1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Khóa luận nghi thức tang lễ của người việt theo công giáo

77 3 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 77
Dung lượng 766,96 KB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG I: CƠ SỞ HÌNH THÀNH NGHI THỨ C TANG L Ễ C ỦA NGƯỜ I CÔNG GIÁOVÀ VÀI NÉT VỀ GIÁO XỨ THÁI HÀ – HÀ NỘI (13)
    • 1.1. C ơ sở hình thà nh nghi th ứ c tang l ễ c ủa người Công giáo (13)
      • 1.1.1. Quan ni ệ m c ủa người Công giáo về linh h ồn và thể xác (13)
      • 1.1.2. Nh ững quy đị nh v ề tang l ễ trong B ộ giáo luậ t 1983 (19)
    • 1.2. L ị ch s ử hình thành, hoạt động và phát triể n c ủa giáo xứ Thái Hà – Hà N ộ i (23)
      • 1.2.1. L ị ch s ử hình thành giáo xứ (23)
      • 1.2.2. Ho ạt động và phát triể n c ủa giáo xứ (27)
  • CHƯƠNG II: THÁNH LỄ C Ầ U H ỒN VÀ AN TÁNG CỦA NGƯỜ I VI Ệ T (32)
    • 2.1. Thánh lễ c ầ u h ồn và thánh lễ an táng của người Công giáo Việ t Nam (32)
      • 2.1.1. Thánh lễ cầu hồn (32)
      • 2.1.2. Thánh lễ an táng (36)
    • 2.2. Các nghi thứ c di ễ n ra trong tang l ễ ở giáo xứ Thái Hà (37)
      • 2.2.1. Những nghi thức trước khi chôn cất người chết (37)
      • 2.2.2. Nh ữ ng nghi th ức sau khi chôn cất ngườ i ch ế t (43)
    • 2.3. Giá trị và nhữ ng t ồ n t ạ i c ầ n kh ắ c ph ụ c trong nghi th ứ c tang l ễ c ủa ngườ i Công giáo Việt Nam… (48)
      • 2.3.1. Giá trị (48)
      • 2.3.2. Nh ữ ng t ồ n t ạ i c ầ n kh ắ c ph ụ c (55)

Nội dung

CƠ SỞ HÌNH THÀNH NGHI THỨ C TANG L Ễ C ỦA NGƯỜ I CÔNG GIÁOVÀ VÀI NÉT VỀ GIÁO XỨ THÁI HÀ – HÀ NỘI

C ơ sở hình thà nh nghi th ứ c tang l ễ c ủa người Công giáo

1.1.1 Quan ni ệ m c ủa người Công giáo về linh h ồ n và thể xác

Kinh Thánh, đặc biệt là Tân Ước, khẳng định rằng con người là một hữu thể thuộc về vũ trụ, tồn tại trong một thân xác cụ thể và đồng thời là một sinh vật có nhu cầu về tình cảm và biểu lộ cảm xúc Con người không tự đủ cho chính mình mà còn có khả năng lý luận, suy tư, lập kế hoạch và quyết định Quan trọng hơn, con người có khả năng tiếp nhận sự tác động và sự sống từ Thiên Chúa, cũng như có được một tâm hồn chính trực Những khả năng này không phải do sức lực cá nhân mà có, mà là nhờ "thần khí" của Thiên Chúa, chính năng lực của Thần Khí giúp con người trở nên mạnh mẽ, biểu thị quyền năng của Thiên Chúa.

Trong Tân Ước, Thần Khí được mặc khải như Đấng liên kết khăng khít với Chúa Cha và Chúa Con trong việc thực hiện công trình cứu độ Trong

Trong cả Cựu ước và Tân ước, đặc biệt là trong các thư của thánh Phaolô, việc xác định ý nghĩa chính xác của thuật ngữ “thần khí” không phải lúc nào cũng dễ dàng Xét từ góc độ nhân học, “thần khí” được hiểu là một năng lực giúp con người tiếp cận Thiên Chúa.

Một đặc điểm nổi bật của Tân ước, đặc biệt trong các tác phẩm của Phaolô, là sự đối lập giữa thần khí và xác thịt, như được thể hiện trong các câu Kinh Thánh như Mt 26,41.

Mc 14,38; Ga 3,6; 6,36; Rm 8,1-11, Gl 5,16-26,) Một bên là “thần khí”, tức

10 quyền năng Thiên Chúa được thông ban cho con người, ngược lại, bên kia là

“xác thịt” bị coi như sự yếu đuối của con người

Linh hồn, hay còn gọi là thần khí, được coi là phần cốt yếu và thiêng liêng của con người, hình thành nên cuộc sống, năng lực và nhân cách của mỗi cá nhân Nó tồn tại bên ngoài phần xác thịt và tiếp tục sống mãi ở thế giới bên kia, ngay cả khi thể xác đã tan rữa Đức tin và linh hồn đã có từ xa xưa, liên quan đến các hiện tượng tự nhiên như hơi thở, giấc mơ và cái chết, và khái niệm linh hồn gắn liền với giáo lý về Chúa Theo giáo lý này, Chúa ban tặng linh hồn cho con người ngay từ khi sinh ra, giúp tín đồ vượt qua nỗi đau khổ hàng ngày và giải thoát khỏi áp bức thông qua con đường cứu độ, hướng tới thế giới Thiên Đàng.

Trong Tân ước, Đức Giêsu nhấn mạnh sự đối lập giữa phần xác và phần hồn, khuyên rằng "Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn" (Mt 10,28) Linh hồn được liên kết với sự bất tử, đặc biệt khi nhắc đến linh hồn của những người đã qua đời.

Linh hồn không thể được giải thích chỉ dựa trên cấu trúc sinh lý của cơ thể con người Trí tuệ chỉ ra rằng có một nguyên lý thiêng liêng kết nối linh hồn với thân xác, nhưng điều này không có nghĩa là linh hồn giống hệt như thân xác.

Mặc dù khoa học không thể chứng minh sự tồn tại của linh hồn, nhưng nếu không xem xét yếu tố linh thiêng này, chúng ta sẽ không thể hiểu con người là một hữu thể có tính chất linh thiêng.

154,163), vì lẽ đó “hãy làm điều gì tốt cho xác bạn, để hồn bạn được vui vẻ ở trong xác.” Trích lời Thánh Têrêsa Avila (1515-1582), nhà thần bí Tây Ban

Nha, tiến sĩ Hội Thánh và Đức Bênêđictô XVI trong tác phẩm Deus Caritas est nhấn mạnh rằng con người chỉ thực sự là con người khi có sự hiệp nhất sâu sắc giữa hồn và xác Việc chỉ muốn tồn tại dưới dạng tinh thần mà từ bỏ thể xác phàm tục sẽ dẫn đến việc cả hai đều mất đi phẩm giá Ngược lại, sự kết hợp giữa tinh thần và thể xác là điều cần thiết để giữ gìn giá trị nhân văn.

Khi con người từ bỏ tinh thần và chỉ coi trọng vật chất, xem thân xác là thực tại duy nhất, họ đang tự đánh mất giá trị cao quý của chính mình.

Linh hồn là yếu tố quyết định làm nên bản chất con người, giúp chúng ta nhận diện cái "Tôi" và đứng trước Thiên Chúa như những cá thể độc nhất Bởi vì linh hồn không phải là vật chất, nó không thể bị phân chia, và phần thiêng liêng của mỗi người chỉ có thể hiện hữu qua hành vi sáng tạo trực tiếp từ Thiên Chúa.

Trong tác phẩm Khôn ngoan viết vào khoảng những năm 30 trước công nguyên tại Alexandria, tác giả đã nêu rõ quan điểm về linh hồn con người, khẳng định rằng “Linh hồn những người công chính ở trong tay Chúa và chẳng cực hình nào động tới được nữa.” Điều này cho thấy sự khác biệt giữa nhận thức của người ngu si và thực tế, khi họ cho rằng những người đã ra đi là đã chết, trong khi thực chất họ đang hưởng bình an.

Kinh Nghĩa Đức Tin khẳng định rằng linh hồn con người không bao giờ chết và vào ngày tận thế, xác thịt sẽ sống lại để chịu phán xét Người thiện sẽ được lên Thiên đàng hưởng phúc vĩnh cửu, trong khi kẻ ác sẽ bị đày vào Hỏa ngục để chịu hình phạt muôn đời Điều này cũng được nhắc đến trong Kinh Tin Thánh, nơi đề cập đến sự sống sau cái chết.

Người Việt theo Công giáo tin rằng có mối liên hệ giữa người sống và người khuất, với sự hỗ trợ của các Thánh và Thiên Chúa Những người sống thực hiện các công phúc để giúp linh hồn chuộc tội, từ đó có thể lên Thiên Đàng và tiếp tục nhận được sự phù hộ từ Thiên Chúa cho chính mình.

Chết là khoảnh khắc linh hồn rời khỏi thân xác, và linh hồn không bao giờ tan biến mà vẫn mang tính thiêng liêng Sau khi rời khỏi xác, linh hồn phải trình diện trước tòa Đức Chúa Giêsu để nhận phán xét về những việc tốt và xấu đã làm trong cuộc sống Những người sạch tội và những người đã đền tội sẽ nhận được phần thưởng xứng đáng tùy theo hành động của họ khi còn sống.

Thiên đàng là nơi mang lại sự thanh nhàn và vui vẻ vĩnh cửu, với điều phúc nhất là được chiêm ngưỡng dung nhan Đức Chúa Những linh hồn lành nhưng còn mắc tội mọn sẽ phải trải qua thời gian ở luyện ngục, nơi họ có thể được cứu rỗi thông qua lời cầu nguyện và lễ nghi từ người thân Ngược lại, những ai phạm tội trọng sẽ phải chịu hình phạt ở hỏa ngục, nơi mà ma quỷ và những linh hồn mắc tội trọng phải đối mặt với sự trừng phạt khắc nghiệt.

L ị ch s ử hình thành, hoạt động và phát triể n c ủa giáo xứ Thái Hà – Hà N ộ i

1.2.1 L ị ch s ử hình thành giáo xứ

Giáo xứ Thái Hà, thuộc tổng giáo phận Hà Nội, nổi bật với nhiều hoạt động giá trị cho Giáo Hội và là một trong những xứ đạo trọng điểm, thu hút sự chú ý từ các họ, xứ đạo trên toàn quốc Lịch sử hình thành giáo xứ Thái Hà bắt đầu vào đầu năm 1926, khi hai linh mục Hubert Cousineau và Eugène Larouche đến miền Bắc để giao giảng cho các linh mục tại Phát Diệm, Hà Nội và Hưng Hóa Trong quá trình này, họ đã có ý định thiết lập một Tu Viện Dòng Chúa Cứu Thế Đến giữa năm 1926, trong kỳ kinh lược Việt Nam đầu tiên, Giám Tỉnh Thomas Pintal đã trực tiếp xúc tiến việc thành lập Dòng Chúa Cứu Thế tại miền Bắc.

Năm 1928, với sự hỗ trợ của Toà Giám Mục Hà Nội, hai linh mục Hubert Cousineau và Eugène Larouche đã mua 64 héc-ta đất tại ấp Thái Hà để thành lập tu viện Dòng Chúa Cứu Thế Hà Nội, hoạt động theo Giáo Luật của giáo hội.

Năm 1933, Nhà Dòng đã xây dựng toà tu viện, hiện nay là bệnh viện Đống Đa Đến năm 1935, một ngôi đền đơn sơ kính Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp được xây dựng trong khi chờ điều kiện xây dựng ngôi đền khang trang hơn tại linh địa Đức Bà, cũng đã bị chiếm dụng Cùng năm đó, Học Viện được thành lập, và số sinh viên từ Việt Nam và Canada tăng nhanh chóng, dẫn đến việc Phụ Tỉnh phải xây dựng thêm cơ sở vào năm 1938.

20 thêm một ngôi nhà mới dành cho Học Viện; ngôi nhà này được khánh thành năm 1939

Năm 1935, khánh thành nhà thờ, các cha mở rộng việc sùng kính Ðức

Mẹ Hằng Cứu Giúp Ngày 23-06-1935, sốđầu tiên Nguyệt San Ðức Mẹ Hằng

Năm 1936, Tu Viện Dòng Chúa Cứu Thế Hà Nội đã xây dựng nhà nghỉ Mẫu Sơn Đến năm 1939, Tu Viện này được giao nhiệm vụ thành lập và quản lý Giáo xứ Thái Hà theo đề nghị của Toà Thánh và Toà Giám Mục Hà Nội.

Nội, trên cơ sở là họ đạo Nam Đồng, thuộc xứ Nhà Thờ Chính Toà Từ năm

Năm 1936, các cha bắt đầu giảng đại phúc bằng tiếng Việt tại Hà Nội, mở đầu cho một công cuộc phát triển và mở rộng ra các Giáo Phận Phát Diệm, Hưng Hoá và Bùi Chu.

Năm 1940, Học Viện Thái Hà khai giảng lớp đầu tiên dành cho các tu sĩ người Việt Nam Đến năm 1941, số lượng nhân sự trong cộng đoàn ngày càng tăng, cho thấy sự phát triển mạnh mẽ của Tu Viện.

66 thành viên, gồm 17 linh mục, 26 sinh viên, 12 thầy và 11 tập sinh

Trong thời kỳ thịnh vượng của Tu Viện, chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, mang theo những ảnh hưởng u ám và khó khăn.

Từ năm 1942 đến 1945, trong thời gian quân đội Nhật chiếm đóng Việt Nam, Tu Viện bị cô lập hoàn toàn, khiến các cha và thầy người Canada gần như bị quản chế và không thể ra ngoài làm việc Các cha Việt Nam cũng không thể rao giảng ở các giáo xứ ngoài Hà Nội, và Nguyệt San Ðức Mẹ Hằng Cứu Giúp bị đình bản Dù gặp nhiều khó khăn, công việc mục vụ tại nhà thờ vẫn tiếp tục được thực hiện.

Năm 1945, Tu Viện đối mặt với khó khăn lớn do đói kém, dịch bệnh và loạn lạc Dù vậy, các quý cha và thầy vẫn nỗ lực cứu giúp nạn nhân tại trại Thái Hà, trại Giáp Bát và Bệnh viện Bạch Mai Đặc biệt, cha Louis-Philippe Vaillancourt đã thành lập một bệnh xá trong khu vực để hỗ trợ cộng đồng.

Nhà Dòng, chăm sóc cho khoảng 400 người, trong số đó gần 200 người đã được cứu sống

Trong công cuộc phục vụ này, Nhà Dòng đã hiệp thông sâu xa với những đau thương, mất mát của Dân Tộc Nhiều cha, nhiều thầy trong Tu

Trong bối cảnh trận đói và dịch bệnh năm 1945, Viện đã phải đối mặt với tình trạng sức khỏe nghiêm trọng do lây nhiễm khi chăm sóc các nạn nhân Cha Gia-cô-bê Nguyễn Khắc Cân đã mất một mắt, trong khi Cha Âu-tinh Nguyễn Hòa Hiệp không qua khỏi do lây bệnh Cha Gio-an Ma-ri-a cũng gặp khó khăn trong tình hình này.

Nguyễn Kim Dong bị máy bay bắn chết trên đường đưa một bệnh nhân từ Nam Ðịnh ra Hà Nội cấp cứu

Ngôi nhà nguyện được xây dựng vào năm 1938, hiện đang là nhà thờ giáo xứ Thái Hà Sau thời gian tạm ngưng hoạt động vì nhiều lý do, các hoạt động mục vụ tại nhà thờ Thái Hà đã được phục hồi vào tháng 08 năm 1945 Tuy nhiên, từ năm 1946 đến năm 1954, Tu Viện phải đối mặt với nhiều khó khăn do chiến tranh bùng nổ tại Hà Nội và lan rộng khắp Việt Nam.

Trong giai đoạn hiện nay, các quý cha và quý thầy tại Nhà Hà Nội đang tích cực thực hiện công việc tông đồ trường kỳ, nhằm hỗ trợ những nạn nhân chiến tranh từ khắp nơi tìm đến tị nạn.

Tại các trung tâm như Thái Hà, Bạch Mai và Nam Đồng, quý cha và quý thầy trong cộng đoàn cần nhanh chóng tổ chức các hoạt động mục vụ nhằm hỗ trợ giáo dân một cách hiệu quả.

Tháng 06-1949, Nguyệt San Ðức Mẹ Hằng Cứu Giúp tái ra mắt độc giả Cha Giuse Vũ Ngọc Bích làm chủ nhiệm Ngày 07-12-1950, cha Bề Trên Giám Phụ Tỉnh quyết định chuyển Nhà Tập và Học Viện vào miền Nam, Tu Viện Thái Hà chỉ còn 11 cha và 6 thầy; tuy vậy, công cuộc tông đồ của Tu Viện vẫn phát triển Số giáo dân trong giáo xứ tăng rất nhanh do chạy loạn từ nơi khác vềHà Nội và do cư dân trong các làng thuộc khu vực giáo xứ trở lại

Sinh hoạt mục vụ của Tu Viện Thái Hà Ấp hiện tại có thể được so sánh với hoạt động mục vụ của Tu Viện Sài Gòn trong hai thập niên tiếp theo.

THÁNH LỄ C Ầ U H ỒN VÀ AN TÁNG CỦA NGƯỜ I VI Ệ T

Thánh lễ c ầ u h ồn và thánh lễ an táng của người Công giáo Việ t Nam

Thánh lễ cầu hồn, hay thánh lễ cầu cho người qua đời, được tổ chức ngay sau khi nhận tin báo tử, trong thời gian mai táng hoặc vào ngày giỗ đầu Lễ này có thể được cử hành trong những ngày sau Bát Nhật Giáng Sinh, vào các ngày lễ nhớ buộc, hoặc trong tuần không phải thứ Tư Tro và Tuần Thánh.

Nghi thức cầu hồn có nguồn gốc từ Cựu Ước, thể hiện qua hành động của ông Giuđa, người đã quyên góp 2000 quan tiền để dâng lễ đền tội tại Giêrusalem, với niềm tin rằng người chết sẽ sống lại Ông thực hiện cử chỉ cao quý này không chỉ vì lòng thương xót mà còn vì hy vọng vào phần thưởng cho những người đã khuất Điều này cho thấy việc cầu nguyện cho người chết không phải là vô nghĩa, mà là một hành động đạo đức và thánh thiện, nhằm giải thoát họ khỏi tội lỗi (2 Mcb 12,43-46).

Mở đầu thánh lễ cầu hồn, chủ sự thực hiện nghi thức sám hối với lời cầu nguyện: “Lạy Chúa, Chúa là niềm hy vọng của những người đã chết Xin Chúa thương xót chúng con; lạy Chúa Ki-tô, Chúa đã phục sinh để đem sự sống cho những ai đã ly trần Xin Chúa Ki-tô thương xót chúng con; lạy Chúa, Chúa hứa ban Nước Trời cho tất cả chúng con; xin Chúa thương xót chúng con Xin Thiên Chúa toàn năng thương xót, tha tội và dẫn đưa chúng ta đến sự sống muôn đời.” Lời nguyện nhập lễ cho người qua đời diễn ra dưới sự dõi theo của Thiên Chúa, thể hiện niềm tin của người Công giáo rằng cái chết trên trần thế là sự khởi đầu cho cuộc sống vĩnh cửu.

Chết không phải là sự kết thúc mà là hành trình trở về với Chúa, nơi mà sự sống mới bắt đầu Mầu nhiệm phục sinh là một trong những cốt lõi của đạo Công giáo, thể hiện qua lời cầu nguyện: "Lạy Chúa, xin ban phước cho bậc thánh nhân và đưa người con của Chúa về nơi an nghỉ cuối cùng." Chúng ta cầu xin cho người đã khuất được chia sẻ vinh quang với các thánh, chờ đợi ngày phục sinh để trở về quê hương thiên đàng, hưởng nhan thánh Chúa.

Sau lời nguyện nhập lễ, Chủ sự tiếp tục cử hành nghi thức Phụng vụ Lời Chúa và Phụng vụ Thánh Thể trong tang lễ, thể hiện sự tưởng niệm về cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu Nghi thức này không chỉ đơn thuần là nhắc nhớ quá khứ, mà còn mang tính hiện sinh, với Chúa Giêsu là chủ thể của cử hành Người hiện diện và thực hiện lời hứa: “Thầy ở lại với các con mọi ngày cho đến tận thế” Phụng vụ Lời Chúa nói lên sự hiện diện này, nơi Chúa không câm lặng mà đang giao tiếp với chúng ta qua lời của Người Bài trích từ thư Thánh Phaolo nhấn mạnh sự sống lại của Đức Ki-tô, là hoa quả đầu mùa của những kẻ yên giấc, và nhắc nhở rằng mọi người đều sẽ được tác sinh trong Đức Ki-tô Cuối cùng, Người sẽ cai trị cho đến khi tiêu diệt mọi kẻ thù, với sự chết là kẻ thù cuối cùng bị tiêu diệt.

Khi đến thời điểm đó, Chúa Con sẽ quy phục Đấng đã khiến mọi sự quy phục Ngài, để Thiên Chúa trở thành mọi sự trong mọi người Đó là lời Chúa Alleluia Chúa phán rằng Ngài là sự sống lại và là sự sống; ai tin vào Ngài sẽ không bao giờ chết Alleluia.

Chủ sự sẽ tóm tắt nội dung, sau đó cùng với cộng đoàn đọc lời nguyện chung trước khi kết thúc nghi thức phụng vụ Lời Chúa "Anh chị em thân mến,"

Trong niềm tin vào Chúa Ki-tô phục sinh, Đấng đã chết và sống lại để ban cho nhân loại sự sống vĩnh cửu, chúng ta dâng lời nguyện xin Xin Chúa cho OBACE.T, người đã nhận bí tích Thánh tẩy, được hợp đoàn cùng các thánh trên Nước Trời Cầu xin Chúa cho OBACE.T, người đã rước Mình Chúa Ki-tô, được sống lại trong ngày sau hết Chúng ta cũng cầu xin cho mọi người an nghỉ trong hy vọng sống lại, được chiêm ngưỡng ánh sáng tôn nhan Chúa muôn đời Cuối cùng, xin Chúa cho cộng đoàn chúng ta, đang họp nhau trong tin tưởng và yêu thương, được đoàn tụ trong vinh quang Nước Chúa.

Sau nghi thức Phụng vụ Lời Chúa, nghi thức Phụng vụ Thánh Thể, hay còn gọi là bí tích Thánh Thể, được thực hiện Bí tích này bao gồm các phần như nghi thức dâng lễ và đọc Kinh.

Tạ Ơn, và thực hiện những nghi thức hiệp lễ

Nghi thức Thánh Thể thể hiện việc Chúa Giêsu dâng mình cho Chúa

Cha qua hy tế thập giá để hòa giải và kêu cầu ơn cứu độ cho nhân loại dưới hình bánh và rượu

“TẤT CẢ CÁC CON HÃY NHẬN LẤY MÀ ĂN:

VÌ NÀY LÀ MÌNH THẦY

SẼ BỊ NỘP VÌ CÁC CON…

“Cùng một thể thức ấy, sau bữa ăn tối, Người cầm lấy chén, cũng tạơn, trao cho các môn đệvà nói:

TẤT CẢ CÁC CON HÃY NHẬN LẤY MÀ UỐNG

VÌ NÀY LÀ CHÉN MÁU THẦY

MÁU GIAO ƯỚC MỚI VÀ VĨNH CỬU

SẼ ĐỔ RA CHO CÁC CON VÀ

NHIỀU NGƯỜI ĐƯỢC THA TỘI

CÁC CON HÃY LÀM VIỆC NÀY

Nghi thức Phụng Vụ Thánh Thể không chỉ là một nghi lễ tưởng nhớ những biến cố trong quá khứ của Thiên Chúa, mà còn là sự loan báo những kỳ công mà Ngài đã thực hiện cho nhân loại Khi cử hành thánh lễ, những biến cố này trở nên sống động giữa cộng đoàn, thể hiện rõ nét ý nghĩa của Bí tích Thánh Thể trong việc tưởng niệm cuộc Vượt qua của Đức Kitô.

Kitô hiện tại hóa và dâng tiến hy tế duy nhất của Người trong Phụng Vụ Hội Thánh qua Thân Thể Người Trong các kinh nguyện Thánh Thể và phần hiến thánh, luôn có một kinh Tưởng Niệm.

Trong giờ Kinh Nguyện Thánh Thể, ngoài việc tạ ơn, những người thân quyến và linh mục cầu xin ơn cho Đức Giáo Hoàng, Đức Giám Mục, và đặc biệt là cho người quá cố Họ cầu nguyện: “Lạy Chúa, chúng con đang lễ tế này trong ngày an táng tôi tớ Chúa là OBACE Xin Chúa vui lòng chấp nhận và thương đến người quá cố; nếu vì yếu đuối mà họ còn mang vết nhơ tội lỗi, xin Chúa thanh tẩy và thứ tha.” Chúng ta tin rằng các linh hồn sẽ nhận được nhiều ơn ích khi chúng ta cầu nguyện cho họ trong sự hiện diện của Đức Kitô, Chiên Hy Tế Khi cầu nguyện cho những người đã an giấc, dù họ có thể còn là tội nhân, chúng ta dâng lên Thiên Chúa chính Đức Kitô, Đấng đã hiến mình vì tội lỗi chúng ta, để Người giao hòa họ với Thiên Chúa, Đấng yêu thương con người.

Con người được Chúa trời sinh ra, mỗi cá nhân là một ngôi đền thánh để thờ phụng Ngài Chúng ta từ cát bụi mà đến và cũng sẽ trở về với cát bụi Cuộc sống trần thế chỉ là tạm thời và vô cùng ngắn ngủi, trong khi cuộc sống sau khi qua đời mới là vĩnh cửu.

32 được lên Thiên đàng là vĩnh hằng, và mọi tín đồ đều hoan hỷ đón nhận cái chết, sẵn sàng nhận lệnh khi Chúa gọi Tín đồ Công giáo ví sự "ra đi" như việc chuẩn bị đèn dầu để thắp sáng, vì Chúa sẽ đến bất thình lình để đón đi.

Kết thúc thánh lễ cầu hồn, nghi thức rước lễ được thực hiện với lời cầu nguyện: “Lạy Chúa là Đấng quyền sinh tử, xin cho người con của Chúa là OBACE.T, đã lìa cõi thế, được Máu thánh Đức Ki-tô rửa sạch mọi lỗi lầm và hưởng niềm hoan lạc trong ngày phục sinh Chúng con cầu xin nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con.”

Các nghi thứ c di ễ n ra trong tang l ễ ở giáo xứ Thái Hà

Người Công giáo tại Giáo xứ Thái Hà, Hà Nội, mặc dù tuân thủ giáo lý và giáo luật của Công giáo, vẫn chịu ảnh hưởng từ các truyền thống văn hóa và nghi thức tang lễ miền Bắc Điều này thể hiện sự hòa quyện giữa văn hóa Công giáo và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt, phù hợp với tinh thần “đổi mới, canh tân, thích nghi và hội nhập” của Công đồng Vatican II Quy trình và nghi thức tang lễ tại đây diễn ra theo trình tự nhất định, phản ánh sự kết hợp giữa đức tin và văn hóa địa phương.

2.2.1 Nh ữ ng nghi th ức trước khi chôn cất ngườ i ch ế t

❖ Nghi thức phát tang, tẩm liệm

Nghi thức phát tang và tẩn liệm là những nét đặc trưng của tang lễ miền Bắc truyền thống, đánh dấu thời điểm quan trọng để thân quyến và con cháu trong gia đình tiễn đưa người đã khuất Trước khi tiến hành tẩn liệm, người quá cố được đặt trang trọng trên bàn thờ.

34 giường, xung quanh rắc hoa tươi Đồ dùng tẩm liệm chỉ đơn giản là: vải trắng (không sữ dụng chiếu, vải đỏ…)

Khi tín đồ sắp qua đời, người thân cần thông báo cho linh mục chính xứ và Ban giáo xứ Linh mục sẽ đến để thực hiện lễ sức dầu cho bệnh nhân trước khi họ ra đi Sau đó, linh mục làm phép xác và phép quan trước khi tiến hành nghi thức nhập quan, sau đó di chuyển đến nhà thờ để tổ chức lễ.

Nghi thức phát tang bắt đầu với việc chủ sự rảy nước Thánh lên thi hài và cầu nguyện để xin Chúa thánh hóa người đã khuất, nhấn mạnh rằng họ đã tin cậy vào Chúa trong suốt cuộc đời Người Công giáo tin rằng mặc dù con người phải chết, nhưng linh hồn sẽ sống mãi, được mời gọi đến sự hiệp thông với Chúa Ba Ngôi Đức Giêsu Ki-tô đã phục sinh từ cõi chết, mang lại ơn cứu độ và vinh quang cho nhân loại Theo kế hoạch của Thiên Chúa, cái chết không phải là sự chấm dứt mà là khởi đầu cho cuộc sống mới Là người Kitô hữu, chúng ta sống và chết cho Chúa, thực hiện ý nguyện của Ngài trong cuộc đời mình.

Sau khi đọc lời nguyện, linh mục thực hiện các nghi lễ như làm phép quan tài, khăn tang, và bộ đồ tang, cùng với lễ nhập quan Ngài cầu nguyện: "Lạy Cha, khi thân xác chúng con bị sự chết phá hủy, chúng con tin rằng có nơi cư ngụ vĩnh cửu do Chúa dựng lên trên trời Xin thánh hóa và chúc phúc cho chiếc quan tài này, nơi cư ngụ tạm thời cho thân xác yếu hèn của người anh (chị) em chúng con, để chờ ngày phục sinh."

Khăn tang không chỉ là biểu tượng của nỗi buồn mất mát mà còn mang lại niềm hy vọng cho người tín hữu Ki-tô, vì Chúa hứa sẽ xóa bỏ nỗi đau và cái chết vào ngày phán xét Trong tình liên đới, khăn tang thể hiện sự chia sẻ nỗi buồn trong cuộc chia ly và ghi nhớ tình thương của người đã khuất Nó nhắc nhở chúng ta về sự vô thường của cuộc sống và nghĩa vụ từ bỏ ích kỷ để sống lại vinh quang với Chúa Phục Sinh Màu trắng của khăn tang cũng gợi nhớ về chiếc áo trắng tinh khiết mà chúng ta đã mặc trong ngày chịu Phép Rửa Tội, nhắc nhở mỗi người phải giữ gìn sự thanh sạch đó cho đến khi trình diện trước Chúa Ki-tô Cứu Thế.

Lạy Cha, Đấng Tạo Hóa, xin ban phúc lành cho những tang phục này, để người thân trong tang quyền được an ủi và bình an trong tâm hồn Chúng con cầu xin Cha cho những người mặc trang phục này biết hiệp thông để đền ơn và tha thứ, yêu thương nhau như Chúa đã tha thứ cho chúng con Tang phục mầu trắng, tuy mang ý nghĩa đau thương theo truyền thống Việt Nam, nhưng cũng tượng trưng cho sự tinh khiết và hy vọng trong niềm tin vào Đức Ki-tô Tử Nạn và Phục Sinh, nhắc nhở chúng con về chiếc áo mới trong ngày chịu Phép Rửa Tội, để trở thành con người mới trong Nhiệm Thể Chúa Ki-tô.

Chúng con xin phó thác cuộc đời cho Cha, mong rằng tang quyến trong trang phục trắng luôn hướng về Cha, coi Ngài là lẽ sống và gia nghiệp, sống tinh khiết và sẵn sàng chờ đón ngày Chúa đến Sau khi hoàn tất nghi thức làm phép xác và rảy nước thánh lên tang phục, trưởng gia tộc sẽ phát tang phục cho người thân, trong khi cộng đoàn hát bài hát phù hợp với tang lễ như "Đâu có tình yêu thương."

(tr.123), cầu cho cha mẹ(tr.116), con tìm đến nương nhờ (tr.120)

Trong nghi thức tẩn liệm, cộng đoàn cùng nhau cầu nguyện cho OBACE.T vừa qua đời, xin Chúa ban thưởng cho OBACE.T được về quê trời và hưởng cuộc sống đời đời Chúng ta tin rằng cái chết không phải là kết thúc, mà là cánh cửa dẫn vào sự sống vĩnh hằng Đối với những tín hữu Ki-tô, sự sống chỉ biến đổi chứ không mất đi OBACE.T đã được chịu phép Rửa và bắt đầu cuộc sống vĩnh hằng ngay trên trần gian Chúng ta cầu nguyện cho OBACE.T được hưởng vinh quang Phục Sinh cùng với Đức Ki-tô.

Trong nghi thức tẩn liệm, các thánh ca như "Sự sống thay đổi mà không mất đi" (tr.136), "Trong gian truân" (tr.144), và "Chúa gọi con" (tr.117) đóng vai trò quan trọng Cuộc hành trình của mỗi Kitô hữu trên trần gian, dù dài hay ngắn, đều kết thúc bằng cái chết, và khi bước vào cõi vĩnh hằng, con người phải rời bỏ mọi thứ thuộc về thế giới vật chất Do đó, những bài hát và lời cầu nguyện trong thánh lễ an táng, đặc biệt trong nghi thức tẩn liệm, không chỉ xác nhận thực tại xa cách mà còn thể hiện mối liên kết giữa người sống và kẻ chết, đồng thời mang lại niềm hy vọng nơi Ðức Ki-tô phục sinh cho tất cả tín đồ.

37 đều sẽ được đoàn tụ trên thiên đàng nếu cùng chết với Đức Ki-tô thì sẽ cùng sống với Người

Mỗi tín hữu Ki-tô tin rằng, khi Đức Ki-tô phục sinh, Ngài không còn chết nữa và tử thần không còn quyền lực đối với Ngài Sau nghi thức tẩm liệm, Chủ sự cầu nguyện xin Chúa cho người đã khuất được thoát khỏi tội lỗi và được đón nhận vào nước Thiên Chúa, cùng chung hưởng vinh quang với những người được Chúa chọn, chờ đợi ngày phục sinh thân xác Sau đó, những người phụ trách sẽ di chuyển quan tài đến nhà thờ.

❖ Nghi thức cầu nguyện, phó dâng và từ biệt

Tại nhà thờ, Linh mục thực hiện lễ cầu nguyện và nghi thức phó dâng trước quan tài, tạo nên một khoảnh khắc thiêng liêng, sâu sắc cho thân quyến và người mất Dù có nỗi buồn chia ly, nhưng nghi thức này vẫn mang lại hy vọng vào Đức Ki-tô Đối với hỏa táng, Linh mục mời gọi cộng đoàn cầu nguyện cho linh hồn người đã khuất, xin Chúa mở lòng nhân từ để họ được cứu độ và sum họp với các thánh Nghi thức này được cử hành với sự trang trọng, thể hiện tình yêu thương và lòng tôn kính đối với người đã ra đi.

Trong nghi thức cầu nguyện, ca đoàn cất lên bài hát “Lạy các Thánh của Chúa” trong khi rảy nước thánh và xông hương trên quan tài Chủ tế sau đó cầu nguyện: “Lạy Cha rất nhân từ, chúng con xin phó linh hồn… trong tay Cha Xin cho chúng con hy vọng chắc chắn rằng linh hồn… sẽ sống lại cùng Chúa Ki-tô trong ngày sau hết, như mọi người đã qua đời trong ơn nghĩa Chúa Ki-tô.” Ngài cầu xin Chúa mở cửa thiên đàng cho tôi tớ Chúa và ban cho những người còn sống được an ủi nhau bằng đức tin, chờ đợi ngày tất cả sẽ sống mãi bên Chúa.

Tín lý Ki-tô giáo cho rằng khi chết, hồn sẽ lìa khỏi xác và việc chôn cất gọi là đưa xác, trong khi bí tích xức dầu thánh được xem là phép xác Quan niệm này khác biệt với truyền thống của người Việt, nơi việc đưa người chết ra nghĩa địa được gọi là đưa ma Ngoài việc đưa xác, người Việt còn tin rằng linh hồn cũng được đưa theo, và sau lễ an táng, linh hồn sẽ trở lại nhà của thân chủ để được thờ cúng.

Trước khi từ biệt, tang chủ đặt tiền thưởng trên đầu quan tài cho anh em đạo tỳ, số tiền tùy thuộc vào điều kiện của tang chủ Ca đoàn sẽ hát một bài kết thúc trước khi di quan đến nơi hỏa táng Trong đoàn di quan, người cầm bát hương đi trước, tiếp theo là di ảnh và quan tài, sau đó là con cháu không có nhiệm vụ, cuối cùng là bà con tiễn đưa.

❖ Nghi thức hỏa táng người quá cố

Giá trị và nhữ ng t ồ n t ạ i c ầ n kh ắ c ph ụ c trong nghi th ứ c tang l ễ c ủa ngườ i Công giáo Việt Nam…

của người Công giáo Việt Nam

Dựa trên tài liệu thu thập từ khu vực đồng bằng Bắc Bộ và Tổng Giáo Phận Hà Nội, nửa cuối thế kỷ XIX, người Công giáo khi qua đời được gọi là "sinh thì," trong khi người hấp hối được gọi là "rình sinh thì." Theo giải thích của một số bậc cao niên, người Công giáo tin rằng cái chết trên trần thế là khởi đầu cho một cuộc sống mới ở Thiên đàng Thời điểm hấp hối được xem như là thời điểm khai sinh một cuộc sống hoàn toàn mới Chuông nhà xứ dành cho người chết được gọi là chuông sinh thì hay chuông tử.

Thánh lễ an táng của người Việt theo Công giáo là sự kết hợp giữa tập tục dân gian và nghi thức phụng vụ, do đó, tang lễ của họ mang nhiều nét tương đồng với tang phục của người không theo Công giáo Tín đồ Công giáo thực hiện tang lễ cho người qua đời tương tự như người không theo đạo, nhưng vẫn có những điểm khác biệt rõ rệt, thể hiện sắc thái đặc trưng của Công giáo.

Khi trong gia đình có người bệnh nặng sắp không qua khỏi, cần thông báo cho vị Trùm chính hoặc một thành viên trong nhóm Phụng vụ Giáo họ gần nhất Gia đình nên mời cha Chính xứ hoặc cha Phụ tá đến để ban phép xức dầu cho bệnh nhân Trong trường hợp khẩn cấp, bệnh nhân cần được đưa đến bệnh viện trước, sau đó mời cha đến để thực hiện các phép cần thiết Tuy nhiên, nếu thấy người nhà đau nặng, người thân nên nhanh chóng hành động để đảm bảo sự hỗ trợ kịp thời.

Gia đình đã mời cha xứ đến để ban các bí tích như Giải tội, Thêm sức, xức dầu bệnh nhân và Mình Thánh Chúa cho người hấp hối, giúp họ tham dự một cách chủ động và nhận nhiều ơn Thánh Chúa hơn Thời gian này cũng là cơ hội để bệnh nhân tự xám hối, nhìn lại những việc đã làm và sẵn sàng “từ bỏ” trần thế Ý nghĩa của việc “từ bỏ” là chuẩn bị cho sự ra đi khi Thiên Chúa gọi Chúng ta cần suy ngẫm về cái chết của Đức Kitô trên thánh giá, vì Ngài đã chết và sống lại cho chúng ta, và cũng sẽ cho chúng ta sự sống lại Khi sống với Ngài trong giờ chết, Ngài và Đức Trinh Nữ Maria sẽ đồng hành bên ta.

Giáo Hội không chỉ dạy các tín hữu cầu nguyện trong suốt giờ thánh lễ mà còn kêu xin Đức Trinh Nữ Maria để được sự che chở và hướng dẫn trong đời sống tâm linh.

Mẹ cầu nguyện cho người mất trong giờ chết: “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử” Người Công giáo tin rằng Đức Mẹ Maria đã chứng kiến cái chết đau đớn của Con Mẹ dưới chân thập giá, từ đó hiểu rõ giá trị cao quý của linh hồn và tầm quan trọng của giây phút linh hồn giã từ trần gian để bước vào cuộc sống vĩnh cửu.

Khi một tín đồ đang ở giờ lâm chung, gia đình và người thân thường tụ họp để đọc kinh cầu nguyện, giúp người sắp qua đời chuẩn bị tâm lý cho khoảnh khắc cuối cùng Việc này không chỉ giúp họ vượt qua nỗi sợ hãi mà còn khuyến khích họ noi gương Chúa Ki-tô, sẵn sàng chấp nhận cái chết để được phục sinh và sống đời đời với Ngài Ngay cả khi bệnh nhân đã bất tỉnh, những lời cầu nguyện vẫn mang lại an ủi cho gia đình, giúp họ hiểu rõ ý nghĩa của sự chết trong niềm tin của người tín hữu.

Người Công giáo không có quan niệm chết vào giờ lành hay giờ dữ, không chọn ngày, giờ tốt đưa tang; không thiết hồn bạch, làm nhà táng, minh

Trong tang lễ truyền thống của người Việt, việc không có linh xa (kiệu hay xe) để đưa rước linh hồn người đã khuất là một điểm đặc biệt Tuy nhiên, theo quy định pháp luật, có một số ngày như chủ nhật mùa vọng, mùa chay, phục sinh, các lễ trọng, thứ 4 lễ Tro và Tam Nhật vượt qua, không được tổ chức lễ an táng, mà cần phải chuyển sang ngày khác.

Tang lễ của người Việt theo Công giáo hiện nay đã trở nên đơn giản và bớt cầu kỳ hơn, đặc biệt tại giáo xứ Thái Hà Những nghi thức truyền thống rườm rà, kéo dài và tốn kém đã được điều chỉnh để phù hợp hơn với thực tế Chẳng hạn, trong nghi thức chia buồn và đáp lễ, thay vì phải quỳ ba lần và uống rượu ba lần, giờ đây chỉ cần thực hiện hành lễ và uống một chút rượu tượng trưng Bên cạnh đó, các lễ vật cúng cũng đã được lược giản đáng kể, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho gia đình trong thời gian tang lễ.

Khi một tín đồ nam giới qua đời, Nhà thờ sẽ rung chuông bảy tiếng rời và ba hồi, trong khi tín đồ nữ giới sẽ được chuông rung chín tiếng rời và ba hồi, phản ánh quan niệm dân gian về nam thất (7) và nữ cửu (9) Âm thanh của chuông sẽ thông báo cho những người đồng đạo biết về sự ra đi của tín đồ, đồng thời xác định giới tính của người quá cố Khi nghe tiếng chuông sầu, tín đồ sẽ ngừng công việc, hướng về phía nhà thờ và đọc Kinh Lạy Cha để bày tỏ lòng thương tiếc đối với người đã khuất.

Trong xứ đạo, lễ chồng mồ được tổ chức trong nhà thờ dành cho tín đồ đã qua đời Quan tài được đặt ở vị trí trung tâm, đầu hướng về cung thánh Trên quan tài, một tấm vải đen thêu hình thập giá màu trắng được phủ lên Số nến thắp ở bốn góc quan tài phụ thuộc vào số tiền xin lễ, có thể nhiều hoặc ít.

Lễ mồ có thể diễn ra lâu hay chóng, trang trọng hay đơn giản tùy thuộc vào số tiền xin lễ của thân chủ Những tín đồ phạm tội nặng không được tổ chức lễ mồ tại nhà thờ và thường được an táng ở những nơi được coi là "mảnh đất bị nguyền rủa" trong khuôn viên nhà thờ Trong khi đó, tín đồ phạm tội nhẹ vẫn có thể được đưa vào làm lễ mồ.

47 nhà thờ làm lễ mồ nhưng quan tài chỉ được quàn ở gian cuối, hình thức tiến hành đơn giản

Nghi lễ chồng mồ có nguồn gốc chưa xác định rõ ràng, nhưng theo giám mục Phero Maria trong Thư chung gửi bổn đạo đại phận Tây Đàng Ngoài năm 1903, lễ này đã được nhắc đến Các tín đồ tại đây tin rằng nghi lễ này đã tồn tại từ lâu trước thời điểm đó.

Nghi lễ an táng cho người qua đời được quy định trong cuốn Sách an ủi kẻ liệt, nhưng hiện nay không còn tìm thấy văn bản gốc của cuốn sách này Trong Thư chung gửi bổn đạo Địa phận Tây Đàng Ngoài vào tháng 12/1895, giám mục Phero Maria Đông đã đề cập đến cuốn sách, cho rằng nó chỉ ghi chép một số kinh nghiệm quen thuộc trong lúc hấp hối mà không hướng dẫn cụ thể về cách cất xác theo phép đạo Do đó, nhiều Thư chung của các giám mục địa phận sau này đã phải quy định rõ ràng về việc thực hiện lễ mồ, như Thư chung ngày 21/5/1796 của giám mục địa phận Đông.

Sau lễ chồng mồ diễn ra ở nhà thờ, người qua đời được đưa đi an táng

Trong một đám tang truyền thống, thứ tự thường thấy bao gồm cờ tang, ba quan viên cầm thánh giá nến cao, trẻ nam, trung nam, bát âm, vòng hoa, quan tài, thân chủ người qua đời và bổ đạo đưa tiễn Tuy nhiên, nhiều nghi thức đã được lược bỏ trong thời hiện đại Dù vậy, những quy định nghi thức vẫn được thực hiện, như việc chôn cất thường diễn ra vào buổi trưa Khi đưa thi hài ra khỏi nhà, chân sẽ được đưa ra trước, đầu ra sau Xác được đưa đến nhà thờ giáo xứ để làm lễ, đặt trước cung thánh với đầu quay ra hướng cửa chính Sau khi lễ xong, thi hài sẽ được đưa thẳng ra nghĩa địa, với thứ tự chân đi trước, đầu đi sau Nghi thức này có hai cách giải thích: một là hướng về Thánh giá phía trước, hai là người Công giáo qua đời sẽ về với Chúa Đoàn đưa tang thường có một người cầm cây Thánh giá dẫn đầu.

Ngày đăng: 17/12/2021, 19:45

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Ad limina (2009), Hu ấ n t ừ c ủa Đức Thánh Cha Benedicto XVI 27/6/2009, Năm Thánh 2010 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Huấn từ của Đức Thánh Cha Benedicto XVI 27/6/2009
Tác giả: Ad limina
Năm: 2009
2. Phan K ế Bính (1990), Vi ệ t Nam phong th ụ c, Nxb. T ổ ng h ợp Đồng Tháp Sách, tạp chí
Tiêu đề: Việt Nam phong thục
Tác giả: Phan K ế Bính
Nhà XB: Nxb. Tổng hợp Đồng Tháp
Năm: 1990
4. Linh m ụ c Leopold Cadiere, Văn hóa, tín ngưỡng và thực hành tôn giáo người Việt (Đỗ Trinh Huệ biên dịch), Nxb. Thu ận Hóa Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn hóa, tín ngưỡng và thực hành tôn giáo người Việt (Đỗ Trinh Huệ biên dịch)
Nhà XB: Nxb. Thuận Hóa
6. Linh mục Trương Bá Cần (2008), L ị ch s ử phát triển Công giáo ở Vi ệ t Nam, Nxb. Tôn giáo Hà Nộ i Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lịch sử phát triển Công giáo ở Việt Nam
Tác giả: Linh mục Trương Bá Cần
Nhà XB: Nxb. Tôn giáo Hà Nội
Năm: 2008
8. PGS.TS Nguyễn Hồng Dương (2001), Công giáo trong văn hóa Việt Nam, Nxb. Văn hóa – Thông tin Sách, tạp chí
Tiêu đề: Công giáo trong văn hóa Việt Nam
Tác giả: PGS.TS Nguyễn Hồng Dương
Nhà XB: Nxb. Văn hóa – Thông tin
Năm: 2001
9. PGS.TS Nguy ễ n H ồng Dương (2001), Nghi l ễ và lố i s ống Công giáo trong văn hoá Việ t Nam, Nxb. KHXH, HN Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghi lễ và lối sống Công giáo trong văn hoá Việt Nam
Tác giả: PGS.TS Nguy ễ n H ồng Dương
Nhà XB: Nxb. KHXH
Năm: 2001
10. PGS.TS Nguy ễ n H ồng Dương (2011), Tổ chức xứ, họ đạo Công giáo ở Vi ệ t Nam, l ị ch s ử - hi ệ n t ại và nhữ ng v ấn đề đặ t ra, Nxb. KHXH, HN Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tổ chức xứ, họ đạo Công giáo ở Việt Nam, lịch sử - hiện tại và những vấn đềđặt ra
Tác giả: PGS.TS Nguy ễ n H ồng Dương
Nhà XB: Nxb. KHXH
Năm: 2011
11. PGS.TS Nguyễn Hồng Dương (2012), M ộ t s ố v ấn đề cơ bả n c ủa Công giáo ở Vi ệ t Nam hi ệ n nay, Viên KHXH VN Viện nghiên cứu Tôn Giáo, Nxb. T ừ Điển Bách Khoa Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số vấn đề cơ bản của Công giáo ở Việt Nam hiện nay
Tác giả: PGS.TS Nguyễn Hồng Dương
Nhà XB: Nxb. Từ Điển Bách Khoa
Năm: 2012
12. PGS.TS. Nguyễn Hồng Dương (2016), Công giáo Việt Nam đố i v ớ i s ự phát triể n b ề n v ững đất nướ c, Nxb. Công An Nhân Dân Sách, tạp chí
Tiêu đề: Công giáo Việt Nam đối với sựphát triển bền vững đất nước
Tác giả: PGS.TS. Nguyễn Hồng Dương
Nhà XB: Nxb. Công An Nhân Dân
Năm: 2016
13. Đố i tho ại và rao truyề n Ki-t ô giáo và các tôn giáo (1998).Định hướ ng, Tùng Thư Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đối thoại và rao truyền Ki-tô giáo và các tôn giáo
Tác giả: Đố i tho ại và rao truyề n Ki-t ô giáo và các tôn giáo
Năm: 1998
14. Giáo Hội Công Giáo, Các nghi thức, Nxb Tôn giáo Sách, tạp chí
Tiêu đề: Các nghi thức
Nhà XB: Nxb Tôn giáo
16. Giáo luậ t gi ải thích và áp dụ ng (1992). Q.4. Nhiệm vụ thánh hóa của giáo hộ i. Roma Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo luật giải thích và áp dụng
Tác giả: Giáo luậ t gi ải thích và áp dụ ng
Năm: 1992
18. Giờ Chúa gọi nghi thức viếng xác và cầu hồn, Nxb. Tôn Giáo 2010 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giờ Chúa gọi nghi thức viếng xác và cầu hồn
Nhà XB: Nxb. Tôn Giáo 2010
20. Đỗ Quang Hưng (1991), M ộ t s ố v ấn đề l ị ch s ử Thiên Chúa giáo ở Vi ệ t Nam, ĐH Tổ ng h ợp, Hà Nộ i Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số vấn đề lịch sử Thiên Chúa giáo ở Việt Nam
Tác giả: Đỗ Quang Hưng
Năm: 1991
21. Ph ạ m Th ị Bích Hằ ng (1998), V ấn đề th ờ kính tổ tiên trong nền văn hóa đương đạ i Vi ệ t Nam, Luận văn tốt nghiệp đại học chuyên ngành văn hóa Đông Nam Á, ĐH KHXH&NV, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Vấn đề thờ kính tổ tiên trong nền văn hóa đương đại Việt Nam
Tác giả: Ph ạ m Th ị Bích Hằ ng
Năm: 1998
22. H ộ i đồng giám mụ c B ỉ (1997): Đức tin Công giáo . Nxb. DESCLEE Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đức tin Công giáo
Tác giả: H ộ i đồng giám mụ c B ỉ
Nhà XB: Nxb. DESCLEE
Năm: 1997
23. H ội đồng Giám mụ c Vi ệ t Nam (2004), B ộ giáo luậ t 1983, Nxb. Tôn Giáo Hà Nộ i Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bộ giáo luật 1983
Tác giả: H ội đồng Giám mụ c Vi ệ t Nam
Nhà XB: Nxb. Tôn Giáo Hà Nội
Năm: 2004
24. Hội đồng Giám mục Việt Nam (2008), Kinh Thánh Cựu Ước và Tân Ướ c, Nxb. Tôn Giáo Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kinh Thánh Cựu Ước và Tân Ước
Tác giả: Hội đồng Giám mục Việt Nam
Nhà XB: Nxb. Tôn Giáo
Năm: 2008
26. Linh m ụ c Phaolo Nguy ễ n Lu ậ t Khoa. OFM biên dị ch (2010), Nhân học Ki- tô KARL RAHNER, Nxb. Từ Điển Bách Khoa Sách, tạp chí
Tiêu đề: OFM "biên dịch (2010),"Nhân học Ki-tô KARL RAHNER
Tác giả: Linh m ụ c Phaolo Nguy ễ n Lu ậ t Khoa. OFM biên dị ch
Nhà XB: Nxb. Từ Điển Bách Khoa
Năm: 2010
27. Kinh Nghĩa đứ c tin (1991), Sách Kinh bổn, Nxb. Tòa giám mục Phát Diệm Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kinh Nghĩa đức tin
Tác giả: Kinh Nghĩa đứ c tin
Nhà XB: Nxb. Tòa giám mục Phát Diệm
Năm: 1991

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

HÌNH ẢNH TƯ LIỆ U - Khóa luận nghi thức tang lễ của người việt theo công giáo
HÌNH ẢNH TƯ LIỆ U (Trang 71)

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w