1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

TIỂU LUẬN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM HỘI NGHỊ PARIS VỀ CHẤM DỨT CHIẾN TRANH, LẬP LẠI HÒA BÌNH Ở VIỆT NAM (2711973)

34 158 3

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Hội Nghị Paris Về Chấm Dứt Chiến Tranh, Lập Lại Hòa Bình Ở Việt Nam (27/1/1973)
Tác giả Nhóm 3
Người hướng dẫn Nguyễn Thị Tố Uyên
Trường học Trường Đại Học Ngoại Thương
Chuyên ngành Lý Luận Chính Trị
Thể loại tiểu luận
Năm xuất bản 2021 – 2022
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 34
Dung lượng 129,46 KB

Cấu trúc

  • 1. Tính cấp thiết của đề tài

  • 2. Tổng quan nghiên cứu

  • 3. M c tiêu nghiên cứu

  • 4. Đối t ng nghiên cứu

  • 5. Ph m vi nghiên cứu

  • CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ HỘI NGHỊ PARIS

    • 1.1 Bối cảnh lịch sử

      • 1.1.1 Về phía Mỹ

      • 1.1.2 Về phía Việt Nam

    • 1.2 Diễn biến chính

  • CHƯƠNG 2. NỘI DUNG HIỆP ĐỊNH PARIS

    • 2.1 Nội dung hiệp định Paris

      • PHẦN I: CÁC QUYỀN DÂN TỘC CƠ BẢN CỦA NHÂN DÂN VIỆT NAM

      • PHẦN II: CHẤM DỨT CHIẾN SỰ - RÚT QUÂN

    • Điều 8.

      • PHẦN IV: VIỆC THỰC HIỆN QUYỀN TỰ QUYẾT CỦA NHÂN DÂN MIỀN NAM VIỆT NAM

    • Điều 12.

  • PHẦN V: VẤN ĐỀ THỐNG NHẤT NƯỚC VIỆT NAM VÀ VẤN ĐỀ QUAN HỆ GIỮA MIỀN BẮC VÀ MIỀN NAM VIỆT NAM

    • Điều 16.

    • Điều 17.

    • Điều 18.

  • PHẦN VII. ĐỐI VỚI CAMPUCHIA VÀ LÀO

    • Điều 20.

  • PHẦN VII: QUAN HỆ GIỮA HOA KỲ VÀ VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA

    • PHẦN IX: NHỮNG ĐIỀU KHOẢN KHÁC

    • 2.2 Ý nghĩa

      • 2.2.2 Ý nghĩa

  • CHƯƠNG 3. VAI TRÒ VÀ Ý NGHĨA CỦA HỘI NGHỊ PARIS ĐẾN CHẤM DỨT CHIẾN TRANH, THIẾT LẬP HÒA BÌNH Ở VIỆT NAM

    • 3.1 Kết quả đ t đ c

      • 3.1.1 Tình hình dẫn tới hội nghị Paris

      • 3.1.2 Tình hình Việt Nam sau Hội nghị Paris

      • 3.1.3 Thành tựu

      • 3.1.4 Nguyên nhân dẫn đến thành công của Hội nghị Paris

    • 3.2 H n chế

    • 3.3 Bài học

    • 3.4 Liên hệ với thực tiễn hiện nay

  • D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Nội dung

A. MỞ ĐẦU 4 1. Tính cấp thiết của đề tài 4 2. Tổng quan nghiên cứu 5 3. M c tiêu nghiên cứu 6 4. Đối t ng nghiên cứu 6 5. Ph m vi nghiên cứu 6 B. NỘI DUNG 7 CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ HỘI NGHỊ PARIS 7 1.1 Bối cảnh lịch sử 7 1.1.1 Về phía Mỹ 7 1.1.2 Về phía Việt Nam 7 1.2 Diễn biến chính 8 CHƯƠNG 2. NỘI DUNG HIỆP ĐỊNH PARIS 11 2.1 Nội dung hiệp định Paris 11 2.2 Ý nghĩa 17 2.2.1 Khái quát tác động và ảnh hưởng tới Việt Nam và các nước trên thế giới17 2.2.2 Ý nghĩa 18 CHƯƠNG 3. VAI TRÒ VÀ Ý NGHĨA CỦA HỘI NGHỊ PARIS ĐẾN CHẤM DỨT CHIẾN TRANH, THIẾT LẬP HÒA BÌNH Ở VIỆT NAM 20 3.1 Kết quả đ t đ c 20 3.1.1 Tình hình dẫn tới hội nghị Paris 20 3.1.2 Tình hình Việt Nam sau Hội nghị Paris 21 3.1.3 Thành tựu 22 3.1.4 Nguyên nhân dẫn đến thành công của Hội nghị Paris 23 3.2 H n chế 24 3.3 Bài học 25 3.4 Liên hệ với thực tiễn hiện nay 27 C. KẾT LUẬN 30 D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 31 1. Tính cấp thiết của đề tài Hội nghị Paris kéo dài gần 5 năm là một cuộc đấu tranh gay go, phức tạp trên mặt trận ngoại giao của nước ta. Đó cũng chính là cuộc đấu tranh của nhân dân ở cả hai miền Nam Bắc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong các phiên họp chung như các cuộc tiếp xúc riêng, phía Việt Nam chúng ta không bỏ qua bất kỳ vấn đề quan trọng nào liên quan đến cuộc chiến tranh ở Đông Dương, nhưng tập trung đấu tranh vào hai vấn đề quan trọng nhất là đòi rút hết quân Mỹ và quân 5 nước đồng minh của Mỹ ở khu vực châu Á Thái Bình Dương ra khỏi miền Nam, đòi họ tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản và quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam. Với thắng lợi của Hiệp định Paris về Việt Nam, nhân dân ta đã thực hiện được mục tiêu “đánh cho Mỹ cút”, mở ra một giai đoạn mới, thuận lợi cho mục tiêu “đánh cho ngụy nhào”, làm tiền đề tiến lên giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước mùa Xuân năm 1975. Đây là thắng lợi của chúng ta về cả mặt quân sự và chính trị, có ý nghĩa lịch sử sâu sắc, tạo ra bước ngoặt mới trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta. Mặc dù đã có rất nhiều tiểu luận, luận văn viết về “Hiệp định Paris” nhưng chưa có bài tiểu luận nào viết về “Hội nghị Paris” về một cách đầy đủ và trọn vẹn nhất, vì thế nhóm chúng em đã lựa chọn đề tài “Hội nghị Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam (2711973)” để làm đề tài nghiên cứu của mình. 2. Tổng quan nghiên cứu Từ khi có Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã trải qua những chặng đường đấu tranh oanh liệt và thắng lợi vẻ vang, từng bước mang lại độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Đảng luôn nhạy bén, bám sát tình hình thời cuộc để xác định đúng đắn nhiệm vụ, phương pháp cách mạng phù hợp đưa đất nước tiến lên giành nhiều thắng lợi to lớn. Trong thực tiễn, Đảng luôn kết hợp chặt chẽ giữa kiên trì chuẩn bị lực lượng với nắm vững thời cơ, khi thời cơ đến đã biết chớp lấy, kịp thời tổ chức, động viên nhân dân cả nước đứng lên đấu tranh giành thắng lợi. Gắn liền với chặng đường đầy vinh quang đó, Hội nghị Paris trở thành một trong những sự kiện lịch sử tiêu biểu, góp phần không thể thiếu trong thắng lợi của Cách Mạng Việt Nam trong những năm 70 của thế kỉ XX. Hội nghị Paris và Hiệp định Paris là một điển hình thành công trong nghệ thuật đấu tranh ngoại giao của dân tộc ta trong lịch sử chống ngoại xâm, góp phần làm phong phú nghệ thuật vừa đánh giặc vừa đàm phán của cha ông ta, qua Hiệp định Paris, vị thế của dân tộc Việt Nam đã được nâng cao trên trường quốc tế. Vận dụng những bài học từ hội nghị Paris, để khẳng định quan điểm của Việt Nam trong các đàm phán quốc tế, cần thể hiện vị thế của nước ta ở nhiều lĩnh vực, nhất là chính trị, kinh tế, văn hóa và cả quân sự. Như trong các đàm phán thương mại song phương, có đối tác đưa ra các yêu sách phi lý về nhân quyền, về các vấn đề nội bộ, về nền kinh tế thị trường…; bên cạnh việc kiên trì giải thích, thuyết phục, chúng ta luôn chứng minh bằng các lý lẽ cụ thể về các thành tựu bảo vệ quyền con người ở nước ta, về uy tín của đất nước trên trường quốc tế, về tính hội nhập và đặc điểm thị trường của nền kinh tế… Có thể nói, thắng lợi của Hiệp định Paris đã mở ra một bước ngoặt mới cho cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta. Quá trình đi đến việc ký kết và bản thân Hiệp định đã để lại cho cách mạng Việt Nam nhiều bài học quý giá. Trong bối cảnh hiện nay, các bài học đó cần được nghiên cứu và vận dụng một cách hợp lý để tiếp tục thúc đẩy cách mạng nước ta phát triển mạnh mẽ hơn nữa. 3. M c tiêu nghiên cứu Việc nghiên cứu này cung cấp cho nhóm em thông tin về một trong những sự kiện ấn tượng, đặt dấu ấn trên lịch sử cả thế giới và đặc biệt là Việt Nam Hội nghị Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Nhờ đó, chúng em hiểu rõ hơn về ảnh hưởng, tầm quan trọng của hội nghị này lên việc kết thúc giai đoạn chiến tranh tại đất nước mình và tiếp thu những bài học của quá khứ. 4. Đối t ng nghiên cứu Hội nghị Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. 5. Ph m vi nghiên cứu Phạm vi thời gian: Từ ngày 01112021 đến ngày 15122021 Phạm vi nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu về tổng quan Hội nghị Paris, nội dung của Hiệp định Paris. CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ HỘI NGHỊ PARIS 1.1 Bối cảnh lịch sử 1.1.1 Về phía Mỹ Cuối năm 1964 đầu năm 1965, trước những đòn tiến công mãnh liệt của quân và dân miền Nam, cả về quân sự và chính trị, chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mỹ đã phá sản. Ngụy quân và ngụy quyền Sài Gòn đứng trước nguy cơ sụp đổ. Để hòng cứu vãn tình thế, Mỹ thay đổi chiến lược, từ chiến tranh đặc biệt chuyển thành chiến tranh cục bộ, thực chất là Mỹ hóa cuộc chiến tranh. Một mặt, Mỹ ồ ạt đưa quân chiến đấu vào miền Nam; mặt khác, tiến hành chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân chống lại miền Bắc, đưa chiến tranh xâm lược ra cả nước ta. Ba năm 1965, 1966, 1967 là thời gian Mỹ điên cuồng leo thang chiến tranh. Để lừa bịp dư luận, chính quyền Giônxơn rêu rao miền Bắc xâm lược miền Nam và mở cuộc vận động ngoại giao hòa bình, đòi miền Bắc đình chỉ thâm nhập người và dụng cụ chiến tranh vào miền Nam, rút quân khỏi miền Nam và đàm phán không điều kiện với Mỹ. 1.1.2 Về phía Việt Nam Đảng ta đã nhận định rằng, Mỹ buộc phải Mỹ hóa cuộc chiến tranh là vì chúng đang ở trong thế bị động về chiến lược. Mặc dù Mỹ đưa vào miền Nam mấy chục vạn quân và đánh phá ác liệt miền Bắc, nhưng lực lượng so sánh giữa ta và địch không có thay đổi lớn. Ta có cơ sở chắc chắn để giữ vững thế chủ động trên chiến trường, đánh bại âm mưu trước mắt và lâu dài của địch. Trên thực tế, Mỹ càng leo thang chiến tranh thì càng vấp phải những đòn giáng trả mãnh liệt của ta, cuối cùng, càng thấy đất trời mù mịt. Về mặt ngoại giao, ta nêu cao chính nghĩa của cuộc chiến đấu, bóc trần bộ mặt xâm lược và tính chất nguy hiểm của các hành động leo thang chiến tranh cùng thủ đoạn đàm phán hòa bình giả hiệu của địch. Ta kiên quyết đòi Mỹ chấm dứt xâm lược, rút hết quân ra khỏi miền Nam, chấm dứt vô điều kiện mọi hành động chiến tranh chống miền Bắc. Điều kiện tiên quyết của ta cho đàm phán là: chỉ khi nào Mỹ chịu chấm dứt ném bom, Việt Nam dân chủ cộng hòa mới nói chuyện với Mỹ. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân miền Nam trong Tết Mậu Thân năm 1968 cùng với thắng lợi của miền Bắc đánh bại chiến tranh phá hoại đã làm lung lay ý chí xâm lược của Mỹ. 1.2 Diễn biến chính Đêm ngày 3131968, phát biểu ý kiến trên đài truyền hình Mỹ, Tổng thống Giônxơn thừa nhận thảm bại trong Tết Mậu Thân và thông báo, đã ra lệnh chấm dứt mọi cuộc tiến công bằng máy bay và tàu chiến chống miền Bắc Việt Nam, trừ khu vực phía Bắc khu phi quân sự. Ông ta còn cam kết sẵn sàng đi bước đầu tiên trên con đường xuống thang và không ra tranh cử tổng thống thêm một nhiệm kỳ nữa. Ngày 1351968, cuộc đàm phán giữa Việt Nam dân chủ cộng hòa và Mỹ bắt đầu tại Paris và gần 6 tháng sau đi đến thỏa thuận về việc Mỹ chấm dứt mọi hành động chiến tranh chống nước Việt Nam dân chủ cộng hòa từ ngày 3110 1968, đồng thời thỏa thuận về việc triệu tập tại Paris một hội nghị để bàn việc chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, gồm các bên: Việt Nam dân chủ cộng hòa, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam, Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Ngày 2511969, Hội nghị Paris về Việt Nam họp phiên đầu tiên, mở ra giai đoạn vừa đánh, vừa đàm. Hội nghị Paris về Việt Nam là cuộc đàm phán dài nhất để chấm dứt một cuộc chiến tranh dài nhất trong thế kỷ XX, cuộc chiến tranh diễn ra trên phạm vi một nước nhưng lại là tiêu điểm của những mâu thuẫn và xung đột mang tính thời đại: giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động, giữa hòa bình với chiến tranh. Đó là cuộc đối thoại giữa hai thế lực đối đầu trên chiến trường, một bên là lực lượng xâm lược có thế mạnh vượt trội về quân sự và kinh tế nhưng lại có thế yếu về chính trị, tinh thần; một bên là lực lượng bảo vệ Tổ quốc, tuy có điểm yếu tương đối về quân sự và kinh tế nhưng lại có thế mạnh tuyệt đối về chính trị, chính nghĩa. Đó còn là cuộc đối chọi giữa hai nền ngoại giao, một bên là nền ngoại giao nhà nghề của một siêu cường; một bên là nền ngoại giao của một nhà nước cách mạng còn non trẻ. ở Paris đã diễn ra một cuộc đấu quyết liệt giữa hai ý chí, hai trí tuệ, hai loại pháp lý và đạo lý, hai thứ mưu lược khác nhau. Cả ta và đối phương đều đến Hội nghị với những mục đích và đòi hỏi đối lập nhau. Ta đòi Mỹ chấm dứt chiến tranh xâm lược, rút hết quân đội và vũ khí ra khỏi miền Nam Việt Nam, xóa bỏ chính quyền bù nhìn tay sai, tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam. Mỹ cũng nói muốn chấm dứt chiến tranh, nhưng lại đòi miền Bắc và Mỹ cùng rút quân; đòi khôi phục lại khu phi quân sự và duy trì chính quyền Sài Gòn. Có nghĩa là Mỹ tiếp tục thực hiện âm mưu chia cắt lâu dài Việt Nam, điều Mỹ không làm được trên chiến trường. Chính vì những đòi hỏi khác nhau đó mà đàm phán vừa mở ra mấy tháng đã dẫm chân tại chỗ. Để khai thông, ngày 851969, Đoàn Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam đưa ra giải pháp toàn bộ 10 điểm về việc giải quyết vấn đề Việt Nam. Đáp lại, ngày 1451969, Tổng thống Mỹ R. Níchxơn, qua diễn văn đọc trên truyền hình Mỹ, đã đưa ra 8 điểm của giải pháp cho vấn đề Việt Nam. Giải pháp của hai bên vẫn đối chọi nhau như nước với lửa. Ngày 661969, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam được thành lập. Ngày 86, Tổng thống Níchxơn công bố chính sách Việt Nam hóa chiến tranh, chủ trương tìm một con đường khác chứ không phải thông qua đàm phán để rút được quân Mỹ ra khỏi chiến tranh mà vẫn giữ được chính quyền và quân đội Sài Gòn. Thực chất của Việt Nam hóa chiến tranh là dùng người Việt đánh người Việt, thay đổi màu da của xác chết. Để thực hiện, Mỹ triển khai một kế hoạch toàn diện về quân sự, chính trị, kinh tế, trong đó quan trọng nhất là chuyển giao vũ khí hiện đại cho quân đội Sài Gòn, củng cố chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, ngăn chặn mọi âm mưu đảo chính. Trên chiến trường, Mỹ tiến hành bình định quyết liệt, đồng thời mở rộng chiến tranh sang Campuchia và Lào nhằm ngăn chặn tiếp tế của miền Bắc vào miền Nam, cô lập lực lượng cách mạng miền Nam từ bên ngoài. Về ngoại giao, chính quyền Níchxơn xây dựng một chiến lược toàn cầu mới trong khuôn khổ học thuyết Níchxơn, tìm cách lợi dụng mâu thuẫn Xô Trung trong quan hệ với Việt Nam, tìm kiếm một giải pháp thương lượng theo điều kiện có lợi cho Mỹ. Thực tiễn cho thấy, những gì Mỹ không làm được thời kỳ Mỹ hóa cao độ cuộc chiến tranh thì cũng không làm được trong thời kỳ Việt Nam hóa chiến tranh. Những năm 1969 1972 là những năm giằng co quyết liệt giữa hai bên trên chiến trường cũng như tại bàn đàm phán. Đàm phán thực chất chỉ diễn ra sau khi Mỹ đã cảm nhận được thất bại của chính sách Việt Nam hóa chiến tranh, nhất là sau thắng lợi của ta ở đường 9 Nam Lào và trong chiến dịch Đông Xuân 1971 1972, giải phóng thêm được nhiều vùng rộng lớn. Từ cuối năm 1971 đến những tháng cuối năm 1972, cả ta và Mỹ đều đưa ra những đề nghị mới, thông qua đàm phán công khai và đàm phán riêng, cuối cùng đi đến thỏa thuận về một văn bản hiệp định. Hội nghị Paris về Việt Nam, nếu kể từ cuộc đàm phán giữa Việt Nam dân chủ cộng hòa và Mỹ (tháng 51968) cho đến khi ký được Hiệp định đã kéo dài trong 4 năm 9 tháng, qua 202 phiên họp công khai và 24 phiên họp riêng. Mặc dù ngoan cố đến phút cuối cùng, ngày 2711973, Mỹ đã buộc phải ký Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Hiệp định Paris được sự công nhận và bảo đảm của một hội nghị quốc tế về Việt Nam, thông qua Định ước quốc tế, ký ngày 231973 cũng tại Paris. CHƯƠNG 2. NỘI DUNG HIỆP ĐỊNH PARIS 2.1 Nội dung hiệp định Paris PHẦN I: CÁC QUYỀN DÂN TỘC CƠ BẢN CỦA NHÂN DÂN VIỆT NAM Điều 1. Hoa Kỳ và các nước khác tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam như Hiệp định Geneve năm 1954 về Việt Nam đã công nhận PHẦN II: CHẤM DỨT CHIẾN SỰ RÚT QUÂN Điều 2. Một cuộc ngừng bắn sẽ được thực hiện trên toàn Việt Nam bắt đầu từ 27 tháng 1 năm 1973. Cùng ngày nói trên, Hoa Kỳ sẽ chấm dứt mọi hoạt động quân sự chống lãnh thổ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bằng mọi lực lượng trên bộ, trên không, trên biển bất cứ từ đâu tới, và sẽ chấm dứt việc tahr mìn tại vùng biển, các cảng và sông ngòi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Hoa Kỳ sẽ tháo gỡ, làm mất hiệu lực vĩnh viễn, phá hủy tất cả những mìn ở vùng biển, các cảng và sông ngòi ở miền Bắc Việt Nam ngay sau khi Hiệp Định này có hiệu lực. Việc chấm dứt hoàn toàn chiến sự trong điều này là vững chắc và không thời hạn. Điều 3. Các bên cam kết giữ vững ngừng bắn, bảo đảm hòa bình Bắt đầu từ khi ngừng bắn: a. Các lực lượng của Hoa Kỳ và của các nước ngoài đồng minh của Hoa Kỳ và của Việt Nam Cộng hòa sẽ ở nguyên vị trí của mình trong lúc chờ đợi thực hiện kế hoạch rút quân, BLHQS bốn bên nói trong Điều 16 sẽ quy định những thể thức b. Các lực lượng vũ trang của hai bên miền Nam Việt Nam sẽ ở nguyên vị trị của mình, BLHQS hai bên nói trong Điều 17 sẽ quy định vùng do mỗi bên kiểm soát, và những thể thức trú quân c. Các lượng chính quy thuộc mọi quân chủng và bình chủng và các lực lượng không chính quy của các bên ở miền Nam Việt Nam phải ngừng mọi hoạt động tán công nhau và triệt để tuân theo những điều quy định sau đây: Ngăn cấm mọi hoạt động vũ lực trên bộ, trên không và trên biển; Ngăn cấm mọi hoạt động đối địch, khủng bố và trả thù của cả hai bên Điều 4. Hoa Kỳ sẽ không tiếp tục dính líu quân sự hay can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam Điều 5. Trong thời hạn 60 ngày kể từ khi ký Hiệp định này, sẽ hoàn thành việc rút hoàn toàn ra khỏi miền Nam Việt Nam mọi quân đội, cố vấn quân sự và nhân viên quân sự, kể cả nhân viên quân sự kỹ thuật, nhân viên quân sự liên quan đến chương trình bình định, vũ khí đạn dược và dụng cụ chiến tranh của Hoa Kỳ và của các nước nói trên cho tất cả các tổ chức bán quân sự và lực lượng cảnh sát cũng sẽ rút trong thời hạn đó. Điều 6. Việc hủy bỏ tất cả các căn cứ quân sự ở miền Nam Việt Nam của Hoa Kỳ và của các nước ngoài khác đã nói ở Điều 3 (a) sẽ hoàn thành trong thời ngày kể từ 60 ngày kể từ khi ký Hiệp định này Điều 7. Từ khi thực hiện ngừng bắn cho đến khi thành lập chính phủ nói Điều 9 (b) và Điều 14 của Hiệp định này, hai bên miền Nam Việt Nam sẽ không được nhận đưa vào miền Nam Việt Nam quân đội, cố vấn quân sự và nhân viện quân sự, kể cả nhân viên quân sự kỹ thuật, vũ khí, đạn dược và dụng cụ chiến tranh. PHẦN III: VIỆC TRAO TRẢ NHÂN VIÊN QUÂN SỰ BỊ BẮT, THƯỜNG DÂN NƯỚC NGOÀI BỊ BẮT VÀ NHÂN VIÊN DÂN SỰ VIỆT NAM BỊ BẮT VÀ GIAM GIỮ Điều 8. a. Việc trao trả những nhân viên quân sự của các bên bị bắt và thường dân nước ngoài của các bên bị bắt sẽ tiến hành song song và hoàn thành không chậm hơn ngày hoàn thành việc rút quân trong vòng 60 ngày. b. Các bên sẽ giúp đỡ nhau tìm kiếm tin tức về những nhân viên quân sự của các bên và thường dân nước ngoài của các bên bị mất tích trong chiến đấu, xác định vị trí và bảo quản mồ mả của những người bị chết, nhằm tạo điều kiện dễ dàng cho việc cất bốc và hồi hương hài cốt và có những biện pháp khác cần thiết để tìm kiếm tin tức những người còn coi là mất tích trong chiến đấu. c. Vấn đề trao trả các nhân viên dân sự Việt Nam bị bắt và giam giữ ở miền Nam Việt Nam sẽ do hai bên miền Nam Việt Nam giải quyết trên cơ sở những nguyên tắc của Điều 21(b) của Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam ngày 2071954. Hai bên miền Nam Việt Nam sẽ làm điều đó trên tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc, nhằm chấm dứt thù hằn, giảm bớt đau khổ và đoàn tụ các gia đình. Hai bên miền Nam Việt Nam sẽ gắng hết sức mình để giải quyết vấn đề này trong vòng chín mươi ngày sau khi ngừng bắn có hiệu lực..

TỔNG QUAN VỀ HỘI NGHỊ PARIS

Bối cảnh lịch sử

Cuối năm 1964 và đầu năm 1965, chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của Mỹ đã thất bại trước sức mạnh của quân và dân miền Nam, khiến ngụy quân và ngụy quyền Sài Gòn đứng trước nguy cơ sụp đổ Để cứu vãn tình hình, Mỹ đã chuyển sang "chiến tranh cục bộ", thực chất là "Mỹ hóa" cuộc chiến, với việc tăng cường quân lực vào miền Nam và tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân và hải quân Giai đoạn 1965-1967 chứng kiến sự leo thang điên cuồng của Mỹ trong cuộc chiến Chính quyền Giôn-xơn đã phát động chiến dịch tuyên truyền, cáo buộc "miền Bắc xâm lược miền Nam" và kêu gọi "ngoại giao hòa bình", yêu cầu miền Bắc ngừng can thiệp vào miền Nam và rút quân khỏi khu vực này.

"đàm phán không điều kiện với Mỹ".

1.1.2 Về phía Việt Nam Đảng ta đã nhận định rằng, Mỹ buộc phải "Mỹ hóa" cuộc chiến tranh là vì chúng đang ở trong thế bị động về chiến lược Mặc dù Mỹ đưa vào miền Nam mấy chục vạn quân và đánh phá ác liệt miền Bắc, nhưng lực lượng so sánh giữa ta và địch không có thay đổi lớn.

Chúng ta có nền tảng vững chắc để duy trì thế chủ động trên chiến trường, đánh bại các âm mưu ngắn hạn và dài hạn của kẻ thù Thực tế cho thấy, khi Mỹ gia tăng cường độ chiến tranh, họ càng phải đối mặt với những phản công mạnh mẽ từ chúng ta, dẫn đến tình hình trở nên hỗn loạn và khó khăn.

Trong lĩnh vực ngoại giao, chúng ta nhấn mạnh chính nghĩa của cuộc chiến đấu, phơi bày bộ mặt xâm lược và sự nguy hiểm của các hành động leo thang chiến tranh cùng với thủ đoạn đàm phán hòa bình giả hiệu của đối phương Chúng ta kiên quyết yêu cầu Mỹ chấm dứt xâm lược, rút toàn bộ quân đội khỏi miền Nam và chấm dứt mọi hành động chiến tranh chống miền Bắc một cách vô điều kiện Điều kiện tiên quyết cho việc đàm phán của chúng ta là Mỹ phải ngừng ném bom, chỉ khi đó Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới sẵn sàng đối thoại với Mỹ.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân miền Nam trong Tết Mậu Thân năm 1968, kết hợp với thắng lợi của miền Bắc trong việc đánh bại chiến tranh phá hoại, đã tạo ra bước ngoặt quan trọng, làm lung lay ý chí xâm lược của Mỹ.

Diễn biến chính

Vào đêm 31-3-1968, Tổng thống Giôn-xơn đã thừa nhận thất bại trong Tết Mậu Thân qua một phát biểu trên đài truyền hình Mỹ Ông thông báo quyết định chấm dứt mọi cuộc tấn công bằng máy bay và tàu chiến vào miền Bắc Việt Nam, ngoại trừ khu vực phía Bắc khu phi quân sự Tổng thống cũng cam kết sẵn sàng thực hiện những bước đi đầu tiên để giảm căng thẳng và tuyên bố không tái tranh cử tổng thống trong nhiệm kỳ tiếp theo.

Ngày 13-5-1968, cuộc đàm phán giữa Việt Nam dân chủ cộng hòa và Mỹ bắt đầu tại Paris và gần 6 tháng sau đi đến thỏa thuận về việc Mỹ chấm dứt mọi hành động chiến tranh chống nước Việt Nam dân chủ cộng hòa từ ngày 31-10-

Năm 1968, một thỏa thuận được ký kết nhằm triệu tập hội nghị tại Paris để thảo luận về việc chấm dứt chiến tranh và thiết lập hòa bình ở Việt Nam Hội nghị này bao gồm các bên liên quan: Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, Mỹ và chính quyền Sài Gòn.

Ngày 25-1-1969, Hội nghị Paris về Việt Nam họp phiên đầu tiên, mở ra giai đoạn "vừa đánh, vừa đàm".

Hội nghị Paris về Việt Nam là cuộc đàm phán kéo dài nhằm chấm dứt cuộc chiến tranh dài nhất thế kỷ XX, phản ánh những mâu thuẫn giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa đế quốc Cuộc đối thoại này diễn ra giữa lực lượng xâm lược có ưu thế về quân sự và kinh tế, nhưng yếu thế về chính trị, và lực lượng bảo vệ Tổ quốc, mặc dù yếu hơn về quân sự nhưng mạnh mẽ về chính nghĩa Đây cũng là cuộc đối chọi giữa hai nền ngoại giao: một bên là siêu cường với nền ngoại giao chuyên nghiệp, và bên kia là nhà nước cách mạng còn non trẻ.

Paris đã diễn ra một cuộc đấu quyết liệt giữa hai ý chí, hai trí tuệ, hai loại pháp lý và đạo lý, hai thứ mưu lược khác nhau.

Tại Hội nghị, cả hai bên đều có mục tiêu đối lập: ta yêu cầu Mỹ chấm dứt chiến tranh xâm lược, rút quân và vũ khí khỏi miền Nam Việt Nam, xóa bỏ chính quyền bù nhìn, và tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Trong khi đó, Mỹ cũng tuyên bố muốn kết thúc chiến tranh nhưng lại yêu cầu cả miền Bắc và miền Nam cùng rút quân, khôi phục khu phi quân sự và duy trì chính quyền Sài Gòn Điều này cho thấy Mỹ vẫn muốn tiếp tục âm mưu chia cắt lâu dài Việt Nam, điều mà họ không thể thực hiện trên chiến trường.

Đàm phán về vấn đề Việt Nam đã gặp khó khăn trong vài tháng do những yêu cầu khác nhau từ hai bên Để tháo gỡ tình hình, vào ngày 8-5-1969, Đoàn Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam đã đề xuất giải pháp 10 điểm nhằm giải quyết vấn đề Đáp lại, vào ngày 14-5-1969, Tổng thống Mỹ R Ních-xơn đã công bố 8 điểm giải pháp qua một bài phát biểu trên truyền hình Tuy nhiên, các giải pháp của hai bên vẫn còn mâu thuẫn và không thể hòa hợp.

Ngày 6-6-1969, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam được thành lập Ngày 8-6, Tổng thống Ních-xơn công bố chính sách "Việt Nam hóa chiến tranh", chủ trương tìm một con đường khác chứ không phải thông qua đàm phán để rút được quân Mỹ ra khỏi chiến tranh mà vẫn giữ được chính quyền và quân đội Sài Gòn Thực chất của "Việt Nam hóa chiến tranh" là dùng người Việt đánh người Việt, "thay đổi màu da của xác chết" Để thực hiện,

Mỹ triển khai kế hoạch toàn diện về quân sự, chính trị và kinh tế, với trọng tâm là chuyển giao vũ khí hiện đại cho quân đội Sài Gòn và củng cố chính quyền Nguyễn Văn Thiệu để ngăn chặn âm mưu đảo chính Trên chiến trường, Mỹ thực hiện các biện pháp bình định mạnh mẽ, đồng thời mở rộng chiến tranh sang Campuchia và Lào nhằm cắt đứt tiếp tế từ miền Bắc và cô lập lực lượng cách mạng miền Nam Về mặt ngoại giao, chính quyền Ních-xơn phát triển một chiến lược toàn cầu mới theo "học thuyết Ních-xơn", nhằm khai thác mâu thuẫn giữa Xô - Trung và tìm kiếm giải pháp thương lượng có lợi cho Mỹ.

Thực tế cho thấy, những điều mà Mỹ không thể thực hiện trong giai đoạn "Mỹ hóa" cuộc chiến tranh cũng không khả thi trong thời kỳ "Việt Nam hóa chiến tranh" Giai đoạn 1969 - 1972 chứng kiến sự giằng co quyết liệt giữa hai bên, cả trên chiến trường lẫn trong các cuộc đàm phán Đàm phán chỉ thực sự diễn ra khi Mỹ nhận ra thất bại của chính sách "Việt Nam hóa chiến tranh", đặc biệt sau những thắng lợi của ta tại đường 9 - Nam Lào và trong chiến dịch Đông Xuân 1971 - 1972, khi ta giải phóng được nhiều vùng đất rộng lớn.

Từ cuối năm 1971 đến cuối năm 1972, cả Việt Nam và Mỹ đã đưa ra nhiều đề nghị mới thông qua các cuộc đàm phán công khai và riêng tư, dẫn đến việc đạt được thỏa thuận về một văn bản hiệp định.

Hội nghị Paris về Việt Nam bắt đầu từ cuộc đàm phán giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mỹ vào tháng 5 năm 1968, kéo dài cho đến khi ký kết Hiệp định.

4 năm 9 tháng, qua 202 phiên họp công khai và 24 phiên họp riêng.

Mặc dù ngoan cố đến phút cuối cùng, ngày 27-1-1973, Mỹ đã buộc phải ký

Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết vào ngày 2-3-1973, với sự công nhận và bảo đảm từ một hội nghị quốc tế Định ước quốc tế này đánh dấu một bước quan trọng trong quá trình hòa bình tại Việt Nam.

NỘI DUNG HIỆP ĐỊNH PARIS

Nội dung hiệp định Paris

PHẦN I: CÁC QUYỀN DÂN TỘC CƠ BẢN CỦA NHÂN DÂN VIỆT NAM Điều 1 Hoa Kỳ và các nước khác tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam như Hiệp định Geneve năm 1954 về Việt Nam đã công nhận

PHẦN II: CHẤM DỨT CHIẾN SỰ - RÚT QUÂN Điều 2 Một cuộc ngừng bắn sẽ được thực hiện trên toàn Việt Nam bắt đầu từ 27 tháng 1 năm 1973.

Vào ngày ký kết, Hoa Kỳ sẽ chấm dứt mọi hoạt động quân sự chống lại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, bao gồm cả việc tahr mìn tại các vùng biển, cảng và sông ngòi Tất cả các mìn sẽ được tháo gỡ và phá hủy ngay sau khi Hiệp Định có hiệu lực, đảm bảo chấm dứt chiến sự vĩnh viễn Các bên cam kết duy trì ngừng bắn và bảo đảm hòa bình, trong đó lực lượng Hoa Kỳ và các đồng minh sẽ giữ nguyên vị trí trong khi chờ thực hiện kế hoạch rút quân Các lực lượng vũ trang miền Nam Việt Nam cũng sẽ ở nguyên vị trí và phải ngừng mọi hoạt động tấn công lẫn nhau, tuân thủ nghiêm ngặt các quy định đã được đặt ra.

- Ngăn cấm mọi hoạt động vũ lực trên bộ, trên không và trên biển;

Hiệp định này ngăn cấm mọi hoạt động đối địch, khủng bố và trả thù giữa hai bên Hoa Kỳ cam kết không can thiệp quân sự vào công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam Trong vòng 60 ngày kể từ khi ký Hiệp định, Hoa Kỳ sẽ hoàn thành việc rút toàn bộ quân đội, cố vấn quân sự và nhân viên quân sự khỏi miền Nam Việt Nam, bao gồm cả nhân viên kỹ thuật và các vũ khí, đạn dược Tất cả các tổ chức bán quân sự và lực lượng cảnh sát cũng sẽ được rút trong thời gian này Cuối cùng, Hoa Kỳ sẽ hủy bỏ tất cả các căn cứ quân sự tại miền Nam Việt Nam.

Theo Điều 3 (a), các nước tham gia sẽ hoàn thành nghĩa vụ trong vòng 60 ngày kể từ khi ký Hiệp định này Thời gian từ khi thực hiện ngừng bắn cho đến khi thành lập chính phủ được quy định tại Điều 9.

Theo Điều 14 của Hiệp định, miền Nam Việt Nam sẽ không được tiếp nhận quân đội, cố vấn quân sự, nhân viên quân sự, vũ khí, đạn dược và các dụng cụ chiến tranh từ bên ngoài.

III: VIỆC TRAO TRẢ NHÂN VIÊN QUÂN SỰ BỊ BẮT, THƯỜNG DÂN NƯỚC NGOÀI BỊ BẮT VÀ NHÂN VIÊN DÂN SỰ VIỆT NAM BỊ BẮT VÀ GIAM GIỮ Điều 8. a.Việc trao trả những nhân viên quân sự của các bên bị bắt và thường dân nước ngoài của các bên bị bắt sẽ tiến hành song song và hoàn thành không chậm hơn ngày hoàn thành việc rút quân trong vòng 60 ngày. b.Các bên sẽ giúp đỡ nhau tìm kiếm tin tức về những nhân viên quân sự của các bên và thường dân nước ngoài của các bên bị mất tích trong chiến đấu, xác định vị trí và bảo quản mồ mả của những người bị chết, nhằm tạo điều kiện dễ dàng cho việc cất bốc và hồi hương hài cốt và có những biện pháp khác cần thiết để tìm kiếm tin tức những người còn coi là mất tích trong chiến đấu. c.Vấn đề trao trả các nhân viên dân sự Việt Nam bị bắt và giam giữ ở miền NamViệt Nam sẽ do hai bên miền Nam Việt Nam giải quyết trên cơ sở những nguyên tắc của Điều 21(b) của Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam ngày 20/7/1954.Hai bên miền Nam Việt Nam sẽ làm điều đó trên tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc, nhằm chấm dứt thù hằn, giảm bớt đau khổ và đoàn tụ các gia đình Hai bên miền Nam Việt Nam sẽ gắng hết sức mình để giải quyết vấn đề này trong vòng chín mươi ngày sau khi ngừng bắn có hiệu lực

PHẦN IV: VIỆC THỰC HIỆN QUYỀN TỰ QUYẾT CỦA NHÂN DÂN MIỀN NAM VIỆT NAM Điều 9 Chính phủ Hoa Kỳ và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cam kết tôn trọng những nguyên tắc thực hiện quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam sau đây: a Quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam là thiêng liêng, bất khả xâm phạm và phải được tất cả các nước tôn trọng b Nhân dân miền Nam Việt Nam sẽ quyết định tương lai chính trị của mình qua

Tổng tuyển cử tự do và dân chủ sẽ được thực hiện dưới sự giám sát của Ủy ban quốc tế, nhằm báo cáo về tình hình kiểm soát và giám sát cho đến khi có những sắp xếp dứt khoát từ Hội nghị quốc tế Các nước ngoài không được áp đặt bất kỳ xu hướng chính trị hay cá nhân nào lên nhân dân miền Nam Việt Nam Hai bên miền Nam Việt Nam cam kết tôn trọng ngừng bắn, duy trì hòa bình và giải quyết tranh chấp qua thương lượng, tránh mọi xung đột vũ lực Ngay sau khi ngừng bắn, hai bên sẽ tiến hành các bước cần thiết để đảm bảo ổn định và hòa bình trong khu vực.

Hòa giải và hòa hợp dân tộc là cần thiết để xóa bỏ thù hằn, đồng thời cấm mọi hành động trả thù và phân biệt đối xử đối với cá nhân hoặc tổ chức đã hợp tác với bất kỳ bên nào.

Bảo đảm quyền tự do dân chủ cho nhân dân miền Nam Việt Nam bao gồm tự do cá nhân, tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do tổ chức, tự do hoạt động chính trị, tự do tín ngưỡng, tự do đi lại, tự do cư trú, quyền tư hữu tài sản và quyền tự do kinh doanh Ngay sau khi ngừng bắn, hai bên miền Nam sẽ tiến hành hiệp thương để thành lập Hội đồng quốc gia hòa giải và hòa hợp dân tộc, ký hiệp định về các vấn đề nội bộ trong vòng 90 ngày Hội đồng này sẽ có nhiệm vụ đôn đốc thực hiện hiệp định, bảo đảm tự do dân chủ và tổ chức tổng tuyển cử tự do Vấn đề lực lượng vũ trang sẽ được giải quyết trên tinh thần hòa giải, bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau, không có sự can thiệp của nước ngoài, đồng thời thảo luận về việc giảm quân và phục viên Miền Nam Việt Nam sẽ thực hiện chính sách đối ngoại hòa bình và độc lập.

Miền Nam Việt Nam sẵn sàng thiết lập quan hệ với mọi quốc gia, không phân biệt chế độ chính trị, dựa trên nguyên tắc tôn trọng độc lập và chủ quyền Đồng thời, miền Nam mở cửa nhận viện trợ kinh tế và kỹ thuật từ bất kỳ nước nào mà không kèm theo điều kiện chính trị Vấn đề viện trợ quân sự sẽ được quyết định bởi chính phủ được thành lập sau cuộc tổng tuyển cử tại miền Nam Việt Nam theo Điều 9 (b).

PHẦN V: VẤN ĐỀ THỐNG NHẤT NƯỚC VIỆT NAM VÀ VẤN ĐỀ QUAN HỆ GIỮA MIỀN BẮC VÀ MIỀN NAM VIỆT NAM Điều 15 Sự tái thống nhất Việt Nam sẽ được thực hiện từng bước bằng các biện pháp hòa bình trên cơ sở bàn bạc và thỏa thuận giữa miền Bắc và miền Nam Việt Nam, không bên nào cưỡng ép hoặc thôn tính bên nào và không có sự can thiệp của nước ngoài Thời gian thống nhất sẽ do miền Bắc và miền Nam Việt Nam thỏa thuận.

Ranh giới và khu phi quân sự tại vĩ tuyến 17 chỉ mang tính tạm thời và không được coi là biên giới quốc gia Miền Bắc và miền Nam Việt Nam cam kết tôn trọng khu phi quân sự ở hai bên giới tuyến quân sự tạm thời Hai miền sẽ sớm bắt đầu thương lượng để thiết lập quan hệ bình thường, bao gồm cả vấn đề đi lại dân sự qua giới tuyến quân sự tạm thời Đồng thời, miền Bắc và miền Nam Việt Nam không tham gia bất kỳ liên minh quân sự nào và không cho phép nước ngoài thiết lập căn cứ quân sự, quân đội, cố vấn quân sự hoặc nhân viên quân sự trên lãnh thổ của mình.

PHẦN VI: CÁC BÊN LIÊN HỢP QUÂN SỰ, ỦY BAN QUỐC TẾ KIỂM SOÁT VÀ GIÁM SÁT, HỘI NGHỊ QUỐC TẾ Điều 16. a.Các bên tham gia Hội nghị Paris về Việt Nam sẽ cử ngay đại điện thành lập BLHQS bốn bên có nhiệm vụ đảm bảo sự phối hợp hành động của các bên trong việc thực hiện các điều khoản sau đây Hiệp định này: b BLHQS bốn bên sẽ làm việc theo nguyên tắc hiệp thương và nhất trí. c.BLHQS bốn bên sẽ bắt đầu hoạt động ngay sau khi ký kết Hiệp định này và chấm dứt hoạt động trong thời hạn 60 ngày, sau khi việc rút quân của Hoa Kỳ và quân của các nước ngoài đã nói ở Điều 3 (a) và việc trao trả nhân viên quân sự của các bên bị bắt và thường dân nước ngoài của các bên bị bắt đã hoàn thành d.Bốn bên sẽ thỏa thuận ngay về tổ chức, thể thức làm việc, phương tiện hoạt động và chi phí của BLHQS bốn bên Điều 17. a Hai bên miền Nam Việt Nam sẽ cử ngay đại diện để thành lập BLHQS hai bên có nhiệm vụ bảo đảm sự phối hợp hành động của hai bên miền Nam Việt Nam trong việc thực hiện các điều khoản của Hiệp định này b Những vấn đề bất đồng sẽ chuyển cho UBQTKSé-GS c Sau khi Hiệp định này được ký kết, BLHQS hai bên sẽ thỏa thuận ngay những biện pháp và tổ chức nhằm thực hiện ngưng bắn và giữ gìn hào bình ở miền Nam Việt Nam Điều 18. a Sau khi ký Hiệp định này, thành lập ngay UBQTKSé-GS b Cho đến khi Hội nghị Quốc tế nói ở Điều 19 có những sắp xếp dứt khoát, UBQTKSé-GS sẽ báo cáo với bốn bên những vấn đề về việc kiểm soat và giám sát việc thi hành những điều khoản của Hiệp định này Điều 19 Các bên thỏa thuận về việc triệu tập một Hội nghị Quốc tế trong vòng

Trong vòng 30 ngày kể từ khi ký Hiệp định này, các Hiệp định đã được ký kết sẽ được công nhận, nhằm chấm dứt chiến tranh và duy trì hòa bình tại Việt Nam Đồng thời, Hiệp định cũng cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam và quyền tự quyết của nhân dân miền Nam, góp phần vào sự ổn định và hòa bình ở khu vực Đông Dương.

Ý nghĩa

2.2.1 Khái quát tác động và ảnh h ởng tới Việt Nam và các n ớc trên thế giới

Hiệp định Paris đã giúp nhân dân Việt Nam đạt được mục tiêu quan trọng, mở ra một giai đoạn mới thuận lợi cho việc "đánh cho Ngụy nhào", tạo nền tảng vững chắc cho công cuộc giải phóng hoàn toàn miền Nam và thống nhất đất nước.

Vào năm 1975, ông Trịnh Ngọc Thái, thành viên đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ cộng hòa tại Hội nghị Paris, nhận định rằng cuộc đàm phán Paris đã thu hút sự chú ý toàn cầu do cuộc xung đột giữa Việt Nam và Hoa Kỳ phản ánh những mâu thuẫn lớn của thời đại Hiệp định này, mặc dù được ký kết bởi Việt Nam Cộng hòa, đã trở thành một thảm họa cho họ khi buộc Hoa Kỳ rút quân khỏi Việt Nam, làm gia tăng khủng hoảng cho chính quyền Sài Gòn Tổng thống Nixon đã hứa với Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu rằng Mỹ sẽ bảo vệ Việt Nam Cộng hòa nếu bị tấn công, nhưng lời hứa này không có giá trị thực tế do Quốc hội Hoa Kỳ đã ban hành nghị quyết ngăn cản việc đưa quân trở lại Đông Dương Người Mỹ mong muốn chấm dứt cuộc chiến và chuyển sang một trang mới, trong khi cam kết bí mật của Nixon về việc tái triển khai không quân nếu cần thiết có thể sẽ bị phản đối bởi Quốc hội Đối với quân đội Hoa Kỳ, đây là cách hợp lý để rút lui khỏi cuộc chiến.

Hiệp định Paris không chỉ có tầm quan trọng đối với Việt Nam mà còn có ảnh hưởng quốc tế, đóng góp lớn vào cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân Lào và Campuchia Hiệp định này đã đánh dấu sự chuyển biến trong cục diện Đông Nam Á, khi Mỹ rút quân khỏi Đông Dương và khu vực, thúc đẩy xu hướng hòa bình và trung lập Điều này mở ra cơ hội thiết lập một khu vực hòa bình và ổn định, tạo nền tảng cho sự phát triển hữu nghị trong khu vực.

Theo Đại sứ Dương Văn Quảng, giám đốc Học viện Ngoại giao, việc ký Hiệp định Paris là minh chứng cho chiến thắng từng bước và chiến lược của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa miền Nam Việt Nam, tạo tiền đề cho thắng lợi cuối cùng Đây cũng là chiến thắng của ngoại giao nhân dân Việt Nam, khi hai miền đã thu hút được sự ủng hộ từ cộng đồng quốc tế Tuy nhiên, Thông cáo Thượng Hải 1972 giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc đã gây nhiều cản trở cho tiến trình hòa bình và thống nhất của Việt Nam.

Hiệp định Paris 1973 đã giúp Việt Nam thu hút sự ủng hộ từ Liên Xô, Trung Quốc, các nước xã hội chủ nghĩa, các thành viên Phong trào không liên kết và cả những người Mỹ yêu chuộng hòa bình, tạo nên một mặt trận toàn cầu ủng hộ Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ Điều này thể hiện rõ ràng phương châm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh quốc gia với sức mạnh quốc tế, cùng với việc kết hợp ngoại giao nhà nước và ngoại giao nhân dân.

Hiệp định Paris về Việt Nam là thành quả của sự kết hợp giữa đấu tranh quân sự, chính trị và ngoại giao, phản ánh cuộc chiến kiên cường của quân và dân hai miền Nam, Bắc Hiệp định này đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, mở ra cơ hội cho cuộc tổng tiến công và nổi dậy năm 1975, khi hội tụ đủ các điều kiện chiến lược, quân sự, chính trị và ngoại giao.

Mỹ cần thừa nhận các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam và rút toàn bộ quân đội về nước Đây là một thắng lợi lịch sử quan trọng, mở ra cơ hội thuận lợi cho nhân dân ta tiến tới giải phóng hoàn toàn miền Nam đất nước.

Việc ký kết Hiệp định Paris là một quyết định chiến lược đúng đắn của Việt Nam, thể hiện lựa chọn thực hiện "chiến lược giành thắng lợi từng bước tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn" trên ba mặt trận: chính trị, quân sự và ngoại giao Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, Việt Nam đã sáng tạo khi xây dựng ngoại giao thành một mặt trận quan trọng, góp phần quyết định vào việc kết thúc cuộc chiến tranh một cách thuận lợi Nghệ thuật "vừa đánh vừa đàm" thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa quân sự và ngoại giao, đảm bảo rằng ngoại giao không cản trở chiến trường và các hoạt động quân sự không làm ảnh hưởng đến thế đàm phán.

Hiệp định Paris không chỉ mang ý nghĩa lịch sử mà còn quy định các điều khoản chính trị quan trọng, bao gồm lực lượng chính trị, tổng tuyển cử và việc thành lập chính quyền tại Miền Nam Việt Nam Những diễn biến cách đây 40 năm chứng minh rằng Hiệp định Paris đã tạo nền tảng vững chắc cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, dẫn đến sự kết thúc vào năm 1975.

VAI TRÒ VÀ Ý NGHĨA CỦA HỘI NGHỊ PARIS ĐẾN CHẤM DỨT CHIẾN TRANH, THIẾT LẬP HÒA BÌNH Ở VIỆT NAM

Kết quả đ t đ c

3.1.1 Tình hình dẫn tới hội nghị Paris

Cuối năm 1964 và đầu năm 1965, trước sức tấn công mạnh mẽ của quân và dân miền Nam, chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của Mỹ đã thất bại, khiến ngụy quân và ngụy quyền Sài Gòn đứng trước nguy cơ sụp đổ Để cứu vãn tình hình, Mỹ đã chuyển sang chiến lược "chiến tranh cục bộ", thực chất là gia tăng sự can thiệp quân sự Điều này bao gồm việc đưa quân đội vào miền Nam và tiến hành chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân nhằm vào miền Bắc.

Từ năm 1965 đến 1967, số quân Mỹ tại miền Nam đã tăng từ 18.000 lên 480.000, với mục tiêu chiến lược là đánh bại cách mạng miền Nam trong 25-30 tháng để có thể rút quân vào cuối năm 1967 Trong khi đó, chính quyền Johnson tuyên truyền về "ngoại giao hòa bình", yêu cầu miền Bắc ngừng can thiệp và đàm phán không điều kiện Đảng ta nhận định rằng Mỹ buộc phải Mỹ hóa cuộc chiến do đang ở thế bị động về chiến lược Dù Mỹ đã tăng cường quân lực và tấn công miền Bắc, nhưng lực lượng giữa ta và địch không có sự thay đổi lớn, và ta vẫn có cơ sở vững chắc để giữ thế chủ động, đánh bại âm mưu của địch.

Cuộc thử thách kéo dài ba năm từ 1965 đến 1967 đã chứng minh nhận định của chúng ta là chính xác: khi Mỹ leo thang chiến tranh, thì sức phản kháng của ta càng mạnh mẽ Mỹ không chỉ gặp bế tắc quân sự mà còn đối mặt với những khó khăn lớn trong ngoại giao Chúng ta kiên quyết từ chối các thủ đoạn "ngoại giao hòa bình" giả tạo và yêu cầu Mỹ phải chấm dứt xâm lược, rút quân khỏi miền Nam, và ngừng mọi hành động chiến tranh chống miền Bắc Điều kiện tiên quyết của chúng ta là chỉ khi nào Mỹ ngừng ném bom, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới sẵn sàng thảo luận với họ.

Cuối năm 1967 và đầu năm 1968, khi Mỹ chuẩn bị cho cuộc tiến công mùa khô thứ ba với 1,2 triệu quân, trong đó có 500.000 quân Mỹ, thì cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân của quân và dân miền Nam đã diễn ra mạnh mẽ, gây bất ngờ lớn Cuộc tổng tiến công này đã tấn công trực tiếp vào các thành phố và trung tâm chỉ huy chiến tranh của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, gây tổn thất nặng nề về nhân lực và phương tiện chiến tranh Sự kiện này khiến dư luận Mỹ lo ngại, nhận định rằng quân đội Mỹ lần đầu tiên đứng trước nguy cơ thất bại trong một cuộc chiến tranh, điều mà Tổng thống Johnson đã thừa nhận trong bài phát biểu trên Đài Truyền hình.

Vào ngày 31 tháng 3 năm 1968, Mỹ tuyên bố chấm dứt mọi cuộc tấn công bằng máy bay và tàu chiến vào miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra Ông cam kết "sẵn sàng đi bước đầu tiên trên con đường xuống thang" và thông báo sẽ không ra tranh cử tổng thống thêm một nhiệm kỳ nữa.

Thế là nhân dân ta đã giành được thắng lợi quyết định Ý chí xâm lược của

Mỹ đang trải qua những biến động lớn, tạo ra cơ hội cho chúng ta Trong bối cảnh này, chúng ta quyết định thực hiện một chiến lược ngoại giao mới bằng cách chấp nhận tham gia vào các cuộc đàm phán với Mỹ.

3.1.2 Tình hình Việt Nam sau Hội nghị Paris

Theo Hiệp định Paris năm 1973, Mỹ cam kết rút toàn bộ quân đội và không can thiệp vào miền Nam Việt Nam Tuy nhiên, Mỹ đã vi phạm hiệp định này, hỗ trợ ngụy quyền Sài Gòn thực hiện hàng loạt cuộc hành quân "tràn ngập lãnh thổ" nhằm chiếm lĩnh và bình định vùng giải phóng Trong năm 1973, chính quyền Sài Gòn đã thực hiện 301.097 hành động vi phạm, bao gồm 34.266 cuộc hành quân lấn chiếm và 216.550 cuộc hành quân bình định Đồng thời, Mỹ cũng duy trì lực lượng không quân và hải quân ở khu vực xung quanh Việt Nam.

Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa III - năm 1973) khẳng định rằng "Con đường của cách mạng miền Nam là con đường bạo lực cách mạng" nhằm đối phó với các hoạt động ngoại giao xảo quyệt và sự ngăn cản phát triển cách mạng Trên cơ sở nhận định đúng thực tiễn, quân và dân ta đã nỗ lực kết hợp sức mạnh thời đại, liên tục tiến công địch và giành thắng lợi lớn trên cả mặt trận quân sự và chính trị, tiêu diệt hoàn toàn ngụy quân, ngụy quyền, giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước.

Hiệp định Paris đánh dấu một thắng lợi quan trọng trong cuộc đấu tranh quân sự, chính trị và ngoại giao, buộc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh và rút quân khỏi Việt Nam cũng như Đông Dương Điều này không chỉ tạo điều kiện cho cách mạng phát triển mà còn làm suy yếu chính quyền ngụy, đẩy họ vào khủng hoảng chính trị Hiệp định cũng đánh dấu sự thay đổi chiến lược của Mỹ, buộc họ phải giảm bớt sự can thiệp quân sự và tránh một cuộc chiến tranh tương tự như ở Việt Nam Hơn nữa, Hiệp định Paris cung cấp cơ sở pháp lý ngăn cản Mỹ can thiệp trở lại vào khu vực.

Hiệp định xác nhận miền Nam có hai chính quyền và hai quân đội, đồng thời khẳng định sự tồn tại của hai vùng kiểm soát Điều này đã làm giảm tính hợp pháp của chính quyền ngụy, trong khi ta duy trì được lực lượng quân sự và chính trị, tạo nền tảng vững chắc cho cách mạng miền Nam phát triển.

Hiệp định Paris đánh dấu một giai đoạn mới trong cuộc chiến tranh Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho việc hoàn thành giải phóng miền Nam Hiệp định buộc Mỹ phải rút quân, làm suy yếu lực lượng ngụy quyền, trong khi Việt Nam duy trì và củng cố sức mạnh chính trị và quân sự Kết quả là, nhân dân Việt Nam đã đạt được mục tiêu “đánh cho Mỹ cút” và tạo ra một cục diện mới, thuận lợi cho chiến lược “đánh cho ngụy nhào” Chiến thắng mùa Xuân 1975, vì vậy, không thể tách rời khỏi thành công của Hiệp định Paris.

Hiệp định Paris 1973 là biểu tượng cho thắng lợi cao của Việt Nam trong bối cảnh quốc tế phức tạp Việt Nam đã khéo léo tận dụng sự ủng hộ từ Liên Xô, Trung Quốc, các nước XHCN, các quốc gia không liên kết và nhân dân toàn thế giới, tạo nên một "mặt trận nhân dân thế giới" mạnh mẽ ủng hộ cuộc chiến chống Mỹ xâm lược.

Hiệp định Paris đã đánh dấu một thắng lợi quan trọng của nhân dân Việt Nam, mở ra chương mới cho cục diện Đông Nam Á Sự rút lui quân sự của Mỹ khỏi Đông Dương và Đông Nam Á, cùng với sự tan rã của khối SEATO, đã thúc đẩy xu thế hòa bình và trung lập trong khu vực Điều này tạo cơ hội cho việc thiết lập một khu vực hòa bình và hữu nghị ổn định.

Hiệp định Paris là biểu tượng cao nhất của thắng lợi trong cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam, khi Mỹ chấp nhận thất bại và rút lui Thông qua Hiệp định này, Việt Nam đã khẳng định sức mạnh và sự kiên cường, đồng thời phát huy những thắng lợi trên chiến trường, buộc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh và rút toàn bộ quân đội Thành công này diễn ra trong bối cảnh quốc tế phức tạp và nhiều khó khăn trên chiến trường, làm cho ý nghĩa của thắng lợi càng trở nên to lớn.

3.1.4 Nguyên nhân dẫn đến thành công của Hội nghị Paris

Sự lãnh đạo khôn ngoan và bản lĩnh của Đảng ta, đặc biệt là Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã đóng vai trò quyết định trong thắng lợi của cuộc đàm phán Paris Đường lối kháng chiến chống Mỹ cứu nước và chính sách quốc tế độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo đã được đề ra, góp phần quan trọng vào thành công của cuộc đấu tranh.

H n chế

Chúng ta có thể nhìn thấy được những hạn chế còn tồn đọng ở Hiệp định Paris:

Tổng thống miền Nam Nguyễn Văn Thiệu đã tận dụng thời gian ngừng bắn theo Hiệp định Paris để củng cố quyền lực, sử dụng nguồn vũ khí dồi dào từ Mỹ, đặc biệt là pháo Đến năm 1974, các cuộc pháo kích đã được tiến hành với quy mô tổng lực.

Mặc dù Hà Nội ca ngợi Hiệp định Paris là một “chiến thắng vĩ đại”, thực tế cho thấy hiệp định này mang lại lợi ích nhiều hơn cho Washington so với Hà Nội Nếu xem xét tình hình Việt Nam vào năm 1972-73, các điều khoản của hiệp định lẽ ra phải có lợi hơn cho Hà Nội, nhưng cuối cùng, chúng lại nghiêng về phía Washington.

Hiệp định này yêu cầu Hoa Kỳ rút toàn bộ quân đội khỏi miền Nam Việt Nam, tuy nhiên, quá trình rút quân đã bắt đầu từ năm 1969 dưới sự chỉ đạo của Nixon.

Hiệp định không chỉ mở đường cho việc hồi hương của tù nhân Mỹ mà còn cho phép Mỹ duy trì hỗ trợ quân sự cho Sài Gòn, nơi chính quyền ông Thiệu vẫn nắm quyền, cùng với sự hiện diện của một số sĩ quan cố vấn.

Hiệp định đã đặt ra nhiều hạn chế đối với Hà Nội, dẫn đến việc chấm dứt viện trợ quân sự từ Liên Xô và Trung Quốc cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Hiệp định Paris không phải là một "thắng lợi vĩ đại" của Hà Nội, mà là một sự hòa bình cay đắng và cần thiết để tạo điều kiện cho chiến thắng năm 1975 Chiến thắng này của Hà Nội đã phải trả giá đắt, không như những gì các lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mong đợi khi cuộc chiến bắt đầu Để đạt được sự “giải phóng” hoàn toàn miền Nam và thống nhất đất nước, Hà Nội đã vi phạm Hiệp định Paris.

Vi phạm Hiệp định Paris đã làm tổn hại hình ảnh nạn nhân chiến tranh của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, vốn đã được xây dựng trong suốt hơn một thập kỷ qua Hành động này không chỉ làm giảm độ tin cậy của Hà Nội trên trường quốc tế mà còn lý giải một phần nguyên nhân vì sao nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam bị bỏ rơi vào những năm 1980.

Bài học

Hiệp định Paris đã mang lại cho dân tộc Việt Nam nhiều bài học quý giá, giúp chúng ta rút ra kinh nghiệm trong việc xử lý các vấn đề đối ngoại hiện nay Những bài học này có thể được áp dụng để nâng cao hiệu quả trong các mối quan hệ quốc tế và phát triển đất nước.

Luôn giữ vững tinh thần “dĩ bất biến ứng vạn biến” là yếu tố then chốt trong các cuộc đàm phán Chúng ta khẳng định tính chính nghĩa của cuộc kháng chiến chống Mỹ, lên án tội ác chiến tranh của đế quốc Mỹ tại Việt Nam, yêu cầu Mỹ rút quân và chấm dứt ném bom miền Bắc một cách vô điều kiện Nhờ kiên định các nguyên tắc này và linh hoạt trong từng tình huống cụ thể, dân tộc ta đã giành được thắng lợi trong cuộc kháng chiến.

Để đạt được thành công trong công tác đối ngoại, cần kiên quyết và kiên trì, đồng thời sử dụng những thắng lợi khác để hỗ trợ Hiệp định Paris không chỉ mang ý nghĩa ngoại giao mà còn thể hiện những thắng lợi chính trị và quân sự Nếu không có những chiến thắng cụ thể trong các chiến dịch, Mỹ sẽ không bao giờ nhượng bộ và đồng ý đàm phán Đặc biệt, thắng lợi của trận "Điện Biên Phủ trên không" vào cuối năm 1972 đã làm suy yếu ý chí xâm lược của Mỹ, buộc họ phải chấp nhận đàm phán và các yêu cầu của Việt Nam.

Thứ ba, cần tôn trọng các cam kết trong khi vẫn duy trì sự tỉnh táo và cảnh giác Ngay trước và sau Hiệp định Paris, chính quyền Sài Gòn đã vi phạm Hiệp định này bằng cách thực hiện Chiến dịch Tràn ngập lãnh thổ từ đêm 24/1/1973, cùng với nhiều kế hoạch quân sự trong suốt năm 1973 và đầu năm 1974, bao gồm các kế hoạch như Hùng Vương.

Lý Thường Kiệt (1973 - 1974) và kế hoạch toàn diện lâu dài (1973 - 1978) được triển khai nhằm ổn định nhanh chóng miền Nam Việt Nam Để đối phó với âm mưu và thủ đoạn của kẻ thù, chúng ta đã thực hiện nhiều giải pháp từ nội bộ, đồng thời triển khai các hành động cụ thể về chính trị và quân sự, từng bước làm thất bại các kế hoạch của địch trước khi đánh đổ hoàn toàn chế độ này.

Trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam đang ký kết nhiều thỏa thuận và hiệp định với các đối tác cả song phương lẫn đa phương Trong quá trình thực hiện, có thể xuất hiện những cách hiểu và vận dụng khác nhau, thậm chí là âm mưu phá hoại Vì vậy, bài học cảnh giác luôn được nhấn mạnh và áp dụng một cách triệt để.

Kết hợp sức mạnh dân tộc với sự ủng hộ quốc tế là yếu tố then chốt trong cuộc kháng chiến của Việt Nam Nhân dịp kỷ niệm 40 năm Hiệp định Paris, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang nhấn mạnh rằng hiệp định này đã cổ vũ cho những người yêu chuộng hòa bình và công lý trên toàn thế giới, đồng thời ghi nhận sự đồng hành của cộng đồng quốc tế trong cuộc đấu tranh gian khổ của nhân dân Việt Nam Hiệp định Paris không chỉ là biểu tượng cho sự thắng lợi của chính nghĩa mà còn củng cố niềm tin của các dân tộc bị áp bức Tuy nhiên, sự tự lực và tự cường của cách mạng Việt Nam là yếu tố quyết định để đạt được hiệp định và đáp ứng mong mỏi của nhân dân tiến bộ trên toàn cầu.

Hiệp định Paris đánh dấu một cột mốc lịch sử quan trọng trong cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam Quá trình ký kết hiệp định và những bài học quý báu mà nó để lại cho cách mạng Việt Nam cần được nghiên cứu và vận dụng triệt để trong bối cảnh hiện nay, nhằm thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ hơn cho cách mạng nước ta.

Liên hệ với thực tiễn hiện nay

Hiệp định Paris, ký kết vào ngày 28/3/1973, đã buộc quân xâm lược Mỹ rút khỏi Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho cách mạng Việt Nam và dẫn đến ngày toàn thắng 30/4/1975, giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước Tại lễ kỷ niệm 40 năm ký Hiệp định Paris vào ngày 25/1/2013, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang nhấn mạnh đây là thắng lợi của cuộc đấu tranh ngoại giao dài nhất và khó khăn nhất trong lịch sử ngoại giao Việt Nam thế kỷ XX, đánh dấu sự kiên cường của nhân dân ta trong cuộc chiến chống Mỹ Hiệp định Paris không chỉ là đỉnh cao của ngoại giao Việt Nam trong thời kỳ chống Mỹ mà còn là bài học quý giá cho việc xử lý các vấn đề đối ngoại hiện nay.

Thứ nhất, giữ vững các nguyên tắc trên tinh thần “dĩ bất biến ứng vạn biến”.

Trong các cuộc đàm phán, chúng ta luôn khẳng định tính chính nghĩa của cuộc kháng chiến chống Mỹ, lên án tội ác chiến tranh của đế quốc Mỹ tại Việt Nam, yêu cầu Mỹ rút quân và chấm dứt ném bom miền Bắc một cách vô điều kiện Mặc dù linh hoạt trong từng tình huống, chúng ta không từ bỏ nguyên tắc và đã giành chiến thắng.

Việt Nam khẳng định chủ quyền không thể tranh cãi đối với biển Đông, bao gồm quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, điều này là bất biến Trong từng tình huống cụ thể, Việt Nam linh hoạt áp dụng các biện pháp bảo vệ chủ quyền, đảm bảo phù hợp với luật pháp quốc tế và điều kiện thực tế của đất nước, thể hiện tính chất vạn biến trong chiến lược đấu tranh.

Việc kiên quyết và kiên trì trong công tác đối ngoại là rất quan trọng, với các thắng lợi như Hiệp định Paris không chỉ mang ý nghĩa ngoại giao mà còn là thành tựu chung của cách mạng Việt Nam Những chiến thắng ở các chiến dịch cụ thể đã tạo điều kiện để Mỹ phải ngồi vào bàn đàm phán và từ bỏ các yêu sách phi lý Cụ thể, thắng lợi tại trận “Điên Biên Phủ trên không” đã làm suy yếu ý chí xâm lược của Mỹ, buộc họ phải chấp nhận đàm phán Để khẳng định vị thế của Việt Nam trong các đàm phán quốc tế, cần thể hiện sức mạnh ở nhiều lĩnh vực như chính trị, kinh tế, văn hóa và quân sự Trong các cuộc đàm phán thương mại song phương, bên cạnh việc kiên trì thuyết phục, Việt Nam cần chứng minh các thành tựu bảo vệ quyền con người, uy tín quốc tế và tính hội nhập của nền kinh tế.

Tôn trọng các cam kết là cần thiết, nhưng luôn phải giữ cảnh giác Sau Hiệp định Paris, chính quyền Sài Gòn đã vi phạm nghiêm trọng bằng cách thực hiện Chiến dịch Tràn ngập lãnh thổ và nhiều kế hoạch quân sự khác nhằm bình định miền Nam Việt Nam Để đối phó với những âm mưu này, chúng ta đã triển khai nhiều giải pháp chính trị và quân sự nhằm phá sản các kế hoạch của địch Hiện nay, việc ký kết thỏa thuận và hiệp định với nhiều đối tác là phổ biến, nhưng không thể tránh khỏi những hiểu lầm và âm mưu phá hoại Do đó, bài học về sự cảnh giác cần được thực hiện một cách thường xuyên và triệt để.

Thứ tư, việc tranh thủ sự ủng hộ quốc tế là cần thiết, nhưng quan trọng hơn là dựa vào sức mạnh tự thân Hiệp định Paris không chỉ là niềm khích lệ lớn lao cho những người yêu chuộng hòa bình và công lý trên toàn thế giới, mà còn là minh chứng cho chân lý “đại nghĩa thắng hung tàn, chí nhân thay cường bạo”, củng cố niềm tin cho các dân tộc bị áp bức Tuy nhiên, nếu cách mạng Việt Nam không tự lực, tự cường, thì không thể đạt được Hiệp định và không thể thỏa mãn nguyện vọng của nhân dân tiến bộ trên toàn cầu.

Hiện nay, cộng đồng quốc tế đánh giá cao và ủng hộ Việt Nam trong việc giải quyết các vấn đề chủ quyền trên biển Đông Đặc biệt, trong cuộc khủng hoảng năm 2014 khi Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan HD 981 tại thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, hầu hết các quốc gia đã đứng về phía Việt Nam Tuy nhiên, để biến sự ủng hộ này thành sức mạnh thực sự, Việt Nam cần kết hợp với các yếu tố nội lực như chính trị, kinh tế, ngoại giao và quốc phòng.

KẾT LUẬN

Quá trình đàm phán tại Hội nghị Paris được xem là đỉnh cao của cuộc đấu tranh ngoại giao trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc Việt Nam, thể hiện sự kiên cường vì quyền cơ bản của dân tộc Hiệp định Paris không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với Việt Nam mà còn mang tính quốc tế, đóng góp lớn vào sự nghiệp giải phóng của nhân dân Lào và Campuchia Thỏa thuận này cũng mở ra một chương mới cho cục diện Đông Nam Á khi Mỹ rút quân khỏi Đông Dương và khu vực.

Thắng lợi của Hiệp định Paris đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam, thể hiện bản lĩnh và trí tuệ của nền văn hóa Việt Nam Hiệp định không chỉ là thành tựu của ngoại giao cách mạng thời kỳ Hồ Chí Minh mà còn để lại nhiều bài học quý giá cho cách mạng Việt Nam Trong bối cảnh hiện nay, các bài học này đang được nghiên cứu và áp dụng hợp lý nhằm thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của đất nước Đây là cơ sở để Đảng ta đề ra các giải pháp đạt được mục tiêu trên bàn đàm phán, thiết lập mối quan hệ hữu nghị, song phương có lợi và tạo điều kiện cho Việt Nam phát triển toàn diện về kinh tế, văn hóa, y tế, vươn tầm thế giới và hội nhập với các quốc gia trên toàn châu lục.

Bài viết này trình bày nghiên cứu của chúng em về "Hội nghị Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam (27/1/1973)" Trong quá trình thực hiện, chúng em nhận thấy còn nhiều thiếu sót và chưa phản ánh đầy đủ các khía cạnh của đề tài Kính mong cô thông cảm và góp ý để bài luận được hoàn thiện hơn Chúng em xin chân thành cảm ơn cô!

Ngày đăng: 27/12/2021, 16:15

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w