Giữa lòng đất Việt có vùng đất mang tên Bình Định. Trải qua nhiều thời kỳlịch sử, “miền đất võ” được hình thành và ngày đang dần phát triển, hoàn thiện,khoác lên cho mình một “màu áo riêng” góp phần tạo nên vẻ đẹp trù phú choquê hương tổ quốc.Dọc theo đường biển miền Trung, Bình Định hiện lên với vô vàn cảnh đẹpdo thiên nhiên ban tặng. Mảnh đất đầy nắng và gió này đã nuôi dưỡng không ítthiên tài cống hiến cho sự nghiệp của nước nhà. Nơi ấy đã cùng bao con ngườilớn lên và trưởng thành kể cả về thể chất lẫn tâm hồn. Thật tự hào biết bao khiđược trở thành người con xứ nẫuTừng chứng kiến cảnh lầm than, khốn khổ của nhân dân qua nghìn năm Bắcthuộc, gần một trăm năm man mác dưới gót giày của bọn thực dân, đế quốcPháp Mỹ. Và đặc biệt hơn nữa là nằm ở vị trí địa lý chịu nhiều cảnh thiên taiđã không ít lần những trận bão, lũ lụt, hạn hán,... tàn phá một cách đáng sợ.Song Bình Định vẫn không ngừng cố gắng nổ lực vực dậy để khẳng định vị thếcủa mình. Điều đó được thể hiện rõ hơn qua sự đổi mới và phát triển về mọimặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, nghệ thuật... Đặc biệt là sự thay đổi rõrệt qua cơ sở hạ tầng ở địa phương cũng được củng cố và nâng cấp lên một tầmcao mới. Chính sách nông thôn mới đã và đang được triển khai dần dần xóa đóigiảm nghèo cho bà con ở vùng quê này. Hằng năm địa phương đã đóng gópkhông ít ngân sách vào GDP cả nước. Quả nhiên là một chuyển biến đáng vuimừng.Ngày nay, Bình Định được mọi người trong nước và bạn bè biết đến là mộttrong những địa điểm du lịch hết sức nổi tiếng. Nhờ thiên nhiên đãi ngộ, phúcho nhiều danh lam thắng cảnh đặc sắc, nổi bật cộng thêm sự đa dạng về vănhóa, lẫn sự hiếu khách và thân thiện của người dân là một trong nhưng yếu tốgiúp thu hút lượng khách đến tham quan, khám phá. Sự kết hợp ấy rất hài hòa.Điểm được nhấn mạnh ở đây là văn hóa ở Bình Định khá thú vị. Nếu như ởBắc bộ có vùng văn hóa Đông Sơn, Nam bộ có vùng văn hóa Óc eo nổi tiếng thìTrung bộ nói chung và Bình Định nói riêng ảnh hưởng sâu sắc của nền văn hóasa huỳnh, cùng với đó là sự đen xen giữa nền văn hóa Chăm ba đã giúp cho nềnvăn hóa ở đây trở nên phong phú, đặc sắc hơn nơi nào hết
N ỀN TẢNG NGHIÊN CỨU NGHỆ THUẬT HÁT BỘI ( TUỒNG ) B ÌNH Đ ỊNH
Cơ sở lí luận
Hát bội, hay còn gọi là tuồng, là một bộ môn nghệ thuật có nguồn gốc từ văn hóa Trung Hoa, kết hợp giữa giọng hát và các điệu bộ, cử chỉ để thể hiện tính cách nhân vật Các vở diễn thường phản ánh các hiện tượng tự nhiên và sinh hoạt hàng ngày của nhân dân, đồng thời thể hiện lòng tự tôn và yêu nước qua hình ảnh các anh hùng dân tộc, nổi bật là vở tuồng Hồ Quý Ly của tác giả Xuân Yến Tuồng Việt Nam, đặc biệt là hát bội ở Bình Định, được coi là thể loại nghệ thuật dân gian với cốt truyện và kết cấu chặt chẽ, được truyền miệng qua các thế hệ, trở thành một nghề truyền thống đặc sắc của cộng đồng.
Nghệ thuật (art) là tập hợp các hoạt động sáng tạo của con người cùng với những sản phẩm mà chúng tạo ra Bài viết này chủ yếu khám phá các môn nghệ thuật thị giác, bao gồm hội họa, điêu khắc, đồ họa in ấn, nhiếp ảnh và các phương tiện truyền thông hình ảnh khác.
Nghệ thuật hát bội là sự kết hợp tinh tế giữa tư duy sáng tạo và kỹ thuật biểu diễn, thể hiện qua nội dung tuồng, trang phục và lối diễn xuất Những yếu tố này được trình bày một cách điêu luyện, mang lại sự hấp dẫn cho khán giả trên sân khấu.
Nhiều thế hệ trước đã nghiên cứu và phát triển nghệ thuật hát bội nhằm phục hưng truyền thống văn hóa dân tộc, trong bối cảnh hiện nay, loại hình nghệ thuật này đang dần bị lãng quên và ít người trẻ biết đến sự tồn tại của nó.
Dựa trên các nghiên cứu trước đây, tôi đã xây dựng nền tảng lý luận để phục vụ cho việc tìm hiểu của mình và phát triển nội dung trở nên cụ thể, chi tiết và dễ hiểu hơn, nhằm tiếp cận hiệu quả đến bạn đọc, đặc biệt là thế hệ 10x tại Bình Định Thế hệ trẻ này có sứ mệnh quan trọng trong việc lưu giữ và phát huy truyền thống văn hóa quý báu của dân tộc, đặc biệt là nghệ thuật, để từ đó lan tỏa cảm hứng cho cộng đồng, bao gồm cả đồng bào ở nước ngoài.
Cuốn sách “Đào Tấn và hát bội Bình Đinh” của Quách Tấn - Quách Giao, xuất bản năm 2007 tại Nhà xuất bản văn hóa dân tộc, đã trở thành tiền đề quan trọng cho việc xây dựng ý tưởng và nội dung nghiên cứu đề tài của tôi Tác phẩm này cung cấp cái nhìn chi tiết và hoàn thiện về nghệ thuật hát bội Bình Định Ngoài ra, tôi cũng tham khảo các tài liệu liên quan khác như báo Tuổi Trẻ Online và báo điện tử Bình Định.
“Di sản văn hóa quốc gia”… và các nguồn tạp chí khác Ngoài ra còn có các luồng thông tin từ các cụ già ở Bình Định…
Cơ sở thực tiễn
Điều kiện tự nhiên tại Bình Định ảnh hưởng đáng kể đến nghiên cứu nghệ thuật hát bội, một loại hình văn hóa tinh thần phong phú Khu vực này gần gũi với các vùng quê khác như Quảng Nam và Thanh Hóa, nơi cũng có truyền thống hát bội và tuồng cổ Do đó, việc so sánh hát bội giữa các tỉnh trong cùng một miền đất nước sẽ làm nổi bật những điểm tương đồng và khác biệt trong thể loại nghệ thuật này.
Còn về điều kiện xã hội:
Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường hội nhập quốc tế, Việt Nam đã chú trọng vào việc tạo ra của cải vật chất và xây dựng nền kinh tế vững chắc Để bắt kịp với các nước trên thế giới, đất nước này cũng đã đầu tư mạnh mẽ vào phát triển khoa học kỹ thuật và quân sự.
Trong bối cảnh hiện đại, nhiều thiết bị mới ra đời nhưng lại ít chú ý đến các truyền thống văn hóa dân tộc Nghệ thuật hát bội, một món ăn tinh thần quý giá của nước Đại Việt xưa, đang dần bị thoái hóa và lãng quên giữa nhịp sống hối hả Do đó, việc phục hưng “gánh hát tuồng cổ” ngày càng trở nên cần thiết để gìn giữ và phát huy văn hóa đặc trưng bản địa.
Trong bối cảnh văn hóa toàn cầu hóa, sự phát triển của công nghệ 4.0 và các phương tiện truyền thông hiện đại đã làm giảm đi sự quan tâm của giới trẻ đối với âm nhạc truyền thống, đặc biệt là hát bội Những trào lưu âm nhạc ngoại quốc như Kpop và EDM đã thu hút sự chú ý, khiến cho âm nhạc dân gian và hát tuồng dần bị lãng quên Do đó, nghiên cứu về vấn đề này là cần thiết để nâng cao nhận thức và bảo vệ giá trị văn hóa dân tộc.
Đ ÔI NÉT GIỚI THIỆU VỀ Đ ÀO T ẤN - NGƯỜI ĐÃ KHƠI NGUỒN CHO HÁT BỘI B ÌNH Đ ỊNH
Tiểu sử Đào Tấn
Đào Tấn tên thật là Đào Đăng Tấn, biệt hiệu Mộng Mai sanh ngày 27 tháng
2 năm Ât Tỵ (tức là năm 1845) và mất vào ngày rằm tháng 7 năm Đinh Mùi (tức ngày 28 tháng 8 năm 1907) Quên quán tại Vinh Thạnh, Tuy Phước, Bình Định)
Đào Tấn, sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo, có cha là Đào Đức Ngạc, thầy thuốc và coi tướng số, đã sớm bộc lộ tài năng và học vấn uyên thâm Ông theo học Nguyễn Diêu, một nhà soạn tuồng, và chịu ảnh hưởng sâu sắc từ thầy Năm 1867, Đào Tấn đỗ Cử nhân khi mới 22 tuổi và bốn năm sau, ông được bổ nhiệm vào Ban Hiệu thơ ở Huế, thực chất là Ban Sáng tác tuồng do vua Tự Đức lãnh đạo Năm 1874, ông được thăng chức Biên tu, rồi Tu soạn kiêm Tri phủ Quảng Trạch, tiếp tục thăng tiến lên Thừa chỉ và Thị độc nội các vào năm Tự Đức thứ 33.
Năm 1880, Đào Tấn được thăng chức Thị giảng học sĩ và tham tá các vụ Đến năm 1881, ông tiếp tục thăng tiến lên Hồng Lộ tự khanh, đảm nhiệm chức vụ Phủ doãn Thừa Thiên Sự nghiệp của ông có những bước chuyển mình quan trọng sau khi vua Tự Đức qua đời.
Đào Tấn, sau khi bỏ quan về quê, đã bị triều đình hạ 4 bậc Trong thời gian này, lãnh tụ Cần vương Mai Xuân Thưởng đã mời ông tham gia nghĩa quân, nhưng Đào Tấn từ chối với lý do phải phụng dưỡng mẹ già Cuối cùng, ông quyết định đi tu ở chùa Linh Phong.
Năm 1886 Đồng Khánh lên ngôi cho triệu Đào Tấn ra làm Tham tá các vụ, năm sau được bổ nhiệm Phủ doãn Thừa Thiên rồi Tham tri Bộ Hộ (1888)
Năm Thành Thái thứ nhất (1889) Đào Tấn được bổ nhiệm Tổng đốc An Tịnh (Nghệ An - Hà Tĩnh) rồi Thượng thư Bộ Công (1894), Thượng thư Bộ Hình
Năm 1898, Đào Tấn được thăng chức Hiệp tá Đại học sĩ và lãnh đạo Nam Nghĩa Tổng đốc tại Quảng Nam - Quảng Nghĩa Sau đó, ông tiếp tục giữ chức An Tịnh Tổng đốc lần thứ hai.
Năm 1902, Đào Tấn trở về Huế và đảm nhận chức Thượng thư Bộ Công Tuy nhiên, vào năm 1904, ông gặp mâu thuẫn với Thượng thư Bộ Lại Nguyễn Thân và quyết định về hưu khi vừa tròn 60 tuổi Ông qua đời vào ngày rằm tháng 7 năm 1907, thọ 63 tuổi Phần mộ của ông được đặt trên núi Hoàng Mai tại quê nhà.
Đào Tấn là một tác giả nổi bật với gần 40 vở tuồng, bao gồm cả sáng tác chung và cải biên, trong đó có nhiều tác phẩm có giá trị tư tưởng và văn học như Trầm Hương Các, Hộ sanh đàn, và Hoàng Phi Hổ quá Giới Bài quan Ông cũng để lại gần 1000 bài thơ, từ, tản văn và liễn đối, được tập hợp trong các tác phẩm như Mộng Mai ngâm thảo, Mộng Mai thi tồn, Mộng Mai từ lục, và Mộng Mai văn sao Năm 1987, Sở Văn hóa Thông Tin Nghĩa Bình đã cho in cuốn sách về ông.
Hý trường tuỳ bút của Đào Tấn là một tác phẩm lý luận quan trọng, tập hợp những bài viết và thư từ của Đào Tấn về nghệ thuật Tuồng Tập sách này không chỉ phản ánh quan điểm của tác giả mà còn góp phần làm phong phú thêm hiểu biết về nghệ thuật truyền thống Việt Nam.
Hình 3: Ảnh Cụ Đào Tấn, nguồn trang 3 của sách “ Đào Tấn và hát bội Bình Định” Quách Tấn
Đặc điểm của tuông Đào Tấn
Do ảnh hưởng của thầy Nguyễn Diêu, Đào Tấn bắt đầu viết tuồng từ khi mới 19 tuổi, với tác phẩm đầu tay "Tán giã dồn" Ông không ngừng sáng tác, phản ánh sâu sắc các vấn đề xã hội và diễn biến tư tưởng của mình, đặc biệt là quan niệm về chữ Trung và nỗi lòng với quê hương Đào Tấn thường đặt ra những vấn đề thời sự, phê phán những kẻ hại nước và ca ngợi anh hùng vì đại nghĩa Mặc dù nhiều tác phẩm của ông mượn từ truyện Trung Quốc, nhưng thực chất là phản ánh tình hình triều đình nhà Nguyễn So với các vở tuồng cổ, tuồng của Đào Tấn có sự tiến bộ rõ rệt, với cấu trúc gọn gàng, chủ yếu chỉ một hồi và tránh phần giới thiệu dài dòng, giúp khán giả dễ dàng theo dõi cốt truyện.
Mở đầu vở tuồng Hộ Sanh đàn, sau khi Võ Tam Tư nói mấy câu xưng danh rồi vào chuyện ngay:
Phụng minh đinh thống lãnh binh nhung Đáo biên địa truy tầm Tiết thị
Võ Tam Tư cử binh đi, rồi Tiết Cương ra ngay nói:
Kinh địa từ tế tảo sinh linh
Triều binh phút công vi vạn đội
(Nhưng cũng may là): Ơn Tần thị phu thê cứu giải:
(Nên chi) Khiến Tiết gia tính mạng bảo toàn
(Bây chừ) Chốn Long San bao xá dặm ngàn
Đào Tấn khéo léo xây dựng những đoạn mở đầu ngắn gọn, giúp khán giả nhanh chóng nắm bắt cốt truyện và tiếp tục theo dõi Mặc dù mỗi vở kịch có cách mở đầu khác nhau, nhưng điểm chung là sự giao đãi nhanh chóng và việc vào kịch sớm, kết thúc không theo lối có hậu Cách cấu trúc này đã làm cho tuồng Đào Tấn trở nên hấp dẫn hơn rất nhiều so với các tuồng cổ trước đó.
Bố cục của Tuồng Đào Tấn thường ngắn gọn và giao đãi nhanh, nhưng ông lại chú trọng khai thác tâm trạng nhân vật một cách sâu sắc Các nhân vật trong Tuồng của Đào Tấn thường mang tính bi tráng và trữ tình, với thế giới nội tâm phong phú và tinh tế Đặc biệt, ngôn ngữ văn học trong các kịch bản Tuồng của ông thể hiện giá trị văn chương nổi bật, góp phần làm nên sức hấp dẫn riêng của thể loại này.
Đào Tấn, một nhà thơ và nhà Nho, đồng thời là thầy Tuồng, không chỉ am hiểu âm luật thơ mà còn tinh thông âm luật của văn thơ Tuồng Ngôn ngữ Tuồng của Đào Tấn rất mượt mà, giàu hình tượng và mang tính khái quát, thể hiện sự uyên thâm trong văn học.
- Lao xao sóng vỗ ngọn tùng
Gian nan là nợ anh hùng phải vay
- Hai vai thắt chặt tang hồ
Bể oan chưa lấp mật thù càng ngon
- Mảnh vương phút đã tan tành
Xuân vi gió lạnh, thu đình trăng trong
Bước non sông ngại ngùng đâu xiết
Nợ phong trần trả hết từ đây
Hoặc: - Xắn tay lần gỡ mối sầu
Tóc lo đã trổ trên đầu hùng anh
- Ớ Bàng Hồng này! Tao nói thiệt:
Cánh hạc hồng gặp gió liệng mây xanh
Xương Ưng Khuyển nghiền tro quăng biển bạc
Ngôn ngữ văn học kịch bản Tuồng không chỉ là công cụ để hát, múa và biểu diễn, mà còn đòi hỏi tính hành động mạnh mẽ từ người diễn viên Các lão nghệ sĩ Tuồng Đào Tấn thường nhấn mạnh rằng: "Mình hát mà cũng thấy sướng tai, không thể bỏ đi một chữ nào được", cho thấy sự quan trọng của từng chi tiết trong diễn xuất.
Đào Tấn được các nhà nghiên cứu nghệ thuật Tuồng công nhận là người đã nâng cao ngôn ngữ trong kịch bản Tuồng, tạo nên đỉnh cao và tinh hoa của nghệ thuật Tuồng truyền thống Với tài năng và những đóng góp đáng kể trong lĩnh vực này, ông đã được tôn vinh là bậc Hậu tổ của nghệ thuật Tuồng tại Việt Nam.
Giá trị của Tuồng Đào Tấn được khẳng định trong hội thảo năm 1978 do Bộ Văn hóa và Sở Văn hóa Thông tin Nghĩa Bình tổ chức, khi Giáo sư Hoàng Châu Ký nhấn mạnh rằng vào thế kỷ XIX, đặc biệt là nửa sau của thế kỷ này và đầu thế kỷ XX, xã hội Việt Nam trải qua nhiều biến động lớn như sự xâm lược của Pháp và sự đầu hàng của triều đình Nhân dân không chỉ chống Pháp mà còn chống lại triều đình, dẫn đến sự phân hóa trong trí thức Nho học, khi trung quân và ái quốc không còn song hành Sự xuất hiện của những tầng lớp mới trong xã hội cùng với sự phát triển kinh tế theo hướng tư bản chủ nghĩa đã tạo ra bối cảnh đặc biệt cho tình cảm con người.
Trong bối cảnh biến động và phát triển mới của xã hội, nghệ thuật cần phản ánh thực tế cuộc sống Tuồng cổ, với những nhân vật lý tính và cao thượng nhưng có phần siêu phàm, không còn phù hợp với yêu cầu này Đào Tấn đã khéo léo giải quyết vấn đề này qua các tác phẩm của mình, đáp ứng nhu cầu của thời đại Đó chính là điểm mạnh của Tuồng Đào Tấn, giúp ông ghi dấu ấn và trường tồn trong lòng khán giả.
( Nguồn trích: Tổng tập văn học Việt Nam T 12.- H., 2000.- Tr 7 - 18)
N GHỆ THUẬT HÁT BỘI B ÌNH Đ ỊNH
Yếu tố dân gian có trong hát bội Bình Định
Khái niệm: Dân gian là diễn tả một cái gì đó như nghệ thuật, tri thức, phong tục, tập quán được truyền đời này sang đời khác
Văn hóa dân gian là di sản truyền thống của một nhóm người, cộng đồng, quốc gia hoặc khu vực, bao gồm các yếu tố như lịch sử truyền miệng với huyền thoại, tục ngữ, thành ngữ, truyện kể, truyện cổ tích và truyện cười Nó cũng bao hàm các truyền thống kiến trúc, đồ chơi dân gian, thủ công, phong tục tập quán và các truyền thống lâu đời, cùng với các tác phẩm âm nhạc và nghệ thuật truyền thống.
Yếu tố dân gian trong hát bội Bình Định:
Cốt truyện trong lời hát tuồng ở Bình Định được xây dựng từ các câu chuyện truyền thuyết và lịch sử Việt Nam, được lưu truyền qua nhiều thế hệ Ban đầu, các câu chuyện này được diễn đạt bằng chữ Hán, nhưng với sự xuất hiện của chữ quốc ngữ, tác giả đã chuyển sang sử dụng ngôn ngữ này để thể hiện nội dung tác phẩm Khi hát bội du nhập vào Bình Định, cốt truyện thường được lấy từ văn hóa Trung Quốc, do ảnh hưởng sâu sắc từ thời Bắc thuộc Tuy nhiên, theo thời gian, cốt truyện đã được biến tấu với tên nhân vật khác, tạo nên sự độc đáo cho tuồng cổ Bình Định, đặc biệt là vở tuồng San Hậu, đánh dấu sự chuyển mình trong nghệ thuật này.
Trang phục trong hát bội mang đậm yếu tố dân gian, với hoa văn chủ yếu liên quan đến hình ảnh Long và Phụng, tượng trưng cho cuộc sống hằng ngày.
Trong 14 ngày, vua Lý Công Uẩn đã cảm nhận và nhận thức rõ ràng về sự tồn tại của một giống loài đặc biệt, sau đó ông đã truyền bá thông tin này ra bên ngoài.
Nghệ thuật hát bội ở Bình Định nổi bật nhờ sự kết hợp độc đáo giữa võ cổ truyền và biểu diễn trên sân khấu đình, làng, lăng mộ, tạo nên nét đặc trưng riêng cho tuồng cổ nơi đây.
Võ cổ truyền Tây Sơn Bình Định là một nghệ thuật độc đáo, thể hiện sự sáng tạo trong văn hóa địa phương và được gìn giữ qua nhiều thế hệ Sự kết hợp giữa võ thuật và nghệ thuật biểu diễn đã làm cho hát bội Bình Định trở nên hấp dẫn và khác biệt so với tuồng ở các vùng miền khác Điều này không chỉ khẳng định nét riêng của văn hóa dân tộc Việt Nam mà còn tạo ra sự phân biệt rõ rệt với văn hóa kinh kịch của Trung Hoa.
Tùy bút khắc họa phổ quát về nghệ thuật hát bội Bình Định
Hát bội là một phần không thể thiếu trong văn hóa Bình Định, thu hút sự chú ý của nhiều người dân nơi đây Ca dao Bình Định từng nói: “Hát bội làm tội người ta, Đàn ông bỏ vợ, đàn bà bỏ con”, thể hiện sự ảnh hưởng sâu sắc của nghệ thuật này đến đời sống xã hội.
Hay: “ Bầu Đông đóng Lý Phụng Đình
Dẫu chồng có đánh thì mình cũng đi”…
Hát bội mang một sức hút kỳ diệu, khiến người ta không thể rời mắt Tiếng trống vang vọng giữa những hàng tre dưới ánh trăng hè, cùng với những giai điệu nam ai, nam bình, đã chạm đến tâm hồn của những người nông dân chân lấm tay bùn, sống giản dị và chân thành.
Nơi tôi sinh ra, tôi tự hào về quê hương với những sản vật như bắp, khoai, lúa, đỗ, cá, tôm, bầu, bí Ngọn tre uốn mình dưới nắng hè, tiếng cu cườm vang vọng, dòng sông cuồn cuộn cùng guồng xe nước mang âm hưởng của tiếng nhị Những hội đổ giàn, đêm tác nước và chiều luyện roi đã tạo nên âm nhạc dẻo dai của tiếng trống chầu quê hương Câu hát bài chòi và khúc nam xuân đã thấm sâu vào tâm hồn tôi, gợi nhớ về đồng lúa và cánh cò bay lượn.
Vào những đêm trăng rằm trong mùa “Xuân kỳ thu tế”, làng tôi lại tổ chức hát bội Người dân hạ cây, dựng rạp với màng thùng, nghi môn và hương án ngay trên nền Văn Thánh (Văn Miếu) cũ, bên cạnh hai con kỳ lân cao lớn Sự kiện này thu hút sự hâm mộ từ đông đảo người dân trong vùng.
Tại 15 làng, trẻ em trong trang phục quần đùi chân đất háo hức chạy ra đường đón xe chở đoàn hát bội Chúng nhiệt tình chặt cây, chẻ lạt và giúp kéo dây để dựng rạp Mỗi khi ông bầu có dịp trồng chầu, không khí lại càng sôi động với tiếng “thùng! thùng! thùng!” vang lên.
Khi đoàn hát bội gặp khó khăn với trẻ con, thường sẽ có sự cố xảy ra trong buổi diễn, như diễn viên quên lời hay gặp sự cố trên sân khấu Những đứa trẻ thường chơi xấu bằng cách mang quả thị đến gần bàn thờ tổ, nơi được dựng tạm sau tấm màn thùng Người ta tin rằng tổ hát bội rất yêu thích quả thị, vì vậy khi ngửi thấy mùi thơm của nó, diễn viên sẽ bị phân tâm và không còn chú tâm vào việc diễn xuất, mặc dù mùi hương ấy lại có sức hấp dẫn kỳ lạ.
Khi đoàn hát dựng rạp xong, tiếng trống chầu và trống chiến vang lên, khiến mọi người vội vã chuẩn bị bữa cơm chiều Từ trẻ nhỏ đến người lớn, ai cũng hối hả đến sân hát để tìm chỗ ngồi tốt, vừa nhìn rõ diễn viên vừa nghe được lời hát Đám trẻ con chen chúc phía sau rạp để ngắm nhìn các kép hát hoá trang, đặc biệt là ông Quan Công với gương mặt đỏ và râu dài, cùng Trương Phi với râu xoắn và tiếng lục lạc rung reng, tạo nên không khí hồi hộp cho đêm diễn.
Khi tiếng trống khai trường dứt, âm thanh kèn và nhị vang lên, trẻ em hối hả chen chúc qua chân người lớn để có chỗ ngồi trước sân khấu, bên cạnh người cầm chầu, sẵn sàng thưởng thức các vở diễn như Tam Hạ Nam Đường và Sơn Hậu.
Quan Công hồi cổ Thành đã diễn liên tục 3-4 đêm từ 8-9 giờ tối đến sáng, thu hút khán giả đông đảo không muốn rời đi nếu không có sự ngừng nghỉ từ các nghệ sĩ Những đứa trẻ thì mơ màng, có em nằm lăn trên cỏ bên cạnh người cầm chầu, ngủ say cho đến khi nghe tiếng Trương Phi thúc lính hạ thành.
Vào những mùa trăng, khi không có gánh hát bội về làng, bọn trẻ thường dựng rạp trước đình để diễn và hát cho nhau nghe, tạo ra những tiếng cười vui vẻ Những đêm hát này không chỉ thu hút trẻ em mà còn có sự tham gia của các cụ, các chú yêu thích tuồng tích Họ hướng dẫn chúng tôi về cách diễn xuất, từ bộ đi của Trương Phi đến cách vuốt râu của các nhân vật, và cách đánh trống sao cho âm thanh hòa quyện với lời hát, tạo nên không khí sống động cho buổi biểu diễn.
Vào cuối những năm 70 của thế kỷ trước, Bình Định từng có một đoàn hát Đồng Ấu, Suối Tre, với những diễn viên trẻ tuổi từ 13 đến 15, có làn da đen và mái tóc xém Họ chuyên biểu diễn để kiếm tiền từ khán giả Hiện nay, trong số những nghệ sĩ trẻ ấy, nhiều người đã trở thành trụ cột của nhà hát tuồng Đào Tấn.
Hát bội ngày xưa mang đậm bản sắc văn hóa, còn hiện nay, những người ở gần cảm thấy nôn nao, trong khi những người ở xa lại bồi hồi mỗi khi nghe tiếng trống chầu, dù chỉ là qua màn ảnh nhỏ.
Quê hương tôi đó! Mùa xuân, mùa hát bội đã lại về !…
Mai Thìn bộc lộ những cảm xúc sâu sắc về hát bội, thể hiện niềm tự hào về di sản văn hóa quê hương Nhớ lại tuổi thơ, tác giả cảm thấy phấn khởi mỗi khi mùa "gánh hát" đến, không chỉ vì đam mê nghệ thuật mà còn vì không khí lễ hội sôi động Những món ăn đặc trưng của thời thơ ấu, như món “cà rem” lạnh buốt, trở thành kỷ niệm khó quên, cho thấy sự gắn bó với quê hương và văn hóa truyền thống.
Khi tôi lên thành phố, những món như “kẹo nổ” và “xà lam bảy lửa” trở nên hiếm thấy Hồi nhỏ, mỗi buổi chiều, chị em tôi thường theo bà lội qua suối và ba đồi cát trắng để đến đình làng Xa xa, tiếng hát bội vang vọng khiến tôi tò mò hỏi bà về ý nghĩa của tên gọi này Bà giải thích rằng "hát bội" mang nhiều ý nghĩa, nhưng đơn giản là "bội" có nghĩa là gấp bội, thập bội, thường diễn ra hàng năm để cầu mong mùa màng bội thu Hát bội có sự đặc sắc với những loại râu và trang điểm phong phú, cùng với giọng hát và điệu bộ lớn, tạo nên sự ấn tượng mạnh mẽ Nhờ những lời giải thích của bà, tôi không còn sợ hãi trước những gương mặt trang điểm ghê rợn của hát bội, mà còn cảm thấy thích thú hơn.
Hình 4:Nguồn: sưu tầm của Đoàn hội khoa Địa lý trường khoa học xã hội và nhân văn ( https://www.facebook.com/doanhoidialyhcmussh/photos/a.1037659039591028/3071431966213715/)
Sự hình thành, phát triển và phân loại của dòng tuồng Bình Định
a) Sự hình thành và phát triển hát bội Bình Định
Hát bội, một thể loại nghệ thuật biểu diễn có nguồn gốc từ kinh kịch Trung Quốc, đã được du nhập vào Việt Nam, nhưng thời điểm chính xác trong lịch sử văn hóa Việt Nam vẫn còn là điều chưa được xác định rõ.
Có rất nhiều luồng ý kiến khác nhau nên dẫn đến nhiều câu chuyện về xuất xứ tuồng cổ Việt Nam cũng không giống
Theo truyền thuyết, vào năm 1005 thời Tiền Lê, một kép hát người Tàu đã đến Hoa Lư và trình diễn lối hát thịnh hành của nhà Tống, được vua tiếp nhận để dạy cho cung nữ Nghệ thuật Tuồng hình thành nhưng phát triển chậm ở các thế kỷ XV - XVI Đến thế kỷ XVIII, Tuồng phát triển mạnh mẽ ở Đàng Trong, bước vào giai đoạn hoàn thiện về kịch bản và nghệ thuật biểu diễn.
Còn có quyển sách khác thì nói rằng: hát bội được xuất hiện vào cuối thế kỷ
XIII gắn liền với sự kiện lịch sử là vào năm 1288, nhà Trần đánh đuổi giặc
Nguyên - Mông lần thứ 3 đã bắt được tướng giặc Lý Nguyên Cát, người có tài viết kịch Vua thời Trần đã kết hợp tài năng của ông với múa, vũ, nhạc trong triều đình để thành lập một đội diễn trò Qua thời gian, điều này đã phát triển thành sâu khấu nghệ thuật hát bội, giải thích nguồn gốc của nó từ kinh kịch Trung Quốc.
Kinh kịch, có nguồn gốc từ Trung Quốc, lần đầu tiên xuất hiện ở miền Bắc Việt Nam, nhưng sau đó đã phát triển mạnh mẽ nhất ở miền Nam.
Tuồng, một loại hình nghệ thuật truyền thống, đã theo chân cư dân di chuyển đến nhiều vùng đất khác nhau, từ đó hình thành những phong cách Tuồng đặc trưng Các dòng Tuồng nổi bật bao gồm Tuồng cung đình Huế, Tuồng Bình Định và Tuồng Quảng Nam, mỗi loại mang đậm bản sắc văn hóa riêng.
Nghệ thuật tuồng Bình Định gắn liền với Đào Duy Từ và Đào Tấn, những người đã nâng tầm loại hình nghệ thuật này Bình Định, nơi khởi đầu của Đào Duy Từ, được xem là cái nôi của tuồng, nơi sản sinh ra nhiều tên tuổi tiêu biểu như Đào Tấn, Nguyễn Hiển Dĩnh, và Nguyễn Văn Diêu Tuồng “đất võ” thể hiện sức sống mãnh liệt và chất võ thuật mạnh mẽ Trong nghệ thuật hát bội, hát và múa là hai yếu tố cơ bản; hát hay mà múa không đẹp thì chưa đủ để trở thành nghệ sĩ hát bội Để múa đẹp, nghệ sĩ cần học võ, vì theo nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Liễn, các nghệ sĩ hát bội ở Bình Định xưa đều có ít nhất một chút kiến thức về võ thuật, giúp không gian và thời gian sân khấu trở nên sinh động hơn.
Người Bình Định đã tiếp thu lối hát ả đào từ miền Bắc và kết hợp với nền tảng dân ca - dân vũ của mình, tạo nên sự thăng hoa cho hát bội Từ xưa, hầu hết các làng ở Bình Định đều có gánh hát bội và các lò đào tạo Khi cụ Đào Tấn trở về quê nhà, ông đã thành lập Học Bộ Đình Vinh Thạnh (nay thuộc huyện Tuy Phước, Bình Định), nơi phát triển mạnh mẽ và trở thành đỉnh cao của các lò đào tạo thời bấy giờ.
Bộ Đình Vinh Thạnh, nhiều tên tuổi lớn trong nghề hát bội ra đời, như Bát Phàn, Cửu Khi, Bầu Thơm, Bầu Chạng…
Nhà hát tuồng Đào Tấn tại Quy Nhơn là nơi bảo tồn và phát huy di sản tuồng quý giá của Đào Tấn cùng các nghệ sĩ nổi tiếng khác, phục vụ cho việc nghiên cứu và học tập của ngành tuồng toàn quốc Tại đây, nhiều tác phẩm nghệ thuật tuồng xuất sắc đã ra đời và đạt được thành công lớn, như "Quang Trung đại phá quân Thanh" và "Sao Khuê trời Việt".
Ở Quy Nhơn, tuồng không chỉ là một nghệ thuật mà còn là một phần văn hóa sâu sắc, thể hiện niềm đam mê của người dân nơi đây Tại Bình Định, nhiều gánh hát bội tự phát hoạt động mạnh mẽ, đặc biệt ở hai huyện An Nhơn và Phù Cát, với các diễn viên là nông dân chưa qua đào tạo chính quy Họ tiếp nối truyền thống từ cha ông và biểu diễn ở các lễ hội làng Dù trở về với công việc đồng áng sau mỗi buổi diễn, niềm đam mê với hát bội vẫn luôn cháy bỏng trong họ.
Theo nhiều nguồn tài liệu nghiên cứu, ta có thể chia hát tuồng ở Bình Đình thành hai loại căn bản:
Tuồng bác học là một hình thức hát bội đặc sắc của Việt Nam, đặc biệt là ở Bình Định, với nhiều điểm tương đồng trong cách biểu diễn và nội dung lời tuồng Được ảnh hưởng từ kinh kịch Trung Quốc, tuồng bác học chủ yếu xoay quanh các câu chuyện lịch sử của dân tộc Trung Hoa như Tam quốc diễn nghĩa và Thủy Hử Trang phục trong tuồng cũng mang đậm nét văn hóa rồng phụng, cùng với âm nhạc sử dụng đàn cò, trống kèn và các loại cờ Thời kỳ đầu, tuồng bác học phát triển mạnh mẽ do vua chúa đề cao cái tôi cá nhân và nghiêm khắc trừng phạt những thi nhân viết về lịch sử Việt Nam Vì lý do này, hát bội Bình Định đã chịu ảnh hưởng sâu sắc từ tuồng bác học, trở thành nơi thể hiện rõ nhất tính bác học trong nghệ thuật hát bội của nước nhà.
Tuồng Độ là sự biến tấu của văn hóa kinh kịch, tạo nên hát bội với nét văn hóa riêng biệt của Việt Nam, khác xa với kinh kịch Trung Hoa Hòa âm trong hát bội có âm thanh "tung! tung! tung" đặc trưng, trong khi ở hồ Quảng lại vang lên "bong, bong, bong" Trang phục cũng khác nhau, áo dài Trung Hoa dài hơn so với áo dài ngắn của Việt Nam Hát bội còn sử dụng đàn bầu, trống, kèn, và nội dung lời thoại thường xoay quanh các vị anh hùng dân tộc như Quang Trung, Hồ Quý Ly.
Nghệ thuật trong hát bội Bình Định
a) Võ cổ truyền trong hát bội Bình Định
Hát bội Bình Định nổi bật với sự kết hợp độc đáo giữa lời thoại và diễn xướng võ thuật, tạo nên nét đặc trưng riêng biệt cho nghệ thuật này.
Cụ Ðào hỏi: "Ở nhà, con có học hỏi chút ít võ nghệ gì không?"
- Bẩm cụ, con chưa hề biết - anh bạn trẻ thưa
Rất tiếc, con đã có nhiều ưu điểm nhưng còn thiếu kỹ năng này Vì vậy, con hãy trở về nhà để học nửa năm về võ nghệ, đặc biệt chú trọng vào việc sử dụng binh khí Khi con trở lại đây, con sẽ được nhận ngay, vì hiện tại nơi này không có điều kiện để hướng dẫn con về mặt này.
Câu chuyện trên nhấn mạnh rằng để trở thành diễn viên hát bội, nghệ sĩ cần có kiến thức về võ thuật Các nghệ sĩ trong gánh hát bội Bình Định xưa, dù là nam hay nữ, đều phải ít nhất là võ sinh, thể hiện sự kết hợp giữa nghệ thuật biểu diễn và võ thuật.
Chị Hồng Thu, chị Ngọc Cầm vừa là nghệ sĩ có tài do dân phong, vừa là tay võ nghệ cừ khôi Tại sao vậy?
Trong nghệ thuật hát bội, đặc biệt là hát bội Bình Định, hai yếu tố chính cấu thành là hát và múa, với hát thu hút người xem qua thẩm mỹ thính giác và múa qua thẩm mỹ thị giác Để múa đẹp, nghệ sĩ cần học võ, vì võ thuật không chỉ là một môn nghệ thuật độc lập mà còn tăng cường sức mạnh cho người biểu diễn Khi võ thuật kết hợp với hát bội, nó giữ nguyên chức năng của mình và đồng thời nâng cao giá trị nghệ thuật biểu diễn, tạo nên vẻ đẹp phục vụ cuộc sống Múa trong hát bội được hình thành từ hai yếu tố: yếu tố võ thuật là thể xác và yếu tố cuộc sống là linh hồn Nhờ võ thuật, yếu tố cuộc sống được thẩm mỹ hóa, tạo nên thẩm mỹ thị giác Nếu không có võ thuật, không gian và thời gian của sân khấu hát bội sẽ không thể hiện sinh động như trong các vở kịch nói Hơn nữa, nhiều loại binh khí võ thuật như song kiếm, độc kiếm, và đao thương cũng được sử dụng trên sân khấu, giúp thể hiện trực tiếp hình ảnh chiến tranh cổ xưa, cho thấy vai trò quan trọng của võ thuật trong nghệ thuật hát bội.
Trong nghệ thuật hát bội, câu đối nổi bật thể hiện sự phân biệt giữa võ thuật và nghệ thuật biểu diễn: “Dũng dượt dụng binh, bách chiến binh vô huyết nhẫn - Thung dung ẩm tửu, thiên bôi tửu bất túy nhân” Ý nghĩa câu đối này cho thấy sự hùng dũng trong chiến trận mà không để lại dấu vết máu, đồng thời diễn viên vẫn giữ được sự tỉnh táo dù nhập vai say xỉn Điều này nhấn mạnh sự khác biệt giữa võ thuật và nghệ thuật hát bội, đồng thời có những trường hợp nghệ thuật này còn đưa nguyên vẹn các bài thảo võ thuật lên sân khấu, như bài múa song kiếm của Đát Kỷ trong tuồng Trầm hương các.
Gióng ngọn quyền, cọp vờn thềm, đón ngăn bên phải quét sạch khói đen, mang lại không gian trong lành Chim bằng xòe cánh bay lượn trên tầng mây cao vút, tạo nên bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp.
- Ngã ngựa giả vờ vụt dậy chém phăng - Cọp rình sát đất sang cưỡi rồng chuyển
Trên sân khấu hát bội hiện nay, đoạn diễn về bài kiếm "Én liệng hoa lê hai mũi kiếm mở toang" đang bị thất truyền và diễn ra không đồng nhất Nhiều người thể hiện không đúng cách, dẫn đến sự thiếu hòa hợp và không đẹp như nội dung của bài thiệu.
Võ Bình Định đã từ lâu trở thành một phần quan trọng trong hát bội Bình Định, góp phần tạo nên sắc thái riêng, đặc biệt là trong tuồng võ Hiện nay, trong quá trình đào tạo diễn viên cho sân khấu hát bội, chúng ta thường bỏ qua việc dạy võ thuật, chỉ tập trung vào việc cấu trúc chương trình qua các động tác như cầu, ký, niêm, chia thành hai bộ tay và chân Mặc dù cách làm này được cho là khoa học và tiết kiệm thời gian, nhưng kết quả lại không đạt yêu cầu về mặt thẩm mỹ Để nâng cao chất lượng hát bội Bình Định, cần thiết phải học hỏi từ những phương pháp truyền thống của người xưa.
Hình 6 minh họa cho trang phục và cách trang điểm của hát bội Bình Định, một loại hình nghệ thuật truyền thống độc đáo tại địa phương Nguồn ảnh được trích từ trang Truyền thông Quy Nhơn trên Facebook, thể hiện sự phong phú và đa dạng trong văn hóa nghệ thuật của Bình Định.
Trang phục chủ yếu trong hát bội là áo dài, được trang trí với các hình ảnh rồng và phụng Kích thước và kiểu dáng của rồng, phụng trên áo dài thay đổi tùy theo từng triều đại.
Mặt nạ trong hát bội Bình Định đã có sự thay đổi từ thời Đào Tấn, khi nhiều tài liệu cho rằng mặt nạ đã bị loại bỏ và thay thế bằng việc chú trọng vào vẽ mặt.
Vẽ mặt nhân vật là yếu tố quan trọng trong nghệ thuật hóa trang tuồng hát bội, giúp khán giả nhận biết tính cách và đặc điểm của nhân vật Qua các biểu hiện trên mặt, người xem có thể phân biệt được nhân vật thuộc loại trung thành hay nịnh bợ, có tài năng văn chương hay võ thuật, tính cách hiền lành hay độc ác, và thái độ điềm tĩnh hay nóng nảy.
Trong nghệ thuật tuồng hát bội, các kiểu vẽ mặt được quy ước đóng vai trò quan trọng trong việc thể hiện tính cách nhân vật Mặt mốc biểu trưng cho nịnh thần gian xảo, trong khi mặt trắng thường dành cho các thư sinh nam, nữ Mặt đỏ thể hiện những nhân vật có xuất thân từ vùng biển, mang tính cách nghĩa khí và trí tướng Ngược lại, mặt đỏ bầm đại diện cho nhân vật phản diện, với sức mạnh hơn người nhưng hoang dâm vô độ Cuối cùng, mặt đen thường chỉ những người xuất thân từ miền núi, là võ tướng với tính khí nóng nảy.
Ngoài màu sắc, các yếu tố trên khuôn mặt cũng phản ánh tính cách con người qua những câu tục ngữ dân gian như “Mặt lưỡi cày là tay đoản hậu” hay “Đàn ông rộng miệng thì sang” Những quy ước này giúp công chúng dễ dàng nhận diện tính cách, ví dụ như “Người trung mặt đỏ, đôi tròng bạc” và “Đứa nịnh râu đen, mấy sợi còi”, từ đó hình thành nên những suy nghĩ truyền thống trong xã hội.
Nghệ thuật hát bội đã được các thế hệ nghệ nhân xây dựng và phát triển thành những vở tuồng chuẩn mực, không chỉ về nội dung mà còn về nhân vật Tính đặc sắc của nghệ thuật này thể hiện qua hệ thống nhân vật điển hình với phục trang và cách kẻ mặt đặc trưng Các vai đào được phân chia thành đào cánh, đào chiến và đào ác, mỗi loại có đặc điểm riêng về hình dáng và biểu cảm Trong khi đó, các vai kép bao gồm kép trắng với kép văn, kép võ và kép phản diện, cùng với các vai kép mặt tròng xéo được phân loại theo độ tuổi Các vai lão cũng đa dạng với lão trắng, lão đỏ, lão võ, lão văn, và lão nông Hệ thống vai tướng, bao gồm tướng lớn, tướng nhỏ và tướng bất tài, không chỉ phản ánh chức vụ mà còn thể hiện tính cách nhân vật qua màu sắc và họa tiết trên mặt.