Về các giai đoạn chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế Việt Nam
Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (khóa IV) vào tháng 9 năm 1979 đánh dấu bước khởi đầu quan trọng trong công cuộc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế của Việt Nam.
+ Chỉ thị 357 (3-10-1979) của Chính phủ cho phép các hộ nông dân được nuôi và bán trâu bò, chấp nhận trâu bò là hàng hoá
Chỉ thị 100 CT/TW ngày 13/1/1981 của Ban Bí thư đã quy định về việc khoán sản phẩm cuối cùng cho xã viên hợp tác xã nông nghiệp, nhằm tạo điều kiện cho nông dân đầu tư và lao động tích cực, từ đó nâng cao sản lượng vượt mức khoán của hợp tác xã.
+ Nghị quyết TU 2 khoá VI (tháng 4-1987) về lưu thông phân phối, thực hiện "4 giảm", bỏ cấm chợ ngăn sông;
+ Nghị quyết TU 3 khoá VI (tháng 8 - 1987) về đổi mới quản lý nhà nước đối với các xí nghiệp quốc doanh;
+ Nghị quyết 10 NQ/TW ngày 5/4/1988 của Bộ chính trinh khoá VI (1988) về đổi mới cơ chế quản lý nông nghiệp;
Nghị quyết 25 CP cho phép các xí nghiệp lập kế hoạch ba phần, trong đó phần C cho phép xí nghiệp tự xác định thị trường, tự cân đối vật tư và tiền vốn Các xí nghiệp cũng có quyền tự đánh giá và tiêu thụ sản phẩm, đồng thời được quyền sử dụng 80% lợi nhuận mà họ tạo ra.
Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (khóa VI) vào tháng 3 năm 1989 đã khẳng định những quan điểm đổi mới kinh tế chủ yếu được nêu trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VI Tuy nhiên, sau đại hội, các quan điểm và đường lối mới này vẫn chưa được triển khai vào thực tiễn.
+ Trước đó, đã nhiều năm nền kinh tế nước ta rơi vào tình trạng siêu lạm phát, lạm phát hàng năm từ 300% đến 600%;
+ Năm 1988, Nhà nước chủ trương mời các nhà khoa học tham gia xây dựng phương án chống lạm phát;
+ Cuối năm 1988 bằng biện pháp phát hành tiền bù đắp bội chi ngân sách đã tác động trược tiếp đến cơn sốt giá cả thời gian đó;
Vào tháng 3 năm 1989, Nhà nước đã quyết định chuyển toàn bộ lương thực sang kinh doanh, chấm dứt hoàn toàn chế độ cung cấp lương thực Sự chuyển đổi này đã xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu và bao cấp, khẳng định tính đúng đắn của cơ chế thị trường, đồng thời kết thúc cuộc tranh luận lý luận kéo dài nhiều năm về vấn đề thị trường giá cả.
Nhà nước đã thực hiện biện pháp giảm chi ngân sách trong giai đoạn này bằng cách tạm ngừng đầu tư vào nhiều công trình và cắt giảm chi tiêu hành chính, sự nghiệp cùng nhiều khoản khác Tuy nhiên, những biện pháp này chỉ mang tính ngắn hạn và chưa đạt được giải pháp căn bản, dài hạn và hợp lý.
Từ năm 1979 đến 1989, giai đoạn này tập trung vào việc khôi phục nền kinh tế về quỹ đạo phát triển vốn có Thực tế, quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế tại Việt Nam đã bắt đầu diễn ra trong thời gian này.
Năm 1979, nền kinh tế Việt Nam chủ yếu dựa vào cơ chế tập trung bao cấp, trái với quy luật khách quan Để phát triển bền vững, cần chú trọng ba yếu tố cơ bản: phát triển kinh tế hàng hóa là con đường không thể thiếu, khuyến khích sản xuất qua phát triển kinh tế nhiều thành phần, và áp dụng cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước Đến năm 1989, chúng ta không chỉ thừa nhận những yếu tố này mà còn bắt đầu triển khai thực tế.
Tổng kết 10 năm đổi mới (1986 - 1995):
Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng vào năm 1986 đã khởi xướng đường lối đổi mới toàn diện, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong chính sách Đổi mới Dựa trên chính sách này, Việt Nam đã chuyển mình từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đại hội VII đã thông qua "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội" cùng với "Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000", đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc định hướng phát triển kinh tế và xã hội của đất nước.
- Nhận định của Đại hội VII: nước ta "đã khắc phục được một bước rất quan trọng tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội" ( 2 );
- Nhận định của Đại hội VIII: nước ta "đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhưng một số mặt còn chưa vững chắc" ( 3 );
- Nhịp độ tăng bình quân GDP hàng năm thuộc loại khá, liên tục và ổn định (thời kỳ 1976
- 1980 chỉ đạt 0,4%; thời kỳ 1981 - 1995 là 6,4% và thời kỳ 1986 - 1990 là 3,9%) _ Bảng:
+ Nhịp độ tăng trưởng GDP (%)
- Lạm phát bị đẩy lùi từ 774,7% năm 1986 xuống còn 67,4% năm 1990 ( 4 ) _ Bảng:
(Nguồn: PGS PTS Nguyễn Trí Dĩnh, Lịch sử kinh tế quốc dân NXB Giáo dục - 1996)
Trong điều kiện của nền kinh tế đa thành phần giai đoạn 1986 1990:
+ Công nghiệp quốc doanh phải đương đầu với những thử thách hết sức quyết liệt;
Thành phần kinh tế tập thể trong ngành công nghiệp đang đối mặt với nhiều khó khăn nghiêm trọng Ngược lại, các thành phần kinh tế khác đã trải qua thời gian dài bị hạn chế, nhưng với cơ chế mới, chúng đã phát triển nhanh chóng.
Nhìn tổng quát, công cuộc đổi mới 10 năm (1986 - 1995) đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng Cụ thể là:
+ Nhịp độ phát triển kinh tế khá nhanh và ổn định;
+ Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng tiến bộ;
+ Kiềm chế và đẩy lùi được nạn siêu lạm phát;
+ Đời sống nhân dân được cải thiện một bước.
Về công tác Quy hoạch Thủ đô
Kể từ khi cách mạng tháng Tám thành công, Hà Nội đã được chọn làm Thủ đô của Việt Nam và trở thành trung tâm văn hóa, chính trị, kinh tế quan trọng của cả nước Từ năm 1945 đến nay, Hà Nội đã phát triển song hành cùng quá trình xây dựng đất nước, trải qua nhiều giai đoạn khác nhau.
( 2 ) Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII, 1994, tr 6
( 3 ) Báo cáo chính trị của BCH TU Đảng khoá VII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng
Tiếp tục sự nghiệp đổi mới và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm mục tiêu xây dựng một xã hội công bằng, văn minh, với dân giàu và nước mạnh, vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
* Giai đoạn 1955 1960: Khôi phục, cải tạo và phát triển kinh tế, văn hóa
Sau giai đoạn khôi phục kinh tế từ 1955 đến 1957, vào tháng 9 năm 1959, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết về quy hoạch cải tạo và mở rộng thành phố Hà Nội Nghị quyết nhấn mạnh rằng Hà Nội cần có bộ mặt xứng đáng, với phương châm cải tạo và mở rộng phục vụ cho nhiệm vụ trung tâm chính trị và văn hóa của cả nước, đồng thời hỗ trợ cho công nghiệp, sản xuất và đời sống của nhân dân lao động Địa giới Hà Nội đã được mở rộng từ 1.200 ha năm 1954 lên 2.000 ha vào năm 1959, với dân số đạt 638.000 người vào năm 1960.
Nội thành Hà Nội bao gồm 4 khu vực chính: Ba Đình, Đồng Xuân, Hoàn Kiếm và Hàng Cỏ Trong khi đó, ngoại thành Hà Nội được chia thành 4 quận: Quận V ở phía Tây Bắc với 6 xã (Thụy Phương, Phú Thượng, Tứ Liên, Xuân La, Xuân Đỉnh, Cổ Nhuế); Quận VI ở phía Tây và Tây Nam với 5 xã (Hòa Bình, Dịch Vọng, Yên Hòa, Trung Hòa, Mễ Trì); Quận VII ở phía Đông Nam với 6 xã (Quỳnh Mai, Thanh Trì, Lĩnh Nam, Trần Phú, Yên Sở, Đoàn Kết); và Quận VIII ở phía Đông Bắc với 6 xã (Ngọc Thụy, Thượng Thanh, Việt Hưng, Tiến Bộ, Hồng Tiến, Gia Lâm) Quy hoạch đô thị Hà Nội đã được khởi đầu với sự hỗ trợ của các chuyên gia từ khối XHCN cũ.
* Giai đoạn 1961 1965: Thời kỳ mở rộng Thành phố lần thứ nhất
Trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, địa giới hành chính Thành phố Hà Nội được mở rộng, với đồ án quy hoạch xây dựng Thủ Đô được lập vào năm 1962 nhằm phát triển các công trình nhà ở, nhà công nghiệp và nhà công cộng Dân số dự kiến đạt khoảng 1 triệu người trên diện tích 20.000Ha, bao gồm 4 quận nội thành và 4 huyện ngoại thành Hướng phát triển không gian thành phố chủ yếu về phía Nam, Tây và một phần Đông Bắc Giai đoạn này chứng kiến sự cải tạo các khu ở lao động cũ và xây dựng một số khu nhà ở mới theo mô hình tập thể Các khu công nghiệp được phát triển với sự hỗ trợ từ các nước XHCN, đánh dấu bước quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá Thủ đô Đồng thời, các công viên cây xanh như công viên Thống Nhất và đường Thanh Niên cũng được xây dựng để phục vụ đời sống nhân dân.
Khu vực ngoại thành Hà Nội, bao gồm huyện Gia Lâm với các xã Trung Mầu, Kiêu Kị, Đa Tốn, Phù Đổng; huyện Từ Liêm với xã Thượng Cát; và huyện Thanh Trì với xã Yên Sở, đang được lập quy hoạch cải tạo Quy hoạch này tập trung vào việc cải tạo hạ tầng làng xóm, bao gồm chỉnh trang đường xá, vệ sinh môi trường, và cung cấp điện cho các xóm Đối với các xóm nhỏ ngoài đê, sẽ có kế hoạch di chuyển vào trong đê để hình thành làng xóm mới Ngoài ra, quy hoạch cũng sẽ cải tạo các trục đường, mương thủy lợi, ao hồ, và phân bổ quy hoạch đồng ruộng theo hệ thống kỹ thuật hạ tầng như đường và mương tưới, tiêu Bên cạnh đó, sẽ xây dựng các công trình công cộng tại trung tâm xã để phục vụ nhu cầu của cộng đồng.
Uỷ ban nhân dân, nhà trẻ, trường học, hợp tác xã mua bán, trạm xá
* Giai đoạn 1966 1985: Thời kỳ mở rộng Thành phố lần thứ hai
Trong bối cảnh chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ lan rộng ra miền Bắc, công cuộc cải tạo và xây dựng để hàn gắn vết thương chiến tranh chưa đạt được nhiều thành tựu Do đó, quá trình thực hiện quy hoạch tổng thể từ năm 1960 đến 1962 đã phải tạm thời đình lại.
Sau khi miền Nam được giải phóng vào ngày 30-4-1975, cả nước đã thống nhất và Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV diễn ra vào năm 1976 tại Hà Nội Tại đại hội, nhiệm vụ chiến lược của đất nước được xác định là phát triển theo con đường Chủ nghĩa xã hội Đồng thời, đại hội cũng đã nhất trí chọn Hà Nội làm Thủ Đô của cả nước, khẳng định vai trò và vị trí quan trọng của Thủ Đô trong sự phát triển chung của đất nước.
Phạm vi ranh giới của Hà Nội được điều chỉnh mở rộng lần thứ 2 giai đoạn 1978
Vào năm 1980, Hà Nội đã bắt đầu mở rộng phát triển về phía Tây, bao gồm bốn quận nội thành cũ (Ba Đình, Hoàn Kiếm, Đống Đa, Hai Bà Trưng) và 11 huyện ngoại thành (Mê Linh, Sóc Sơn, Đông Anh, Gia Lâm, Thanh Trì, Từ Liêm, Hoài Đức, Đan Phượng, Thạch Thất, Phúc Thọ, Ba Vì) Trong số này, có bảy thị trấn mới được thành lập: Sài Đồng, Đức Giang, Đông Anh, Cầu Giấy, Nghĩa Đô, Cầu Diễn, và Mai Dịch Đô thị phát triển theo các trục đường chính với các thị trấn mới Đến năm 1981, Quy hoạch tổng mặt bằng thành phố Hà Nội và quy hoạch vùng phụ cận đã được phê duyệt theo quyết định số 100/TTg, ngày 24/1/1981, với các nội dung chính liên quan đến sự phát triển đô thị.
+ Dân số: Đến 2000 khoảng 1,5 triệu dân nội thành
+ Đất đai: Khoảng 13.550Ha nội thành, bình quân >90M2 đất đô thị/người, vùng ngoại thành mở rộng với diện tích khoảng 2.136km 2
Hệ thống giao thông vành đai được hình thành kết hợp với các trục hướng tâm vào Thành phố, với việc mở rộng vành đai đường bộ và đường sắt ra xa khu vực trung tâm.
+ Hình thành hệ thống trung tâm: Hoàn Kiếm, Ba Đình, Hồ Tây, và mở trục không gian lớn đi Hoà Lạc
Khu vực nội ngoại thành sẽ hình thành 9 cụm công nghiệp, bao gồm các địa điểm: Vĩnh Tuy, Minh Khai, Trương Định, Đuôi Cá, Pháp Vân, Văn Điển, Cầu Bươu, Thượng Đình, Chèm, Đức Giang, Sài Đồng, Yên Viên và Đông Anh.
Các khu nhà ở mới được xây dựng theo hình thức tiểu khu như Khương Thượng, Trung Tự, Thành Công, Văn Chương, và Vĩnh Hồ với chiều cao từ 4-5 tầng, cùng với các khu thấp tầng như Yên Lãng A-B, Trương Định có chiều cao 2 tầng Hầu hết các công trình đều sử dụng nhà lắp ghép tấm lớn, đã tạo ra một khối lượng xây dựng đáng kể, đáp ứng kịp thời nhu cầu cấp bách về nhà ở cho cư dân đô thị.
Kể từ năm 1973, Hà Nội đã chứng kiến sự phát triển của nhiều công trình công cộng lớn, bao gồm nhà khách Chính phủ, Bưu điện Hà Nội, Nhà văn hóa thiếu nhi, Viện nghiên cứu khoa học tự nhiên và Khách sạn Thắng Lợi.
Hệ thống công viên cây xanh, giao thông và hạ tầng kỹ thuật đô thị tại Hà Nội được chú trọng phát triển Đến năm 1983, Bộ Chính trị đã xác định Thủ đô Hà Nội là trung tâm đầu não về chính trị, văn hóa, khoa học kỹ thuật của cả nước, đồng thời là trung tâm kinh tế và giao dịch quốc tế.
Năm 1985, diện tích nội thành Hà Nội đạt 43 km², tăng từ 12 km² vào năm 1955, trong khi dân số nội thành cũng tăng từ 470.000 người lên 870.000 người Diện tích và dân số ngoại thành tăng từ 12 đến 15 lần, cho thấy sự mở rộng đáng kể của không gian đô thị Sự phát triển này diễn ra theo mô hình đô thị xã hội chủ nghĩa tập trung bao cấp và theo hệ thống tầng bậc.
Điều tra thu thập số liệu về công tác Quy hoạch Thủ Đô thời kỳ 1986 1990
Quy hoạch tổng mặt bằng Thành phố và vùng phụ cận
Trong giai đoạn 1986 đến 1990, căn cứ pháp lý cho công tác quy hoạch tại Hà Nội là Quy hoạch tổng mặt bằng thành phố và quy hoạch vùng phụ cận, được phê duyệt theo Quyết định số 100/TTg ngày 24/1/1981 Dự báo dân số vùng nội thành sẽ đạt 1,5 triệu người vào năm 2000, trong khi dân số các vùng dự trữ phát triển ước tính từ 1,8 đến 1,9 triệu người, bao gồm các khu dân cư đô thị lân cận Tổng diện tích đất trong ranh giới thành phố là 2.136 km², với diện tích đất xây dựng nội thành trong ranh giới thiết kế là 20.000 ha.
HÌNH 1.2.1-1 QUY HOẠCH TỔNG MẶT BẰNG
THÀNH PHỐ HÀ NỘI NĂM 1981
(Theo Quyết định số 100/TTg, ngày 24/1/1981.)
(Nguồn: Viện QHXD Hà Nội)
HÌNH 1.2.1-2 THÀNH PHỐ HÀ NỘI NĂM 1989 (Nguồn: Bản đồ địa hình tỷ lệ 1/50.000: Đặng Vũ Khắc - GDTA - 1989)
Giai đoạn này, Hà Nội trải qua sự thay đổi lớn về địa giới hành chính, khi một số huyện ngoại thành được trả về cho các tỉnh lân cận Thủ đô phát triển mở rộng về phía Tây, bao gồm bốn quận nội thành là Ba Đình, Hoàn Kiếm, Đống Đa, Hai Bà Trưng và 11 huyện ngoại thành như Mê Linh, Sóc Sơn, Đông Anh, Gia Lâm, Thanh Trì, Từ Liêm, Hoài Đức, Đan Phượng, Thạch Thất, Phúc Thọ, Ba Vì Trong số này, có bảy thị trấn mới được thành lập: Sài Đồng, Đức Giang, Đông Anh, Cầu Giấy, Nghĩa Đô, Cầu Diễn, Mai Dịch, nằm trong các huyện giáp ranh với thành phố.
(Hình: 1.2.1-3 ) HÌNH 1.2.1-3 QUY HOẠCH VÙNG PHỤ CẬN NĂM 1981
Theo Quyết định số 100/TTg ngày 24/1/1981, tổ chức không gian khu vực nội thành được thiết kế với một trục chính theo kiểu đại lộ hướng Tây Nam hồ Tây, tạo nên trục trung tâm và mở rộng thành phố theo cấu trúc "cánh bướm" Hệ thống cây xanh dọc hai bên các trục phố chính kết hợp với mạng lưới công trình phục vụ văn hóa và đời sống, được tổ chức theo mô hình đô thị xã hội chủ nghĩa với hệ thống tầng bậc, yêu cầu nguồn đầu tư lớn từ Nhà nước theo phương thức tập trung.
Cơ cấu quy hoạch Thành phố được chia thành nhiều khu vực chức năng, trong đó có các khu dân dụng gồm nhiều tiểu khu nhà ở mới
Hữu ngạn và Tả ngạn sông Hồng được kết nối bởi ba cây cầu chính: Long Biên, Thăng Long và Thanh Trì Sẽ có thêm một cây cầu mới ở phía Bắc hồ Tây khi điều kiện cho phép Đồ án Quy hoạch năm 1981, với sự hỗ trợ của các chuyên gia Liên Xô, đã tiến hành điều tra về giới hạn và điều kiện địa chất công trình trong khu vực nội thành và lân cận, đồng thời phân loại nhà ở dựa trên tầng cao, mật độ và mức độ hao mòn, nhằm định hướng cho việc xây dựng và cải tạo công trình.
(HÌNH 1.2.1-4): TỔ CHỨC KHÔNG GIAN TRUNG TÂM XUNG QUANH HỒ TÂY -
PHỤC VỤ VĂN HOÁ ĐỜI SỐNG VÀ ĐƯỜNG ĐI BỘ, XE ĐẠP - 1981
(HÌNH 1.2.1-7): SƠ ĐỒ GIỚI HẠN ĐẤT VÀ ĐIỀU KIỆN ĐỊA CHẤT CÔNG TRÌNH
Vùng ngoại thành được khảo sát để đánh giá tiềm năng khai thác đất đai và phát triển nông nghiệp, nhằm phục vụ nhu cầu sống của cư dân thành phố.
(HÌNH 1.2.1-8): SƠ ĐỒ GIỚI HẠN ĐẤT VÀ ĐIỀU KIỆN ĐỊA CHẤT CÔNG TRÌNH
Quy hoạch chi tiết các khu vực chức năng đô thị
Trong giai đoạn 1986 đến 1990, công tác quy hoạch diễn ra trong bối cảnh Chính phủ quyết tâm thực hiện đổi mới toàn diện nền kinh tế, với chủ trương "Lấy đô thị nuôi đô thị".
Nhà nước và nhân dân cùng nhau thực hiện nhiệm vụ xây dựng đô thị, huy động mọi thành phần kinh tế tham gia vào quy hoạch chi tiết khu vực Hữu ngạn sông Hồng Quy hoạch này bao gồm nhiều chức năng, đặc biệt là nhà ở, các công trình công cộng và mạng lưới hạ tầng kỹ thuật của Thành phố Các tổ chức xây dựng và cơ quan cũng tích cực tham gia vào việc xây dựng nhà ở cho cán bộ công nhân viên Những tuyến nhà ở dân tự xây đã hình thành tại các khu vực như đường Kim Ngưu, khu Mai Động và đường Giải Phóng Ngoài ra, Nhà nước cũng đã đầu tư hoàn chỉnh vào tiểu khu Nghĩa Đô.
* Về hạ tầng kỹ thuật toàn Thành phố:
Năm 1986, Báo cáo khả năng khai thác nước dưới đất vùng Hà Nội được lập do Hội địa chất Việt Nam (Phân hội địa chất thuỷ văn) chủ trì;
Năm 1988, Chính phủ Nhật Bản đã đề nghị hỗ trợ kỹ thuật cho quy hoạch tổng thể hệ thống thoát nước thành phố, bao gồm các nghiên cứu cải tạo hệ thống hồ và mương thoát nước như Hồ Ba Mẫu và Phương Liệt.
Từ năm 1985 đến 1990, một số tuyến giao thông chính đã được xác định chỉ giới đường đỏ và luận chứng kinh tế kỹ thuật, bao gồm tuyến Láng Hạ, cầu Trung Kính - Đội Cấn (tỷ lệ 1/2000), tuyến Hàng Bột - Giảng Võ - Kim Mã - Đội Cấn (tỷ lệ 1/2000), tuyến phố từ Láng Trung đến trường ĐH Ngoại Thương, trục Quốc lộ 1A, và tuyến đường cùng mương từ cầu Trung Kính đến vành đai lên cầu Thăng Long (vành đai 3), cùng với trục Kim.
Mã - Thủ Lệ - Nghĩa Đô (tỷ lệ 1/2000), trục xa lộ Thăng Long - Nội Bài, trục Cầu Giấy - Hùng Vương (tỷ lệ 1/2000)
Thành phố đã triển khai Quy hoạch chi tiết và thực hiện một số Chương trình nhằm nâng cao điều kiện sống cho cư dân đô thị, trong đó có Chương trình điện chiếu sáng.
(1989), chương trình cấp nước Hà Nội (1986 1988) như:
Quy hoạch thành phố Hà Nội được thực hiện với tỷ lệ 1/10.000, do Viện Năng Lượng (Ban quản lý công trình chiếu sáng) cấp, trong khuôn khổ Chương trình điện chiếu sáng Bản quy hoạch này được lập ở tỷ lệ 1/2000 vào năm 1989.
+ Quy hoạch cấp nước (tỷ lệ 1/2000, 1/5000) các quận: Ba Đình, Đống Đa, Hai Bà Trưng, Hoàn Kiếm - 1986
+ Quy hoạch cấp nước (tỷ lệ 1/500) các tiểu khu: Nghĩa Đô, Thành Công, Nam Thành Công nhóm C, Thành Công nhóm G… - 1986
+ Quy hoạch cấp nước khu vực Từ Liêm - Đống Đa tỷ lệ 1/500 (1986 1991) Nhà máy nước Mai Dịch
* Khu vực Nội thành thành phố:
- Năm 1987, quy hoạch chi tiết tỷ lệ 1/5000 phân chia Thành phố (khu vực 4 quận cũ) thành các Khu quy hoạch:
+ Khu quy hoạch số 1: Hoàn Kiếm - Ba Đình
+ Khu quy hoạch số 2: Hai Bà Trưng - Thanh Trì
+ Khu quy hoạch số 3: Đống Đa - Từ Liêm
+ Khu quy hoạch số 4: Tây Hồ Tây Đến năm 1989, lập Hồ sơ hoàn công cho các khu Bách Khoa, khu nhà ở Giảng
Tình trạng cơi nới trái phép tại các tiểu khu tập thể cũ đang gia tăng do nhu cầu bức thiết về nhà ở Các khoảng không gian trống giữa các dãy nhà tập thể tiếp tục được khai thác để xây dựng nhà ở cho cán bộ công nhân viên, điển hình là những công trình kiểu "xây chen" như dự án của Công ty xây dựng nhà ở Hà Nội tại phường Trung Tự.
Đất trống còn lại trong các quận nội thành chủ yếu được sử dụng để xây dựng nhà ở, với nhiều tiểu khu nổi bật như Đội Cấn, Cầu Bươu, Trung Tự, Bách Khoa, Văn Chương, Thịnh Quang - Yên Lãng - Vĩnh Hồ - Cánh đồng xa, Thành Công Bắc, Thanh Nhàn, Mai Hương, Quỳnh Lôi, Quỳnh Mai, Nguyễn Công Trứ - Thọ Lão và Mai Động.
Tại các khu vực ven nội, đã xuất hiện nhiều khu nhà ở kiểu chia lô do người dân tự xây dựng, hình thành từ các đồ án quy hoạch chi tiết.
+ Tiểu khu nhà ở Đội Cấn tỷ lệ 1/500 (1984)
+ Khu nhà ở Yên Hoà tỷ lệ 1/2000 và tỷ lệ 1/500 (gồm 7 tiểu khu giai đoạn 1984
+ Khu nhà ở Ngọc Khánh tỷ lệ 1/2000 (1985)
+ Tiểu khu Dịch Vọng - Nam Nghĩa Đô tỷ lệ 1/2000 (1987)
+ Tiểu khu Bắc Nghĩa Đô tỷ lệ 1/2000 và 1/500 (1984 1986)
+ Tiểu khu nhà ở Nam Thành Công tỷ lệ 1/500 (1985 1987)
+ Quy hoạch nhóm ở Thịnh Hào tỷ lệ 1/500 (1988)
- Trong giai đoạn này, nỗ lực của Thành phố trong công tác quy hoạch hai bên các trục đường mới mở cũng đáng ghi nhận:
+ Quy hoạch trục đường Giảng Võ - Thành Công (Láng) tỷ lệ 1/2000 (1984) và 1/500 (1985)
+ Trục đường Đại Cồ Việt tỷ lệ 1/500 phần kiến trúc và hạ tầng kỹ thuật (1988) + Trục đường Bách Khoa - Trại Găng tỷ lệ 1/500 (1989 1991)
+ Quy hoạch kỹ thuật trục Nguyễn Văn Cừ tỷ lệ 1/2000 (1990) - chỉnh trang lần 2 + Quy hoạch khu vực Đội Cấn - Cống Vị tỷ lệ 1/2000 (1990)
+ Quy hoạch trục đường Cầu Giấy - Hùng Vương tỷ lệ 1/2000 phần kiến trúc
+ Quy hoạch trục đường 32 tỷ lệ 1/2000 đoạn từ Cầu Giấy cầu Thăng Long phần kiến trúc và hạ tầng kỹ thuật (1990 1991)
Trong giai đoạn 1986 đến 1990, các cơ quan Trung ương, địa phương và các Hợp tác xã đã đóng vai trò là Chủ đầu tư trong việc xây dựng nhà ở và văn phòng cho cán bộ công nhân viên tại khu vực nội thành và ven nội.
Quận Ba Đình là nơi tập trung nhiều cơ quan quan trọng như Ban tài chính quản trị Thành ủy, Bộ tư lệnh bảo vệ Lăng, và Ban kinh tế trung ương Đảng Ngoài ra, UBND quận Ba Đình, Hội tin học Việt Nam, Hội toán học Việt Nam, cùng với Cục phục vụ ngoại giao đoàn cũng đóng vai trò quan trọng tại đây Quận còn có Ban quản lý công trình thuộc Sở Nhà đất, Hội nghệ sỹ tạo hình, Hội xây dựng Việt Nam, và Trung tâm chiếu phim Quốc Gia, tạo nên một môi trường đa dạng và phong phú về văn hóa và kinh tế.
Xí nghiệp liên doanh Việtxô - VIETSOLIGHTER, Uỷ ban phân vùng kinh tế (P Thành Công, Giảng Võ); Khu ngoại giao đoàn (P Vạn Phúc); Viện Mác - Lênin (P Ngọc Khánh)…
Quận Đống Đa là nơi có nhiều công trình quan trọng như Ban kiến thiết Nhà ở Hà Nội, Rạp chiếu bóng Khương Thương (nay là khu STARBOWL), Bộ Giáo dục và Đào tạo, và Tiểu khu Phương Liệt - nhóm 1, được xây dựng theo phương thức Nhà nước và nhân dân cùng làm Ngoài ra, khu vực này còn có Bưu điện thành phố Hà Nội với Đài vệ tinh mặt đất INTERSAT, Trường trẻ em câm điếc Hà Nội tại xã Đàn, Cục đo hoạch KT nhà nước và Chương trình NCKH về nhà ở - Bộ Xây dựng với dự án xây dựng nhà ở tại Bãi Đá P Phương Liệt, cùng với việc Uỷ ban nhân dân quận Đống Đa xây dựng khách sạn tại Hố Mẻ.
P Khương Thượng, Công ty phát hành báo chí trung ương liên kết với HTX Trường Sơn để xây dựng nhà ở tại Hoàng Cầu …
Trong giai đoạn này, quy hoạch hệ thống các công trình phục vụ sinh hoạt và nghỉ ngơi chủ yếu tập trung vào việc cải tạo hệ thống điện chiếu sáng nhằm hạn chế tệ nạn xã hội tại các khu vực công cộng như công viên và vườn hoa, bao gồm Lê Nin, Lê Trực, Vạn Xuân, Gia Lâm, Tây Hồ, Pasteur, vườn thú Hà Nội, Nam Long Biên, Bách Việt, Chi Lăng, và Indira Gandhi Đặc biệt, từ năm 1987 đến 1988, công viên Lê Nin đã được quy hoạch thành công viên Quốc gia, trong khi công viên Tuổi trẻ Thanh Nhàn cũng được lập quy hoạch với tỷ lệ 1/500.
Đến năm 1990, hệ thống trung tâm mới có hồ sơ chuẩn bị đất cho các điểm du lịch, bao gồm các trung tâm giao dịch quốc tế và khách sạn, chủ yếu tập trung xung quanh khu vực này.
Quy hoạch các cơ sở sản xuất hiện tại chưa hình thành các khu tiểu thủ công nghiệp hoặc công nghiệp tập trung, chủ yếu tập trung vào việc khai thác và cải tạo các cơ sở công nghiệp sẵn có như Thượng Đình, cơ khí Trần Hưng Đạo và nhà máy Rượu Giai đoạn này đang chuẩn bị cho việc hình thành các khu công nghiệp tập trung kỹ thuật cao vào năm 1991, bao gồm các khu công nghiệp Đông Anh, Sài Đồng, Yên Hòa, Xuân Đỉnh và Mai Dịch.
Nhìn chung, quy hoạch tại khu vực nội thành giai đoạn này có các đặc điểm:
- Tổ chức các khu dân dụng theo hệ thống tầng bậc
Phân tích xử lý số liệu, xây dựng bảng biểu sơ đồ về công tác Quy hoạch thời kỳ 1986 1990
Chủ chương - chính sách và kinh tế - xã hội giai đoạn 1986 1990
2.1.1 Chủ chương - chính sách trong công tác quy hoạch giai đoạn 1986 1990:
Chỉ thị số 212 - CT của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ngày 4-8-1983 đã đề ra tổng sơ đồ phát triển và phân bố lực lượng sản xuất của Việt Nam giai đoạn 1986 - 2000 Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 5 đã quyết nghị cần xúc tiến công tác điều tra cơ bản, dự báo và lập kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, nhằm chuẩn bị cho kế hoạch 5 năm tiếp theo.
Để thực hiện nghị quyết của Đại hội và phục vụ kịp thời cho kế hoạch 5 năm lần thứ tư (1986 - 1990), Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng yêu cầu các Bộ, ngành, địa phương và cơ quan khoa học tập trung chỉ đạo và khẩn trương triển khai chương trình lập tổng sơ đồ phát triển và phân bố lực lượng sản xuất ở nước ta trong giai đoạn này.
2000 theo tinh thần và nội dung cơ bản dưới đây
Tổng sơ đồ phát triển và phân bố lực lượng sản xuất là tài liệu khoa học quan trọng, chứng minh các phương án kinh tế xã hội nhằm phát triển và phân bố lực lượng sản xuất theo không gian, chú trọng vào chuyên môn hóa và phát triển tổng hợp sản xuất của các vùng kinh tế Mục tiêu của tổng sơ đồ là phát huy tiềm năng và thế mạnh của từng vùng, đồng thời thể hiện các chiến lược của Đảng trên toàn quốc Đây là cơ sở khoa học cho việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế xã hội ở cả trung ương và địa phương Việc nghiên cứu và lập tổng sơ đồ phát triển lực lượng sản xuất trở thành một phần thiết yếu trong hệ thống kế hoạch hóa và quản lý kinh tế quốc dân, nhằm tổ chức lại nền kinh tế theo lãnh thổ và cải thiện công tác kế hoạch hóa, kết hợp giữa quản lý theo ngành và theo địa phương.
Lập tổng sơ đồ phát triển và phân bố lực lượng sản xuất cho thời kỳ 1986 - 2000 phải đạt được những yêu cầu chủ yếu sau đây:
1 Tổng sơ đồ phải thể hiện cụ thể được đờng lối kinh tế, những nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu phát triển kinh tế xã hội do Đại hội Đảng lần thứ V đã vạch ra Đồng thời vạch ra những phương hướng lớn về phân bố lực lượng sản xuất cho năm 1990
2 Tổng sơ đồ xác định những phương hướng và mục tiêu chủ yếu về phát triển và phân bố ngành kinh tế quốc dân, các vùng kinh tế cơ bản, các tỉnh, thành phố và đặc khu trực thuộc trung ương, các huyện, quận để góp phần xây dựng chiến lược kinh tế xã hội chung của cả nước
Tổng sơ đồ đóng vai trò quan trọng trong việc quy hoạch các vùng chuyên môn hóa lớn và các vùng trọng điểm như lương thực, thực phẩm và cây công nghiệp Nó cũng là cơ sở để xây dựng quy hoạch cho các khu vực cụ thể, bao gồm khu công nghiệp, cụm công nghiệp, du lịch và phát triển đô thị.
3 Nghiên cứu tổng sơ đồ phát triển và phân bố lực lượng sản xuất phải thể hiện sự tham gia tích cực của Việt nam vào việc phân công lao động quốc tế thể hiện sự hợp tác ngày càng phát triển với các nước trong Hội đồng tương trợ kinh tế, nhất là liên Xô và
4 Do nhiều điều kiên hạn chế, việc lập tổng sơ đồ lần này không cầu toàn, đòi hỏi hoàn chỉnh và nghiên cứu tất cả các vấn đề, các ngành, các vùng cùng một lúc và đạt trình độ nghiên cứu nh nhau mà cần tập trung khai thác đầy đủ và đánh giá tổng hợp các tài liệu điều tra cơ bản đã có, kết hợp với điều tra bổ xung trọng điểm, tập trung nghiên cứu sâu vào những ngành, những vùng và địa phương có điều kiện và giữ vị trí u tiên trong các mục tiêu chiến lược kinh tế - xã hội cả nước
5 Việc lập tổng sơ đồ phải hoàn thành trong năm 1985 để phục vụ kịp thời nhiệm vụ xây dựng kế hoạch 5 năm lần thứ 4 và chuẩn bị cho Đại hội Đảng lần thứ 6 Sau 1985 sẽ tiếp tục nghiên cứu những vấn đề tồn tại và hoàn thiên tổng sơ đồ I
Trích yếu : Chỉ thị lập tổng sơ đồ phát triển và phân bố lực lượng sản xuất của Việt Nam thời kỳ 1986 - 2000
: Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng
2.1.2 Phân tích chính sách công nghiệp trong nền kinh tế VN giai đoạn 1986 - 1990: Để khắc phục những khó khăn và giải quyết các yếu điểm của thời kỳ trước, Việt Nam đã thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế vào năm 1986 để chuyển nền kinh tế dựa trên cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế theo cơ chế thị trường Công cuộc đổi mới này được đẩy mạnh vào năm 1989 nhằm mở rộng tự do nền kinh tế và thay đổi sản xuất công nghiệp từ thay thế nhập khẩu sang định hướng xuất khẩu
Chính sách công nghiệp hiện nay tập trung vào việc tái cấu trúc sản xuất và điều chỉnh đầu tư, chuyển từ ưu tiên công nghiệp nặng sang ba chương trình kinh tế chủ yếu: sản xuất lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu Điều này dẫn đến sự chú trọng hơn vào công nghiệp nhẹ và chế biến thực phẩm, nhằm đáp ứng nhu cầu của người dân và đảm bảo chế biến sản phẩm nông-lâm-thủy sản Bên cạnh đó, việc tăng cường sản xuất hàng xuất khẩu từ các hợp đồng phụ và các sản phẩm xuất khẩu khác cũng được ưu tiên Các ngành công nghiệp nặng sẽ được phát triển để hỗ trợ hiệu quả cho nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản và công nghiệp nhẹ.
* Phân tích chính sách công nghiệp trong thời kỳ đổi mới từ năm 1986
Trong giai đoạn này, Nhà nước đã áp dụng các phương pháp tích cực để xây dựng hệ thống chính sách công nghiệp, với sự tham gia mạnh mẽ và trực tiếp hơn so với trước đây Một số ngành được lựa chọn cho xuất khẩu đã nhận được hỗ trợ tài chính nhằm tái thiết và được bảo hộ khỏi cạnh tranh bên ngoài thông qua thuế nhập khẩu và hàng rào phi thuế quan Sự can thiệp của Nhà nước đã cải thiện việc phân bổ và tôn trọng quyền sở hữu, qua đó thúc đẩy quá trình đổi mới kinh tế.
Chính sách đầu tư và công nghệ đã có những cải thiện đáng kể, với tỷ lệ vốn đầu tư tăng từ 9.0% GDP năm 1986 lên 27.6% năm 1995, trong đó vốn đầu tư nước ngoài chiếm 38.5% tổng đầu tư Hệ thống tài chính hỗ trợ tích cực thông qua tín dụng ngân hàng, tuy nhiên, đầu tư cho nông nghiệp vẫn thấp hơn so với công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp nặng Nguồn vốn đầu tư tập trung vào một số công trình chủ yếu, trong khi công nghệ vẫn là vấn đề cần giải quyết Chất lượng thiết bị kỹ thuật trong sản xuất công nghiệp còn thấp, với 60% máy móc đã cũ và lỗi thời, chủ yếu là thiết bị sản xuất từ những năm 50 mà chưa được nâng cấp.
Trong cơ chế định hướng thị trường, Nhà nước đã ban hành một số điều lệ nhằm hạn chế can thiệp vào hoạt động kinh doanh và tăng quyền tự trị cho doanh nghiệp Ví dụ, Quyết định 217 của Hội đồng Bộ trưởng vào năm 1987 đã dẫn đến việc giảm trợ cấp giá và bù lỗ cho doanh nghiệp, từ 30.6% trong giai đoạn 1981-1985 xuống chỉ còn 15.3% trong giai đoạn 1985-1988 Từ năm 1989, các hình thức trợ cấp dưới dạng nguyên vật liệu đầu vào giá thấp đã bị xóa bỏ, buộc tất cả doanh nghiệp phải hoạt động theo cơ chế thị trường Giá cả không còn bị Nhà nước áp đặt, giúp xóa bỏ sự chênh lệch giữa giá cố định của Nhà nước và giá thị trường tự do Quốc hội cũng đã ban hành hai Luật liên quan đến tổ chức doanh nghiệp để hỗ trợ cho quá trình này.
Trong quá trình đổi mới, Nhà nước đã giảm bớt quy định trong lĩnh vực ngoại thương, khuyến khích doanh nghiệp tự do hơn trong thương mại quốc tế Các doanh nghiệp có quyền ký kết hợp đồng thương mại trực tiếp với các đối tác nước ngoài Từ năm 1987, các quota xuất khẩu trước đây dành cho doanh nghiệp nhà nước đã bị hạn chế, tạo điều kiện cho khu vực sản xuất tư nhân tham gia tích cực vào hoạt động kinh tế và thương mại.
Bảng biểu về công tác quy hoạch giai đoạn 1986 1990
2.2.1 Danh mục các công trình đã được thực hiện tại Viện QHXD Hà Nội:
Các đồ án quy hoạch được phân loại thành nhiều loại khác nhau, bao gồm: a) Tiểu khu nhà ở và nhóm nhà, b) Công viên cây xanh, c) Công trình công cộng, d) Giao thông và hạ tầng kỹ thuật, e) Quy hoạch cho một số thị trấn và xã ngoại thành.
- Tỷ lệ lập quy hoạch: a/ Quy hoạch chi tiết tỷ lệ 1/2000, 1/1000 b/ Phân đợt xây dựng tỷ lệ 1/5000, 1/2000 c/ Mặt bằng, định vị công trình xây dựng tỷ lệ 1/500
- Nội dung từng loại đồ án: a/ Tiểu khu nhà ở, gồm:
+ Thiết kế tổng mặt bằng
+ Phân đợt xây dựng b/ Công viên cây xanh (chương trình cải tạo hệ thống điện chiếu sáng), gồm:
+ Hiện trạng và chỉ giới công viên, vườn hoa
+ Quan hệ giữa công viên và vùng kế cận
+ Dự kiến xây dựng cải tạo đường và các công trình kỹ thuật
+ Định vị cây xanh, đèn chiếu sáng
+ Minh hoạ, thuyết minh c/ Công trình công cộng (Hồ sơ chuẩn bị đất các điểm du lịch), gồm:
+ Vị trí, phạm vi khu đất
+ Cơ cấu, phân khu chức năng
+ Dự kiến quy hoạch mặt bằng
+ Minh hoạ, thuyết minh d/ Giao thông, hạ tầng kỹ thuật, gồm:
+ Luận chứng kinh tế kỹ thuật (Vị trí tuyến, bình đồ tuyến, mặt cắt ngang, trắc dọc tim đường)
+ Thiết kế quy hoạch nút giao thông
+ Bảng điều phối đất (cải tạo hồ) e/ Quy hoạch một số thị trấn và xã ngoại thành, gồm:
+ Sơ đồ vị trí, ranh giới
+ Mô hình định hướng xây dựng
- Quy hoạch - Kiến trúc theo hệ thống tầng bậc
- Không tách bản vẽ Quy hoạch sử dụng đất
- Chú trọng quy hoạch xây dựng đợt đầu
- Bản vẽ định vị, cắm mốc trên các loại tỷ lệ bản đồ khác nhau (1/2000, 1/1000, 1/500)
- Chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật theo các tiêu chuẩn Liên Xô (cũ)
- Kết quả thực hiện giai đoạn 1986 1990:
( 13 ) PGS Trần Hùng - KTS Nguyễn Quốc Thông, Thăng Long - Hà Nội mười thế kỷ đô thị hoá - NXB XD - 1995
Năm 1985, diện tích nhà ở tại Hà Nội (nội thành) chỉ đạt khoảng 4,2 triệu m², với hơn 60% thuộc sở hữu nhà nước và dưới 40% là sở hữu tư nhân Đến năm 1989, tình hình xây dựng nhà ở có sự chuyển biến rõ rệt, trung bình mỗi năm hoàn thành trên 100.000 m² nhà ở, trong đó đầu tư từ nhà nước chỉ chiếm khoảng 30%, các cơ quan xí nghiệp tự đầu tư khoảng 35% và phần còn lại từ người dân Sau đó, đầu tư tư nhân trong xây dựng nhà ở tăng nhanh, đóng góp đáng kể vào việc cải thiện bộ mặt đô thị Hà Nội.
Nhà ở tiêu chuẩn cao được tập trung ở khu vực Vạn Phúc và một loạt các khách sạn (Hà Nội, Tây Hồ, Hàng Không, Đông Đô, Mêtrôpôn, Royal )
Tiểu khu Nghĩa Đô được đánh giá là khá hoàn chỉnh trong giai đoạn này
Giai đoạn 1986-1990 chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của kiến trúc đô thị Hà Nội với nhiều công trình quan trọng phục vụ nhu cầu văn hóa và thể thao Những công trình văn hóa nổi bật bao gồm Nhà hát Chèo trên phố Kim Mã, rạp Xiếc tại công viên Lê Nin, và nhà hát Kim Đồng cho thiếu nhi bên hồ Hoàn Kiếm, cùng với các nhà văn hóa thiếu nhi và thanh niên tại Ba Đình và Hoàn Kiếm Đặc biệt, Bảo tàng Hồ Chí Minh và Bảo tàng Biên phòng cũng được xây dựng trong thời gian này Về thể thao, nhà thi đấu phố Trịnh Hoài Đức và nhà thuyền bên hồ Tây đã được hoàn thiện Mặc dù việc xây dựng chợ quy mô lớn không phù hợp, một số chợ cũ như chợ Đồng Xuân đã được cải tạo.
Trong giai đoạn này, một số Đài tưởng niệm các Anh hùng, liệt sĩ và những người có công với Tổ quốc đã được xây dựng, đặc biệt trên trục đường Bắc Sơn - Ba Đình.
Ngoài các trục đường mới như Láng Hạ, cầu Trung Kính - Đội Cấn, Hàng Bột - Giảng Võ - Kim Mã - Đội Cấn, và Quốc lộ 1A, còn có tuyến đường và mương từ cầu Trung Kính đến vành đai lên cầu Thăng Long.
Trục Kim Mã - Thủ Lệ - Nghĩa Đô, xa lộ Thăng Long - Nội Bài, và trục Cầu Giấy - Hùng Vương là những tuyến đường quan trọng của Hà Nội Bên cạnh đó, các chương trình cải thiện điều kiện sống cho người dân đô thị như chương trình điện chiếu sáng (1989) và chương trình cấp nước Hà Nội (1986) cũng đóng vai trò thiết yếu trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống.
1988) - về cơ bản Hạ tầng đô thị giai đoạn này còn manh mún, kém hiệu quả do chưa được đầu tư đồng bộ
(Chi tiết - Xem Phụ lục)
2.2.2 Một số biểu đồ, hình ảnh minh hoạ:
(Chi tiết - Xem Phụ lục)