1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

NHỮNG ĐIỀU KIỆN CẦN VÀ ĐỦ ĐỂ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA PHÙ HỢP VỚI ĐẠO LÝ NGƯỜI BÌNH DÂN VIỆT NAM

30 6 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Những Điều Kiện Cần Và Đủ Để Xây Dựng Nhà Nước Pháp Quyền Xã Hội Chủ Nghĩa Phù Hợp Với Đạo Lý Người Bình Dân Việt Nam
Định dạng
Số trang 30
Dung lượng 0,96 MB

Cấu trúc

  • 1/ Lý do chọn đề tài (3)
  • 2/ Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài (3)
    • 2.1 Mục đích nghiên cứu (3)
    • 2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu (3)
  • 3/ Đối tượng nghiên cứu (4)
  • 4/ Phương pháp nghiên cứu (0)
  • 5/ Dự kiến những kết quả sau khi nghiên cứu (4)
  • CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN HÌNH THÀNH NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN (5)
    • 1.1 Sơ lược lịch sử tư tưởng về nhà nước pháp quyền (5)
    • 1.2 Quan niệm về nhà nước pháp quyền (8)
    • 1.3 Những đặc điểm cơ bản của nhà nước pháp quyền (10)
  • CHƯƠNG 2: NỘI DUNG ĐIỀU KIỆN CẦN VÀ ĐỦ ĐỂ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA PHÙ HỢP VỚI ĐẠO LÝ NGƯỜI BÌNH DÂN VIỆT NAM (16)
    • 2.1 Những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân (16)
    • 2.2 Điều kiện và quan điểm để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt (17)
      • 2.2.1 Điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân (17)
      • 2.2.2 Quan điểm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân (18)
    • 2.3 Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân (19)
    • 2.4 Tư tưởng Hồ Chí Minh về tu dưỡng đạo đức, cách thức để hoàn thiện con người (22)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (29)

Nội dung

Công bằng và dân chủ là mơ ước ngàn đời của con người và mục tiêu phấn đấu của nhân loại. Các nhà tư tưởng, các nhà chính trị từ cổ xưa đến nay luôn không ngừng để cao, hoàn thiện các tư tưởng về công bằng và dân chủ, trong đó tư tưởng về nhà nước pháp quyền là trung tâm của sự hoàn thiện đó. Bên cạnh đó các vấn đề đạo đức, con người và hoàn thiện một nhà nước pháp quyền là vấn đề cần được đặt ra và giải quyết. Ở Việt Nam, sau một quá trình nhận thức, đánh giá, thử thách, Đảng và nhà nước Việt Nam thiết lập xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân là tất yếu khách quan. Đây cũng chính là điều cần thiết và quan trọng, nó đánh dấu một bước phát triển mới của nhà nước và pháp luật Việt Nam. Có thể coi nhà nước pháp quyền là phương tiện để chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội, tiến tới tự do, hạnh phúc. Vì các yêu cầu đặt ra của xã hội, về xây dựng nhà nước pháp quyền phù hợp với đạo lý người Việt Nam. Cho nên tôi đã tìm hiểu và lựa chọn đề tài này như vấn đề cấp bách cần được làm rõ về mặt nhận thức. Để hiểu rõ được xây dựng nhà nước pháp quyền phù hợp với người bình dân, phù hợp với quan niệm đạo đức, của người dân Việt Nam.

Dự kiến những kết quả sau khi nghiên cứu

Đề tài “Điều kiện cần và đủ để xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phù hợp với người bình dân Việt Nam” nhằm nghiên cứu sâu sắc các quan điểm trong hệ thống nhà nước pháp quyền Việt Nam Bài viết rút ra quan điểm xây dựng nhà nước phù hợp với con người Việt Nam, đồng thời vận dụng một cách khoa học và sáng tạo các vấn đề về đạo đức và nhà nước từ tư tưởng triết học Hồ Chí Minh vào thời đại mới.

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN HÌNH THÀNH NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN

Sơ lược lịch sử tư tưởng về nhà nước pháp quyền

Để nắm bắt khái niệm nhà nước pháp quyền, trước khi kết luận, chúng ta cần xem xét một cách tổng quát lịch sử tư tưởng liên quan đến nhà nước pháp quyền và xã hội dân chủ.

Quyền lực nhà nước, xuất phát từ nhân dân và thuộc về nhân dân, thường bị biến dạng trong quá trình tổ chức và thực hiện bởi nhiều nhân tố, bao gồm cả người cầm quyền và người bị cầm quyền Trong một số trường hợp, quyền lực này không phục vụ lợi ích của nhân dân mà trở thành công cụ cho những người nắm giữ quyền lực, dẫn đến việc nhân dân trở thành phương tiện phục vụ cho lợi ích cá nhân của họ.

Để đảm bảo quyền lợi của nhân dân, cần có một cơ chế pháp lý hiệu quả giúp họ kiểm soát quyền của mình Nếu không, quyền lợi sẽ bị xói mòn, dẫn đến tình trạng nhà nước, mặc dù được thành lập vì nhân dân, lại biến thành gánh nặng cho họ Điều này khiến nhân dân phải sống trong khổ cực, thậm chí mất mát cả tính mạng, do nhà nước không còn phục vụ lợi ích của họ Mặc dù Hiến pháp tuyên bố mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, nhưng thực tế cho thấy những người có quyền lực và tài sản vẫn có thể thao túng hệ thống Nguyên tắc "tự do cho tất cả" không được thực thi đầy đủ, khiến người lao động nghèo phải chịu sự chi phối từ lợi ích của những người cầm quyền và những người giàu có.

Để đảm bảo bình đẳng và công bằng, nhà nước phải hoạt động vì một xã hội công bằng, văn minh và hạnh phúc, đồng thời thể hiện đúng vai trò đại diện cho toàn xã hội Nhà nước không thể để các lực lượng hay cá nhân khác lấn át vai trò của mình, và cần phải là nhà nước pháp quyền, hoạt động dựa trên luật pháp vì lợi ích của tất cả mọi người Quan điểm này được nhiều học giả, như Sôlông và Platon, khẳng định Sôlông nhấn mạnh rằng pháp luật là công cụ giải phóng mọi người và thiết lập trật tự, trong khi Platon cho rằng chỉ có công bằng mới tạo ra một nhà nước thực sự, và sự sụp đổ của nhà nước xảy ra khi pháp luật không có hiệu lực.

Aristotle, nhà tư tưởng Hy Lạp cổ đại, nhấn mạnh tầm quan trọng của pháp luật khi cho rằng "pháp luật cần thống trị trên tất cả" Khái niệm công bằng gắn liền với nhà nước và pháp luật, vì pháp luật không chỉ là tiêu chuẩn của sự công bằng mà còn đại diện cho công lý, quy định các quy tắc điều chỉnh giao tiếp chính trị.

Nguồn: https://images.app.goo.gl/GcSbijHeonq q1n6B6

Các nhà nước chân chính được xây dựng trên cơ sở luật pháp và lợi ích chung, trong khi những nhà nước mà người cai trị chỉ dựa vào ý chí cá nhân và lợi ích riêng là những nhà nước biến chất Hêraclit nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nhân dân đấu tranh bảo vệ pháp luật, coi đó như việc bảo vệ chốn nương thân của chính mình.

Tể tướng Kautilia của triều đại Mauria Ấn Độ cổ đại đã nhấn mạnh với vua Chandra Gupta rằng việc cai trị không thể tuỳ ý mà cần phải tuân thủ pháp luật Ông khuyên rằng để đạt được sự thịnh vượng cho nhân dân, nhà vua phải tôn trọng quy định và giữ mình trong khuôn khổ pháp luật công cộng Việc cai trị mà không có pháp luật sẽ dẫn đến sự sụp đổ ngai vàng của chính nhà vua, không phải do sự nổi dậy của nhân dân.

Hàn Phi Tử, một nhà tư tưởng nổi bật của Trung Quốc cổ đại, khẳng định rằng pháp trị là phương pháp duy nhất hiệu quả để cai trị Ông nhấn mạnh rằng việc quản lý dân chúng không có gì là cố định, mà phải dựa vào pháp luật, và pháp luật cần phải linh hoạt thay đổi theo thời thế để đạt hiệu quả cao Tất cả mọi người, từ vua quan đến dân chúng, đều phải tôn trọng và thực hiện pháp luật một cách công bằng Hàn Phi Tử cho rằng một vị vua sáng suốt sẽ không để cấp dưới chú ý đến những điều ngoài pháp luật và sẽ không ban ân huệ trái với quy định Ông cảnh báo rằng nếu pháp luật không chắc chắn, nhà vua sẽ gặp nguy hiểm, và hình phạt không rõ ràng sẽ không thể ngăn chặn kẻ gian Việc trừng phạt sai lầm không loại trừ đại thần, trong khi khen thưởng đúng đắn không bỏ sót ai Do đó, pháp luật là công cụ tối ưu để sửa chữa sai lầm, loại bỏ gian tà, và thống nhất đường lối của dân.

Montesquieu, nhà tư tưởng người Pháp, đã phát triển học thuyết tam quyền phân lập, nhấn mạnh rằng nguyên nhân của tội ác và lộng quyền xuất phát từ việc quyền lực tập trung vào tay một cá nhân Để ngăn chặn lạm dụng quyền lực, cần thiết phải có cơ chế kiểm soát quyền lực Ông cho rằng mỗi quốc gia cần có ba quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp, và để tránh sự độc quyền, ba quyền này phải được phân chia và giao cho ba cơ quan độc lập, nhằm đảm bảo sự giám sát và kiểm soát lẫn nhau, từ đó bảo vệ tự do chính trị.

C Mác cũng cho rằng, sự tự do được thừa nhận về mặt pháp lý chỉ tồn tại trong nhà nước dưới hình thức luật

Nhà nước pháp quyền hình thành và phát triển qua một quá trình lâu dài và phức tạp, với các giá trị cơ bản như quyền lực thuộc về nhân dân, pháp luật điều chỉnh mọi quan hệ xã hội, và mọi người đều phải tuân thủ pháp luật mà không có ngoại lệ Pháp luật có vai trò chủ đạo, với Hiến pháp và luật giữ vị trí tối cao Đồng thời, cần tôn trọng và bảo đảm thực hiện quyền tự do cơ bản của công dân Quyền lực nhà nước phải thống nhất, với sự phân công và kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp Cuối cùng, cần đảm bảo trách nhiệm qua lại giữa nhà nước và công dân, cũng như sự độc lập của toà án.

Quan niệm về nhà nước pháp quyền

Nhà nước pháp quyền đã có nguồn gốc từ rất sớm trong lịch sử, nhưng khái niệm đầy đủ về nó vẫn chưa được một tác giả nào trình bày một cách hoàn chỉnh Mỗi tác giả trong các công trình nghiên cứu của mình đều đóng góp những góc nhìn khác nhau về vấn đề này.

Hình 2: Montesquieu về thuyết tam quyền phân lập

Nguồn:https://images.app.goo.gl/umxE351rX5K7

Nhà nước pháp quyền được hiểu là một hình thức nhà nước mà trong đó mọi hoạt động của nhà nước đều phải tuân thủ và gắn liền với pháp luật, đồng thời được hợp pháp hóa thông qua các quy định pháp lý.

Nhà nước pháp quyền là một hệ thống quốc gia có trách nhiệm đảm bảo công lý, tuân thủ pháp luật và đặc biệt chú trọng đến việc bảo vệ quyền con người cùng các nguyên tắc liên quan.

Nhà nước pháp quyền, theo quan điểm của một số nhà khoa học Nga, là một hệ thống hoạt động dựa trên các đạo luật, nhằm thực hiện và bảo vệ nghiêm ngặt quyền lợi của công dân, doanh nghiệp và tổ chức, đồng thời gắn liền với trách nhiệm pháp lý Được coi là tổ chức chính trị của xã hội, nhà nước pháp quyền sử dụng pháp luật để tạo ra điều kiện cho sự phát triển của xã hội dân chủ, nơi mà mỗi công dân và các liên hiệp của họ có thể tự do khai thác khả năng lao động sáng tạo của mình.

Nhà nước pháp quyền được hiểu là một hình thức nhà nước thừa nhận và tuân thủ tất cả các đạo luật và văn bản dưới luật do cơ quan lập pháp và Chính phủ ban hành trong khuôn khổ thẩm quyền của mình Điều này có nghĩa là nhà nước bị hạn chế bởi pháp luật, đứng trong khuôn khổ pháp lý, thay vì đứng ngoài hoặc trên pháp luật.

Nhà nước pháp quyền là một tổ chức công quyền trong hệ thống chính trị, được xây dựng dựa trên các tư tưởng pháp lý tiến bộ như công bằng, nhân đạo, dân chủ và pháp chế Mục tiêu của nhà nước pháp quyền là đảm bảo các giá trị xã hội được công nhận toàn cầu, bao gồm sự tôn trọng và bảo vệ quyền và tự do của con người, sự ngự trị của pháp luật trong hoạt động của nhà nước, cũng như việc phân công quyền lực giữa các nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp, nhằm khẳng định chủ quyền của nhân dân.

Trong nhà nước pháp quyền, pháp luật giữ vai trò tối cao và cần được đề cao như một công cụ quản lý chủ yếu Việc quản lý phải được thực hiện trước hết và quan trọng nhất thông qua pháp luật.

8 pháp luật, mọi tổ chức và cá nhân đều phải tôn trọng và nghiêm chỉnh thực hiện pháp luật

Pháp luật cần phải phù hợp với quy luật khách quan để thúc đẩy sự phát triển xã hội và mang lại hạnh phúc cho con người Do đó, khái niệm nhà nước pháp quyền thực chất phản ánh mối quan hệ tương tác giữa nhà nước và pháp luật.

Nhà nước và pháp luật là hai hiện tượng thuộc thượng tầng kiến trúc xã hội, có mối quan hệ mật thiết với nhau Nhà nước là tổ chức quyền lực do cá nhân liên kết, trong khi pháp luật là công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội từ các quy tắc xử sự chung Theo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, cả nhà nước và pháp luật đều phát sinh, tồn tại và phát triển gắn liền với xã hội có giai cấp Sự xuất hiện của nhà nước cũng chính là nguyên nhân dẫn đến sự hình thành của pháp luật Hai khái niệm này luôn hỗ trợ và phát triển lẫn nhau, như hình với bóng trong xã hội.

Nhà nước pháp quyền không chỉ là một kiểu nhà nước mà còn là những giá trị phổ quát và yêu cầu phát triển dân chủ Mặc dù có những nguyên tắc chung, hình thức nhà nước pháp quyền có thể khác nhau giữa các quốc gia Tuy nhiên, tất cả đều hướng đến mục tiêu tự do cho con người, ngăn chặn bạo lực nhà nước và yêu cầu tôn trọng luật pháp cùng quyền con người, nhằm nâng cao hạnh phúc cho mọi cá nhân trong xã hội.

Những đặc điểm cơ bản của nhà nước pháp quyền

Khái niệm về nhà nước pháp quyền có sự khác biệt trong cách hiểu, dẫn đến các đặc điểm của nó cũng được nêu ra khác nhau Dưới đây là một số yêu cầu cơ bản của nhà nước pháp quyền mà mọi quốc gia cần tuân thủ.

Thứ nhất, nhà nước pháp quyền phải đề cao chủ quyền nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước phải thực sự thuộc về nhân dân

Nhà nước pháp quyền là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, với nguyên tắc tất cả quyền lực thuộc về nhân dân Nhân dân không chỉ là chủ thể quyền lực mà còn có quyền kiểm soát, giám sát việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước Họ có thể trực tiếp tham gia bầu cử và ứng cử để thành lập các cơ quan nhà nước, cũng như quản lý các công việc của nhà nước thông qua các cơ quan đại diện Quyền lực nhà nước được thực hiện qua các cơ quan do nhân dân bầu ra, và các cơ quan này phải chịu trách nhiệm trước nhân dân Cuối cùng, quyền quyết định tối cao về các vấn đề quan trọng của đất nước thuộc về nhân dân.

Thứ hai, trong nhà nước pháp quyền Hiến pháp và luật phái có tính tối thượng

Hiến pháp và luật của nhà nước phải có tính tối cao so với các văn kiện của tổ chức phi nhà nước, ngoại trừ văn kiện của tổ chức đảng cầm quyền Pháp luật và giá trị của pháp luật trong nhà nước pháp quyền luôn được coi trọng, với hệ thống pháp luật cần được hoàn thiện để đáp ứng nhu cầu quản lý đất nước trong từng giai đoạn phát triển Các quan hệ xã hội quan trọng đều được điều chỉnh bởi pháp luật Đối với các cơ quan nhà nước, pháp luật cần quy định rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn để ngăn chặn sự tùy tiện và lạm quyền Pháp luật do nhà nước ban hành giữ vai trò thống trị, yêu cầu các cơ quan và công chức nhà nước chỉ được thực hiện những hành động mà luật cho phép, trong khi đối với nhân dân, càng ít ràng buộc pháp luật càng tốt, họ có quyền làm tất cả những gì không bị cấm.

10 gì mà pháp luật không cấm và pháp luật chỉ nên cấm những gì thật cần thiết để bảo đẳm quyền tự do cho nhân dân

Pháp luật cần đảm bảo tính khách quan và quy phạm, phù hợp với quy luật phát triển xã hội, đồng thời phản ánh những giá trị tiến bộ và nhân đạo Điều này có nghĩa là pháp luật phải thể hiện công bằng xã hội, thúc đẩy sự phát triển vì lợi ích con người Các quy định pháp luật phải là những quy tắc xử sự chặt chẽ, chính xác và khoa học, tạo thành khuôn mẫu chuẩn mực cho hành vi con người.

Thứ ba, trong nhà nước pháp quyền thì pháp chế phải luôn được tăng cường

Trong nhà nước pháp quyền, mọi hoạt động của nhà nước và các cơ quan phải tuân thủ pháp luật, phù hợp với Hiến pháp Nhà nước không được vi phạm pháp luật khi ban hành các quy định Hoạt động áp dụng pháp luật cần có cơ sở pháp lý chính xác Vi phạm pháp luật của nhà nước có thể dẫn đến lạm quyền, gây tổn hại đến quyền lợi và tự do của công dân và tổ chức.

Công dân, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và lực lượng vũ trang là những thành phần quan trọng của xã hội và đều là chủ thể của pháp luật Họ ủy quyền cho các cơ quan nhà nước ban hành pháp luật nhằm bảo vệ lợi ích cá nhân và lợi ích chung của toàn xã hội Vì vậy, tuân thủ và thực hiện pháp luật là nguyện vọng của công dân và các tổ chức phi nhà nước, đồng thời cũng là cách bảo đảm cao nhất cho quyền và tự do của họ.

Trong nhà nước pháp quyền, mọi hành vi vi phạm pháp luật, dù là của cá nhân, tổ chức xã hội hay cơ quan nhà nước, đều phải bị xử lý nghiêm minh Các cơ quan và nhân viên nhà nước phải tuân thủ các quy tắc pháp luật đã được xác định và công bố trước đó, đảm bảo tính minh bạch và công bằng trong mọi hoạt động Những quy tắc này giúp mọi người có thể dự đoán và hiểu rõ các quy định pháp lý, từ đó nâng cao ý thức chấp hành pháp luật trong xã hội.

Nhà cầm quyền sẽ áp dụng các biện pháp cưỡng chế một cách chắc chắn, cho phép người dân trù tính các hoạt động cá nhân dựa trên sự hiểu biết này.

Nhà nước pháp quyền cần thiết lập cơ chế tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước một cách khoa học, hiệu quả và hợp pháp, đồng thời cần chú trọng đến vai trò của tư pháp trong quá trình này.

Quyền lực nhà nước cần được thống nhất nhưng cũng phải có sự phân công và phối hợp hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp Cơ chế này phải hợp pháp, rõ ràng và hiệu quả, đảm bảo sự phân biệt và phối hợp giữa ba quyền lực Điều này giúp kiểm tra, giám sát hoạt động quyền lực, hạn chế lạm dụng quyền lực và bảo vệ lợi ích hợp pháp của người dân khỏi sự xâm hại từ quyền lực nhà nước.

Nhà nước và các cơ quan nhà nước chỉ được thực hiện những hành động được pháp luật cho phép, đảm bảo sự độc lập và dễ tiếp cận của tư pháp Tất cả hoạt động của công chức nhà nước đều có thể bị kiểm tra thông qua hệ thống tư pháp, điều này thể hiện rõ ràng bản chất của nhà nước pháp quyền Các nguyên tắc của tư pháp tự nhiên cần được tôn trọng, bao gồm xét xử công khai, công bằng và không thiên vị Hơn nữa, tính “tuỳ tâm” của các cơ quan ngăn ngừa tội phạm không được lợi dụng để vi phạm pháp luật.

Trong nhà nước pháp quyền, con người được xem là giá trị cao quý nhất, do đó quyền và tự do của họ cần được bảo đảm Mục tiêu cao cả nhất chính là sự phát triển toàn diện của từng cá nhân.

Trong nhà nước pháp quyền, con người được coi là giá trị cao quý nhất, do đó, các quyền và giá trị của con người cần được pháp luật công nhận và tôn trọng Tự do, bình đẳng và phẩm giá con người, cùng với các hình thức bảo đảm nhân quyền khác, là những yếu tố đặc trưng của chế độ pháp trị, như Konrad Adenauer đã nhấn mạnh.

Quyền con người và tự do của công dân ngày càng được mở rộng, cần được tôn trọng và bảo vệ, đồng thời phải đảm bảo tính hiện thực.

Nhà nước pháp quyền có chức năng và mục đích mang lại tự do, hạnh phúc cho con người, không chỉ tuyên bố các quyền tự do của công dân mà còn tạo ra cơ chế đồng bộ để bảo đảm thực hiện các quyền này Đồng thời, nhà nước cần ngăn chặn mọi sự xâm hại đến quyền và tự do của công dân, đồng thời mở rộng và làm phong phú thêm các quyền này Tất cả hoạt động và nỗ lực của nhà nước và xã hội phải hướng tới việc phục vụ hạnh phúc của con người.

Thứ sáu, nhà nước pháp quyền phải giải quyết hợp lý mối quan hệ qua lại giữa nhà nước và công dân

NỘI DUNG ĐIỀU KIỆN CẦN VÀ ĐỦ ĐỂ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA PHÙ HỢP VỚI ĐẠO LÝ NGƯỜI BÌNH DÂN VIỆT NAM

Những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân

Nhà nước pháp quyền là một học thuyết quan trọng trong tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước, mang giá trị nhân loại từ thời cổ đại Việc áp dụng có chọn lọc học thuyết này tại Việt Nam cần phù hợp với văn hóa, chính trị và truyền thống dân tộc, nhằm đáp ứng các yêu cầu xây dựng chủ nghĩa xã hội Do đó, việc xác định các đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là cần thiết, đảm bảo phù hợp với bản sắc văn hóa và điều kiện riêng của đất nước.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước cách mạng Việt Nam đã từng bước hoàn thiện và khẳng định rõ nét các đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền Việt Nam, với mục tiêu phục vụ nhân dân, do nhân dân và vì lợi ích của nhân dân Những đặc trưng này ngày càng được xác định rõ hơn trong quá trình xây dựng và phát triển.

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nhà nước do nhân dân thành lập, phục vụ lợi ích của nhân dân, với mọi quyền lực thuộc về nhân dân.

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam cam kết tôn trọng và bảo vệ quyền con người, với mục tiêu cuối cùng là mang lại hạnh phúc cho mọi người.

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoạt động dựa trên Hiến pháp và pháp luật, đảm bảo tính tối cao của chúng trong đời sống xã hội.

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức dựa trên nguyên tắc quyền lực nhà nước thống nhất, với sự phân công, phối hợp và kiểm soát trong việc thực hiện quyền lực nhà nước ở ba lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam có trách nhiệm giải trình trước công dân về tất cả các hoạt động của mình, đồng thời đảm bảo công dân thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đối với nhà nước và xã hội.

Sáu là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện chính sách đối ngoại hòa bình, hợp tác và phát triển, tôn trọng bình đẳng với các quốc gia và dân tộc trên toàn thế giới Việt Nam cam kết thực hiện các công ước và điều ước quốc tế mà nước này đã tham gia, ký kết và phê chuẩn.

Điều kiện và quan điểm để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt

2.2.1 Điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân Đổi mới tổ chức hoạt động, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân phải đạt được những yêu cầu cơ bản sau đây:

Xây dựng một nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân là mục tiêu quan trọng, nhằm thực hiện đầy đủ nền dân chủ xã hội chủ nghĩa Cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động của nhà nước cần bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân, tôn trọng quyền làm chủ và quyền con người, tất cả đều hướng tới hạnh phúc của nhân dân.

Xây dựng một nhà nước có khả năng quản lý kinh tế và xã hội hiệu quả là điều cần thiết để phát huy tối đa tiềm năng của dân tộc, đồng thời tiếp thu hợp lý các thành tựu từ bên ngoài.

16 khoa học – kỹ thuật, công nghệ mới của thế giới và những tinh hoa văn hóa của nhân loại

Xây dựng một nhà nước với bộ máy gọn nhẹ và tổ chức chính quy, áp dụng quy chế làm việc khoa học nhằm đảm bảo hiệu quả trong việc kiểm tra, giám sát và điều hành các hoạt động xã hội cũng như hoạt động của chính bộ máy nhà nước.

Xây dựng một nhà nước pháp quyền là yếu tố then chốt để quản lý xã hội hiệu quả, duy trì kỷ cương và trật tự xã hội Điều này không chỉ bảo đảm an ninh và quốc phòng mà còn bảo vệ vững chắc những thành quả của cách mạng.

Xây dựng một nhà nước với đội ngũ cán bộ, công chức tận tâm và trong sạch, phục vụ nhân dân và có trách nhiệm với cộng đồng Đội ngũ này cần có bản lĩnh chính trị vững vàng, năng lực quản lý tốt, nhằm loại trừ các vấn đề như quan liêu, tham nhũng, đặc quyền đặc lợi và vi phạm quyền làm chủ của nhân dân trong bộ máy nhà nước.

Trị và nâng cao năng lực quản lý là cần thiết để loại trừ bệnh quan liêu, tham nhũng, đặc quyền đặc lợi, cũng như các vi phạm quyền làm chủ của nhân dân trong bộ máy nhà nước.

2.2.2 Quan điểm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân

Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân cần tuân thủ các nguyên tắc và phương pháp luận quan trọng, trong đó chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và lý luận chủ yếu.

Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một quá trình liên tục, hướng tới việc tạo ra một mô hình nhà nước phù hợp với đặc thù của đất nước Để đạt được điều này, cần thường xuyên tổng kết thực tiễn, rút ra bài học kinh nghiệm và điều chỉnh tổ chức cũng như hoạt động của Nhà nước nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân.

Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nhiệm vụ quan trọng, nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân Tuy nhiên, cần phải giữ vững bản chất giai cấp của nhà nước xã hội chủ nghĩa, điều này đồng nghĩa với việc củng cố và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Nhà nước phải bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân, hướng tới hạnh phúc của họ, đồng thời thực hiện chuyên chính đối với các thế lực thù địch và những âm mưu, hành động đi ngược lại lợi ích của Tổ quốc và nhân dân.

Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam cần được thực hiện một cách cẩn trọng và từng bước, nhằm đảm bảo quyền lợi của nhân dân Điều này đòi hỏi phải giữ vững ổn định chính trị và kinh tế - xã hội, đồng thời ngăn chặn các âm mưu và hành động lợi dụng từ các thế lực thù địch và bọn cơ hội Việc chuẩn bị các điều kiện cần thiết là rất quan trọng để bảo vệ lợi ích của dân và phát triển bền vững.

Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam dựa trên nguyên tắc tập trung và thống nhất quyền lực, đồng thời phân công, phối hợp và kiểm soát trong việc thực hiện quyền lực nhà nước ở các lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp Nguyên tắc tập trung dân chủ được đảm bảo, với sự lãnh đạo tập trung và thống nhất của Trung ương, trong khi vẫn phân cấp mạnh mẽ cho chính quyền địa phương và cơ sở.

Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là mục tiêu hướng tới lợi ích của nhân dân, phù hợp với thực tiễn và điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước Quá trình này cần kết hợp các yếu tố dân tộc với thời đại, đồng thời học hỏi và tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm, thành tựu và tinh hoa của nhân loại trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân

Hồ Chí Minh khẳng định rằng nước ta là một nước dân chủ, nơi mà dân chúng giữ vị trí cao nhất và là chủ thể của chế độ Ông nhấn mạnh rằng chế độ của chúng ta là chế độ dân chủ, với nhân dân là người nắm quyền.

Chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực nhà nước là nhân dân, từ đó toàn bộ quyền lực đều xuất phát Nhân dân ủy quyền cho bộ máy nhà nước thực hiện quyền lực nhằm phục vụ lợi ích của chính mình Bộ máy nhà nước được thiết lập để thực thi ý chí và nguyện vọng của nhân dân, trong đó đội ngũ cán bộ, công chức không phải là những ông quan cách mạng, mà là công bộc phục vụ nhân dân.

Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng các cơ quan Chính phủ, từ trung ương đến địa phương, phải phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải là công cụ áp bức như thời kỳ bị thực dân Pháp và Nhật đô hộ Điều này thể hiện rõ trách nhiệm của chính quyền trong việc gánh vác công việc chung để phục vụ cho dân.

Nhà nước của dân là một hệ thống chính trị do nhân dân lập ra thông qua bầu cử dân chủ, đảm bảo tính chính đáng của chính quyền Bầu cử dân chủ là phương thức thiết lập bộ máy nhà nước trong chính trị hiện đại, phản ánh quyền lực được ủy quyền từ nhân dân Ngay từ những ngày đầu giành độc lập, Hồ Chí Minh đã chú trọng đến tổ chức tổng tuyển cử, giúp nhân dân trực tiếp bầu ra các đại biểu đại diện cho mình trong công việc quản lý đất nước.

Chỉ một ngày sau khi đọc Tuyên ngôn độc lập vào ngày 3/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổ chức cuộc họp để xác định những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Trong cuộc họp, Người đã đề xuất Chính phủ cần nhanh chóng tổ chức cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu.

Chí Minh, Toàn Tập, 2000, tập 4, trang 133)

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhà nước phải là của dân, được thành lập qua bầu cử dân chủ và chịu sự giám sát của nhân dân Người khẳng định rằng chế độ dân chủ của ta có Chính phủ là đầy tớ của nhân dân, và nhân dân có quyền phê bình, đôn đốc Chính phủ Nhân dân có quyền bãi miễn các đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân nếu họ không xứng đáng với tín nhiệm Điều này bảo đảm quyền kiểm soát của nhân dân đối với đại biểu Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng nước ta là nước dân chủ, nơi dân là chủ, và tất cả mọi thành viên trong bộ máy cách mạng đều là những người phục vụ cho lợi ích của dân.

Chính phủ cộng hòa dân chủ là đầy tớ của dân, từ Chủ tịch toàn quốc đến Đảng, thể hiện rằng dân là chủ.

19 đầy tớ… Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ” (Hồ Chí Minh,

Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng một nhà nước thực sự của dân phải được xây dựng bởi và vì lợi ích của nhân dân Ông chỉ ra rằng kinh nghiệm từ trong nước và quốc tế cho thấy, khi có sự tham gia của lực lượng dân chúng, mọi công việc, dù khó khăn đến đâu, cũng có thể hoàn thành Ngược lại, thiếu sự hỗ trợ của nhân dân, ngay cả những nhiệm vụ nhỏ nhất cũng sẽ gặp khó khăn Dân chúng có khả năng giải quyết nhiều vấn đề một cách nhanh chóng và hiệu quả, điều mà ngay cả những người tài giỏi hay các tổ chức lớn cũng không thể làm được.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân dân được coi là nguồn sức mạnh và trí tuệ của Nhà nước, đồng thời là nguồn sáng kiến vô tận Nhà nước có trách nhiệm khơi nguồn, phát hiện và tiếp thu các sáng kiến của nhân dân để hoàn thiện chính sách và luật pháp.

Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân theo Hồ Chí Minh là một thể chế cần lắng nghe và học hỏi từ nhân dân, tôn trọng và nâng cao sức mạnh của họ Khi thấu hiểu tâm tư và nguyện vọng của nhân dân, nhà nước sẽ biết cách hành động để giải quyết các vấn đề quốc kế dân sinh Điều này cho thấy rằng nhà nước không phải là người thay thế dân, mà là người tổ chức để nhân dân tự giải quyết vấn đề của mình Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng “Nếu không có nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng Nếu không có Chính phủ thì nhân dân không ai dẫn đường”, khẳng định sự cần thiết của sự đoàn kết giữa Chính phủ và nhân dân Mục tiêu của nhà nước không phải tự thân mà là phục vụ hạnh phúc của nhân dân, vì vậy, sự độc lập của đất nước chỉ có ý nghĩa khi dân được hưởng hạnh phúc và tự do.

Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng hạnh phúc của dân tộc là điều quan trọng nhất, và ông khuyến khích mọi người phải nỗ lực hết mình cho những việc có lợi cho dân Đồng thời, ông cũng cảnh báo rằng cần phải tránh xa những việc có hại đến lợi ích của nhân dân.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về một nhà nước vì dân, vì hạnh phúc của nhân dân là một quan điểm nhất quán suốt cuộc đời Người Hình ảnh của Người là biểu tượng sống động cho đạo đức và tư tưởng vì dân, vì nước Khi trở thành Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh đã thể hiện rõ ràng cam kết này trong các phát biểu với báo chí.

Hồ Chí Minh khẳng định rằng ông không khao khát danh vọng hay tài sản, mà việc đảm nhận vai trò chủ tịch là trách nhiệm được giao phó bởi nhân dân Ông coi đó như một nhiệm vụ thiêng liêng, tương tự như một người lính sẵn sàng ra trận vì lợi ích của đất nước.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về tu dưỡng đạo đức, cách thức để hoàn thiện con người

Hồ Chí Minh không chỉ coi trọng việc “trồng người” qua giáo dục mà còn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tu dưỡng đạo đức Ông cho rằng giáo dục và đạo đức có mối quan hệ biện chứng, hỗ trợ lẫn nhau trong việc hoàn thiện con người Trong khi giáo dục mang tính chất tổng quát, tu dưỡng đạo đức lại cụ thể hơn và là phương thức thiết yếu để phát triển nhân cách Quan điểm đạo đức của Hồ Chí Minh khác biệt so với các nhà tư tưởng khác, khi ông gắn liền đạo đức với xã hội, hành vi và các chuẩn mực đạo đức, đồng thời nhấn mạnh sự cần thiết phải giải quyết các vấn đề cấp bách của dân tộc trong bối cảnh lịch sử cụ thể.

Hình 3: Lời dạy của Hồ Chí Minh ngày này năm xưa

Nguồn:https://images.app.goo.gl/pcURXs3SYnjG

Để xây dựng một xã hội tốt đẹp, cần có một chế độ chính trị vững mạnh và đội ngũ tiên phong gồm chiến sĩ cách mạng, cán bộ, Đảng viên có phẩm chất tốt Họ không chỉ làm gương mà còn trực tiếp quản lý, đảm bảo xã hội mang tính nhân văn, phục vụ con người và tạo điều kiện cho sự phát triển của mọi cá nhân Hồ Chí Minh nhấn mạnh tầm quan trọng của những đức tính cần thiết mà mỗi cán bộ cách mạng và mọi người đều phải tu dưỡng, phản ánh quan điểm đạo đức sâu sắc của ông.

Hồ Chí Minh có một khát vọng lớn lao là cống hiến cuộc đời cho nhân dân và đất nước, với mục tiêu đạt được độc lập hoàn toàn cho Tổ quốc Ông mong muốn mọi người dân đều có cuộc sống đầy đủ, với cơm ăn áo mặc và quyền được học hành.

Để thực hiện thành công sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa, việc tu dưỡng và rèn luyện đạo đức cách mạng là điều cần thiết Hồ Chí Minh luôn chú trọng đến việc giáo dục và rèn luyện đạo đức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân Người khẳng định rằng "sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa," nhấn mạnh rằng đạo đức cách mạng là nền tảng để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng vẻ vang.

Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng đạo đức là nền tảng thiết yếu của người cách mạng, giống như gốc cây hay nguồn suối, có vai trò quyết định trong việc tạo ra sức mạnh và khả năng lãnh đạo Ông cho rằng, người cách mạng không chỉ cần tài năng mà còn phải có đạo đức; nếu thiếu đạo đức, họ không thể dẫn dắt nhân dân trong công cuộc giải phóng dân tộc và nhân loại Việc xây dựng đạo đức là điều kiện tiên quyết để thực hiện những nhiệm vụ lớn lao, bởi lẽ, nếu bản thân đã hủ hóa thì không thể thực hiện được những công việc cao cả.

Hồ Chí Minh đã nghiên cứu đạo đức từ cả lý luận và thực tiễn, để lại cho chúng ta một hệ thống quan điểm sâu sắc và toàn diện về vấn đề này Ông nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thực hành đạo đức, coi đó là yếu tố thiết yếu trong việc đào tạo các chiến sĩ cách mạng và nhân dân, không chỉ thông qua chiến lược mà còn bằng hành động cụ thể.

Hồ Chí Minh khẳng định rằng gương sáng về đạo đức có giá trị hơn hàng trăm bài diễn văn tuyên truyền, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc làm gương cho quần chúng Ông cho rằng, để hướng dẫn nhân dân, người lãnh đạo cần phải trở thành một hình mẫu để mọi người noi theo, vì quần chúng chỉ quý trọng những người có tư cách và đạo đức.

(Hồ Chí Minh, 2000, tập 1, trang 552)

Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng đến đạo đức của cán bộ, đảng viên, coi họ là yếu tố quyết định cho sự hoạt động hiệu quả của bộ máy nhà nước Ông thường xuyên nhắc nhở rằng cán bộ phải tu dưỡng và rèn luyện bản thân để trở thành tấm gương tốt cho nhân dân Đồng thời, Hồ Chí Minh nhận diện những căn bệnh của những người có chức quyền, đặc biệt là chủ nghĩa cá nhân, mà ông cho rằng trái ngược với đạo đức cách mạng Chủ nghĩa cá nhân dẫn đến sự tham lam, độc đoán và xa rời quần chúng, làm suy yếu tinh thần đoàn kết và kỷ luật Ông nhấn mạnh rằng để nâng cao đạo đức cách mạng, cần phải đấu tranh khắc phục chủ nghĩa cá nhân Hồ Chí Minh không chỉ đề ra các chuẩn mực đạo đức như trung với nước, hiếu với dân, mà còn nêu rõ nguyên tắc xây dựng đạo đức, trong đó nhấn mạnh việc nói đi đôi với làm và tu dưỡng đạo đức suốt đời.

Trung với nước và hiếu với dân là hai giá trị cốt lõi trong mối quan hệ giữa chính quyền và nhân dân, phản ánh truyền thống yêu nước của dân tộc Chính quyền phải phục vụ nhân dân, không được áp bức họ, và mọi hành động cần hướng tới lợi ích của dân Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh rằng các cơ quan chính phủ là công bộc của dân, có trách nhiệm gánh vác công việc chung Để xây dựng lòng tin và sự ủng hộ từ nhân dân, cán bộ cần yêu thương, tôn trọng và chăm sóc đời sống của họ, đồng thời phát huy quyền làm chủ của dân Khi cán bộ có đạo đức và trách nhiệm, họ sẽ nhận được sự tin yêu từ nhân dân.

Cần, kiệm, liêm, chính và chí công vô tư là những giá trị quan trọng mà Hồ Chí Minh nhấn mạnh trong cách mạng Ông cho rằng để giải phóng con người và đất nước, chúng ta cần phải siêng năng, tiết kiệm và tránh xa sự ham muốn vật chất cũng như lãng phí Liêm chính thể hiện sự trong sạch và ngay thẳng, trong khi chí công vô tư yêu cầu sự công bằng và không thiên vị trong lãnh đạo Hồ Chí Minh cũng lên án chủ nghĩa cá nhân và tính ích kỷ, nhấn mạnh rằng những giá trị này là cần thiết cho tất cả mọi người.

“Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc

Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính

Thiếu một mùa, thì không thành trời

Thiếu một phương, thì không thành đất

Thiếu một đức, thì không thành người.” (Hồ Chí Minh, Toàn Tập, 2000, tập 5, trang 631)

Yêu thương con người là bản chất của người cách mạng, thể hiện lòng nhân ái và sự quan tâm đến đồng bào, đồng chí, bạn bè, cũng như những người nghèo khổ và bị áp bức Họ chấp nhận khó khăn, gian khổ và hy sinh để mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho mọi người Tình yêu thương gắn liền với sự tôn trọng, không phải là bao che lỗi lầm mà là nâng cao và cải tạo con người, xây dựng lòng nhân ái và tinh thần giúp đỡ lẫn nhau.

Tinh thần quốc tế cao cả của nhân dân ta thể hiện qua lòng yêu nước, không chỉ yêu quê hương mà còn yêu thương các dân tộc bị áp bức khác Khi chúng ta giải phóng cho dân tộc mình, cũng đồng nghĩa với việc giải phóng cho những dân tộc khác, vì giúp bạn chính là giúp mình.

Vấn đề đạo đức trong tư tưởng Hồ Chí Minh là một yếu tố quan trọng, thể hiện sự quan tâm đặc biệt của ông đối với truyền thống đạo đức của dân tộc trong công cuộc dựng nước và giữ nước Sức mạnh đạo đức không chỉ thúc đẩy lao động cần cù và tiết kiệm, mà còn gắn kết cộng đồng trong những lúc khó khăn Đạo đức là nền tảng cho độc lập dân tộc, tự do và hạnh phúc cho nhân dân Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng sự hoàn thiện đạo đức là bản lĩnh của dân tộc, và ông đã chỉ ra những vấn đề đạo đức cách mạng để quản lý xã hội, với nguyên tắc rằng xã hội phải là của dân, do dân và vì dân Đạo đức cách mạng gắn liền với sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa, nhằm giải phóng dân tộc và con người, điều mà Hồ Chí Minh luôn nỗ lực thực hiện.

Hệ thống pháp luật hiện nay còn thiếu hoàn chỉnh và đồng bộ, với chất lượng chưa cao và chưa đủ cụ thể để áp dụng ngay Sự ổn định và tính toàn diện, thống nhất, khả thi của hệ thống này còn nhiều hạn chế, đồng thời chưa đảm bảo tính công khai, minh bạch Cơ chế xây dựng và sửa đổi các bộ luật gặp nhiều bất cập, trong khi thiết chế bảo đảm thi hành pháp luật còn thiếu và yếu Năng lực xây dựng và thi hành pháp luật của các cơ quan và công chức cũng còn yếu kém, cùng với ý thức pháp luật chưa cao, dẫn đến việc thi hành pháp luật chưa nghiêm.

Việc phát huy dân chủ hiện còn nhiều hạn chế, đặc biệt trong tổ chức thực hiện, kiểm tra và giám sát Nhiều lĩnh vực xã hội đang đối mặt với tình trạng thiếu dân chủ và kỷ cương, khi quyền làm chủ của nhân dân chưa được tôn trọng đầy đủ Hiện tượng mất dân chủ và dân chủ hình thức vẫn diễn ra, một số quyền công dân không được bảo vệ, dẫn đến tình trạng bắt oan người vô tội Trật tự xã hội yếu kém, kỷ cương bị coi thường, và các tệ nạn xã hội chưa giảm Bộ máy nhà nước ở một số nơi chưa thực sự phục vụ nhân dân, còn mang tính quan liêu, phiền hà và sách nhiễu Hệ thống hành chính cồng kềnh, thủ tục rườm rà, thiếu công khai và minh bạch, trong khi một số cán bộ thiếu trách nhiệm và năng lực, làm việc tùy tiện.

Ngày đăng: 23/12/2021, 16:46

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. GS.TS. Lê Văn Quang – PGS. TS Văn Thức Thanh, (2006), Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và các đinh chế xã hội ở nước ta hiện nay, Hà Nội:Chính trị quốc gia Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và các đinh chế xã hội ở nước ta hiện nay
Tác giả: GS.TS. Lê Văn Quang – PGS. TS Văn Thức Thanh
Năm: 2006
2. GS.TSKH. Đào Trí Úc – PGS.TS Phạm Hữu Nghị (Đồng chủ biên), (2009), Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay – một số vấn đề lý luận và thực tiễn. Hà Nội: Từ điển bách khoa Sách, tạp chí
Tiêu đề: Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay – một số vấn đề lý luận và thực tiễn
Tác giả: GS.TSKH. Đào Trí Úc – PGS.TS Phạm Hữu Nghị (Đồng chủ biên)
Năm: 2009
4. GS.TS Nguyễn Minh Đoan (Chủ biên), (2018), Cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực Nhà nước trong điều kiện xây dựng nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hà Nội, Chính trị quốc gia – sự thật Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực Nhà nước trong điều kiện xây dựng nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Tác giả: GS.TS Nguyễn Minh Đoan (Chủ biên)
Năm: 2018
5. Đặng Minh Tuần, (2019), Các cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước trên thế giới và ở Việt Nam, Hà Nội: Chính trị quốc gia – sự thật Sách, tạp chí
Tiêu đề: Các cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước trên thế giới và ở Việt Nam
Tác giả: Đặng Minh Tuần
Năm: 2019
6. PGS.TS. Nguyễn Văn Mạnh, (2010), Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam lý luận và thực tiễn, Hà Nội: Chính trị quốc gia – sự thật Sách, tạp chí
Tiêu đề: Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam lý luận và thực tiễn
Tác giả: PGS.TS. Nguyễn Văn Mạnh
Năm: 2010
7. GS.VS Nguyễn Duy Quý – PGS.TS Nguyễn Tất Viễn (Đồng chủ biên). (2010), Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam củ dân, do dân, vì dân, Hà Nội: Chính trị quốc gia Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam củ dân, do dân, vì dân
Tác giả: GS.VS Nguyễn Duy Quý – PGS.TS Nguyễn Tất Viễn (Đồng chủ biên)
Năm: 2010
8. PGS.TS. Nguyễn Văn Động (chủ biên), (2017), Giáo trình lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Hà Nội: Chính trị quốc gia – sự thật Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình lý luận chung về nhà nước và pháp luật
Tác giả: PGS.TS. Nguyễn Văn Động (chủ biên)
Năm: 2017
9. PGS. Nguyễn Thế Nghĩa,(1999), Đại cương Lịch sử các tư tưởng và học thuyết chính trị thế giới, Hà Nội: Khoa học xã hội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đại cương Lịch sử các tư tưởng và học thuyết chính trị thế giới
Tác giả: PGS. Nguyễn Thế Nghĩa
Năm: 1999
10. Viện khoa học xã hội Việt Nam,(1991), Nhà nước pháp quyền và xã hội công dân, Hà Nội: Viện thông tin khoa học xã hội Sách, tạp chí
Tiêu đề: ), Nhà nước pháp quyền và xã hội công dân
Tác giả: Viện khoa học xã hội Việt Nam
Năm: 1991
3. GS.TSKH. Đào Trí Úc – PGS.TS Trương Thị Hồng Trà (Đồng chủ biên), (2018), Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước Khác

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Tóm lại, các tư tưởng về nhà nước pháp quyền hình thành và phát triển là một quá trình lâu  dài  và phức tạp - NHỮNG ĐIỀU KIỆN CẦN VÀ ĐỦ ĐỂ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA PHÙ HỢP VỚI ĐẠO LÝ NGƯỜI BÌNH DÂN VIỆT NAM
m lại, các tư tưởng về nhà nước pháp quyền hình thành và phát triển là một quá trình lâu dài và phức tạp (Trang 8)
Hình 3: Lời dạy của Hồ Chí Minh ngày này năm xưa. Nguồn:https://images.app.goo.gl/pcURXs3SYnjG Yn2KA - NHỮNG ĐIỀU KIỆN CẦN VÀ ĐỦ ĐỂ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA PHÙ HỢP VỚI ĐẠO LÝ NGƯỜI BÌNH DÂN VIỆT NAM
Hình 3 Lời dạy của Hồ Chí Minh ngày này năm xưa. Nguồn:https://images.app.goo.gl/pcURXs3SYnjG Yn2KA (Trang 22)

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w