1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Khóa luận triết lý giáo dục khai phóng và ý nghĩa của nó đối với nền giáo dục của việt nam hiện nay

67 30 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Triết Lý Giáo Dục Khai Phóng Và Ý Nghĩa Của Nó Đối Với Nền Giáo Dục Của Việt Nam Hiện Nay
Tác giả Đỗ Minh Hiếu
Người hướng dẫn TS. Phạm Hoàng Giang
Trường học Trường Đại Học Khoa Học Xã Hội Và Nhân Văn, ĐHQGHN
Chuyên ngành Triết Học
Thể loại khóa luận tốt nghiệp
Năm xuất bản 2020
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 67
Dung lượng 642,57 KB

Cấu trúc

  • 1. Lý do ch ọn đề tài (7)
  • 2. Tình hình nghiên c ứu đề tài (8)
  • 3. M ục đích và nhiệ m v ụ nghiên c ứ u c ủa đề tài (9)
  • 4. Đối tƣợ ng và ph ạ m vi nghiên c ứ u (9)
  • 5. Cơ sở lý lu ận và phương pháp nghiên cứ u (9)
  • 6. B ố c ụ c c ủa đề tài (10)
  • CHƯƠNG 1. LÝ LU Ậ N CHUNG V Ề TRI Ế T LÝ GIÁO D Ụ C VÀ TRI Ế T LÝ GIÁO D Ụ C KHAI PHÓNG (11)
    • 1.1. Lý lu ậ n chung v ề Tri ế t lý giáo d ụ c (11)
      • 1.1.1. Định nghĩa triế t lý giáo d ụ c (11)
      • 1.1.2. Tri ế t lý giáo d ụ c ở m ộ t s ố nướ c trên th ế gi ớ i và ở Vi ệ t Nam hi ệ n nay (13)
    • 1.2. Lý lu ậ n chung v ề Tri ế t Lý giáo d ụ c khai phóng (19)
      • 1.2.1. Định nghĩa triế t lý giáo d ụ c khai phóng (19)
      • 1.2.2. Lượ c s ử giáo d ụ c khai phóng (26)
      • 1.2.3. M ục đích củ a giáo d ụ c khai phóng (31)
  • CHƯƠNG 2. Ý NGHĨA C Ủ A TRI Ế T LÝ GIÁO D ỤC KHAI PHÓNG ĐỐ I (40)
    • 2.1. Th ự c tr ạ ng n ề n giáo d ụ c Vi ệ t Nam hi ệ n nay (40)
      • 2.1.1. Nh ữ ng thành t ự u c ủ a giáo d ụ c Vi ệ t Nam .................................................... 40 2.1.2. M ộ t s ố h ạ n ch ế và nguyên nhân h ạ n ch ế c ủ a giáo d ụ c Vi ệ t Nam hi ệ n nay 45 (40)
      • 2.2.1. Tri ế t lý giáo d ụ c khai phóng m ở ra nhi ều cơ hộ i cho giáo d ục đạ i h ọ c t ạ i (52)
      • 2.2.2. Tri ế t lý giáo d ụ c khai phóng góp ph ần thúc đẩ y s ự phát tri ể n giáo d ục đạ i (60)

Nội dung

Lý do ch ọn đề tài

Giáo dục đào tạo luôn đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự ổn định xã hội và phát triển kinh tế Tại Việt Nam, giáo dục được coi là quốc sách hàng đầu, phản ánh tầm quan trọng của nó trong việc xây dựng một nền giáo dục vững mạnh và chất lượng Chính phủ Việt Nam đang nỗ lực củng cố và phát triển hệ thống giáo dục để đáp ứng nhu cầu của xã hội và hội nhập quốc tế.

Trong thời đại công nghệ hiện nay, trí tuệ và chất lượng sản phẩm ngày càng trở nên quan trọng Tài năng và năng lực của con người không tự nhiên xuất hiện mà cần quá trình giáo dục và rèn luyện lâu dài Do đó, giáo dục trở thành yếu tố then chốt trong sản xuất xã hội Các quốc gia muốn phát triển cần đầu tư vào giáo dục, vì đây là điều kiện tiên quyết cho phát triển kinh tế, ổn định chính trị xã hội và nâng cao chỉ số phát triển con người.

Đảng và Nhà nước khẳng định "Đầu tư cho giáo dục là quốc sách" thông qua nhiều nghị quyết nhằm phát triển giáo dục, đào tạo khoa học và công nghệ Những nghị quyết này nhấn mạnh tầm quan trọng, định hướng và mục tiêu để nâng cao chất lượng đào tạo Bởi lẽ, con người là chủ thể của mọi sáng tạo, là nguồn lực cho sự phát triển vật chất và văn hóa của quốc gia, dân tộc.

Trong bối cảnh thực tiễn luôn biến đổi và chính sách mở cửa của đất nước, việc phát triển giáo dục trở thành nhiệm vụ cấp bách Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI khẳng định giáo dục là quốc sách hàng đầu, yêu cầu đổi mới căn bản và toàn diện theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá và hội nhập quốc tế Tuy nhiên, trong quá trình đổi mới, cần kế thừa và phát huy những triết lý giáo dục có giá trị, vận dụng linh hoạt và sáng tạo phù hợp với tình hình hiện tại của đất nước.

Trong bối cảnh đổi mới giáo dục, triết lý giáo dục khai phóng trở thành một yếu tố quan trọng để đào tạo con người tự do tại Việt Nam Việc áp dụng triết lý này trong nền giáo dục hiện nay có ý nghĩa lớn, đặc biệt khi đất nước đang tiến hành cải cách toàn diện nhằm đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

Tác giả đã quyết định nghiên cứu đề tài “Triết lý Giáo dục khai phóng và ý nghĩa của nó đối với nền giáo dục của Việt Nam hiện nay” nhằm khám phá những giá trị và ảnh hưởng của triết lý này đối với hệ thống giáo dục trong bối cảnh hiện tại của Việt Nam.

Tình hình nghiên c ứu đề tài

Triết lý Giáo dục khai phóng được nhiều nhà khoa học và các tác giả tìm hiểu và nghiên cứu ở nhiều khía cạnh khác nhau

Trên thế giới, nghiên cứu về giáo dục khai phóng đã bắt đầu từ thế kỷ XVIII, với tác phẩm nổi bật như "Ý tưởng về một trường đại học" của John Henry Newman, xuất bản năm 1852, và "Biện hộ cho một nền giáo dục khai phóng" của Fareed Rafiq Zakaria, ra mắt năm 2015 Ngoài ra, Wihelm cũng là một nhân vật quan trọng trong lĩnh vực này.

Humbolt được coi là người đặt nền móng cho triết lý giáo dục khai phóng trên toàn cầu Tại Việt Nam, triết lý này đã được đề cập từ sớm trong cuốn "Bàn về Giáo dục Việt Nam – Trước và sau năm 1975" của Trần Văn Chánh, cũng như trong bài viết "Tại sao cần giáo dục khai phóng?" của Nguyễn Xuân Xanh vào ngày 26 tháng 1 năm 2018 Ngoài ra, Giáo sư Lâm Quang Thiệp đã thực hiện nghiên cứu về giáo dục khai phóng tại Hoa Kỳ, và trường Đại học Việt - Nhật đã tổ chức hội thảo về chủ đề này Một số trường đại học như Đại học Fulbright và Đại học Việt - Nhật cũng đã nghiên cứu và áp dụng mô hình giáo dục khai phóng trong chương trình đào tạo đại học của mình.

Các công trình nghiên cứu hiện tại về triết lý giáo dục khai phóng ở Việt Nam chủ yếu chỉ đề cập một cách sơ lược Đến nay, vẫn chưa có nghiên cứu chuyên sâu và hệ thống nào về triết lý này, cũng như ý nghĩa của nó đối với nền giáo dục Việt Nam.

Trong bài nghiên cứu này, tác giả sẽ tập trung vào triết lý giáo dục khai phóng, phân tích ý nghĩa và tầm quan trọng của nó đối với giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay Nghiên cứu sẽ dựa trên việc tham khảo và kế thừa các tài liệu, công trình nghiên cứu trước đó để làm rõ những giá trị mà triết lý này mang lại cho hệ thống giáo dục.

M ục đích và nhiệ m v ụ nghiên c ứ u c ủa đề tài

Bài nghiên cứu này nhằm trình bày và phân tích có hệ thống các nội dung chính về triết lý giáo dục khai phóng, tập trung vào việc khai thác những giá trị tích cực của triết lý này Đồng thời, nó cũng đề cập đến ý nghĩa của triết lý giáo dục khai phóng đối với nền giáo dục đại học Việt Nam hiện nay.

Nhiệm vụ: Đểđạt được mục đích trên, bài nghiên cứu giải quyết ba nhiệm vụ chính như sau:

- Tìm hiểu về triết lý và triết lý giáo dục nói chung ởcác nước trên thế giới

- Khái quát lược sử giáo dục khai phóng, trình bày và phân tích những nội dung cơ bản về triết lý giáo dục khai phóng

Triết lý giáo dục khai phóng mang lại những giá trị quan trọng như phát triển tư duy phản biện, khuyến khích sự sáng tạo và nâng cao khả năng tự học cho sinh viên Ý nghĩa của triết lý này đối với nền giáo dục Việt Nam hiện nay, đặc biệt ở bậc giáo dục đại học, là giúp sinh viên trở thành những công dân toàn cầu có trách nhiệm và năng lực thích ứng với sự thay đổi nhanh chóng của xã hội Việc áp dụng triết lý giáo dục khai phóng không chỉ nâng cao chất lượng đào tạo mà còn góp phần vào việc hình thành nhân cách và phát triển bền vững cho đất nước.

Đối tƣợ ng và ph ạ m vi nghiên c ứ u

Khóa luận nghiên cứu những quan điểm lý luận về triết lý giáo dục và triết lý giáo dục khai phóng, đồng thời phân tích ý nghĩa của triết lý giáo dục khai phóng đối với giáo dục đại học tại Việt Nam.

Nghiên cứu này tập trung vào triết lý giáo dục khai phóng, thông qua việc phân tích các tài liệu, bài viết và công trình nghiên cứu liên quan, đặc biệt là ở bậc đại học Chúng tôi cũng tham khảo các công trình nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước để làm rõ các vấn đề liên quan đến giáo dục khai phóng.

Cơ sở lý lu ận và phương pháp nghiên cứ u

Đề tài này được xây dựng dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời tích hợp các kết quả nghiên cứu từ nhiều công trình khoa học, sách, báo và tài liệu liên quan.

Nghiên cứu này áp dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, kết hợp với các phương pháp cụ thể như phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, cùng với phương pháp duy vật lịch sử - cụ thể, nhằm đạt được các mục tiêu nghiên cứu đã đề ra.

B ố c ụ c c ủa đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung của đề tài gồm 2 chương:

Chương 1 Lý luận chung về Triết lý giáo dục và triết lý giáo dục khai phóng

Chương 2 Ý nghĩa của triết lý giáo dục khai phóng đối với giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay.

LÝ LU Ậ N CHUNG V Ề TRI Ế T LÝ GIÁO D Ụ C VÀ TRI Ế T LÝ GIÁO D Ụ C KHAI PHÓNG

Lý lu ậ n chung v ề Tri ế t lý giáo d ụ c

1.1.1 Định nghĩa triết lý giáo dục

Triết lý giáo dục là một lĩnh vực có nhiều quan điểm khác nhau, tuy nhiên, chưa có nghiên cứu nào đưa ra được một định nghĩa toàn diện và nhất quán về nó.

Khái niệm "triết lý giáo dục" mang ý nghĩa rộng, xuất phát từ từ "Philosophy" trong tiếng Hy Lạp, chỉ sự thông thái và am hiểu Trong tiếng Việt, "Triết lý" được hiểu là sự kết hợp giữa "triết" (sáng suốt, thông tuệ) và "lý" (lý lẽ) Điều này thể hiện rằng triết lý là cái sâu xa, nguyên tắc của mọi sự vật "Triết học" và "Triết lý" đều bắt đầu bằng chữ "triết", nhấn mạnh sự am hiểu và tri thức Trong khi "học" chỉ học thuyết, thì "lý" mang nghĩa lý giải và châm ngôn Do đó, "Triết lý" có thể hiểu là triết học ứng dụng trong thực tế Một số quan điểm cho rằng triết lý là lý luận triết học, phản ánh quan niệm về nhân sinh và xã hội, được cụ thể hóa qua tư tưởng, phương pháp và hành động thực tiễn, có thể đồng nghĩa với các thuật ngữ như định hướng, tôn chỉ, và nguyên tắc, tùy thuộc vào cách sử dụng của tác giả.

Triết lý giáo dục có thể được hiểu đơn giản là nền tảng triết học cho hệ thống giáo dục của một quốc gia.

Quan điểm về vai trò và vị trí của giáo dục đóng vai trò quan trọng trong việc xác định đường lối, phương hướng phát triển, mục tiêu và nguyên lý giáo dục Những tư tưởng chỉ đạo này sẽ hướng dẫn sự phát triển bền vững của hệ thống giáo dục.

Theo giáo sư Ian PM Lambert từ trường trung học The Scots, Sydney, Australia, triết lý giáo dục là một tuyên bố xác định niềm tin và giá trị của một cá nhân hoặc nhóm đối với giáo dục Nó đóng vai trò quan trọng trong việc xác định các mục tiêu và trọng tâm của trường học, đồng thời truyền cảm hứng cho việc lập kế hoạch và quy trình giáo dục Triết lý giáo dục không chỉ ảnh hưởng đến các môn học và phương pháp giảng dạy mà còn đến những giá trị và niềm tin được truyền đạt trong chương trình giảng dạy Một triết lý giáo dục đơn giản nhưng cốt lõi có thể được tóm gọn qua câu nói "tiên học lễ, hậu học văn" và các nguyên tắc của Nho giáo và Phật giáo, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc rèn luyện đạo đức và tu dưỡng bản thân.

Như vậy triết lý giáo dục là ấn định nội dung phương pháp mục đích đểđịnh hướng một nền giáo dục

Triết lý giáo dục được hiểu là triết học về giáo dục, không thể tách rời khỏi triết học và phải được hình thành theo quy luật vận động của đời sống xã hội Các khái niệm và bản chất của triết lý giáo dục cần được đúc kết từ thực tiễn, hình thành lý luận trước khi khái quát thành triết học Cuối cùng, việc áp dụng triết lý này vào thực tiễn khách quan sẽ trở thành “kim chỉ nam” cho một nền giáo dục hiệu quả.

Theo Annick M Brennen, triết lý giáo dục là một lĩnh vực chuyên biệt trong nỗ lực của nhân loại, phản ánh những tác động của triết học đối với giáo dục Triết lý giáo dục không tồn tại độc lập mà phát triển trong bối cảnh xã hội và lịch sử cụ thể Mỗi giai đoạn lịch sử và hình thái tổ chức xã hội sẽ có triết lý giáo dục riêng, điều này chỉ khả thi trong một xã hội ổn định với ít biến động lịch sử.

Triết lý giáo dục là một lĩnh vực rộng lớn và phức tạp, không thể tóm gọn chỉ bằng vài từ Nó bao gồm các nguyên lý cốt lõi chi phối hệ thống giáo dục, cần có sự khác biệt theo từng bối cảnh cụ thể Sự nhất quán giữa triết lý giáo dục, mục tiêu và phương pháp giảng dạy là rất quan trọng, đồng thời phải phù hợp với bối cảnh chính trị, xã hội, lịch sử và điều kiện nguồn lực hiện tại Việc áp dụng triết lý giáo dục có thể thành công trong một tình huống nhưng lại không phù hợp trong tình huống khác Tư duy đa chiều và linh hoạt này phản ánh kho tàng triết lý giáo dục phong phú của dân gian.

“Không thầy đố mày làm nên” nhấn mạnh tầm quan trọng của việc học từ thầy, trong khi “học thầy không tày học bạn” lại khẳng định giá trị của việc học từ bạn bè Điều này cho thấy sự cần thiết của kiến thức lý thuyết (một kho vàng không bằng một nang chữ) nhưng cũng không thể bỏ qua tính ứng dụng và thực tiễn (trăm hay không bằng tay quen, học đi đôi với hành) Đây là những triết lý giáo dục truyền thống nhưng vẫn mang tính hiện đại và tích cực.

1.1.2 Triết lý giáo dục ở một sốnước trên thế giới và ở Việt Nam hiện nay

Triết lý giáo dục đã xuất hiện từ thế kỷ III trước Công nguyên tại Hy Lạp, với vai trò quan trọng trong việc dạy dỗ thanh niên và công nhân Mỗi thành phố có triết lý giáo dục riêng, trong đó Athens nổi bật với Học viện của Plato và trường Lyceum của Aristotle Plato là người đầu tiên đề xuất khái niệm giáo dục, nhấn mạnh rằng xã hội tồn tại nhờ vào sự đóng góp của mỗi cá nhân với nghề nghiệp phù hợp Ông cho rằng sứ mạng của giáo dục là chuẩn bị cho người học gia nhập vào xã hội Đến giữa thế kỷ XVIII, J.J Rousseau đã cách mạng hóa tư duy giáo dục bằng cách khẳng định rằng con người sinh ra là thiện, và giáo dục cần duy trì và phát triển bản tính tốt đẹp đó, thay vì chỉ phục vụ lợi ích xã hội Tuy nhiên, triết lý "vị cá nhân" của Rousseau cũng gặp khó khăn do cần có "môi trường tự nhiên" để trẻ em phát huy cái "thiện" của mình.

Cuối thế kỷ XVIII, E Kant đã đưa ra một quan điểm mới về lịch sử nhân loại, cho rằng con người bắt đầu trong tình trạng bị tự nhiên khống chế, không phải với tư cách là sinh vật có lý trí Theo ông, tự nhiên chỉ cung cấp bản năng và lòng ham muốn, dẫn đến nhận định rằng "Con người là tạo vật duy nhất cần phải được giáo dục" và "Con người là những gì được giáo dục tạo nên".

Cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, trào lưu thực dụng luận và tân giáo dục đã xuất hiện tại Mỹ, do John Dewey khởi xướng Dewey định nghĩa triết lý giáo dục là lý luận giáo dục được thực hiện một cách có chủ tâm Do đó, mọi triết lý giáo dục cần phải trả lời các câu hỏi quan trọng về mục tiêu tối hậu của giáo dục.

Và để đạt được mục tiêu ấy cần phải hành động theo phương châm nào? Và bằng phương pháp nào? [7, 64]

Nguyên lý cơ bản về phương châm và phương pháp giáo dục của Deway đã tạo ra một cuộc cách mạng trong lĩnh vực giáo dục Tư tưởng “Tân giáo dục” của ông hoàn toàn phủ nhận nền giáo dục truyền thống, vốn đã tồn tại từ thời Plato, và nhấn mạnh sự liên kết giữa nhà trường và xã hội, giáo dục và cuộc sống Deway khẳng định rằng giáo dục không chỉ là quá trình truyền đạt kiến thức mà còn là bản thân cuộc sống; nhà trường không thể tách rời khỏi xã hội, và học sinh cần phải là trung tâm của quá trình giáo dục Những nguyên lý này vẫn tiếp tục dẫn dắt giáo dục trong các xã hội dân chủ ngày nay.

Trong 20 năm qua, giáo dục Phần Lan đã trải qua một cuộc “đại nhảy vọt”, trở thành hình mẫu tham khảo cho giáo dục phổ thông toàn cầu và góp phần thúc đẩy kinh tế Triết lý giáo dục của Phần Lan tập trung vào lòng tin, bình đẳng và hợp tác, nhấn mạnh việc dạy học sinh kỹ năng sống thay vì chỉ chuẩn bị cho kỳ thi.

Một triết lý quan trọng trong hệ thống giáo dục Singapore là Khổng giáo, nhấn mạnh rằng "cuộc sống tốt đẹp là khát vọng vô tận cho sự hoàn hảo đạo đức."

Do đó, đạo đức là một phần quan trọng của hệ thống giáo dục Singapore và nó cũng giống như ở Nhật Bản

Lý lu ậ n chung v ề Tri ế t Lý giáo d ụ c khai phóng

1.2.1 Định nghĩa triết lý giáo dục khai phóng

Giáo dục khai phóng, theo định nghĩa của Hiệp hội các trường Đại học và Cao đẳng Hoa Kỳ (AAC&U), là một phương pháp học tập giúp người học phát triển năng lực để đối phó với sự phức tạp và đa dạng của thế giới Nó cung cấp kiến thức toàn diện về khoa học, văn hóa và xã hội, đồng thời cho phép người học chuyên sâu vào một lĩnh vực cụ thể Qua đó, giáo dục khai phóng không chỉ nâng cao ý thức trách nhiệm xã hội mà còn trang bị cho người học kỹ năng thực tiễn như giao tiếp, phân tích và giải quyết vấn đề, giúp họ áp dụng kiến thức vào cuộc sống hàng ngày.

Theo Tiến sĩ Nguyễn Xuân Xanh, giáo dục khai phóng là lĩnh vực rộng lớn, bao gồm các môn học không chỉ tập trung vào kỹ thuật hay khoa học chuyên môn, mà còn liên quan đến nghệ thuật, âm nhạc, lịch sử, triết học, văn học và ngôn ngữ Mục tiêu của giáo dục khai phóng là đào tạo con người toàn diện, phát triển nhiều khả năng và tạo nền tri thức rộng, đồng thời nâng cao ý thức lịch sử và nhân loại, nhằm giúp họ trở thành công dân văn hóa, thay vì chỉ là chuyên gia trong một lĩnh vực cụ thể.

Wilhelm Humboldt (1767-1835), nhà triết học và cải cách giáo dục của chủ nghĩa nhân văn Đức, đã xây dựng triết lý giáo dục khai phóng, nhấn mạnh việc hạn chế vai trò của nhà nước trong giáo dục Mục đích của giáo dục là hình thành con người cá nhân, coi con người là chủ thể tự kiến tạo bản thân trong xã hội Triết lý này được thể hiện rõ qua mô hình giáo dục đại học khai phóng, nơi mà trường đại học là không gian thuần túy của khoa học, không bị ảnh hưởng bởi các mục tiêu bên ngoài Yêu cầu cơ bản là sự thống nhất giữa nghiên cứu và giảng dạy, với nguyên tắc tự do khoa học và quyền tự trị cho giảng viên Humboldt mong muốn bảo vệ khoa học khỏi sự chi phối của chính trị và nhà nước, xây dựng “nền cộng hòa của các học giả” để sinh viên và giáo viên có thể học hỏi và phát triển tri thức thông qua nghiên cứu độc lập dưới sự hướng dẫn của các học giả.

Giáo dục khai phóng, hay còn gọi là liberal education, được định nghĩa ngắn gọn là "giáo dục nhằm tạo ra con người tự do" Đây là một triết lý giáo dục cung cấp cho cá nhân nền tảng kiến thức rộng, kỹ năng chuyển đổi được, cùng với cảm nhận sâu sắc về giá trị, đạo đức và sự tham gia vào đời sống công dân Phạm vi của giáo dục khai phóng thường mang tính đa nguyên và toàn cầu, bao gồm chương trình học tổng quát với cơ hội tiếp cận nhiều lĩnh vực học thuật và các chiến lược học tập, bên cạnh chương trình học chuyên sâu trong ít nhất một lĩnh vực học thuật cụ thể.

Nền tảng của phương pháp giáo dục Khai phóng là Tinh thần Khai phóng, nhằm phát triển những giá trị sâu sắc nhất của con người, xoay quanh ba giá trị kinh điển: Chân, Thiện, Mỹ Con người tiếp cận những giá trị này qua các giai đoạn và bối cảnh khác nhau Tinh thần Khai phóng đã trải qua một quá trình phát triển lâu dài, từ giáo dục kỹ năng, thói quen, luật lệ đến kiến thức, tri thức và đức tính Tiếp theo, giáo dục chuyển sang phương pháp, quy trình và trải nghiệm, trước khi đạt đến giáo dục năng lực, giá trị và khuynh hướng Bước phát triển cao nhất của Tinh thần Khai phóng là giáo dục chính Tinh thần Khai phóng cho con người.

Khoa học đã luôn là trung tâm của giáo dục khai phóng, bắt đầu từ thời kỳ cổ đại, khi nó được coi là con đường dẫn đến kiến thức trừu tượng mà không có mục đích thực tế Trong khi các môn nhân văn như ngôn ngữ và lịch sử giúp thanh niên chuẩn bị cho các vai trò chính trị và thương mại, người Hy Lạp và La Mã cổ đại vẫn học song song cả khoa học và nhân văn Vào thế kỷ I TCN, phương pháp giáo dục nhị nguyên này được chính thức hóa thành hệ thống “bảy môn học khai phóng”, tách biệt khoa học với nhân văn và lý thuyết với thực tiễn Hệ thống này sau đó được chia thành Trivium, bao gồm ngữ pháp, luận lý và hùng biện, và Quadrivium, bao gồm số học, hình học, âm nhạc và thiên văn.

Binh sĩ và chính khách thường nhấn mạnh các môn học thực tiễn, hay còn gọi là các môn nhân văn ngày nay Tuy nhiên, ý tưởng về một nền giáo dục rộng lớn hơn vẫn luôn hiện hữu.

Vào thế kỷ VIII, Charlemagne, vua của người Frank, đã thành lập một trường học tại cung điện của mình do Alcuin, một học giả người Anh, đứng đầu Alcuin cùng các môn đệ tập trung vào ngữ pháp và phân tích văn bản, mặc dù vẫn giảng dạy một số kiến thức về các môn khai phóng Truyền thống tìm kiếm tri thức sâu hơn không bao giờ bị lãng quên, và ngay trong thời Trung cổ, các tu viện vẫn duy trì việc học hỏi và nghiên cứu.

Truyền thống giáo dục khai phóng hiện đại chủ yếu liên quan đến các trường đại học hơn là các viện đại học, với sự chuyển mình về tính thế tục vào thế kỷ XIX khi các chủng viện bắt đầu đào tạo mục sư Các trường đại học được đặc trưng bởi kiến trúc hùng vĩ, thường có một tòa nhà đá lớn với sân lộ thiên ở trung tâm và ký túc xá sinh viên xung quanh Các không gian như "phòng tập thể" để sinh viên giao lưu, nhà nguyện để cầu nguyện và thư viện để đọc sách trở thành những điểm nhấn quan trọng Mô hình này có nguồn gốc từ Anh Quốc và đã phát triển rộng rãi tại các nước nói tiếng Anh, vẫn giữ vai trò đặc thù trong giáo dục đại học ngày nay.

Vào đầu thế kỷ XX, giáo dục khai phóng phát triển mạnh mẽ tại Hoa Kỳ, đến mức một số khu vực như Trung Đông gọi nó là giáo dục “theo phong cách Hoa Kỳ” Các trường đại học hàng đầu như Harvard và Yale đã xây dựng ký túc xá cho sinh viên, biến chúng thành mô hình đại học hoàn chỉnh Ký túc xá giờ đây được công nhận là có những phẩm chất giúp nâng cao trải nghiệm giáo dục khai phóng, vượt ra ngoài chương trình học Những lợi ích của mô hình này thường được mô tả qua các thuật ngữ như “trải nghiệm sống-học tập”, “giáo dục ngang hàng” và “học tập ngoại biên”.

Eliot Morison, sử gia nổi tiếng của Harvard, nhấn mạnh rằng môi trường ký túc xá mang lại nhiều lợi ích đặc biệt, nơi mà kiến thức lý thuyết chỉ có thể thu nhận qua bài giảng và sách vở, nhưng những giá trị quý báu về con người được hình thành thông qua nghiên cứu, tranh luận, vui chơi và cầu nguyện trong cộng đồng đại học Việc phát triển tố chất cá nhân, xuất phát từ nguồn gốc tôn giáo của các trường đại học, vẫn là mục tiêu quan trọng của các trường đại học khai phóng trên toàn thế giới, ít nhất là về mặt lý thuyết.

Sau một quá trình phát triển lâu dài về chương trình đào tạo đại học ở Hoa

Chương trình cử nhân tại Hoa Kỳ bao gồm hai thành phần chính: giáo dục đại cương và giáo dục chuyên nghiệp Giáo dục đại cương và giáo dục khai phóng thường được xem là đồng nhất, cho phép sử dụng hai thuật ngữ này thay thế cho nhau trong tiếng Việt Các chương trình giáo dục khai phóng ở Hoa Kỳ dựa trên bốn triết lý giáo dục: Tính trường tồn (Perennialism) nhấn mạnh sự vĩnh cửu của giáo dục; Tính tinh túy (Essentialism) cho rằng giáo dục cần dựa trên di sản nhân loại; Tính tiến bộ (Progressivism) coi sinh viên là trung tâm và nhấn mạnh kỹ năng tư duy phê phán; và Tính tái cấu trúc (Reconstructionism) kết hợp quan điểm tiến bộ với yếu tố cấu trúc lại xã hội Nội dung giáo dục khai phóng thường bao gồm các kỹ năng học tập cao cấp, bắt nguồn từ 3R (Reading, Writing, Arithmetic).

Chương trình đào tạo đại học tại Hoa Kỳ bao gồm nhiều môn học khác nhau, như anh ngữ, toán học, ngoại ngữ, giáo dục thể chất, cùng với các môn học diện rộng trong ba lĩnh vực chính: nhân văn, khoa học tự nhiên và khoa học xã hội Các trường đại học có quyền tự chủ cao, nhưng vẫn phải tuân thủ các tiêu chí nhất định để đảm bảo chất lượng giáo dục Hiệp hội các trường đại học miền Nam Hoa Kỳ quy định rằng các chương trình đào tạo phải bao gồm một phần đáng kể các môn học giáo dục khai phóng, với ít nhất 15 tín chỉ cho chương trình hai năm và 30 tín chỉ cho chương trình cử nhân Điều này nhằm tránh việc tập trung quá hẹp vào các kỹ năng và quy trình nghề nghiệp cụ thể.

Giáo dục khai phóng cho thế kỷ XXI, theo Hiệp hội các trường Đại học và Cao đẳng Hoa Kỳ (AAC&U, 2017), đóng vai trò quan trọng trong việc chuẩn bị cho chúng ta đối diện với những thách thức hiện nay, bao gồm việc hiểu thế giới rộng mở, giá trị cá nhân và những lựa chọn khó khăn mà chúng ta phải đưa ra như những công dân Để phục vụ tốt nhất cho mọi người, cho nền dân chủ và cho nền kinh tế hiện đại, giáo dục khai phóng trở thành phương pháp giáo dục tối ưu Bảng tóm tắt của Hiệp hội cũng chỉ ra sự khác biệt giữa giáo dục khai phóng ở thế kỷ XXI và thế kỷ XX.

Trong thế kỷ 20, việc phát triển tri thức và nhân cách dường như không liên quan đến nghề nghiệp và được coi là một lựa chọn may rủi Tuy nhiên, bước sang thế kỷ 21, điều này trở nên cần thiết cho mọi sinh viên, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa, để thành công trong nền kinh tế thông tin.

Ý NGHĨA C Ủ A TRI Ế T LÝ GIÁO D ỤC KHAI PHÓNG ĐỐ I

Ngày đăng: 17/12/2021, 19:45

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w