CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ CẤU TRÚC VỐN, MỨC ĐỘ BỀN VỮNG VÀ HIỆU QUẢ XÃ HỘI CỦA CÁC TỔ CHỨC TÀI CHÍNH VI MÔ
Tổng quan về tổ chức tài chính vi mô
1.1.1 Khái niệm và vai trò của tổ chức tài chính vi mô
1.1.1.1 Khái niệm tổ chức tài chính vi mô
Tài chính vi mô không chỉ là hoạt động từ thiện mà còn là một mô hình kinh doanh với mục tiêu xã hội nhằm giúp con người thoát nghèo, như giáo sư Muhammad Yunus đã phát biểu Bên cạnh vai trò trung gian tài chính, các tổ chức tài chính vi mô còn đóng vai trò quan trọng trong việc kết nối xã hội, góp phần vào sự phát triển bền vững và cải thiện đời sống của cộng đồng (Ledgerwood, 1998; Ledgerwood và White, 2006).
Tổ chức tài chính vi mô, từ năm 2014, đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp các dịch vụ tài chính và hoạt động xã hội, với hai mục tiêu chính là đảm bảo sự bền vững tài chính và mở rộng khả năng tiếp cận cho cộng đồng.
Theo Rakhimov (2016), tổ chức tài chính vi mô là những đơn vị cung cấp dịch vụ ngân hàng nhằm hỗ trợ cá nhân hoặc nhóm người có thu nhập thấp.
Ngân hàng Thế giới (2000) định nghĩa tổ chức tài chính vi mô là những đơn vị chủ yếu cung cấp dịch vụ tài chính vi mô, bao gồm cả khu vực chính thức và bán chính thức Theo Isern và cộng sự (2008), các tổ chức tài chính vi mô có thể là những tổ chức được cấp phép hoặc không được cấp phép, bao gồm các tổ chức phi Chính Phủ, ngân hàng thương mại, liên hiệp tín dụng, ngân hàng hợp tác, ngân hàng nông nghiệp, ngân hàng phát triển và ngân hàng tiết kiệm Những tổ chức này có thể hoạt động như nhà cung cấp tài chính vi mô chuyên trách hoặc là một phần của các chương trình và tổ chức phát triển đa mục tiêu.
Các tổ chức tài chính vi mô được định nghĩa là những tổ chức cung cấp dịch vụ tài chính và phi tài chính cho những người có thu nhập thấp và yếu thế trong xã hội, nhằm mục tiêu giúp họ thoát nghèo bền vững Thực tế cho thấy có nhiều loại hình khác nhau của các tổ chức này, mỗi loại hình đều có cách tiếp cận riêng để hỗ trợ cộng đồng.
Từ năm 2013, các tổ chức tài chính vi mô có thể hoạt động dưới dạng nhà cung cấp từ cộng đồng hoặc các tổ chức khác Cụ thể, các đơn vị này được phân loại thành nhiều nhóm khác nhau để phục vụ nhu cầu tài chính của cộng đồng.
Hình 1.1: Các tổ chức cung ứng dịch vụ tài chính vi mô
Nguồn: Ledgerwood và cộng sự (2013)
Theo Ledgerwood và cộng sự (2013), các đơn vị cung cấp dịch vụ tài chính vi mô cho người nghèo được phân loại thành bốn nhóm: cá nhân, nhóm hỗ trợ, tổ chức có đăng ký và tổ chức được cấp phép Phương pháp phân loại này tương tự với cách quản lý các tổ chức tài chính vi mô tại Việt Nam hiện nay Vì vậy, trong luận án này, các tổ chức tài chính vi mô cũng sẽ được phân loại theo bốn nhóm dựa trên cách phân loại của Ledgerwood và cộng sự (2013).
Các nhà cung cấp từ cộng đồng Các nhà cung cấp từ tổ chức
- Bạn bè, người thân, người cho vay, tiệm cầm đồ
- Các hiệp hội tiết kiệm và tín dụng xoay vòng
- Các nhóm tiết kiệm, nhóm tương trợ
- Các hiệp hội dịch vụ tài chính
Các tổ chức có đăng kí
- Các hiệp hội tiết kiệm và tín dụng
- Các tổ chức tài chính vi mô NGO
- Các công ty chuyển tiền
- Các công ty hoạt động cộng đồng
Các tổ chức đƣợc cấp phép
Các tổ chức tài chính vi mô được cấp phép nhận tiền gửi từ Ngân hàng Nhà nước và ngân hàng thương mại cung cấp dịch vụ tài chính vi mô Ngoài ra, còn có các tổ chức tài chính vi mô phi ngân hàng và các đơn vị bảo hiểm thương mại tham gia vào lĩnh vực này.
Mức độ chính thức hóa
Hình 1.2: Phân loại các tổ chức tài chính vi mô tại Việt Nam
Theo phân loại của Ledgerwood, Earne và Nelson (2013), các nhà cung cấp từ cộng đồng bao gồm bạn bè, người thân, hội, bưu, phường, người cho vay nặng lãi, cửa hàng cầm đồ và nhà cung cấp đầu vào Tuy nhiên, Nguyễn Tiến Đông (2016) cho rằng các nhà cung cấp trong khu vực này không có tính chính danh và không được pháp luật thừa nhận Hệ thống dữ liệu về khu vực này cũng thiếu đầy đủ và chi tiết, do đó, luận án sẽ không khai thác sâu về chủ thể này.
Các tổ chức hoạt động tài chính vi mô tại Việt Nam bao gồm các tổ chức chưa được cấp phép, tổ chức phi Chính Phủ, và các quỹ xã hội, với hơn 400 tổ chức nhưng không có cơ quan Nhà nước nào quản lý và giám sát Theo nhóm công tác tài chính vi mô Việt Nam (2017), việc thống kê hoạt động của các tổ chức này gặp nhiều hạn chế, chủ yếu tập trung vào dữ liệu của các chương trình và quỹ xã hội thành viên Luận án này sẽ nghiên cứu khái niệm về chương trình/dự án tài chính vi mô theo quy định tại khoản 3 điều 3 QĐ 20/2017/QĐ-TTg.
Các nhà cung cấp từ cộng đồng Các nhà cung cấp từ tổ chức
- Vay qua bạn bè , người thân
- Người cho vay nặng lãi
- Nhà cung cấp đầu vào
Các tổ chức có đăng kí
- Các tổ chức tài chính vi mô chƣa đƣợc cấp phép, NGOs
- Các chương trình, dự án
- Các tổ chức, các quỹ xã hội
Các tổ chức đƣợc cấp phép
- Ngân hàng chính sách xã hội
- Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn
- Ngân hàng hợp tác; Quỹ tín dụng nhân dân
Các tổ chức tài chính vi mô được cấp phép hoạt động nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng mà không vì mục tiêu lợi nhuận, góp phần tạo việc làm và giảm nghèo Theo Nghị định 93/2019/NĐ-CP, quỹ xã hội được định nghĩa là quỹ hoạt động với mục đích hỗ trợ phát triển văn hóa, giáo dục, y tế, thể dục thể thao, khoa học, và nông nghiệp, nông thôn, cũng không vì lợi nhuận.
Tại Việt Nam, các tổ chức tài chính vi mô được cấp phép bao gồm ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn, ngân hàng chính sách xã hội, ngân hàng hợp tác, hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân và các tổ chức tài chính vi mô theo luật các tổ chức tín dụng Trong khi ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn ngày càng chú trọng vào phân khúc khách hàng thu nhập cao, thì ngân hàng chính sách xã hội, quỹ tín dụng nhân dân và các tổ chức tài chính vi mô lại tập trung phục vụ khách hàng nghèo và thu nhập thấp.
Theo nghiên cứu của Ngô (2012), quỹ tín dụng nhân dân hoạt động trong lĩnh vực tài chính nông thôn, nhưng khách hàng sử dụng dịch vụ tại đây thường có thu nhập tương đối tốt và có khả năng tiếp cận các dịch vụ ngân hàng Le và Tran (2004) cùng với Nguyễn Kim Anh (2010) cũng đã chỉ ra rằng thị trường tài chính vi mô có thể được phân đoạn dựa trên thu nhập của khách hàng.
Hình 1.3: Phân loại khách hàng tài chính vi mô
Nguồn: Le và Tran (2004) và Nguyễn Kim Anh (2010)
Biểu đồ cho thấy rằng khách hàng thuộc hộ nghèo và hộ đói chủ yếu được phục vụ bởi các tổ chức tài chính vi mô và ngân hàng chính sách xã hội Tuy nhiên, sự chênh lệch lớn về quy mô hoạt động và đặc điểm thể chế giữa ngân hàng chính sách xã hội và các tổ chức tài chính vi mô khác khiến tác giả chỉ tập trung đánh giá hoạt động của các tổ chức tài chính vi mô được cấp phép trong khuôn khổ nghiên cứu Theo Luật các tổ chức tín dụng 2010, tổ chức tài chính vi mô được định nghĩa là loại hình tổ chức tín dụng chủ yếu thực hiện các hoạt động ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu của cá nhân, hộ gia đình có thu nhập thấp và doanh nghiệp siêu nhỏ.
Trong luận án này, chúng tôi sẽ phân tích dữ liệu về các tổ chức Tài chính vi mô (TCVM) được cấp phép, được gọi là MFIs được cấp phép, cùng với các quỹ xã hội hoạt động trong lĩnh vực tài chính vi mô và chương trình tài chính vi mô chuyên trách nhưng chưa đăng ký thành lập tổ chức tài chính vi mô, được gọi là MFIs có đăng ký.
1.1.1.2 Vai trò của tổ chức tài chính vi mô
Cấu trúc vốn của tổ chức tài chính vi mô
1.2.1 Khái niệm Được định nghĩa là nguồn gốc và phương pháp hình thành nên nguồn để một doanh nghiệp có thể hoạt động (Kyereboah – Coleman, 2007), cấu trúc vốn ngày càng chứng minh vai trò quan trọng, giúp tạo nền tảng để doanh nghiệp phát triển một cách bền vững Do đó, các nghiên cứu về cấu trúc vốn thường nhận được nhiều sự quan tâm, và vì thế khái niệm cấu trúc vốn cũng khá đa dạng
Cấu trúc vốn, theo Weston và Brigham (1979), được định nghĩa là nguồn tài chính thường xuyên của doanh nghiệp, bao gồm nợ dài hạn, cổ phiếu ưu đãi và giá trị ròng Van Horne và Wachowicz (1995) cũng nhấn mạnh rằng cấu trúc vốn là nguồn tài chính dài hạn, chủ yếu bao gồm nợ, vốn cổ phần ưu đãi và cổ phần thông thường Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu trước đây đều thống nhất rằng cấu trúc vốn không bao gồm các khoản nợ ngắn hạn, điều này khác biệt so với quan niệm hiện đại về cấu trúc vốn.
Theo Ross và cộng sự (2012), nợ phải trả (bao gồm nợ ngắn hạn và nợ dài hạn) cùng với vốn chủ sở hữu là những thành phần chính cấu thành nên cấu trúc vốn của một doanh nghiệp Tương tự, Akter và cộng sự (2015) cũng khẳng định rằng cấu trúc vốn là sự kết hợp của tất cả các nguồn tài trợ cho hoạt động và phát triển của doanh nghiệp, bao gồm nợ ngắn hạn, nợ dài hạn, cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi và lợi nhuận giữ lại.
Cấu trúc vốn là yếu tố quan trọng phản ánh nguồn hình thành vốn cho hoạt động doanh nghiệp, với sự khác biệt tùy thuộc vào hình thức pháp lý, quy mô, lĩnh vực và thời gian hoạt động (El-Masry và cộng sự, 2008) Đặc biệt, trong tổ chức tài chính vi mô, cấu trúc vốn có những đặc điểm riêng biệt do đối tượng khách hàng, phương thức hoạt động và tỷ lệ rủi ro khác biệt so với các tổ chức tài chính truyền thống.
Cấu trúc vốn của tổ chức tài chính vi mô thường bao gồm vốn tài trợ, vốn chủ sở hữu, vốn huy động từ tiền gửi và vốn vay Vốn tài trợ được coi là nguồn vốn phù hợp nhất cho các tổ chức tài chính vi mô trong giai đoạn khởi đầu hoặc khi khả năng tiếp cận vốn thương mại bị hạn chế Ngược lại, vốn chủ sở hữu và vốn huy động từ tiền gửi thường dành cho các tổ chức được cấp phép hoặc chịu sự quản lý của Nhà nước.
Cùng chung quan điểm về cấu trúc vốn của tổ chức tài chính vi mô, Calvin
Nghiên cứu của Bogan (2012) và Calvin (2001) khẳng định rằng cấu trúc vốn của tổ chức tài chính vi mô bao gồm vốn tài trợ, vốn huy động, vốn chủ sở hữu và vốn vay Fersi và Boujelbéne (2017) cũng đồng tình với quan điểm này khi phân tích cấu trúc vốn của tổ chức tài chính vi mô truyền thống và tổ chức tài chính vi mô hồi giáo, nhấn mạnh rằng vốn huy động từ tiền gửi, vốn chủ sở hữu, vốn nhận tài trợ và vốn vay là những thành phần quan trọng trong cấu trúc vốn của các tổ chức này.
Cấu trúc vốn của các tổ chức tài chính vi mô (MFIs) đang thay đổi theo thời gian, chuyển từ sự phụ thuộc vào các tổ chức tài trợ như tổ chức phát triển cộng đồng và quỹ bảo trợ tư nhân sang việc thu hút vốn từ các thị trường vốn Sự chuyển biến này đã mở đường cho sự phát triển của các quỹ đầu tư tư nhân vào thị trường tài chính vi mô, làm cho cấu trúc vốn của MFIs ngày càng đa dạng với nhiều phương thức và thành phần khác nhau Trong luận án này, cấu trúc vốn của tổ chức tài chính vi mô được định nghĩa là sự kết hợp linh hoạt giữa các nguồn vốn tài trợ và các nguồn vốn thương mại, bao gồm vốn huy động từ tiền gửi, vốn chủ sở hữu và vốn vay, nhằm đảm bảo nguồn tài chính cho hoạt động của tổ chức.
1.2.2 Biến đại diện cấu trúc vốn của tổ chức tài chính vi mô
Cấu trúc vốn của Tổ chức Tín dụng Vi mô (TCTCVM) tại Việt Nam có thể được đo lường thông qua nhiều hệ số khác nhau, dựa vào nguồn hình thành vốn, bao gồm vốn huy động từ tiền gửi, vốn đi vay, nợ khác và vốn chủ sở hữu.
Hệ số Vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản (EA) được tính bằng cách chia tổng giá trị của tất cả các tài khoản vốn chủ sở hữu, bao gồm giá trị ròng từ hoạt động phân phối như chia cổ tức, mua lại cổ phiếu hoặc thanh toán tiền mặt cho các chủ sở hữu, cho tổng giá trị của tất cả các tài sản, cộng với giá trị ròng của các tài khoản như dự trữ cho vay và khấu hao lũy kế.
Tỉ lệ vốn huy động từ tiền gửi trên tổng tài sản (DP) được tính bằng cách chia tổng vốn huy động từ tiền gửi tiết kiệm, bao gồm tiết kiệm tự nguyện, tiết kiệm bắt buộc, và tiết kiệm của cá nhân hoặc tổ chức, cho tổng giá trị tài sản và giá trị ròng của các tài khoản như dự trữ cho vay và khấu hao lũy kế.
Hệ số vốn vay trên tổng tài sản (BA) được tính bằng cách chia tổng các khoản vay mượn và khoản phải trả cho tổng giá trị tài sản, bao gồm cả giá trị ròng của các tài khoản như dự trữ cho vay và khấu hao lũy kế.
Hệ số nợ khác trên tổng tài sản (OA) được tính bằng cách chia tổng nghĩa vụ nợ khác cho tổng giá trị tài sản, bao gồm cả giá trị ròng của các khoản dự trữ cho vay và khấu hao lũy kế.
Mức độ bền vững của tổ chức tài chính vi mô
1.3.1 Khái niệm Định nghĩa về mức độ bền vững của tổ chức tài chính vi mô, Khandker và cộng sự (1995) cho rằng mức độ bền vững phản ánh qua khả năng tổ chức tài chính vi mô có thể trưởng thành như một tổ chức tài chính phát triển, mà vẫn duy trì việc cung ứng các sản phẩm cho người dân ở khu vực nông thôn Khả năng tiếp tục thực hiện các hoạt động và cung cấp sản phẩm phục vụ người nghèo theo mục tiêu luật định ban đầu cũng đƣợc nhấn mạnh trong định nghĩa về mức độ bền vững của Rosenberg (2009) Còn theo CGAP, mức độ bền vững của một TCTCVM đƣợc định nghĩa là TCTCVM đó có thể hoạt động an toàn và sinh lời trong một khoảng thời gian dài mà vẫn duy trì việc cung cấp các dịch vụ tài chính cho người nghèo Ủng hộ cho quan điểm của CGAP, Sim và Prabhu (2014) trong nghiên cứu về mức độ bền vững và mức độ tiếp cận của các tổ chức tài chính vi mô khẳng định mức độ bền vững của một tổ chức tài chính vi mô thể hiện ở khả năng tự đứng vững của tổ chức sau một thời gian hoạt động
Mức độ bền vững của một tổ chức tài chính vi mô phản ánh khả năng phát triển lâu dài của tổ chức, đồng thời vẫn giữ vững mục tiêu phục vụ người nghèo trong xã hội, theo quan điểm của các nhà nghiên cứu.
Theo Thapa (2006), để đạt được sự bền vững cho tổ chức tài chính vi mô, cần chú trọng đến ba khía cạnh: bền vững tài chính, bền vững tổ chức và bền vững quản lý Trong đó, bền vững tài chính được coi là yếu tố cốt lõi, đóng vai trò quan trọng trong quá trình này (Hollis và Sweetman, 1998) và thu hút sự quan tâm đặc biệt từ các nhà nghiên cứu (Marakkath, 2013) Vai trò của bền vững tài chính đã được CGAP nhấn mạnh trong báo cáo thường niên năm 2004.
Bền vững tài chính là yếu tố quan trọng giúp các tổ chức tài chính vi mô mở rộng khả năng tiếp cận dịch vụ cho người nghèo Nhiều người nghèo hiện nay vẫn chưa thể tiếp cận dịch vụ tài chính do thiếu các trung gian tài chính mạnh mẽ Đạt được sự bền vững tài chính không chỉ là mục tiêu cuối cùng mà còn là điều kiện cần thiết để tổ chức có thể phục vụ nhiều người nghèo hơn, từ đó tạo ra tác động tích cực hơn cho cộng đồng so với sự hỗ trợ từ các cơ quan tài trợ.
Mức độ bền vững của tổ chức tài chính vi mô chủ yếu được phân tích qua bền vững tài chính Theo Havers (1996), bền vững tài chính là khả năng đáp ứng các chi phí hoạt động từ doanh thu mà không cần hỗ trợ tài chính bên ngoài Kimando và cộng sự (2012) cũng định nghĩa bền vững tài chính là khả năng trang trải tất cả các chi phí thông qua lợi nhuận từ dịch vụ tài chính Dunford (2000) nhấn mạnh rằng bền vững tài chính cho phép tổ chức tài chính vi mô theo đuổi các mục tiêu mà không cần sự hỗ trợ từ các nhà tài trợ.
Bền vững tài chính của tổ chức tài chính vi mô được định nghĩa là khả năng tạo ra doanh thu từ việc cung cấp sản phẩm và dịch vụ cho khách hàng nghèo, nhằm trang trải toàn bộ chi phí đầu vào và tích lũy cho sự phát triển lâu dài của tổ chức Nghiên cứu và phân tích các quan điểm về vấn đề này giúp làm rõ tầm quan trọng của sự bền vững trong hoạt động của các tổ chức tài chính vi mô.
1.3.2 Biến đại diện mức độ bền vững của tổ chức tài chính vi mô Đánh giá về mức độ bền vững tài chính của tổ chức tài chính vi mô, ba chỉ tiêu thường được các nhà nghiên cứu sử dụng bao gồm tự vững hoạt động (OSS), tự vững tài chính (FSS) và hệ số phụ thuộc trợ cấp (SDI) (Marakkath, 2013) Trong đó, tự vững hoạt động cho biết khả năng của tổ chức tài chính vi mô trong việc trang trải toàn bộ chi phí hoạt động từ thu nhập hoạt động của tổ chức, mà không quan tâm tới việc tổ chức đang đƣợc nhận viện trợ hay không (Meyer, 2002)
Chỉ tiêu về hoạt động OSS đƣợc tính toán nhƣ sau:
Chỉ số OSS được xem là đảm bảo độ tự vững khi có giá trị lớn hơn 100 Tuy nhiên, theo quy định quốc tế, yêu cầu đối với chỉ số OSS thường là phải lớn hơn 120 (Nguyễn Kim Anh và cộng sự, 2013).
Hệ số tự vững tài chính phản ánh khả năng của tổ chức tài chính vi mô trong việc tự trang trải toàn bộ chi phí tài chính và phi tài chính bằng doanh thu của mình, mà không cần đến sự hỗ trợ hay trợ cấp từ bên ngoài (Ledgerwood, 1998).
Chỉ tiêu về tự vững tài chính (FSS) đƣợc tính toán nhƣ sau:
Chỉ tiêu FSS đánh giá khả năng trang trải chi phí hoạt động từ thu nhập, khắc phục nhược điểm của chỉ số OSS bằng cách xem xét lạm phát và loại bỏ tác động của trợ cấp Tương tự như OSS, TCTCVM được coi là đảm bảo độ tự vững khi FSS lớn hơn 100.
Bên cạnh FSS, TCTCVM có thể sử dụng hệ số phụ thuộc trợ cấp để đánh giá sự bền vững tài chính lâu dài, phản ánh tỷ lệ giữa giá trị nhận trợ cấp ròng và doanh thu từ việc cấp vốn vay cho khách hàng Chỉ số phụ thuộc trợ cấp (SDI) được tính theo công thức do Yaron (1994) và Khandker cùng cộng sự (1995) đề xuất.
Giá trị SDI thấp cho thấy khả năng tự vững cao của TCTCVM, khi tổ chức có thể hoạt động sinh lời hiệu quả và tạo ra giá trị vượt trội so với số tiền nhận trợ cấp Điều này là cơ sở để tổ chức giảm dần sự phụ thuộc vào nguồn trợ cấp, hướng tới việc đưa chỉ số này về 0 khi đạt được sự tự vững hoàn toàn.
Mức độ bền vững tài chính của tổ chức tài chính vi mô có thể được đánh giá qua nhiều chỉ số khác nhau, nhưng chỉ số OSS (tự vững hoạt động) được coi là tiêu chí cơ bản nhất (Marakkath, 2013) Nhiều nhà nghiên cứu trước đây, như Sekabira (2013), Bogan (2012), và Kipesha và Zhang (2013), cũng đã tin tưởng sử dụng chỉ số này trong các nghiên cứu về tài chính vi mô Marakkath (2013) nhấn mạnh rằng để tính toán các chỉ số FSS hay SDI, việc xác định chính xác giá trị tài trợ mà tổ chức tài chính vi mô nhận được cùng với chi phí cơ hội của việc sử dụng các nguồn vốn này là rất quan trọng.
Theo De Crombrugghe và cộng sự (2008), việc tính toán OSS đơn giản hơn nhiều so với các chỉ tiêu khác, đặc biệt là không cần quan tâm đến việc TCTCVM có sử dụng nguồn tài trợ hay không và mức độ sử dụng là bao nhiêu (Nyamsogoro, 2010) Chính vì lý do này, OSS được ưa chuộng và áp dụng rộng rãi hơn so với các chỉ tiêu khác.
Trong bối cảnh phát triển của tài chính vi mô tại Việt Nam, các tổ chức được cấp phép và đăng ký chủ yếu hoạt động trong nhóm trẻ, dẫn đến việc số liệu về tự vững tài chính (FSS) rất hạn chế Do đó, chỉ số hoạt động bền vững (OSS) vẫn được xem là nguồn dữ liệu tin cậy và đầy đủ hơn để phản ánh mức độ bền vững của các tổ chức tài chính vi mô ở Việt Nam.
Nam Trong nghiên cứu này OSS sẽ đƣợc dùng nhƣ biến phụ thuộc đại diện cho mức độ bền vững của MFIs tại Việt Nam
Hiệu quả xã hội của tổ chức tài chính vi mô
1.4.1 Khái niệm Đƣợc phát triển từ những năm 1950 và 1960, khái niệm hiệu quả xã hội của doanh nghiệp đã nhận đƣợc sự quan tâm của rất nhiều nhà nghiên cứu bởi mối liên hệ của hiệu quả xã hội tới các ý niệm về đạo đức kinh doanh của doanh nghiệp Tuy vậy, theo Wood (1991) vẫn chƣa có một định nghĩa nào về hiệu quả xã hội có thể làm hài lòng tất cả các nhà nghiên cứu Do đó, có khá nhiều luồng quan điểm khác nhau về định nghĩa hiệu quả xã hội của doanh nghiệp
Theo Wood (1991), hiệu quả xã hội của doanh nghiệp được định nghĩa là việc thiết lập nguyên tắc về trách nhiệm xã hội, thực hiện các quy trình phù hợp với cam kết này, và phát triển các chính sách, chương trình cùng với kết quả đạt được khi doanh nghiệp tương tác với xã hội.
Khái niệm hiệu quả xã hội được phát triển dựa trên mô hình của Wood (1991) và Pierick cùng cộng sự (2004), trong đó chia thành hai nghĩa: rộng và hẹp Theo Wood (1991), hiệu quả xã hội của doanh nghiệp được hiểu theo nghĩa rộng, trong khi theo nghĩa hẹp, nó chỉ tập trung vào các kết quả xã hội có thể ghi nhận từ việc tổ chức tham gia vào các mối quan hệ xã hội Các tác giả nhấn mạnh rằng kết quả này thể hiện qua ba khía cạnh chính: các chính sách doanh nghiệp, các chương trình thực hiện và các tác động xã hội.
Hiệu quả xã hội, theo nghiên cứu của Steg và cộng sự (2003), được hiểu theo ba khía cạnh chính: kinh tế, xã hội và môi trường Khía cạnh kinh tế liên quan đến lợi nhuận và sự tăng trưởng giá trị thị trường, trong khi khía cạnh xã hội tập trung vào mối quan hệ bền vững với các bên liên quan Cuối cùng, khía cạnh môi trường đề cập đến tác động của hoạt động doanh nghiệp đến môi trường, cả về số lượng và chất lượng.
Hiệu quả xã hội của doanh nghiệp được định nghĩa là khả năng quản lý và hài hòa lợi ích của tất cả các bên liên quan, bao gồm người lao động, chủ sở hữu, người tiêu dùng, nhà cung cấp, đối thủ cạnh tranh và các bên liên quan khác (1995) Turban và Greening (1997) nhấn mạnh rằng trách nhiệm của doanh nghiệp không chỉ dừng lại ở cổ đông mà còn mở rộng đến khách hàng và cộng đồng.
Theo nghiên cứu của Fauzi và cộng sự (2010), hiệu quả xã hội bao gồm cả yếu tố môi trường và được coi là tương đương với trách nhiệm xã hội Vì vậy, trong các nghiên cứu thực nghiệm về khía cạnh xã hội trong hoạt động kinh doanh, hai khái niệm này thường được sử dụng thay thế cho nhau.
Có nhiều quan điểm khác nhau về hiệu quả xã hội của doanh nghiệp, và sự không đồng nhất này có thể đến từ sự khác biệt trong cách nhìn nhận của từng nhà nghiên cứu cũng như bối cảnh nghiên cứu cụ thể.
Nghiên cứu về hiệu quả xã hội trong tổ chức tài chính vi mô cần xem xét các đặc tính của đối tượng như ngành nghề, tổ chức, quy mô và quan điểm của chủ sở hữu (Mullerat, 2010) Do đó, tác giả sẽ phân tích định nghĩa hiệu quả xã hội để xây dựng nền tảng lý thuyết cho luận án này.
Theo nghiên cứu của Deshpande và cộng sự (2007), hiệu quả xã hội của tổ chức tài chính vi mô chủ yếu được thể hiện qua "sự tin tưởng" Sự tin tưởng này đến từ việc người dân tin rằng các tổ chức tài chính vi mô sẽ sử dụng nguồn tài trợ một cách hiệu quả để hỗ trợ người nghèo Để duy trì và củng cố niềm tin này, các tổ chức tài chính vi mô cần thực hiện báo cáo về tiến độ và kết quả đạt được các mục tiêu xã hội đã đề ra trước đó.
Theo định nghĩa của Social Performance Task, Ford và Leonard (2009) xác định hiệu quả xã hội là khả năng của tổ chức tài chính vi mô trong việc truyền tải hiệu quả các mục tiêu xã hội của tổ chức vào thực tiễn, với điều kiện các mục tiêu này phải tương thích với các giá trị xã hội được chấp nhận.
Theo Leonard, các tổ chức tài chính vi mô cần đảm bảo rằng hoạt động của họ không gây hại cho khách hàng hoặc làm tình trạng của khách hàng xấu đi Woller (2007) định nghĩa hiệu quả xã hội không chỉ là kết quả cuối cùng mà còn là các hành động và điều chỉnh để đạt được kết quả đó Báo cáo của IFAD (2006) cũng nhấn mạnh rằng hiệu quả xã hội phải bao gồm cả tác động cuối cùng và quá trình minh bạch để đạt được mục tiêu xã hội Avolio và cộng sự (2015) cho rằng hiệu quả xã hội được thể hiện qua cách tổ chức tôn trọng và hoạt động theo sứ mệnh xã hội đã đề ra.
Dựa trên các nghiên cứu trước đây, luận án này định nghĩa hiệu quả xã hội của tổ chức tài chính vi mô (MFI) theo hai nghĩa: nghĩa hẹp và nghĩa rộng Theo nghĩa hẹp, hiệu quả xã hội của MFIs là những kết quả và lợi ích mà chúng mang lại cho các bên liên quan, cộng đồng và xã hội Trong khi đó, theo nghĩa rộng, hiệu quả xã hội thể hiện qua quy trình tổng thể từ việc hoạch định, xây dựng chính sách, thiết lập quy trình hoạt động đến kết quả và tác động mà MFIs tạo ra trong các mối quan hệ xã hội của mình.
1.4.2 Biến đại diện hiệu quả xã hội của tổ chức tài chính vi mô
Các nghiên cứu về hiệu quả xã hội của tổ chức tài chính vi mô (MFIs) thường sử dụng hai phương pháp chính để đo lường Đối với quan điểm hẹp về hiệu quả xã hội, chỉ số thường được xác định qua việc lượng hóa dữ liệu từ các chỉ tiêu trong báo cáo tài chính vi mô Ngược lại, khi xem xét hiệu quả xã hội theo nghĩa rộng, các phương pháp như chỉ số xếp hạng xã hội và khảo sát thường được áp dụng Nội dung chi tiết về các phương pháp đo lường này sẽ được trình bày trong bài viết.
1.4.2.1 Phương pháp tiếp cận theo nghĩa hẹp
Hermes và Hudon (2018) đã chỉ ra rằng hiệu quả xã hội của tổ chức tài chính vi mô chỉ thực sự được nghiên cứu từ năm 2010 trở lại đây, với 85% các nghiên cứu áp dụng phương pháp định lượng các biến số kế toán để đo lường hiệu quả tài chính và xã hội Các biến số thường được sử dụng bao gồm giá trị khoản vay bình quân, số lượng khách hàng vay, số tài khoản vay vốn và tiết kiệm, số chi nhánh, cùng tỷ lệ khoản vay cho khách hàng nữ Theo Hermes và Hudon, hiệu quả xã hội được đo lường liên quan đến sứ mệnh xã hội của tổ chức, nhằm mở rộng tiếp cận người nghèo thông qua sản phẩm cho vay cho cá nhân, hộ gia đình và doanh nghiệp nhỏ Do đó, các nghiên cứu về hiệu quả xã hội chủ yếu tập trung vào đánh giá mức độ tiếp cận, với tiêu chí đo lường đa dạng theo chiều rộng, chiều sâu hoặc cả hai.
Chiều rộng của mức độ tiếp cận thể hiện độ phủ sóng của tổ chức tài chính vi mô, thường được đo lường qua số lượng khách hàng hiện tại Các nhà nghiên cứu như Hartarska và Nadolnyak (2007), Hoque và cộng sự (2011), Bogan (2012) đã sử dụng biến này để đánh giá hiệu quả xã hội Trong khi đó, chiều sâu mức độ tiếp cận được xác định qua phân khúc khách hàng, với tỷ lệ khách hàng nữ và tỷ lệ dư nợ bình quân so với mức thu nhập bình quân đầu người là hai biến đại diện phổ biến Những nghiên cứu của Annim (2012), Adair và Berguiga (2013), Lebovic và cộng sự (2016) đã ủng hộ việc đánh giá hiệu quả xã hội theo chiều sâu Cuối cùng, các nghiên cứu của Khachatryan và cộng sự (2017), Abdulai và Tewari (2017), Bibi và cộng sự (2018) đã kết hợp cả hai biến chiều rộng và chiều sâu để phản ánh hiệu quả xã hội của MFIs.
Tác động của cấu trúc vốn đến mức độ bền vững và hiệu quả xã hội
Khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 đã dẫn đến nhiều vụ phá sản của các doanh nghiệp và ngân hàng lớn, một lần nữa nhấn mạnh tầm quan trọng của cấu trúc vốn đối với doanh nghiệp và tổ chức tài chính (Bogan, 2012).
Nghiên cứu về tác động của cấu trúc vốn đến hoạt động của tổ chức đã thu hút sự chú ý lớn từ các nhà nghiên cứu, đặc biệt là các lý thuyết cơ bản như M&M, lý thuyết đánh đổi và lý thuyết trật tự phân hạng, giúp giải thích việc lựa chọn và kết hợp nguồn vốn Tuy nhiên, cấu trúc vốn của các tổ chức tài chính, đặc biệt là tổ chức tài chính vi mô, có những đặc điểm khác biệt chưa được đề cập trong các lý thuyết này Để làm rõ cơ chế tác động của cấu trúc vốn đến mức độ bền vững và hiệu quả xã hội của tổ chức tài chính vi mô, nghiên cứu không chỉ phân tích các lý thuyết cấu trúc vốn cơ bản mà còn chỉ ra những điểm khác biệt trong cấu trúc vốn của các tổ chức này, từ đó xây dựng cơ sở lý thuyết cho mô hình tác động.
Lý thuyết cấu trúc vốn hiện đại bắt nguồn từ Modigliani và Miller (1958), với giả định về một thị trường vốn hoàn hảo, không có thuế, chi phí giao dịch, hay thông tin bất cân xứng Theo Levati và cộng sự (2012), cả doanh nghiệp và nhà đầu tư đều là người chấp nhận giá Lý thuyết M&M khẳng định rằng giá trị của doanh nghiệp không phụ thuộc vào nguồn vốn sử dụng để tài trợ cho hoạt động của doanh nghiệp.
1.5.1.2 Các nghiên cứu về lý thuyết Ủng hộ cho lý thuyết M&M, Stiglitz (1969) đã chứng minh lý thuyết về cấu trúc vốn của Modigliani và Miller không chỉ đúng với các giả định về thị trường vốn hoàn hảo, mà còn xảy ra tại thị trường nơi mà hoạt động vay vốn cá nhân bị hạn chế hoặc có dấu hiệu của phá sản Sự không tương quan giữa giá trị doanh nghiệp và cấu trúc vốn sau đó còn đƣợc nhấn mạnh bởi Fama và Miller (1972) khi các tác giả nghiên cứu về mối quan hệ này trong điều kiện giao ƣớc giữa các bên đƣợc đảm bảo tuyệt đối Đƣa ra ý kiến phản bác đầu tiên về lý thuyết M&M là Durand (1959) khi tác giả cho rằng hai giả thuyết liên quan đến thay thế hoàn hảo và cơ hội kinh doanh chênh lệch giá là không thể xảy ra trong thị trường hoàn hảo Chứng minh cho điều này, Durand đã phân tích cách thức hai công ty giả định là Petroleas và Leverfund hoạt động, và nhận ra rằng thay thế hoàn hảo là không xảy ra hay cổ phiếu của Leverfund không thể đƣợc thay thế một cách hoàn hảo bởi cổ phiếu của Petroleas Bên cạnh đó kinh doanh chênh lệch giá cũng không áp dụng đƣợc Ngoài ra, bằng việc khai thác đối tƣợng nghiên cứu nhƣ Modigliani và Miller (1958) đã sử dụng, Weston (1963) chỉ ra rằng có mối tương quan rõ nét giữa cấu trúc vốn và chi phí vốn Nguyên nhân cho sự không đồng nhất trong kết luận của Modigliani và Miller
(1958) và Weston (1963) theo tác giả là do lý thuyết M&M đã không cân nhắc tới sự tăng trưởng thu nhập trong phân tích
Dựa trên những điểm không hoàn hảo của thị trường vốn, Arzac và Glosten
Nghiên cứu của Dann (2005), Masulis (1983) và Graham và Harvey (2001) đã chỉ ra rằng có mối quan hệ chặt chẽ giữa giá trị doanh nghiệp và đòn bẩy tài chính, phản bác lý thuyết M&M Masulis (1983) nhấn mạnh rằng giả định về việc không có thuế và bất cân xứng thông tin không tồn tại trong thực tế, từ đó khẳng định rằng cấu trúc vốn có ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp Nghiên cứu tiếp theo của Pinegar và Lease (1986) cũng xác nhận rằng thông tin về phát hành cổ phiếu ưu đãi có tác động rõ rệt đến giá trị doanh nghiệp, củng cố mối liên hệ giữa cấu trúc vốn và giá trị doanh nghiệp.
Mặc dù mô hình của Modigliani-Miller đã có những đóng góp quan trọng trong việc xây dựng lý thuyết cấu trúc vốn, nhưng vẫn thiếu hướng dẫn thực tế cho các doanh nghiệp trong việc lựa chọn nguồn tài trợ Do đó, việc điều chỉnh mô hình là cần thiết để đáp ứng nhu cầu thực tiễn của các doanh nghiệp.
Khi các điều kiện thị trường vốn hoàn hảo của Modigliani và Miller không còn áp dụng, nhiều lý thuyết đã được phát triển để giải thích cấu trúc vốn của doanh nghiệp Trong số đó, lý thuyết đánh đổi và trật tự phân hàng nổi bật nhất, được đề cập bởi Singh và Kumar (2012) cùng với Swinnen, Voordeckers và Vandemaele (2005).
Do đó, trong phần tiếp theo các lý thuyết này sẽ lần lƣợt đƣợc trình bày
1.5.2.1 Nội dung lý thuyết Đƣợc phát triển bởi Kraus và Litzenberger, lý thuyết đánh đổi cho rằng có sự đánh đổi giữa lợi ích và chi phí của việc sử dụng nợ; do đó các nhà quản lý cần cân nhắc để tìm ra một tỉ lệ nợ tối ƣu (Graham và Harvey, 2001) nhằm tối đa hóa giá trị của doanh nghiệp (Abor, 2005) Cotei và Farhat (2009) chỉ ra rằng so với vốn chủ sở hữu thì nợ vay đƣợc ƣa thích hơn bởi sử dụng nợ giúp doanh nghiệp có đƣợc những lợi ích từ lá chắn thuế nhờ lãi vay Tuy nhiên, nợ vay càng nhiều đồng nghĩa với việc doanh nghiệp sẽ có nguy cơ phải đối mặt với rủi ro phá sản (Serrasqueiro và Caetan, 2015; Karadeniz và cộng sự, 2009) Đi kèm với đó là sự gia tăng các chi phí nhƣ chi phí trả cho luật sƣ giải quyết phá sản, chi phí trả cho kế toán và nhân viên quản trị công ty trong quá trình chờ phá sản, chi phí do mất khách hàng và nhà cung cấp hay chi phí đại diện (Myers, 2001) Do đó, theo lý thuyết đánh đổi, sự tăng lên của tỉ lệ nợ trong tổng nguồn vốn của doanh nghiệp có thể mang lại lợi ích về lá chắn thuế; tuy nhiên, các doanh nghiệp cần cân nhắc xác định và duy trì một tỉ lệ nợ tối ƣu để không phải đánh đổi một cái giá quá lớn cho lợi ích nhận đƣợc
1.5.2.2 Các nghiên cứu về lý thuyết
Theo nghiên cứu của Tong và Green (2005) về lý thuyết đánh đổi, các doanh nghiệp có lợi nhuận thấp thường giảm bớt sự phụ thuộc vào nguồn tài trợ bên ngoài, đặc biệt là nợ vay Điều này dẫn đến kỳ vọng rằng mối quan hệ giữa nợ vay và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp sẽ có xu hướng thuận chiều (Krasker, 1986).
Graham và Harvey (2001) đã thực hiện nghiên cứu về lý thuyết đánh đổi và khảo sát cấu trúc vốn tại các doanh nghiệp, cho thấy hơn 80% doanh nghiệp thừa nhận tầm quan trọng của việc duy trì tỷ lệ nợ mục tiêu trong quyết định cấu trúc vốn Nghiên cứu của Flannery và Rangan (2006) cũng xác nhận rằng các doanh nghiệp thường xác định và theo đuổi tỷ lệ nợ mục tiêu Nhận định này được hỗ trợ bởi nhiều nhà nghiên cứu trước đây như Marsh (1982), Opler và Titman (1994), và Taggart (1977), những người đã cung cấp bằng chứng cho thấy đa số doanh nghiệp có xu hướng theo đuổi một tỷ lệ nợ mục tiêu.
Taub (1975) đã nghiên cứu mối quan hệ giữa tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu và lợi nhuận của doanh nghiệp dựa trên dữ liệu của 90 doanh nghiệp trong giai đoạn 1960-1969, cho thấy có sự liên kết rõ ràng giữa hai yếu tố này Tương tự, Roden và Lewellen (1995) cho rằng lợi ích từ nợ vay là lý do chính khiến các doanh nghiệp có lợi nhuận cao ưa chuộng sử dụng nguồn vốn này.
Nghiên cứu của Hackbarth và cộng sự (1999) chỉ ra rằng đòn bẩy tài chính đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
(2007) trong nghiên cứu của mình đã chứng minh lý thuyết đánh đổi hoàn toàn có thể giải thích đƣợc cấu trúc nợ trong doanh nghiệp
Baker và Wurgler (2002) phản bác lý thuyết đánh đổi, cho rằng cấu trúc vốn là kết quả của sự nỗ lực trên thị trường chứng khoán Fama và French (1998) chỉ ra rằng không có căn cứ rõ ràng về tác động của lá chắn thuế đối với mối quan hệ giữa quyết định nguồn vốn và hiệu quả hoạt động doanh nghiệp Khi kiểm soát biến thu nhập trước và sau thuế, mối quan hệ giữa đòn bẩy tài chính và giá trị doanh nghiệp trong nghiên cứu của họ lại nghịch chiều Hull và Dawar (2014) cho rằng việc tăng cường sử dụng nợ vay có thể dẫn đến gia tăng dòng tiền ra trong tương lai, chi phí rủi ro tài chính và tác động tiêu cực lên hiệu quả hoạt động doanh nghiệp, điều này đồng nhất với các nghiên cứu trước đó của Daskalakis và Psillaki (2005) cũng như Salim và Yadav (2012).
1.5.3 Lý thuyết trật tự phân hạng
Lý thuyết trật tự phân hạng, do Myers và Majluf (1984) giới thiệu, phủ nhận sự tồn tại của một tỷ lệ nợ mục tiêu và nhấn mạnh việc xây dựng thứ tự ưu tiên cho nguồn vốn của doanh nghiệp Theo lý thuyết này, chi phí giao dịch và sự bất cân xứng thông tin dẫn đến việc doanh nghiệp ưa chuộng nguồn tài trợ nội tại hơn nguồn tài trợ bên ngoài Các nhà quản lý thường nắm giữ nhiều thông tin về tình hình kinh doanh, tiềm năng tăng trưởng, rủi ro, giá trị doanh nghiệp và khả năng sinh lời của các dự án trong tương lai hơn so với các nhà đầu tư bên ngoài.
Các nhà quản lý thường ưu tiên sử dụng lợi nhuận giữ lại để tài trợ cho các dự án sinh lời cao Nếu nguồn tài chính này không đủ, họ sẽ chọn vay vốn với lãi suất cố định thấp hơn tỷ suất sinh lời của dự án, nhằm tránh việc chia sẻ lợi nhuận với cổ đông mới Vốn cổ phần chỉ được xem xét khi cổ phiếu của công ty định giá cao hơn giá trị thực trên thị trường Theo lý thuyết trật tự phân hạng, vốn chủ sở hữu nằm ở vị trí đầu tiên với lợi nhuận giữ lại và ở vị trí cuối cùng với việc phát hành cổ phiếu mới.