xuân.

Huyện Hà Dương, nằm ở vị trí địa lý thuận lợi, có các xã như Tô, An Cư, Ba Chút, Bích Trì, Bôn Ca, Châu Lăng, Lê Huất, Lương Đô, Phi Yên, Trầm Văn, An Tức, Đôn Hậu, Giai Âm, Nam Qui, Phi Cấm, Tri Tôn, Cô Tô, Nam Chỉ, Ngôn Nạp, Ô Lâm, giáp với huyện Hà Châu tỉnh Hà Tiên ở phía tây, huyện Kiên Giang tỉnh Hà Tiên ở phía nam, huyện Tây Xuyên ở phía đông và huyện Hà Âm ở phía bắc Hiện nay, đất huyện Hà Dương thuộc về các huyện Châu Thành, Thoại Sơn và Tri Tôn của tỉnh An Giang.

Huyện Phong Phú (ខខ) trước đây thuộc huyện Vĩnh Định và huyện Ô Môn (Cao Miên), bao gồm 3 tổng và 31 làng xã Phong Phú nằm ở phía tây giáp huyện Kiên Giang tỉnh Hà Tiên, phía nam giáp huyện Vĩnh Định (phủ Ba Xuyên), và phía bắc giáp hai huyện Tây Xuyên và An Xuyên (phủ Tân Thành) Hiện nay, khu vực huyện Phong Phú có thể thuộc các quận huyện Thốt Nốt, Ô Môn, của thành phố Cần Thơ Theo Đại Nam nhất thống chí, sông Cần Thơ nằm ở bờ Tây sông Hậu, cách huyện Phong Phú 3 dặm về phía đông, với bờ phía tây là thủ sở đạo Trấn Giang cũ.

Huyện Tây Xuyên (ខខ) nguyên là đất đạo Châu Đốc cùng huyện Vĩnh Định và thổ huyện Mật Luật (của Cao Miên), nằm ở bờ Tây sông Hậu, gồm 3 tổng (Châu

Huyện Tây Xuyên, bao gồm các xã Phú, Định Thành, và Định Phước, có 38 làng xã, nằm ở phía tây giáp huyện Hà Dương, phía nam giáp huyện Long Xuyên tỉnh Hà Tiên, và phía đông cùng bắc giáp huyện Đông Xuyên (phủ Tân Thành) Hiện nay, đất huyện Tây Xuyên có thể thuộc về các huyện và thị xã như Châu Đốc, An Phú, Châu Phú, Châu Thành, và thành phố Long Xuyên của tỉnh.

Ngày đăng: 31/12/2021, 13:51

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Ban Biên Soạn Chuyên Từ Điển NEW ERA (2014), Từ Điển Tiếng Việt, 2. Nhà xuất bản Từ điển Bách Khoa Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ Điển Tiếng Việt
Tác giả: Ban Biên Soạn Chuyên Từ Điển NEW ERA
Nhà XB: Nhà xuất bản Từ điển Bách Khoa
Năm: 2014
3. Kiều Maily (2014), Độc Đáo Ẩm Thực Chăm, Nhà xuất bản Văn hóa Nghệ thuật TP.HCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Độc Đáo Ẩm Thực Chăm
Tác giả: Kiều Maily
Nhà XB: Nhà xuất bản Văn hóa Nghệ thuật TP.HCM
Năm: 2014
4. Lê Phương Lâm (2011), Kỹ Thuật Chế Biến Các Món Ăn Nổi Tiếng Các Nước, Nhà xuất bản Thanh Niên Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kỹ Thuật Chế Biến Các Món Ăn Nổi Tiếng Các Nước
Tác giả: Lê Phương Lâm
Nhà XB: Nhà xuất bản Thanh Niên
Năm: 2011
5. Nhiều tác giả (2005), Nam Bộ-Dân tộc và tôn giáo, Nhà xứ bản Khoa hoạc xã hội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nam Bộ-Dân tộc và tôn giáo
Tác giả: Nhiều tác giả
Năm: 2005
6. Nguyễn Thị Diệu Thảo (2016), Ẩm thực Việt Nam và thế giới, Nhà xuất bản Phụ Nữ Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ẩm thực Việt Nam và thế giới
Tác giả: Nguyễn Thị Diệu Thảo
Nhà XB: Nhà xuấtbản Phụ Nữ
Năm: 2016
7. Nguyễn Văn Đính, Trần Thị Minh Hòa (2006), Kinh tế du lịch, Nhà xuất bản Lao động-Xã hội Sách, tạp chí
Tiêu đề: ), Kinh tế du lịch
Tác giả: Nguyễn Văn Đính, Trần Thị Minh Hòa
Nhà XB: Nhà xuấtbản Lao động-Xã hội
Năm: 2006

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU - Khóa luận tốt nghiệp: KHAI THÁC GIÁ TRỊ ĐẶC SẢN TRUYỀN THỐNG Ở TỈNH AN GIANG GẮN VỚI PHÁT TRIỂN DU LỊCH
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU (Trang 8)
Bảng 1.1: Danh sách các đơn vị hành chính trực thuộc tỉnh AnGiang - Khóa luận tốt nghiệp: KHAI THÁC GIÁ TRỊ ĐẶC SẢN TRUYỀN THỐNG Ở TỈNH AN GIANG GẮN VỚI PHÁT TRIỂN DU LỊCH
Bảng 1.1 Danh sách các đơn vị hành chính trực thuộc tỉnh AnGiang (Trang 38)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w