1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

CÁC LẬP LUẬN CƠ BẢN CỦA TRUNG QUỐC VỀ CHỦ QUYỀN ĐỐI VỚI QUẦN ĐẢO HOÀNG SA

203 16 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Các Lập Luận Cơ Bản Của Trung Quốc Về Chủ Quyền Đối Với Quần Đảo Hoàng Sa
Tác giả Trần Thị Kim Nguyên, Lê Thị Xuân Phương, Ngụy Thị Bích, Nguyễn Phúc Thiện
Người hướng dẫn Trần Thị Kim Nguyên
Trường học Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Luật Quốc tế
Thể loại Công trình nghiên cứu khoa học sinh viên
Năm xuất bản 2015
Thành phố Thành phố Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 203
Dung lượng 7,13 MB

Cấu trúc

  • 1.1. Yêu sách của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa (17)
    • 1.1.1. Yêu sách của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa và mối liên hệ với Đường chữ U (18)
    • 1.1.2. Sự đối lập giữa yêu sách của Trung Quốc và Việt Nam về chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa (21)
  • 1.2. Luật pháp quốc tế về thụ đắc lãnh thổ (acquisition of territory) (26)
    • 1.2.1. Các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế có liên quan đến thụ đắc lãnh thổ (27)
    • 1.2.2. Một số nguyên tắc và vấn đề pháp lý trong luật pháp quốc tế thường được áp dụng trong vấn đề biên giới – lãnh thổ (29)
    • 1.2.3. Phương thức thụ đắc lãnh thổ theo nguyên tắc chiếm hữu (occupation) (37)
  • CHƯƠNG 2: CÁC LẬP LUẬN CƠ BẢN CỦA TRUNG QUỐC VỀ CHỦ QUYỀN ĐỐI VỚI QUẦN ĐẢO HOÀNG SA DƯỚI GÓC ĐỘ LUẬT PHÁP QUỐC TẾ (52)
    • 2.1. Các lập luận cơ bản của Trung Quốc dựa trên bằng chứng lịch sử và căn cứ pháp lý từ phía Trung Quốc (52)
      • 2.1.1. Hệ thống lập luận cơ bản của Trung Quốc về chủ quyền lịch sử đối với quần đảo Hoàng Sa (53)
      • 2.1.2. Phân tích cơ sở pháp lý trong các lập luận của Trung Quốc về chủ quyền lịch sử đối với quần đảo Hoàng Sa (66)
    • 2.2. Các lập luận cơ bản của Trung Quốc về việc Việt Nam đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa (87)
      • 2.2.1. Hệ thống lập luận cơ bản của Trung Quốc về việc Việt Nam đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa (88)
      • 2.2.2. Phân tích cơ sở pháp lý trong các lập luận cơ bản của Trung Quốc về việc Việt Nam đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa (94)
      • 2.2.3. Đánh giá hệ thống lập luận cơ bản của Trung Quốc về việc Việt Nam đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa (99)
  • KẾT LUẬN (50)

Nội dung

Yêu sách của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa

Yêu sách của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa và mối liên hệ với Đường chữ U

Trung Quốc tuyên bố chủ quyền đối với toàn bộ quần đảo Hoàng Sa, bao gồm các đảo, bãi đá, cồn cát và san hô, coi đây là một phần lãnh thổ của mình với quyền kiểm soát và quản lý đầy đủ Từ yêu sách này, có thể rút ra ba đặc điểm chính liên quan đến quan điểm của Trung Quốc về quần đảo Hoàng Sa.

Về mặt pháp lý, chủ quyền lãnh thổ đòi hỏi phải được xác định rõ ràng; phạm vi chủ quyền bao gồm toàn bộ các thực thể thuộc quần đảo Hoàng Sa; và nội dung chủ quyền thể hiện quyền năng kiểm soát và quản lý tương tự như đối với lãnh thổ vốn có.

Thời gian xuất hiện đầu tiên của yêu sách về quần đảo Hoàng Sa vẫn chưa được xác định rõ ràng, mặc dù đây là một trong những trụ cột lớn trong các lập luận của Trung Quốc Tuy nhiên, Trung Quốc đã thực hiện yêu sách này thông qua nhiều hoạt động, chủ yếu là sử dụng quân đội để kiểm soát thực tế quần đảo Hoàng Sa Đến nay, Trung Quốc đã hoàn toàn chiếm đóng và kiểm soát quần đảo này.

Yêu sách của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa gắn liền với yêu sách Đường chữ U ở Biển Đông Quan điểm của Trung Quốc về Đường chữ U cho thấy rõ ràng sự khẳng định chủ quyền của họ đối với quần đảo Hoàng Sa.

Đường chữ U được xem là cơ sở cho yêu sách chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa, đồng thời cũng thể hiện sự khẳng định mạnh mẽ của nước này về quyền lợi lãnh thổ của mình.

3 Nguyễn Lân (2000), Từ điển từ và ngữ Việt Nam, NXB Tp Hồ Chí Minh, tr 2107

Việt Nam có lập trường rõ ràng về vấn đề Đài Loan, nhấn mạnh sự cần thiết của hòa bình và ổn định trong khu vực Chính phủ Việt Nam ủng hộ chính sách "Một Trung Quốc" và kêu gọi các bên liên quan giải quyết tranh chấp thông qua đối thoại Việc duy trì quan hệ hữu nghị và hợp tác với Trung Quốc cũng là một phần quan trọng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam.

5 Vấn đề này sẽ được phân tích cụ thể hơn ở phần 2.1.1

6 九段线 , 百科 ,

[http://baike.baidu.com/link?url=NocHJgX7Dap3HtvmGtjbuUEwU40yrhEcwt9DbBSAbZB2UHXrQuo2pfkXR2mbCw8o5w3lXvP0O8OhXGHbNcfjW5KCFpMTOWNjCE2m-

Trung Quốc hiếm khi đề cập đến chủ quyền của mình đối với quần đảo Hoàng Sa như một yêu sách độc lập, mà thường kết hợp nó vào yêu sách Đường chữ U.

Yêu sách Đường chữ U của Trung Quốc được thể hiện dưới dạng một đường đứt khúc hình chữ U, bao trọn 80% diện tích biển và có sự biến đổi qua từng thời kỳ Đường chữ U lần đầu tiên xuất hiện vào năm 1914 do Hu Jinjie vẽ, quy thuộc các quần đảo Đông Sa và Hoàng Sa vào Trung Quốc, với điểm cực Nam nằm giữa vĩ tuyến 15° – 16° Bắc Tranh cãi về yêu sách này bùng nổ vào năm 2009, liên quan đến báo cáo của Malaysia và Việt Nam gửi lên Ủy ban Ranh giới và Thềm lục địa của LHQ Ngày 07/05/2009, Trung Quốc đã gửi hai công hàm tới Tổng Thư ký LHQ để khẳng định chủ quyền không thể tranh cãi đối với các đảo ở Biển Đông và quyền tài phán đối với vùng nước liên quan, kèm theo bản đồ thể hiện yêu sách của mình ở cấp độ quốc tế.

XCZ101arADQTddB4U5UFt5crrTjTh_C3fGNQSfz9magjFX6j6W4EdpRTxJHpx7- eyJKxiwWuxjfSbtZsEzA981lS_o6] (truy cập ngày 08/08/2015)

Một số học giả Trung Quốc gọi đường này bằng nhiều tên khác nhau như “Đường chữ U”, “đường đứt khúc”, “đường biên giới Trung Quốc”, hay “đường biên giới biển truyền thống” Trong khi đó, một số học giả Việt Nam lại sử dụng các tên như “đường lưỡi bò” hoặc dựa vào số lượng đoạn đứt khúc để gọi là “đường mười một đoạn”, “đường chín đoạn” hay “đường mười đoạn” Sự đa dạng trong cách gọi tên này xuất phát từ góc độ nghiên cứu khác nhau của các học giả và tính mập mờ, thiếu nhất quán từ khi Đường chữ U được công bố.

Học viện Ngoại giao Việt Nam (2012) đã chỉ ra rằng yêu sách "Đường lưỡi bò" của Trung Quốc là phi lý, như được nêu trong trang 87 của tài liệu Nguyễn Hồng Thao cũng đã phân tích yêu sách "đường đứt khúc chín đoạn" của Trung Quốc từ góc độ quốc tế, nhấn mạnh tính không hợp lý và sự vi phạm luật pháp quốc tế trong các yêu sách này.

9 Học viện Ngoại giao Việt Nam, chú thích số 8, tr 100 Nguyễn Quang Vinh, Đánh giá bản chất “Đường lưỡi bò” của Trung Quốc trên Biển Đông

Vào ngày 10 tháng 5, Malaysia đã gửi báo cáo chung lên Ủy ban Ranh giới và Thềm lục địa theo Điều 76.8 của UNCLOS 1982, liên quan đến vùng biển phía Nam Báo cáo này được tóm tắt vào tháng 5 năm 2009.

[http://www.un.org/Depts/los/clcs_new/submissions_files/mysvnm33_09/mys_vnm2009excutivesummary.pdf] (truy cập ngày: 04/12/2014)

Việt Nam đã gửi báo cáo lên Ủy ban Ranh giới và Thềm lục địa theo Điều 76.8 của UNCLOS 1982, liên quan đến việc mở rộng thềm lục địa tại vùng biển phía Bắc (VNM – N) Báo cáo này tóm tắt các thông tin quan trọng về vùng biển và thềm lục địa của Việt Nam.

[http://www.un.org/Depts/los/clcs_new/submissions_files/vnm37_09/vnm2009n_excutivesummary.pdf] (truy cập ngày: 04/12/2014)

12 Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, “Công hàm gửi Tổng Thư ký LHQ, New York, 07/05/2009”,

[http://www.un.org/Depts/los/clcs_new/submissions_files/mysvnm33_09/chn_2009re_mys_vnm_e.pdf] (truy cập ngày: 04/12/2014)

13 Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, chú thích số 12

Trung Quốc khẳng định có chủ quyền không thể tranh cãi đối với các đảo trong Biển Đông cùng với vùng biển và đáy biển xung quanh, tuy nhiên, không cung cấp thông tin cụ thể về vị trí cũng như nội dung yêu sách Đường chữ U Điều này dẫn đến nhiều quan điểm khác nhau về yêu sách này Dựa trên ngôn từ trong Công hàm, yêu sách của Trung Quốc có thể được hiểu thành hai phần: (1) Các đảo nằm trong Đường chữ U được coi là lãnh thổ quốc gia của Trung Quốc và (2) Vùng nước xung quanh các đảo được xem là “vùng nước lịch sử”.

Trung Quốc coi Đường chữ U là tuyên bố chủ quyền đối với tất cả các đảo, bãi đá, cồn cát và san hô trong Biển Đông, bao gồm cả quần đảo Hoàng Sa Họ xem quần đảo này là một phần lãnh thổ của mình nằm trong Đường chữ U Để khẳng định chủ quyền, Trung Quốc đã thực hiện nhiều hành động đơn phương nhằm "luật hóa" yêu sách của mình đối với quần đảo Hoàng Sa.

Vào ngày 04/09/1958, Chính phủ Trung Quốc đã công bố quyết định mở rộng vùng lãnh hải của mình lên 12 hải lý, áp dụng cho lãnh hải của lục địa Trung Quốc và tất cả các hải đảo thuộc nước này, bao gồm cả quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Cụ thể, Điều 1 Tuyên bố năm 1958 về lãnh hải của Trung Quốc nhấn mạnh rằng:

Sự đối lập giữa yêu sách của Trung Quốc và Việt Nam về chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa

Cả Trung Quốc và Việt Nam đều khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa, dẫn đến sự đối lập gay gắt giữa hai bên Sự căng thẳng này bắt đầu từ thời kỳ Pháp chiếm đóng Đông Dương và việc Anh mở rộng yêu sách tại Biển Đông vào cuối thế kỷ XIX Các quốc gia này đã trao đổi công hàm về quyền sở hữu các đảo nhỏ trong khu vực Với sự phát triển toàn cầu, vai trò của biển và đại dương ngày càng quan trọng, kéo theo sự gia tăng xung đột trong yêu sách chủ quyền tại Hoàng Sa, bao gồm hành động chiếm đóng và quản lý thực tế các đảo và bãi cát Những cuộc đụng độ quân sự đã xảy ra, dẫn đến tỷ lệ thương vong cao.

Vào năm 1956, Hải quân Trung Quốc đã chiếm đóng phía Đông quần đảo Hoàng Sa, đánh dấu một sự kiện quan trọng trong lịch sử khu vực Sự kiện này xảy ra sau khi Pháp thất bại trong trận Điện Biên Phủ và ký Hiệp định Genève, dẫn đến những thay đổi lớn trong tình hình chính trị và quân sự tại Đông Nam Á.

Bài viết "20 Đại sử ký tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông" trên Nghiên cứu Biển Đông cung cấp cái nhìn tổng quan về các vấn đề liên quan đến tranh chấp chủ quyền tại khu vực Biển Đông Tài liệu này nêu bật các sự kiện lịch sử quan trọng, các bên liên quan và diễn biến chính trong các cuộc tranh chấp, giúp người đọc hiểu rõ hơn về bối cảnh phức tạp của khu vực này Để tìm hiểu chi tiết, bạn có thể truy cập vào liên kết: [http://nghiencuubiendong.vn/tong- quan-ve-bien-dong/533-ai-s-ky-tranh-chap-chu-quyen-tai-bien-ong] (truy cập ngày 08/12/2014).

Bài viết của Nguyễn Nhã tại địa chỉ 21 Nguyễn Nhã phản bác các lập luận của Trung Quốc nhằm biện minh cho việc xâm phạm chủ quyền của Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa Qua đó, tác giả khẳng định quyền lợi hợp pháp của Việt Nam đối với các vùng biển và đảo này, đồng thời chỉ ra những sai lệch trong các luận điểm của Trung Quốc Hãn Nguyên Nguyễn Nhã Foundation đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ chủ quyền và nâng cao nhận thức về vấn đề Biển Đông.

[http://www.hannguyennguyennha.com/su-that-chu-quyen/ho-so-tu-lieu/167-phan-bac-luan-diem-trung-quoc- xam-pham-chu-quyen-viet-nam] (truy cập ngày 08/12/2014)

22 Xem tại: [http://www.nansha.org.cn/history/2/1980-01-30.html] (truy cập ngày 28/11/2014)

Sau khi Hiệp định Genève ngày 20/7/1954 buộc quân Pháp rút khỏi Việt Nam vào tháng 4/1956, đã tạo ra khoảng trống an ninh ở Biển Đông, dẫn đến việc Trung Quốc và Philippines tận dụng cơ hội này để triển khai quân sự chiếm đóng một số đảo tại quần đảo Hoàng Sa Ngay lập tức, Hải quân Trung Quốc đã chiếm đóng phía Đông quần đảo Hoàng Sa, bao gồm đảo Phú Lâm - đảo lớn nhất trong quần đảo này Để khẳng định chủ quyền, Chính quyền VNCH đã tổ chức nhiều hoạt động, trong đó có tuyên bố của Ngoại trưởng Vũ Văn Mẫu vào ngày 01/6/1956 về việc tái khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa Đến ngày 22/8/1956, Việt Nam đã đưa lực lượng hải quân đến khu vực này và tiến hành nghiên cứu thuỷ văn cũng như khai thác phốt phát.

Gần 20 năm sau, tháng 01/1974, tại quần đảo Hoàng Sa đã xảy ra chiến sự giữa hải quân hai nước Việt Nam và Trung Quốc Tình hình bắt đầu rơi vào căng thẳng từ ngày 01/01/1974 khi Bộ Ngoại giao Trung Quốc tuyên bố lên án chính quyền VNCH đã “xâm lấn đất đai của Trung Quốc”, “tất cả các quần đảo Nam Sa, Tây Sa, Đông

Vào ngày 15/01/1974, Trung Quốc đã tiến hành đưa quân đổ bộ và cắm cờ lên các đảo Hữu Nhật, Quang Ảnh, Quang Hoà và Duy Mộng thuộc quần đảo Hoàng Sa, khẳng định chủ quyền của mình Ngày hôm sau, Hải quân VNCH, dưới sự chỉ huy của Tuần dương hạm Lý Thường Kiệt, đã cử phái đoàn ra Hoàng Sa để phản đối hành động xâm phạm này Trong khoảng thời gian từ 17 đến 20/01/1974, một trận hải chiến ác liệt đã diễn ra giữa lực lượng Hải quân VNCH và Quân giải phóng nhân dân Trung Hoa, gây thương vong cho cả hai bên Ngày 19/01/1974, Bộ Ngoại giao VNCH đã ra Tuyên cáo lên án mạnh mẽ hành động xâm lấn của Trung Quốc tại Hoàng Sa.

Hiệp định Genève quy định vĩ tuyến 17 là giới tuyến quân sự tạm thời tại Việt Nam, yêu cầu Pháp rút toàn bộ quân đội và bộ máy cai trị, giao quyền kiểm soát miền Bắc cho Chính quyền VNDCCH.

Vì quần đảo Hoàng Sa nằm dưới vĩ tuyến 17, nên khu vực này thuộc sự quản lý của Chính quyền Việt Nam Cộng hòa (VNCH) trong giai đoạn lịch sử đó.

Lưu Văn Lợi (2014), Hội nghị quân sự Trung Giã và Hiệp định Genève 1954 về Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia

Trung Quốc đã sử dụng vũ lực để chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, theo trích dẫn từ sách "Dấu ấn Việt Nam trên Biển Đông" của Trần Công Trục Thông tin này được đăng tải trên Infonet và có thể truy cập tại địa chỉ [http://infonet.vn/trung-quoc-da-dung-vu-luc-chiem-hoang-sa-cua-viet-nam-bai-7-post28392.info] (truy cập ngày 03/12/2014).

Bài viết của Hãn Nguyên Nguyễn Nhã phân tích bối cảnh lịch sử dẫn đến tranh chấp chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đồng thời nêu rõ nguyên nhân và giải pháp cho vấn đề này Tác giả nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hiểu rõ lịch sử để bảo vệ quyền lợi quốc gia và đề xuất các biện pháp nhằm giải quyết tranh chấp một cách hòa bình.

Bành Quốc Tuấn (2012) trong bài viết “Một số vấn đề cần quan tâm khi Việt Nam giải quyết tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông tại Tòa PCA La Haye” đã nêu rõ những khía cạnh quan trọng mà Việt Nam cần chú ý trong quá trình xử lý các tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông Bài viết được đăng trên Tạp chí Phát triển & Hội nhập của trường Đại học Kinh Tế Tp HCM, số 7(17), trang 27.

28 Ủy ban nhân dân huyện Hoàng Sa, “Lịch sử xác lập và thực thi chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa”, tr 18

Vào ngày 11 tháng 1 năm 1974, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã ra tuyên bố mạnh mẽ lên án chính quyền Sài Gòn về hành động xâm phạm lãnh thổ của Trung Quốc.

土主 权的肆意侵犯.” Xem tại: [http://history.people.com.cn/n/2014/0515/c372327-25022894-2.html] (truy cập ngày 10/12/2014)

Trung Quốc 30 Kể từ sau cuộc chiến đó, Trung Quốc đã kiểm soát hoàn toàn trên thực tế quần đảo này cho đến ngày nay

Từ sau cuộc chiến năm 1974, Trung Quốc đã kiểm soát thực tế quần đảo Hoàng Sa và tiến hành các hoạt động khẳng định chủ quyền, trong khi Việt Nam kiên quyết phản đối và giữ vững yêu sách của mình Các sự kiện đối kháng giữa hai nước diễn ra liên tiếp, như việc Trung Quốc cấm đánh bắt cá ở Biển Đông vào năm 2013, điều này đã gặp phải sự phản đối mạnh mẽ từ Việt Nam Một sự kiện đáng chú ý khác là Việt Nam đã gửi công hàm phản đối kế hoạch tổ chức du lịch tại quần đảo Hoàng Sa vào tháng 4/2014 Ngoài ra, Trung Quốc cũng đã hoàn thành việc xây dựng đường băng trên đảo Phú Lâm thuộc quần đảo này.

Vào ngày 07/10/2014, Việt Nam đã mạnh mẽ phản đối các hành động xâm phạm chủ quyền và khẳng định có đủ căn cứ pháp lý cùng chứng cứ lịch sử để bảo vệ quyền sở hữu đối với quần đảo Hoàng Sa.

Luật pháp quốc tế về thụ đắc lãnh thổ (acquisition of territory)

Các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế có liên quan đến thụ đắc lãnh thổ

Luật pháp quốc tế hiện đại bao gồm 7 nguyên tắc cơ bản được ghi nhận tại Hiến chương LHQ 1945 và Tuyên bố 1970, có tính bắt buộc chung (jus cogens) cho tất cả các chủ thể trong quan hệ quốc tế Luật quốc tế về lãnh thổ và biên giới là một ngành luật độc lập, điều chỉnh mối quan hệ giữa các quốc gia về vấn đề pháp lý liên quan đến lãnh thổ và biên giới quốc gia Việc thụ đắc lãnh thổ phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế, tuy nhiên, không phải mọi trường hợp thụ đắc lãnh thổ đều cần tuân theo tất cả các nguyên tắc này do đặc thù riêng của từng trường hợp.

Bài viết của Nguyễn Bá Diến tập trung vào việc áp dụng các nguyên tắc thụ đắc lãnh thổ trong luật quốc tế để giải quyết các tranh chấp hòa bình ở Biển Đông Tác giả nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tuân thủ các quy định quốc tế nhằm duy trì hòa bình và ổn định trong khu vực này Nghiên cứu này có thể được tham khảo tại Nghiên cứu Biển Đông, với thông tin truy cập ngày 16/12/2014.

Nguyễn Tấn Hoàng Hải (2013) trong luận văn cử nhân của mình đã nghiên cứu thực tiễn áp dụng nguyên tắc chiếm hữu thực sự qua các vụ giải quyết tranh chấp quốc tế về lãnh thổ, từ đó rút ra những bài học có thể áp dụng cho trường hợp của Việt Nam.

51 Vũ Dương Huân, “Phân tích một số lập luận của Trung Quốc về “Chủ quyền lịch sử” của họ tại Biển Đông”,

Nghiên cứu Biển Đông, [http://nghiencuubiendong.vn/nghien-cuu-vietnam/2323-phan-tich-mt-s-lp-lun-ca-trung- quc-v-ch-quyn-lch-s-ca-h-ti-bin-ong] (truy cập ngày 16/12/2014)

Trong cuốn sách "Luật quốc tế" của Ngô Hữu Phước (2010), bảy nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế được nêu rõ, bao gồm: (1) nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia; (2) nguyên tắc không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế; (3) nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế; (4) nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác; (5) nguyên tắc quyền dân tộc tự quyết; (6) nguyên tắc quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau; và (7) nguyên tắc Pacta sunt servanda.

The "Charter of the United Nations," effective from October 24, 1945, outlines key principles in Article 2, referred to as the operational principles of the UN, rather than fundamental principles of international law The article states, "The Organization and its Members, in pursuit of the Purposes stated in Article 1, shall act in accordance with the following Principles."

The Declaration on Principles of International Law Concerning Friendly Relations and Cooperation Among States, adopted by the United Nations General Assembly in Resolution 2625 (XXV) on October 24, 1970, outlines fundamental principles governing the interactions between nations in accordance with the UN Charter.

55 Trường đại học Luật Hà Nội (2004), Giáo trình Luật quốc tế, NXB Công an nhân dân, tr 39

Theo Trường Đại học Luật Tp HCM (2013) trong Giáo trình Công pháp quốc tế (quyển 1), các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế liên quan đến thụ đắc lãnh thổ bao gồm những quy định quan trọng mà các quốc gia cần tuân thủ.

Nguyên tắc “Bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia” nhấn mạnh rằng chủ quyền là thuộc tính chính trị – pháp lý không thể tách rời của mỗi quốc gia, bao gồm quyền tối cao trong lãnh thổ và quyền độc lập trong quan hệ quốc tế Mỗi quốc gia có quyền thực hiện lập pháp, hành pháp và tư pháp mà không bị can thiệp từ bên ngoài, đồng thời bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ, điều này cần được tôn trọng bởi các quốc gia khác Chủ quyền không thể được xác lập trên lãnh thổ của quốc gia khác mà không có sự đồng ý của quốc gia sở hữu lãnh thổ đó.

Nguyên tắc thứ hai trong quan hệ quốc tế khẳng định rằng "không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực" Trước đây, chiến tranh được coi là phương tiện hợp pháp để giải quyết tranh chấp, nhưng ngày nay, luật quốc tế hiện đại đã thay đổi cách xác lập chủ quyền lãnh thổ Tuyên bố năm 1970 của Liên Hợp Quốc nêu rõ rằng lãnh thổ của một quốc gia không thể bị chiếm đoạt qua việc đe dọa hoặc sử dụng vũ lực, và mọi sự chiếm đóng như vậy đều không được công nhận là hợp pháp Nguyên tắc này đóng vai trò quan trọng trong việc xác định tính hợp pháp của chủ quyền lãnh thổ, giúp phân định quyền sở hữu cho những vùng đất đang có nhiều yêu sách, như quần đảo Hoàng Sa.

Nguyên tắc thứ ba trong quan hệ quốc tế là "Hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế", phát triển từ nguyên tắc không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực Lãnh thổ có vai trò quan trọng đối với quốc gia, dẫn đến nhiều tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ, trong đó có tranh chấp ở Biển Đông, đặc biệt là quần đảo Hoàng Sa Việc áp dụng nguyên tắc này là cần thiết để giải quyết các tranh chấp liên quan đến quần đảo Hoàng Sa một cách hòa bình.

57 Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình luật quốc tế, NXB Công an nhân dân, tr 41

58 Nguyễn Bá Diến, chú thích số 49

The territory of a State must not be subjected to military occupation or acquisition through the use of force, as this violates the principles outlined in the Charter Any territorial claims established by threat or force will not be deemed legal or recognized.

Sự tranh chấp chỉ có thể được giải quyết bằng các biện pháp hòa bình như đàm phán, điều tra, trung gian, hòa giải, trọng tài và tòa án, thông qua các tổ chức quốc tế hoặc khu vực, hoặc bằng những phương thức hòa bình khác.

Nguyên tắc thứ tư, “Nguyên tắc dân tộc tự quyết”, nhấn mạnh rằng mọi thay đổi về lãnh thổ cần phải dựa trên ý chí của cư dân địa phương Tuy nhiên, việc áp dụng nguyên tắc này có thể thiếu khách quan, đặc biệt trong trường hợp quần đảo Hoàng Sa, nơi đang bị Trung Quốc chiếm đóng Cư dân hiện tại trên quần đảo Hoàng Sa chủ yếu là người Trung Quốc, do đó, nếu áp dụng nguyên tắc dân tộc tự quyết, điều này sẽ gây bất lợi và không công bằng cho Việt Nam.

Ngoài những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế về thụ đắc lãnh thổ, còn có các nguyên tắc chuyên biệt mà các thiết chế tài phán quốc tế thường tham khảo khi giải quyết các vấn đề liên quan đến biên giới lãnh thổ.

Một số nguyên tắc và vấn đề pháp lý trong luật pháp quốc tế thường được áp dụng trong vấn đề biên giới – lãnh thổ

Ngành luật quốc tế về biên giới lãnh thổ có những nguyên tắc và vấn đề pháp lý đặc trưng, bao gồm ba nguyên tắc chính: estoppel, uti possidetis và luật quốc tế theo thời điểm (intertemporal international law) Bên cạnh đó, hai vấn đề pháp lý quan trọng được xem xét là kế thừa nhà nước (succession of States) và chính quyền thực tế (de facto).

Nguyên tắc estoppel, được thể hiện qua câu Latin “allegans contraria non audiendus est”, nhấn mạnh rằng một chủ thể không nên được hưởng lợi từ sự bất nhất của chính mình Sự chấp nhận thực tế bằng hành vi (estoppel) xảy ra khi một bên đưa ra tuyên bố hoặc thể hiện sự đồng ý, và bên còn lại dựa vào đó để thực hiện các hành động tiếp theo Do đó, bên đã đưa ra tuyên bố không thể thay đổi hoặc bác bỏ chúng Sự đồng ý này có giá trị chứng minh và thể hiện sự công nhận về hành vi chiếm hữu lãnh thổ của một bên tranh chấp trước đó, dẫn đến khả năng không thể bác bỏ thực tế đó.

According to Article 33, Paragraph 1 of the UN Charter, parties involved in any dispute that may threaten international peace and security must prioritize seeking a resolution through peaceful methods These methods include negotiation, inquiry, mediation, conciliation, arbitration, judicial settlement, and engaging with regional agencies or arrangements.

61 Alexander Ovchar (2009), Estoppel in the Jurisprudence of the ICJ A principle promoting stability threatens to undermine it, Bond Law Review, Volume 21: Issue 1, Article 5, page 3

Trong tranh chấp lãnh thổ giữa hai quốc gia, sự chấp nhận của một bên sẽ được coi là bằng chứng chống lại mọi phủ nhận sau này Nguyên tắc này nhằm ngăn chặn việc một chủ thể thực hiện những hành động không nhất quán, gây tổn hại đến các chủ thể khác.

Nguyên tắc này, mặc dù đơn giản và không yêu cầu kỹ thuật phức tạp, lại là yếu tố quan trọng và linh hoạt nhất trong bất kỳ hệ thống tư pháp nào Nó đóng vai trò thiết yếu trong việc đảm bảo tính logic, công lý và hòa bình trong một vụ việc Nguyên tắc này liên quan đến sự ngầm đồng ý và sự công nhận, góp phần vào việc hình thành các quy tắc của luật quốc tế thông thường nhằm bù đắp cho những thiếu sót của luật pháp quốc tế.

Nguyên tắc estoppel trong luật quốc tế có nguồn gốc từ cả hệ thống common law của Anh – Mỹ và hệ thống civil law của các nước châu Âu Sự phát triển của estoppel từ một tập quán khu vực thành một nguyên tắc quốc tế đã làm thay đổi đáng kể bản chất của nó Nguyên tắc này nhấn mạnh rằng luật quốc tế yêu cầu sự thiện chí và thành thực, đồng thời cần cẩn trọng trước những rủi ro từ sự thiếu nhất quán trong hành vi của các chủ thể Estoppel hiện được công nhận là một nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế và đã được Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ) áp dụng trong nhiều trường hợp.

Nguyên tắc quốc tế estoppel yêu cầu ba yếu tố chính: đầu tiên, sự biểu đạt phải rõ ràng và không có nhiều nghĩa; thứ hai, sự biểu đạt cần phải tự nguyện, vô điều kiện và đúng thẩm quyền; và cuối cùng, phải có sự tin tưởng từ một chủ thể khác vào thiện chí của đại diện bên có sự biểu đạt, điều này có thể dẫn đến thiệt hại cho bên tin tưởng hoặc mang lại lợi ích cho bên đại diện.

Trong vụ Đông Greenland, Tòa án quốc tế đã chỉ ra rằng Na Uy đã công nhận các điều ước quốc tế ký kết với Đan Mạch, bao gồm cả yêu cầu về chủ quyền của Đan Mạch đối với toàn bộ lãnh thổ Đông Greenland Tòa ICJ khẳng định rằng tuyên bố này có giá trị quan trọng trong việc xác định quyền sở hữu lãnh thổ.

Vào năm 1919, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Na Uy đã tuyên bố rằng toàn bộ Đông Greenland thuộc về Đan Mạch Tuyên bố này không chỉ rõ ràng mà còn nhất quán với các phát biểu trước đó của Na Uy về vấn đề này.

62 Phil C.W.Chan (2004), Acquiescence/Estoppel in International Boundaries: Temple of Preah Vihear Revisited, Chinese Journal of International Law, page 438-439,

[http://chinesejil.oxfordjournals.org/content/3/2/421.full.pdf] (truy cập ngày 13/08/2015)

63 Megan L Wagner (1986), Jurisdiction by Estoppel in the International Court of Justice, California Law

Review, Volume 74: Issue 5, Article 6, page 1777-1778

64 Alexander Ovchar, chú thích số 61, tr 1

Năm 1919, nguyên tắc estoppel đã được hình thành, dẫn đến việc Tòa án bác bỏ những lập luận của Na Uy về chủ quyền của Đan Mạch tại vùng lãnh thổ Đông Greenland Vụ đền Preah Vihear giữa Campuchia và Thái Lan là một ví dụ điển hình về việc áp dụng nguyên tắc này, khi Tòa án kết luận rằng Thái Lan không thể phản đối chủ quyền của Campuchia đối với ngôi đền, do các hành động trước đó của Thái Lan đã thể hiện sự chấp nhận vị trí và quy chế pháp lý của ngôi đền thuộc về người Pháp.

Về nguyên tắc uti possidetis (sử dụng đường biên giới có sẵn)

Nguyên tắc toàn vẹn lãnh thổ, đặc biệt là khái niệm "uti possidetis" từ châu Mỹ-Latin, thể hiện sự ảnh hưởng mạnh mẽ trong bối cảnh sự thống trị của đế chế Tây Ban Nha ở Nam Mỹ Nguyên tắc này nhấn mạnh quyền kiểm soát lãnh thổ, đồng thời góp phần định hình các biên giới quốc gia sau khi các quốc gia độc lập được thành lập.

Mỹ được cho là đã thiết lập biên giới cho các quốc gia chiến thắng mới giành độc lập, nhằm ngăn chặn khoảng trống về chủ quyền có thể dẫn đến thù hận và can thiệp từ ngoại bang Điều này đặc biệt rõ ràng khi nhìn vào thực tiễn ở các quốc gia châu Phi, nơi mà các phương án tương tự đã được áp dụng.

Tổ chức châu Phi Thống nhất vào năm 1964 đã tuyên bố rằng các ranh giới của thực dân tại thời điểm độc lập cần được tôn trọng bởi tất cả các quốc gia thành viên Thực tiễn tại châu Phi đã nhấn mạnh tầm quan trọng của sự toàn vẹn lãnh thổ, điều này đã dẫn đến sự phản đối mạnh mẽ từ các quốc gia ly khai như Belgian Congo, Nigeria và Sudan.

Vấn đề uti possidetis đã được đề cập trong tranh chấp giữa Burkina Faso và Mali, nơi mà thỏa thuận đặc biệt đã xác nhận rằng việc giải quyết dựa trên nguyên tắc "đường ranh giới vô hình kế thừa từ thực dân" Nguyên tắc này đã trở thành tập quán chung của pháp luật hiện đại và không bị ảnh hưởng bởi nguyên tắc quyền dân tộc tự quyết Tại châu Phi, mục đích của nguyên tắc này là bảo vệ sự độc lập và ổn định của các quốc gia mới thành lập khỏi nguy cơ nội chiến liên quan đến biên giới Tòa án đã nhấn mạnh sự áp dụng rộng rãi của nguyên tắc này, cho thấy mối liên hệ chặt chẽ với hiện tượng giành độc lập.

Bài viết của Hà Thị Hạnh (2013) tại Tạp chí khoa học pháp lý, trường Đại học Luật Tp HCM, số 5 (78) trình bày nguyên tắc chiếm hữu thực sự trong luật quốc tế và cách thức áp dụng nguyên tắc này để củng cố lập luận khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

67 Malcolm N Shaw (2008), International Law, Cambridge, sixth edition, page 525-526

68 Malcolm N Shaw (2008), chú thích số 67, page 525-527

Phương thức thụ đắc lãnh thổ theo nguyên tắc chiếm hữu (occupation)

Trong bối cảnh các học thuyết và thực tiễn quốc tế, có nhiều cách phân chia phương thức thụ đắc lãnh thổ Hiện nay, cách phân chia phổ biến và hợp lý nhất là xác định thụ đắc lãnh thổ qua năm phương thức: (1) do sự kiến tạo địa lý (accretion), (2) do chuyển nhượng tự nguyện (cession), (3) theo thời hiệu (prescription), (4) theo kế cận địa lý.

Trên thế giới hiện nay, không còn lãnh thổ vô chủ, nhưng tranh chấp lãnh thổ vẫn tồn tại, điển hình là tranh chấp ở quần đảo Hoàng Sa Các nguyên tắc và quy phạm về thụ đắc lãnh thổ vẫn có giá trị để xem xét các hành vi thụ đắc của các quốc gia Nhóm tác giả tập trung vào phương thức thụ đắc lãnh thổ theo nguyên tắc chiếm hữu, vì đây là cơ sở lập luận của cả Trung Quốc và Việt Nam trong việc khẳng định chủ quyền tại quần đảo Hoàng Sa Trong khi Trung Quốc dựa vào thuyết phát hiện đầu tiên, Việt Nam lại căn cứ vào thuyết chiếm hữu thực sự để bảo vệ quyền lợi của mình.

Phương thức thụ đắc lãnh thổ bằng chiếm hữu là hành động của quốc gia thiết lập quyền lực trên lãnh thổ vô chủ, chưa thuộc về quốc gia nào Mặc dù hiện nay không còn lãnh thổ vô chủ trên trái đất, phương thức này vẫn giữ vai trò quan trọng trong việc giải quyết tranh chấp chủ quyền lãnh thổ giữa các quốc gia Qua các giai đoạn lịch sử, nhiều thuyết về thụ đắc lãnh thổ đã ra đời, trong đó ba thuyết chính là thuyết phát hiện đầu tiên, thuyết chiếm hữu danh nghĩa và thuyết chiếm hữu thực sự.

Xác lập chủ quyền lãnh thổ thông qua chuyển nhượng tự nguyện là quá trình chuyển giao quyền sở hữu từ quốc gia này sang quốc gia khác một cách hòa bình Phương thức này thường được hợp thức hóa bằng văn bản điều ước giữa hai quốc gia, trong đó nêu rõ vùng lãnh thổ và các điều kiện chuyển nhượng Trước thế kỷ XX, việc chuyển nhượng lãnh thổ có thể diễn ra dưới hình thức tặng, cho, đặt cược hoặc trao đổi, nhưng thường gặp nhất là mua bán lãnh thổ.

Phương thức thụ đắc lãnh thổ theo thời hiệu cho phép một quốc gia xác lập chủ quyền đối với một vùng lãnh thổ nếu họ đã chiếm hữu trong thời gian dài mà không có tranh chấp với quốc gia khác Mặc dù về mặt pháp lý, chủ quyền đối với vùng lãnh thổ này có thể đang gây tranh cãi, nhưng lãnh thổ thụ đắc không nhất thiết phải là lãnh thổ vô chủ (terra nullius); nó có thể thuộc về một quốc gia khác hoặc có nguồn gốc không rõ ràng về chủ quyền.

Xác lập chủ quyền lãnh thổ theo nguyên tắc kế cận là quá trình mà các quốc gia dựa vào vị trí địa lý gần gũi để bảo vệ yêu sách chủ quyền của mình Lập luận này cho rằng các vùng lãnh thổ gần gũi hoặc nằm trong vùng biển thềm lục địa của quốc gia đó "đương nhiên" thuộc về họ.

102 Nguyễn Bá Diến, chú thích số 49

Tổng cục Biển Việt Nam đã công bố bài viết "Xác lập chủ quyền lãnh thổ (tiếp theo)" trên trang Biển toàn cảnh Bài viết này tập trung vào việc khẳng định quyền sở hữu lãnh thổ và bảo vệ quyền lợi của Việt Nam trên biển Để tìm hiểu thêm, bạn có thể truy cập vào liên kết sau: [Xác lập chủ quyền lãnh thổ (tiếp theo)](http://bientoancanh.vn/Xac-lap-chu-quyen-lanh-tho-(tiep-theo)-_C

Thứ nhất, thuyết phát hiện đầu tiên 104 (discovery)

Trong các trường hợp lãnh thổ không có tranh chấp, quốc gia có chủ quyền không cần phải chứng minh cách thức thụ đắc lãnh thổ Tuy nhiên, khi lãnh thổ bị tranh chấp, các bên liên quan phải cung cấp bằng chứng thuyết phục dựa trên các phương thức thụ đắc lãnh thổ theo luật pháp quốc tế Điển hình như Trung Quốc, Malaysia trong vụ tranh chấp đảo Pedra Branca và Hoa Kỳ trong vụ đảo Palmas đã áp dụng thuyết phát hiện đầu tiên để biện minh cho quyền sở hữu lãnh thổ của mình.

Thuyết phát hiện đầu tiên được hình thành và phát triển cùng với sự bành trướng của các nước châu Âu ra các châu lục khác từ thế kỷ XVI Trước khi thuyết này ra đời, chủ quyền lãnh thổ chủ yếu chịu sự chi phối của “chỉ dụ của Giáo hoàng” Năm 1493, Giáo hoàng Alexandre VI đã ban hành các sắc lệnh phân chia các vùng lãnh thổ mới giữa Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, cùng với Hiệp ước Tordesilla ký ngày 07/6/1494 được xác nhận bởi Giáo hoàng Jules II năm 1506 Theo các sắc lệnh này, tất cả các vùng lãnh thổ ở phía Đông một đường tưởng tượng chạy qua phía Tây đảo Cap Vert thuộc về Bồ Đào Nha, trong khi vùng lãnh thổ ở phía Tây thuộc về Tây Ban Nha Hiệp ước Tordesilla đã dịch chuyển đường tưởng tượng này về phía Tây thêm 370 liên, dẫn đến việc các quốc gia châu Âu khác phải tìm ra nguyên tắc khác để thiết lập chủ quyền trên các vùng lãnh thổ mà họ “phát hiện”, được gọi là “quyền ưu tiên chiếm hữu” hay “quyền phát hiện”.

Thuyết phát hiện đầu tiên xác định quyền ưu tiên chiếm hữu các vùng lãnh thổ mà quốc gia đã phát hiện ra trước các quốc gia khác Theo đó, việc cắm cờ lên một hòn đảo hoặc việc một thuyền trưởng nhìn thấy vùng đất mới đủ để quốc gia đó có quyền ưu tiên chiếm hữu.

104 Đây là thuyết Trung Quốc dùng để lập luận về chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa

Luận án phó tiến sĩ của Hoàng Trọng Lập (1996) tại Đại học quốc gia Hà Nội nghiên cứu về tranh chấp hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đồng thời phân tích các khía cạnh liên quan đến luật pháp quốc tế.

Nhóm phóng viên Biển Đông đã công bố bài viết "Kỳ 20: Cơ sở pháp lý quốc tế về sự thiết lập chủ quyền lãnh thổ tại các hải đảo" trên Báo Đại đoàn kết Bài viết này phân tích các quy định và nguyên tắc pháp lý quốc tế liên quan đến việc xác lập chủ quyền lãnh thổ trên các hải đảo, cung cấp cái nhìn sâu sắc về vấn đề này Để tìm hiểu thêm, vui lòng truy cập [http://ubnd.quangngai.gov.vn/quangngai/tiengviet/bangtin/2011/63982/].

Việc phát hiện lãnh thổ không tự động mang lại chủ quyền cho quốc gia, vì khó xác định rõ ràng về khái niệm phát hiện và giá trị pháp lý của nó Mặc dù trong quá khứ, việc chỉ cần phát hiện đã tạo ra danh nghĩa chủ quyền, nhưng hiện tại, điều này không còn hiệu lực Sự chiếm đóng tạm thời chỉ tạo ra danh nghĩa phôi thai, trong khi chiếm hữu thực sự mới đủ điều kiện cho chủ quyền Tuy nhiên, yêu sách chủ quyền sẽ được củng cố mạnh mẽ nếu quốc gia chứng minh được rằng họ đã phát hiện ra lãnh thổ đó, làm cho việc phát hiện trở thành sự xác nhận cho chiếm hữu sau này.

Theo sau đó, thuyết “chiếm hữu trên danh nghĩa” đã ra đời với những đòi hỏi gắt gao hơn đối với một quốc gia muốn thụ đắc lãnh thổ

Thứ hai, thuyết chiếm hữu trên danh nghĩa

Thuyết chiếm hữu trên danh nghĩa, do luật gia người Hà Lan Grotius phát triển, áp dụng linh hoạt các khái niệm quyền sở hữu tài sản trong luật La Mã Theo thuyết này, để xác lập chủ quyền quốc gia đối với vùng lãnh thổ mới, cần có sự công nhận từ một số hành vi tượng trưng, như việc viên thuyền trưởng hoặc nhà thám hiểm đặt chân lên vùng đất vô chủ và để lại dấu tích như cây thập tự, cột gỗ hay bia đá Sau đó, nhà nước mà nhà thám hiểm là công dân cần đưa ra tuyên bố chính thức về việc xác lập chủ quyền đối với vùng lãnh thổ đó Hai điều kiện này đủ để một vùng đất vô chủ được coi là thuộc về quốc gia phát hiện mà không cần sự hiện diện thực tế của chính quyền nhà nước.

Thuyết này đã tồn tại từ thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XIX, nhưng đã phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt từ các cường quốc trong bối cảnh phát triển mạnh mẽ của chủ nghĩa tư bản.

02/01/2015) Đây là một trong các lập luận của Trung Quốc về chủ quyền của mình đối với quần đảo Hoàng Sa, chi tiết sẽ được phân tích tại phần 2.1.1

107 Hoàng Trọng Lập, chú thích số 105

108 Clifford C Whitmore (1896), The Doctrine of the Acquisition of Territory by Occupation in International Law, Historical Cornell Law School, page 3-4

CÁC LẬP LUẬN CƠ BẢN CỦA TRUNG QUỐC VỀ CHỦ QUYỀN ĐỐI VỚI QUẦN ĐẢO HOÀNG SA DƯỚI GÓC ĐỘ LUẬT PHÁP QUỐC TẾ

Ngày đăng: 28/12/2021, 10:02

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w