GIỚI THIỆU CHUNG VỀ TỔNG CÔNG TY CỔ PHẦN MAY VIỆT TIẾN
Giới thiệu
Tên công ty : TỔNG CÔNG TY CỔ PHẦN MAY VIỆT TIẾN
Tên giao dịch quốc tế: VIETTIEN GARMENT CORPORATION (VTEC). Loại hình doanh nghiệp : CÔNG TY CỔ PHẦN
Tổng giám đốc: Ông Bùi Văn Tiến Địa chỉ: số 07 Lê Minh Xuân, Phường 7, Quận Tân Bình, TPHCM.
Email: vtec@.hcm.vnn.vn
Website: http://www.viettien.com.vn
Lịch sử hình thành và phát triển công ty
Tổng Công ty Cổ phần May Việt Tiến, thuộc Bộ Công nghiệp nhẹ, là một trong những công ty hàng đầu trong lĩnh vực may gia công và xuất khẩu Với lịch sử hình thành và phát triển lâu dài, Việt Tiến đã trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm, khẳng định vị thế vững chắc trên thị trường.
Trước 30 - 4 - 1975, tiền thân của công ty là một xí nghiệp may tư nhân mang tên “Thái Bình Dương kỹ nghệ công ty” – tên giao dịch là “ Pacific Entorprise”, Xí nghiệp được thành lập với vốn góp của tám cổ đông (tổng số vốn là 80 000.000 đồng) và do Ông Sầm Hồ Tài, một thương nhân người Hoa làmGiám đốc, xí nghiệp hoạt động trên diện tích 1,513m với 65 máy may gia đình và khoảng 100 công nhân.
Ngày 20 - 11 - 1975 Nhà nước tiếp quản “Pacific Enterprise”, quốc hữu hóa thành xí nghiệp quốc doanh và sau đổi thành Xí nghiệp May Việt Tiến, ở giai đoạn này, sản phẩm của xí nghiệp làm ra không được sắc sảo và ổn định, năng xuất lao động thấp Nguyên nhân là do chất lượng sản phẩm còn phải phụ thuộc nhiều vào tay nghề công nhân, máy móc thiết bị lạc hậu, dây chuyền sản xuất đơn điệu, các công đoạn bố trí chưa hợp lý và điều kiện lao động kém Thêm vào đó, thị trường chính lúc bấy giờ là xuất đi các nước Đông Âu và Liên Xô cũ theo nghị định thư nên không đòi hỏi cao về chất lượng và kiểu dáng Mặc dù vậy, tập thể và cán bộ công nhân viên xí nghiệp đã không ngừng cố gắng và bước đầu đã tạo ra được uy tín với khách hàng, cũng như góp phần vào sự phát triển của xí nghiệp.
Vào ngày 13/11/1979, một vụ hỏa hoạn do sự bất cẩn trong sản xuất đã khiến xí nghiệp bị thiệt hại hoàn toàn Tuy nhiên, nhờ sự hỗ trợ từ các đơn vị bạn và tinh thần quyết tâm của công nhân cùng lãnh đạo, xí nghiệp đã nhanh chóng khôi phục hoạt động và ngày càng khẳng định vị trí của mình trên thị trường.
Vào ngày 22 tháng 4 năm 1990, theo quyết định số 103/CNN/TCLĐ, Bộ Công Nghiệp nhẹ đã chấp thuận việc nâng cấp Xí nghiệp thành Công ty May Việt Tiến, bao gồm 1 xí nghiệp trung tâm và 8 xí nghiệp phụ thuộc, với tổng số 3.388 công nhân.
Vào ngày 08/02/1991, theo quyết định số 102,01/GP, Bộ Kinh tế Đối ngoại đã cấp giấy phép xuất nhập khẩu trực tiếp cho Công ty VIỆT TIẾN GARMENT EXPORT AND IMPORT COMPANY, viết tắt là VTEC.
Năm 1995 là đơn vị thành viên của Tổng Công ty dệt may Việt Nam thuộc
Cuối năm 2007, Tổng công ty Cổ phần may Việt Tiến đã tiến hành Cổ phần hóa và chính thức đổi tên thành Tổng Công ty Cổ phần May Việt Tiến từ ngày 01/01/2008 Tên giao dịch quốc tế của công ty là VIETTIEN GARMENT CORPORATION (VTEC).
Tổng công ty Vương Quốc Anh không ngừng nâng cao uy tín và vị thế của mình cả trên thị trường trong nước lẫn quốc tế.
Quy mô hoạt động
Tổng Công ty Cổ phần May Việt Tiến hiện đang hoạt động trên diện tích 62.919 m², bao gồm các xí nghiệp và cửa hàng đại lý trải dài từ Bắc vào Nam Tính đến ngày 31.12.2003, tổng vốn kinh doanh của công ty đã đạt 250 tỷ đồng Việt Nam, với mục tiêu mở rộng quy mô sản xuất tại các nhà xưởng trong tương lai.
Bảng : Công ty con, liên kết và liên doanh với việt Tiến
Hình thức Cty Tên công ty
Công ty TNHH May Tây Đô, Công ty TNHH May Đồng Tiến, Công ty TNHH May Tiền Tiến, Công ty TNHH May Thuận Tiến, Công ty CP May Việt Long, Công ty CP May Việt Thịnh, Công ty CP cơ khí Dệt May Thủ Đức, Công ty CP May Vĩnh Tiến, Công ty CP May Việt Hải, và Công ty CP May Việt Long là những công ty con nổi bật trong ngành may mặc Bên cạnh đó, các công ty liên kết như Công ty TNHH May Việt Hồng, Công ty TNHH May Việt Tân, Công ty TNHH May Tiến Thuận, CTCP May Việt Hưng, Công ty TNHH LD SX tấm bông PE (Golden – VTEC), Công ty TNHH SX KD tấm bông Hà Nội (EVC), Công ty LD SX nút nhựa Việt Thuận, và Công ty TNHH LD SX Mex Việt Phát cũng đóng góp quan trọng vào sự phát triển của ngành công nghiệp này.
Công ty hợp tác liên doanh o Tungshing (Hong kong) – VTEC o MS (Anh) – VTEC o VTEC – CLIPSAL.
Cơ cấu tổ chức
Sơ đồ tổ chức, quản lý Tổng Công Ty
Tổng giám đốc Hội đồng quản trị
Phó tổng giám đốc Phó tổng giám đốc
P hò ng Q A P hò ng k ỹ th uậ t cô ng n gh ệ P hò ng c ơ đi ện P hò ng b ảo v ệ P hò ng h àn h ch ín h qu ản tr ị T rạ m y tế
Giám đốc điều hành Giám đốc điều hành
C ác c hi n há nh P hò ng k ế to án B ộ ph ận v i t ín h P hò ng c un g ứn g P hò ng k ế ho ạc h đi ều đ ộ P hò ng k in h do an h
Hệ thống các cửa hàng
MỘT VÀI NÉT VỀ XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM
ĐẶC ĐIỂM CỦA NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM
Ngành dệt may đóng vai trò quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhờ vào nguồn nhân công dồi dào và vốn đầu tư thấp Việt Nam có khả năng thu hồi vốn nhanh, từ đó có thể phát triển mạnh mẽ ngành dệt may để gia tăng giá trị xuất khẩu Điều này không chỉ thúc đẩy sự phát triển kinh tế mà còn tạo ra nhiều cơ hội việc làm cho người dân.
Doanh nghiệp dệt may Việt Nam hiện nay chủ yếu thực hiện gia công cho thị trường nước ngoài, trong khi số lượng doanh nghiệp có khả năng thiết kế và sản xuất cho xuất khẩu vẫn còn hạn chế Điều này dẫn đến giá trị gia tăng sản phẩm thấp, khiến lợi nhuận thu về không tương xứng với giá trị xuất khẩu.
Chưa tạo được thương hiệu riêng tại thị trường nước ngoài nên không chủ động được kênh phân phối và thị trường tiêu thụ.
Ngành may mặc Việt Nam hiện đang phụ thuộc lớn vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu, với giá nguyên phụ liệu chiếm từ 70% đến 80% giá trị kim ngạch xuất khẩu.
Trình độ công nghệ và năng lực sản xuất của doanh nghiệp may Việt Nam hiện vẫn thấp hơn 30-50% so với khu vực, gây thiệt thòi lớn cho ngành Gần đây, một số công ty đã chủ động cải tiến công nghệ để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, tiết kiệm chi phí và tăng khả năng cạnh tranh Ngành dệt may Việt Nam đang đối mặt với sự nhạy cảm trong quan hệ quốc tế, nơi lợi thế về giá thấp có thể trở thành con dao hai lưỡi, vừa là yếu tố cạnh tranh, vừa dễ bị điều tra và áp dụng biện pháp chống bán phá giá từ các nước nhập khẩu.
KIM NGẠCH XUẤT KHẨU CỦA NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM
Năm Kim ngạch xuất khẩu
So với năm trước Tuyệt đối Tương đối Chênh lệch
Nguồn: Tổng cục thống kê
Nhìn chung, tình hình xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam đạt được kết quả tăng trưởng khá ấn tượng trong những năm từ 2004 đến 2007 Cụ thể, năm
Từ năm 2004 đến 2008, kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam có sự tăng trưởng đáng kể Năm 2004, kim ngạch đạt hơn 4.3 tỷ USD, tăng lên 4.8 tỷ USD vào năm 2005, tương ứng với mức tăng 11.27% Năm 2006, xuất khẩu tiếp tục tăng thêm 996 triệu USD, đạt hơn 5.8 tỷ USD, tương đương với tỷ lệ tăng 20.72% Năm 2007 được xem là đỉnh điểm với kim ngạch xuất khẩu đạt khoảng 7.8 tỷ USD, tăng 34.16% so với năm trước Tuy nhiên, năm 2008 ghi nhận sự suy giảm trong tốc độ tăng trưởng, chỉ tăng 16.91% và đạt khoảng 9.1 tỷ USD, do ảnh hưởng của kinh tế toàn cầu Mặc dù vậy, kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may vẫn duy trì ở mức cao hơn so với nhiều ngành khác.
THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY CỦA VIỆT NAM
Trong quý I/2010, xuất khẩu dệt may của Việt Nam đã đạt hơn 2,2 tỷ USD, tăng khoảng 13% so với cùng kỳ năm ngoái Hầu hết các doanh nghiệp trong ngành đã ký hợp đồng xuất khẩu cho đến hết quý III/2010, với một số doanh nghiệp có hợp đồng kéo dài đến hết năm 2010 Đây là tín hiệu tích cực cho ngành dệt may Việt Nam, hướng tới mục tiêu xuất khẩu 10,5 tỷ USD trong cả năm.
Theo ông Lê Quốc Ân, Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam, xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam trong quý I/2010 đã ghi nhận sự phục hồi mạnh mẽ, đặc biệt tại các thị trường chủ lực như Mỹ và EU Cụ thể, xuất khẩu sang Mỹ ước tăng khoảng 15% so với năm trước, trong khi thị trường châu Âu cũng có sự cải thiện với mức tăng khoảng 6% Tính chung, tổng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam trong quý I/2010 ước đạt khoảng 2,2 tỷ USD, tăng khoảng 13% so với cùng kỳ năm 2009.
Ông Lê Quốc Ân cho biết, hợp đồng xuất khẩu hàng dệt may của doanh nghiệp Việt Nam đang diễn ra thuận lợi với nhiều đơn hàng, trong đó một số doanh nghiệp đã có đơn hàng đến quý III và một số đến hết năm Ngành Dệt may Việt Nam năm nay sẽ không gặp tình trạng công nhân thất nghiệp, từ các thành phố lớn đến các tỉnh Mục tiêu xuất khẩu hàng dệt may năm 2010 đạt 10,5 tỷ USD có khả năng được thực hiện.
Mặc dù doanh số và đơn hàng trong ngành dệt may tăng, nhưng các doanh nghiệp Việt Nam đang lo ngại về việc giá nguyên liệu đầu vào tăng cao Ông Ân, đại diện Hiệp hội Dệt may, cho biết giá bông nguyên liệu hiện tại đã đạt mức trung bình 1,9 USD/kg, cao hơn so với mức 1,5 USD/kg của những năm trước Ngoài ra, giá nhiên liệu đầu vào như xăng dầu và điện cũng tăng, kéo theo sự gia tăng chi phí cho các dịch vụ khác.
Giá cả nguyên, nhiên vật liệu đầu vào tăng cao đang ảnh hưởng tiêu cực đến thu nhập và lợi nhuận của các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu dệt may Việt Nam Để đối phó với tình hình này, các doanh nghiệp cần cải thiện năng suất lao động và tiết kiệm nguyên, nhiên phụ liệu, bao gồm năng lượng và vật tư, một cách hiệu quả và triệt để.
CÁC MẶT HÀNG DỆT MAY XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM
Năm 2009, hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam vẫn có khả năng tăng cao vào thị trường Canađa
Trong tháng 11/2008, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Canada đạt 12,6 triệu USD, tăng 13% so với tháng 10 và 17% so với cùng kỳ năm trước Tính đến hết 11 tháng năm 2008, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 155,4 triệu USD, tăng 29% so với cùng kỳ năm trước Canada đã trở thành thị trường xuất khẩu hàng dệt may lớn thứ 6 của Việt Nam, chỉ sau Mỹ, EU, Nhật Bản, Đài Loan và ASEAN.
Một số chủng loại mặt hàng dệt may đạt kim ngạch xuất khẩu cao trong 11 tháng năm 2008 như sau:
- Mặt hàng áo thun xuất được 10.174.710 cái, trị giá 39.139.312 USD, tăng 43,51% về lượng, và tăng 43,5% về trị giá so với năm 2007.
- Mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu cao thứ hai là áo jackét đạt 28.698.314 USD, với lượng xuất 1.604.749 cái.
- Tiếp đến là mặt hàng quần dài, đạt 23,7 triệu USD, tương ứng 3,1 triệu sản phẩm, tăng 36% về lượng và tăng 32% về trị giá so với cùng kỳ.
- Mặt hàng áo khoác cũng đạt trị giá khá cao, 13.856.812 USD, với lượng xuất 963.830 cái, tăng 14,38% về lượng, và tăng 101,19% về trị giá
Xuất khẩu các mặt hàng thời trang tại Việt Nam đang ghi nhận sự tăng trưởng mạnh mẽ, với quần short tăng gần 60% so với năm ngoái, đạt 1,7 triệu chiếc Áo sơ mi cũng có sự gia tăng gần 50% và váy tăng trên 30% Đặc biệt, xuất khẩu áo vest tăng gấp hơn 2 lần, đồ lót tăng 74%, vải tăng 61%, và quần áo ngủ đạt mức tăng kỷ lục, trong khi quần áo bảo hộ lao động tăng gấp hơn 3 lần.
Một số mặt hàng như quần áo thể thao, áo len và áo ghilê đã ghi nhận sự giảm xuất khẩu đáng kể Cụ thể, lượng áo len giảm 42% và trị giá giảm 46% so với cùng kỳ Tương tự, áo ghilê cũng giảm 47% về lượng và 47,16% về trị giá so với cùng kỳ.
Trong bối cảnh xuất khẩu dệt may sang các thị trường lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản và Đài Loan gặp khó khăn, kim ngạch xuất khẩu sang Canada vẫn tăng trưởng mạnh, mang lại hy vọng cho ngành dệt may trong những tháng đầu năm 2009.
MỘT SỐ BIỆN PHÁP THÚC ĐẨY NGÀNH DỆT MAY CỦA NHÀ NƯỚC
Ngành dệt may đang hướng tới mục tiêu phát triển bền vững bằng cách giải quyết ba vấn đề chính: đào tạo nguồn nhân lực, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm và thu hút vốn đầu tư Trong đó, đầu tư được xem là giải pháp quan trọng nhất, với tổng nguồn vốn dự kiến cho toàn ngành trong 10 năm tới đạt khoảng 65.000 tỷ đồng.
Ngành dệt may tập trung đầu tư vào nguyên liệu cung ứng cho sản xuất, đặc biệt là bông, tơ tằm và xơ sợi tổng hợp, nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm may mặc phục vụ xuất khẩu.
Hiện nay, ngành dệt may Việt Nam vẫn phụ thuộc vào nhập khẩu nguyên phụ liệu, với chỉ 10% nhu cầu bông được đáp ứng từ nguồn cung trong nước Tuy nhiên, các chuyên gia đánh giá rằng Việt Nam có tiềm năng phát triển vùng nguyên liệu bông Sự phát triển của ngành lọc dầu trong giai đoạn 2005-2010 cũng mở ra cơ hội đầu tư vào sản xuất xơ sợi tổng hợp, hóa chất và thuốc nhuộm, giúp giảm thiểu sự phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu Tổng công ty Dệt may Việt Nam đang hợp tác với các bộ, ngành và địa phương để xây dựng chiến lược phát triển vùng nguyên liệu kết hợp với tiêu thụ sản phẩm.
Một trong những mục tiêu chính của chương trình tăng tốc ngành dệt may Việt Nam là nâng cao tỷ lệ giá trị nội địa hóa trong sản phẩm Để tăng cường năng lực cạnh tranh, các doanh nghiệp dệt may đang đầu tư vào công nghệ, mở rộng sản xuất và cải thiện quản lý chất lượng sản phẩm Tổng công ty Dệt may Việt Nam sẽ hỗ trợ các doanh nghiệp địa phương trong việc đầu tư, tìm kiếm thị trường, và đào tạo nguồn nhân lực Đồng thời, tổng công ty cũng sẽ giúp các địa phương chuyển dịch cơ cấu ngành nghề, tận dụng nguồn lao động và xây dựng các cơ sở dệt may mới, mở rộng liên doanh với nước ngoài để đáp ứng nhu cầu thị trường xuất khẩu.
Trong quy hoạch phát triển đến năm 2010, ngành công nghiệp dệt may sẽ tập trung củng cố và phát triển ba trung tâm công nghiệp chính: vùng Đông Nam Bộ và đồng bằng Cửu Long, vùng đồng bằng sông Hồng, và vùng duyên hải miền Trung Ngành dệt may sẽ ưu tiên phát triển các cơ sở may xuất khẩu tại những khu vực có lợi thế về giao thông, gần bến cảng và sân bay.
Theo chiến lược phát triển được Chính phủ phê duyệt, ngành dệt may Việt Nam đặt mục tiêu đạt kim ngạch xuất khẩu 7 tỷ USD và thu hút 4 triệu lao động vào năm 2010.
TÌNH HÌNH KINH DOANH XUẤT KHẨU
KIM NGẠCH XUẤT KHẨU
Bảng 1:Kim ngach xuất khẩu của công ty
MỨC TĂNG / GIẢM TUYỆT ĐỐI (USD)
NHẬN XÉT VỀ TỔNG KIM NGẠCH XUẤT KHẨU
Kim ngạch xuất khẩu của công ty Việt Tiến đã tăng trưởng ổn định qua các năm, với tốc độ trung bình đạt 7.36% mỗi năm, tương ứng với mức tăng tuyệt đối là 4,401,424 USD Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng trong năm 2009 thấp hơn so với năm 2008.
Năm 2008, kim ngạch xuất khẩu đạt 5,764,022 USD, tăng 9,96% so với năm 2007 Tuy nhiên, vào năm 2009, kim ngạch xuất khẩu chỉ tăng 3,038,826 USD, tương ứng với tỷ lệ tăng 4,77%, giảm 5,19% so với tốc độ tăng của năm 2008.
Mặc dù kim ngạch xuất khẩu của Việt Tiến đã tăng, nhưng tốc độ tăng trưởng lại giảm sút, điều này cho thấy một dấu hiệu không khả quan nếu tình trạng này tiếp tục kéo dài.
Năm 2007, Việt Nam đã gia nhập WTO, mang lại nhiều thuận lợi cho ngành dệt may Việt Nam như:
Ngành dệt may Việt Nam đã chuyển mình từ việc bị khống chế theo hạn ngạch xuất khẩu sang việc được phép xuất khẩu tự do dựa trên năng lực và nhu cầu của thị trường Với tư cách là thành viên của WTO, các doanh nghiệp dệt may được hưởng các điều kiện kinh doanh bình đẳng Hơn nữa, thuế nhập khẩu dệt may Việt Nam vào một số thị trường sẽ được giảm, tạo điều kiện thuận lợi cho hàng hóa Việt Nam thâm nhập vào các thị trường quốc tế.
Đầu tư nước ngoài vào ngành dệt may Việt Nam đang gia tăng mạnh mẽ, đặc biệt là trong lĩnh vực hạ tầng Sự đầu tư này sẽ giúp các doanh nghiệp sản xuất chủ động hơn, giảm chi phí và từ đó thúc đẩy hoạt động xuất khẩu.
- Tốc độ tăng kim ngạch 2009 bị giảm hơn so với năm 2008 do bị ảnh hưởng của tình hình khủng hoảng kinh tế thế giới.
- Là một công ty lâu năm trong ngành, có bề dày về kinh nghiệm trong xuất khẩu
- Nguồn lực lao động bị giảm làm cho kim ngạch tăng chậm hơn so với những năm trước.
KIM NGẠCH XUẤT KHẨU THEO NHÓM HÀNG
NĂM 2007 NĂM 2008 NĂM 2009 SO SÁNH 2008
3,894,354 Áo thun 687,912 1.19 862,531 1.35 1,192,671 1.79 174,619 125.38 330,140 Jacket 14,368,538 24.82 14,708,153 23.10 22,903,584 34.34 339,615 102.36 8,195,431 Veston 2,263,945 3.91 2,352,457 3.70 2,844,199 4.26 88,512 103.91 491,742 Đầm 260,173 0.45 412,781 0.65 369,669 0.55 152,608 158.66 -43,112 Khác 4,777,558 8.25 5,999,630 9.42 6,884,581 10.32 1,222,072 125.58 884,951 TỔNG
NHẬN XÉT VỀ MẶT HÀNG XUẤT KHẨU
Dựa vào bảng số liệu, có thể nhận thấy rằng sự biến động của các mặt hàng không đồng nhất qua các năm và giữa các mặt hàng với nhau Một số mặt hàng có mức tăng trưởng nhanh chóng, trong khi những mặt hàng khác lại tăng trưởng chậm hoặc thậm chí giảm Dưới đây là phân tích chi tiết cho từng mặt hàng.
Áo sơ mi từng là sản phẩm chủ lực của Tổng Công ty, nhưng theo số liệu hiện tại, mặt hàng này đang có xu hướng giảm sút.
Năm 2007, giá trị xuất khẩu của mặt hàng này đạt 12,559,944 USD, chiếm tỷ trọng 21,69%, tuy nhiên đã giảm rõ rệt so với các năm trước Năm 2008, giá trị xuất khẩu là 13,056,063 USD, tương đương 20,51%, trong khi năm 2009 chỉ còn 10,130,091 USD, chiếm 15,19% So với năm 2008, giá trị xuất khẩu năm 2009 giảm 2,925,972 USD, tương ứng với 22,41%.
Quần các loại, bao gồm quần dài, quần tây và quần kaki, là mặt hàng truyền thống chủ lực của Tổng công ty Cổ phần May Việt Tiến, chiếm tỷ trọng cao trong kim ngạch xuất khẩu Năm 2007, giá trị xuất khẩu đạt 22,978,327 USD, tương đương 39,69% tổng kim ngạch Đến năm 2008, mặt hàng này tăng lên 26,268,805 USD, chiếm 41,26%, với mức tăng 14,32% so với năm trước Tuy nhiên, năm 2009, giá trị xuất khẩu giảm xuống còn 22,374,451 USD, chiếm 33,5%, giảm 14,83% so với năm 2008.
Áo thun, mặc dù có đơn đặt hàng thấp, nhưng giá trị xuất khẩu của nó mang lại cho công ty ngày càng tăng qua các năm Năm 2007, tỷ trọng xuất khẩu áo thun chỉ chiếm 1,19% với giá trị 687,912 USD Tuy nhiên, đến năm 2008, giá trị này đã tăng 25,38%, đạt 862,531 USD và chiếm 1,35% tổng tỷ trọng xuất khẩu Năm 2009, xuất khẩu áo thun tiếp tục phát triển, đạt 1,192,671 USD, chiếm 1,79% tỷ trọng, cho thấy sự tăng trưởng 330,140 USD so với năm trước đó.
Trong năm 2008, tỷ lệ tăng trưởng của mặt hàng này đạt 38,28%, cho thấy sự phát triển tích cực và ổn định trong thời gian qua Tuy nhiên, do công ty tập trung vào các sản phẩm chủ lực, một số hợp đồng đã phải hủy bỏ ủy thác, dẫn đến giá trị xuất khẩu của mặt hàng này mặc dù tăng nhưng vẫn chưa cao.
Áo Jacket là một mặt hàng xuất khẩu chủ lực của công ty, chiếm tỷ trọng lớn trong kim ngạch xuất khẩu, đặc biệt sang thị trường Châu Âu Năm 2007, giá trị xuất khẩu đạt 14,368,538 USD, tương đương 24,82% tổng kim ngạch Mặc dù tỷ trọng xuất khẩu giảm xuống 23,10% vào năm 2008, giá trị vẫn tăng lên 14,708,153 USD Đến năm 2009, doanh thu đột ngột tăng lên 22,903,584 USD, chiếm 34,34% tổng xuất khẩu, đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ với mức tăng 55,72% so với năm trước Công ty cam kết tiếp tục phát triển và mở rộng hợp đồng xuất khẩu cho mặt hàng áo Jacket trong thời gian tới.
Veston là mặt hàng mới nổi, đã được đưa vào hoạt động trong những năm gần đây với doanh số tương đối ổn định Năm 2007, doanh số đạt 2,263,945 USD, chiếm 3,91% trong tổng kim ngạch xuất khẩu Năm 2008, doanh số tăng lên 2,352,457 USD, tăng 3,91% so với năm trước Đến năm 2009, doanh số tiếp tục tăng mạnh lên 2,844,199 USD, tăng 491,742 USD, chiếm 4,26% tổng kim ngạch xuất khẩu Sự tăng trưởng này cho thấy veston đang dần khẳng định vị thế trong doanh thu của công ty.
Đầm nữ là một mặt hàng truyền thống của công ty, nhưng doanh số không ổn định qua các năm Năm 2007, giá trị xuất khẩu đạt 260,173 USD, chiếm 0,45% tỷ trọng Năm 2008, doanh số tăng lên 412,781 USD, tăng 152,608 USD so với năm trước Tuy nhiên, năm 2009, doanh số lại giảm xuống còn 369,669 USD, chiếm 0,55% tỷ trọng trong tổng kim ngạch xuất khẩu.
Công ty cũng xuất khẩu và gia công nhiều mặt hàng như áo len, pyjama, khăn choàng và đồ lót, với doanh thu ngày càng tăng qua các năm, thể hiện sự đa dạng trong sản phẩm Năm 2007, giá trị xuất khẩu đạt 4,777,558 USD, chiếm 8,25% tỷ trọng Đến năm 2008, doanh số tăng thêm 1,222,072 USD, tương đương 25,58%, đạt 5,999,630 USD Năm tiếp theo, doanh số tiếp tục tăng lên 6,884,581 USD, chiếm 10,32% trong tổng kim ngạch xuất khẩu.
Doanh số của một số mặt hàng đã giảm sút, nguyên nhân một phần là do công ty chuyển hướng phát triển các sản phẩm khác, bên cạnh đó, sự sụt giảm đơn đặt hàng từ nước ngoài cũng góp phần vào tình hình này.
- Sự đầu tư trang thiết bị, công nghệ mới cho những mặt hàng cao cấp, có trị giá cao.
- Chưa quan tâm đến nhiều đến những mặt hàng chiếm tỉ trọng thấp nhưng lại có tốc độ tăng rất nhanh
- Công ty chưa chủ trương thay đổi cơ cấu nhóm hàng, chỉ tập trung vào những mặt hàng chủ lực, là thế mạnh của công
PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU THEO THỊ TRƯỜNG
Sản phẩm Việt Tiến hiện đang được xuất khẩu sang 62 quốc gia, trong đó Mỹ, Nhật Bản, EU và ASEAN là những thị trường chính Công ty đã đăng ký bảo hộ thương hiệu tại Mỹ và Canada, đồng thời đang xúc tiến thương hiệu tại các nước châu Âu và 6 quốc gia trong khối ASEAN Các sản phẩm chủ lực của Việt Tiến bao gồm áo sơ mi, quần tây và áo jacket.
Biểu đồ – Cơ cấu thị trường xuất khẩu của Việt Tiến năm 2009
Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 So sánh 2008/2007 So sánh 2009/2008 Thị trường
Theo số liệu, Mỹ là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Tổng công ty Cổ phần May Việt Tiến nhờ Hiệp định thương mại Việt – Mỹ, giúp hàng Việt Nam vào Mỹ với mức thuế thấp Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ của Tổng công ty đã giảm trong thời gian qua Cụ thể, năm 2007, kim ngạch xuất khẩu đạt 20.784.806,65 USD, chiếm 35,9% tổng xuất khẩu Đến năm 2008, tỷ trọng giảm xuống còn 31,5% với kim ngạch 20.053.032,15 USD, giảm 731.774,5 USD so với năm trước Năm 2009, kim ngạch tăng nhẹ lên 21.343.758,62 USD, tương ứng 32%, nhưng sự tăng trưởng này vẫn rất hạn chế với chênh lệch chỉ 1.290.726,47 USD, tương ứng 6%.
Nhật Bản là thị trường nhập khẩu lớn thứ hai của công ty, với giá trị xuất khẩu đạt 15.342.454,3 USD vào năm 2007, chiếm 26,5% tổng kim ngạch xuất khẩu Năm 2008, giá trị xuất khẩu tăng lên 17.188.313,27 USD, tương ứng 27%, với mức tăng 1.845.767,97 USD, tương đương 12% so với năm trước Tuy nhiên, đến năm 2009, giá trị xuất khẩu vào Nhật Bản giảm xuống còn 16.741.510,67 USD, làm tỷ trọng giảm còn 25,1%, giảm 445.802,6 USD, tức 3%.
Thị trường EU, với 25 quốc gia, hiện đang đứng thứ ba trong kim ngạch xuất khẩu của công ty, mặc dù ở mức khiêm tốn Kim ngạch xuất khẩu đã có sự tăng trưởng ổn định qua các năm, từ 7.526.532 USD (13% tổng kim ngạch xuất khẩu) vào năm 2007, lên 11.458.476 USD (18%) vào năm 2008, tương ứng với mức tăng 52% Tuy nhiên, năm 2009 ghi nhận giá trị xuất khẩu tiếp tục tăng lên 15.941.120 USD, chiếm 24% tổng kim ngạch Đến năm 2008, giá trị xuất khẩu đạt khoảng 6.493.363 USD (10%), với mức tăng 18% so với năm 2007 Ngược lại, năm 2009 chứng kiến sự giảm mạnh, chỉ còn 3.068.165 USD (5%), giảm 53% so với năm 2008 Với tình hình này, công ty cần xem xét và có biện pháp xử lý kịp thời để cải thiện kim ngạch xuất khẩu.
Công ty đã xuất khẩu sang các thị trường khác, mặc dù tỷ trọng không cao Cụ thể, năm 2007, giá trị xuất khẩu đạt 8.742.356 USD, chiếm 15% tổng kim ngạch xuất khẩu Tuy nhiên, năm 2008, giá trị xuất khẩu có xu hướng giảm nhẹ xuống còn khoảng 8.466.836 USD, tương ứng với 13% tổng kim ngạch xuất khẩu, dẫn đến chênh lệch tuyệt đối giảm 275.520 USD, tương đương giảm 3% so với năm 2007.
Năm 2009, giá trị xuất khẩu của công ty đạt 9.604.691 USD, chiếm 14% tổng giá trị, với mức tăng tuyệt đối là 1.137.855 USD, tương ứng tăng 13% Mặc dù tình hình xuất khẩu có sự biến động qua các năm, công ty vẫn coi Mỹ là thị trường chủ lực do sức tiêu thụ lớn và khả năng thanh toán cao, tiếp theo là thị trường Nhật Bản.
- Giai đoạn 2007, 2008, 2009 thì tỷ trọng xuất khẩu sang Mỹ giảm đi rất nhiều do các nguyên nhân:
+ Mỹ đưa ra cơ chế giám sát hàng dệt may xuất khẩu từ Việt Nam.
+ Đồng thời dừng xuất khẩu 14 mặt hàng dệt may sang thị trường Mỹ.
Do sự biến động kinh tế tại Nhật Bản và sự cạnh tranh từ các quốc gia trong khu vực, cùng với việc tập trung vào các thị trường mới, lượng hàng xuất khẩu vào Nhật Bản trong năm 2009 đã có xu hướng giảm, dẫn đến việc tăng cường hợp tác với nhiều thị trường khác trên toàn cầu.
Do tác động của khủng hoảng kinh tế, giá trị xuất khẩu vào các thị trường ASEAN và một số thị trường khác đã có sự biến động liên tục qua các năm.
Công ty đang tập trung vào việc mở rộng sang các thị trường mới nhằm giảm thiểu rủi ro từ khủng hoảng và biến động, điều này đã dẫn đến sự giảm giá trị xuất khẩu.
Mặc dù giá trị xuất khẩu sang thị trường Mỹ và Nhật Bản giảm, công ty vẫn xem đây là hai thị trường chủ lực Mỹ là thị trường tiêu thụ lớn nhất thế giới, trong khi Nhật Bản có mối quan hệ tốt đẹp với Việt Nam và nguồn vốn đầu tư chiếm đến 40% Điều này tạo cơ hội cho công ty tìm kiếm thêm khách hàng tiềm năng tại Nhật Bản.
Công ty đã thực hiện chủ trương chuyển từ hình thức xuất khẩu gia công sang xuất khẩu tự doanh, dẫn đến việc giảm dần các hợp đồng xuất khẩu với các nước gia công.
Do áp lực cạnh tranh mạnh mẽ trong cả thị trường nội địa và quốc tế, công ty cần phải tìm kiếm và phát triển các chiến lược mới để thích ứng.
KÝ KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG
HỢP ĐỒNG KÝ KẾT HỢP ĐỒNG THỰC
NHẬN XÉT VỀ TÌNH HÌNH KÝ KẾT HỢP ĐỒNG
- Số lượng hợp đồng ký kết tăng đều qua các năm, cụ thể là năm 2008 tăng
22 hợp đồng, tương ứng với tỉ lệ 7.41% so với năm 2007, số hợp đồng ký kết tiếp tục tăng ở năm 2009 với mức tăng là 7 hợp đồng, tương ứng tỉ lệ
Giá trị hợp đồng đã tăng qua các năm, cụ thể năm 2008 đạt 64,964,791 USD, tăng 6,876,476 USD, tương ứng với tỷ lệ 11.84% so với năm 2007 Tuy nhiên, vào năm 2009, giá trị hợp đồng ký kết chỉ đạt 66,904,474 USD, tăng 1,939,683 USD, với tỷ lệ tăng giảm còn 2.99% so với năm 2008.
Trong ba năm qua, trị giá hợp đồng đã tăng nhanh hơn số lượng hợp đồng ký kết, cho thấy mỗi hợp đồng có giá trị ngày càng cao.
2007 bình quân một hợp đồng xuất khẩu là 195,584 USD đến năm 2008 là
203,651 USD và tiếp tục tăng ở năm 2009 là 205,228 USD điều này cho với tốc độ tăng của năm 2008.
NHẬN XÉT VỀ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG
Số lượng và giá trị hợp đồng thực hiện đã tăng đáng kể trong những năm qua Cụ thể, năm 2008 ghi nhận sự gia tăng 21 hợp đồng, tương ứng với tỷ lệ 7.12% so với năm 2007, và năm 2009 tiếp tục tăng thêm 9 hợp đồng, với tỷ lệ 2.85% so với năm 2008 Về trị giá hợp đồng, năm 2008 tăng 5,764,023 USD, đạt tỷ lệ 9.96% so với năm 2007, trong khi năm 2009 cũng tăng thêm 3,038,826 USD, tương ứng với tỷ lệ 4.77% so với năm 2008.
Mặc dù hàng năm có nhiều hợp đồng được ký kết, nhưng vẫn tồn tại một số hợp đồng chưa được thực hiện, cụ thể là 2 hợp đồng vào năm 2007, 3 hợp đồng vào năm 2008 và 1 hợp đồng vào năm 2009 Trung bình, 99.36% số hợp đồng ký kết đã được công ty thực hiện, với 99.10% giá trị hợp đồng cũng đã được thực hiện Do đó, cần xem xét lại quy trình thực hiện hợp đồng để giảm thiểu tổn thất cho công ty.
Công ty có thể gặp phải các sự cố bất khả kháng, bao gồm việc nhà nước tạm ngừng cấp giấy phép thực hiện hợp đồng xuất khẩu đối với hàng hóa cần giấy phép, cũng như các tình huống như hỏa hoạn hoặc lệnh cấm vận quốc tế.
Bên phía nước ngoài đơn phương hủy bỏ hợp đồng chịu đền bù thiệt hại.
Nguyên liệu phục vụ cho sản xuất gia công nhập khẩu về không kịp thời.
Nhân tố chủ quan ảnh hưởng đến xuất khẩu bao gồm việc tổ chức thu mua hoặc sản xuất hàng hóa chưa hiệu quả, dẫn đến không đủ số lượng hàng giao theo hợp đồng Chất lượng sản phẩm xuất khẩu không đáp ứng yêu cầu hợp đồng ngoại thương cũng là một vấn đề nghiêm trọng Thêm vào đó, việc giao hàng chậm có thể dẫn đến từ chối thanh toán Công tác tiếp thị và khả năng tiếp cận thị trường, khách hàng còn hạn chế, cùng với năng lực đàm phán của công ty chưa cao, đều ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả xuất khẩu Cuối cùng, tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu kém trong những năm trước cũng có thể tác động xấu đến việc ký kết hợp đồng trong tương lai.
PHƯƠNG THỨC KINH DOANH
KHẨU TRUNG BÌNH ( GIAI ĐOẠN 2007 – 2009 )
TRỊ GIÁ (USD) TỶ TRỌNG (%)
Công ty đang phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực xuất khẩu, với doanh thu đạt 5.004.612,75333 và 7.52% tăng trưởng Hoạt động chính của công ty bao gồm gia công hàng xuất khẩu và xuất khẩu tự doanh Hiện tại, công ty đang chuyển đổi từ gia công xuất khẩu sang xuất khẩu tự doanh nhằm tăng kim ngạch, nâng cao khả năng cạnh tranh và xây dựng thương hiệu cho sản phẩm.
Theo số liệu, xuất khẩu tự doanh của công ty đã tăng trưởng đáng kể từ năm 2008 đến 2009 Cụ thể, năm 2007, kim ngạch xuất khẩu này chỉ đạt 19.684.774,98 USD, chiếm 34% tổng kim ngạch Đến năm 2008, con số này tăng nhẹ lên 22.281.147,3 USD, tương ứng 35% tổng kim ngạch Tuy nhiên, năm 2009 chứng kiến sự bùng nổ với kim ngạch đạt 46.827.283,46 USD, chiếm tới 70% tổng kim ngạch của công ty.
Trong giai đoạn 2007-2008, xuất khẩu gia công ghi nhận sự tăng trưởng nhẹ, với kim ngạch đạt 33.579.910,26 USD vào năm 2007, chiếm 58% tổng kim ngạch, và tăng lên 38.196.252 USD, tương ứng 60% vào năm 2008 Tuy nhiên, đến năm 2009, xuất khẩu gia công giảm mạnh, chỉ còn 12.672.856,74 USD, chiếm 19% tổng kim ngạch, đánh dấu sự suy giảm và rơi xuống vị trí thứ hai sau xuất khẩu tự doanh.
Tổng Công ty cũng thực hiện xuất khẩu ủy thác và nhận hoa hồng, nhưng hoạt động này không thường xuyên và giá trị không lớn Năm 2007, kim ngạch đạt 4.631.711,76 USD, chiếm 8% tổng kim ngạch của công ty, và vào năm 2008, hình thức này đã giảm.
Trong giai đoạn này, kim ngạch xuất khẩu tự doanh của công ty chiếm 50.1%, trong khi xuất khẩu gia công chiếm 42.38% và xuất khẩu ủy thác chỉ 7.52% Tỷ trọng xuất khẩu tự doanh đang có xu hướng tăng, cho thấy chiến lược chuyển đổi cơ cấu hình thức xuất khẩu của công ty đang phát huy hiệu quả Công ty cần tiếp tục tăng cường phát triển lĩnh vực này.
Hình thức xuất khẩu gia công đã là phương thức chính của công ty trong những năm qua, tuy nhiên, mặc dù chiếm tỷ trọng lớn, nhưng hiệu quả kinh tế không cao Do đó, công ty đang dần chuyển đổi cơ cấu xuất khẩu để nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Công ty đang chuyển mình từ việc gia công xuất khẩu truyền thống sang hình thức hợp tác liên doanh, giúp duy trì mối quan hệ với khách hàng và nâng cao hiệu quả kinh doanh Đồng thời, công ty cũng có khả năng sản xuất, chào hàng và bán trực tiếp cho người mua, cũng như nhập khẩu máy móc, phụ tùng và nguyên liệu ngành may để phục vụ sản xuất Hình thức này không chỉ tối ưu hóa doanh thu mà còn mang lại lợi nhuận cao hơn so với gia công.
Sức ép cạnh tranh trong ngành buộc các công ty phải chuyển đổi sang hình thức tự doanh, giúp sản phẩm của họ thâm nhập vào thị trường toàn cầu với thương hiệu, biểu tượng và tên gọi riêng của mình.
THEO ĐIỀU KIỆN THƯƠNG MẠI
đơn vị tính: USD Incoter ms
Incoterm s 2000 So sánh 2008/2007 So sánh 2009/2008
Tình hình xuất khẩu tại Công ty Cổ Phần May Việt Tiến có sự biến động không đồng đều, chủ yếu diễn ra theo các điều kiện thương mại như FOB, CIF, CFR và FCA.
Năm 2008, doanh thu đạt 5.764.022,16 USD, tăng 9,96% so với năm trước Tuy nhiên, sang năm 2009, mức tăng doanh thu giảm xuống còn 3.038.826,18 USD, tương ứng với tỷ lệ 4,77%.
Cụ thể: có hai điều kiện thương mại mà công ty áp dụng có doanh thu tăng :
+ CIF: Năm 2007 đạt 9.952.000 USD (17.19%), năm sau đó có mức tăng lần lượt là: 2008 đạt 12.235.000 usd (19.22%); năm 2009 đạt 15.099.790 usd ( 22.64 %).
Trong khi đó: có hai điều kiện với doanh thu giảm:
+ FOB: năm 2007 đạt25.550.397,36 USD (44.13%), năm sau đó mức doanh thu lai giảm lần lượt như sau: 2008 đạt 20.360.423 usd ( 31.98%); 2009 đạt 270.023.235,7 USD (30.02%).
+ FCA: năm 2007 đạt 7.150.000 USD (12.35%), năm sau đó mức doanh thu lai giảm lần lượt như sau: 2008 đạt 4.759.000,2 USD ( 7.49%); 2009 đạt 4.000.200 (6.00%).
Công ty đã chuyển sang áp dụng nhóm điều kiện thương mại loại C (CFR; CIF) trong xuất khẩu hàng hóa, điều này không chỉ mang lại nhiều lợi thế cho doanh nghiệp mà còn góp phần thúc đẩy sự phát triển và hoàn thiện của ngành vận tải và bảo hiểm trong nước.
+ Do thói quen sử dụng điều kiện thương mại của công ty.
Chính sách khuyến khích của nhà nước thúc đẩy việc sử dụng dịch vụ nội địa trong lĩnh vực vận tải và bảo hiểm Sự lựa chọn phương thức đóng gói hàng hóa xuất khẩu cũng có ảnh hưởng đáng kể đến quy trình vận chuyển Ngoài ra, loại phương tiện vận tải được chọn lựa cũng quyết định đến hiệu quả của việc giao nhận hàng hóa.
+ có thể công ty đã làm tốt công tác dự báo về giá cả, tỷ giá.
+ Cán bộ công nhân viên được đào tạo rất tốt về nghiệp vụ lẫn kiến thức
+ Do am hiểu về thị trường, kiến thức chuyên môn về vận tải, bảo hiểm được đào tạo tốt.
+ Do thế và lực của doanh nghiệp bên nào mạnh hơn sẽ giành được điều kiện thương mại có lợi hơn.
+ Khâu kiểm tra chất lượng hàng hóa xuất khẩu hoạt động có hiệu quả.
DVT: 1.000 USD Các phửụng thức thanh tóan quoác teá
Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 So sánh
Dựa vào bảng số liệu, có thể đánh giá sơ bộ về tình hình sử dụng phương thức thanh toán trong hoạt động xuất khẩu của công ty Công ty đã áp dụng nhiều hình thức trả chậm, góp phần gia tăng kim ngạch xuất khẩu qua các năm: năm 2007 đạt 57.897 triệu USD và năm 2008 đạt 63.661 triệu USD.
Phương thức tín dụng chứng từ, đặc biệt là L/C thời hạn trả ngay, ngày càng được các công ty xuất khẩu ưa chuộng nhờ tính an toàn cao Việc sử dụng phương thức này không chỉ giúp bảo vệ lợi ích của nhà xuất khẩu mà còn nâng cao uy tín và tiềm năng phát triển của công ty.
Phương thức chuyển tiền và nhờ thu đang chiếm tỷ trọng cao trong thanh toán xuất khẩu, với trị giá lần lượt là 27.662 triệu USD (47.78%) năm 2007, 35.126 triệu USD (55.18%) năm 2008, và 32.897 triệu USD (49.33%) năm 2009 Tuy nhiên, những phương thức này tiềm ẩn rủi ro lớn cho nhà xuất khẩu, vì họ phải giao hàng trước khi nhận được thanh toán Do đó, Công ty nên tránh áp dụng các phương thức thanh toán này đối với những khách hàng mới hoặc có quan hệ kinh doanh lần đầu.
****Các nhân tố tác động.
Cạnh tranh gay gắt trong lĩnh vực xuất khẩu buộc các doanh nghiệp phải áp dụng nhiều phương thức thanh toán thuận lợi cho người nhập khẩu, cùng với việc thiết lập các thời hạn thanh toán ưu đãi, nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu.
- Do khủng hỏang nền kinh tế cuối 2008 đầu năm 2009 đãû không ít tác động nhiều đến doanh nghiệp.
+ Việt Tiến đã tạo cho mình một thế đứng một tên tuổi trên trường quốc tế.
- Đội ngũ cán bộ phòng kinh doanh xuất nhập khẩu hoạt động có hiệu quả
- Nhu cầu về hàng may mặc là rất lớn.
- Hàng may mặc Việt Tiến là mặt hàng cao cấp rất được ưa chuộng.
THEO PHƯƠNG THỨC THANH TOÁN
Với kinh nghiệm dày dạn trong gia công, sản xuất và xuất khẩu hàng may mặc, chúng tôi đã xây dựng được sự tín nhiệm từ khách hàng truyền thống và tạo dựng uy tín vững chắc trên thị trường, từ đó thu hút sự hợp tác từ các đối tác mới.
Đầu tư thường xuyên vào việc đổi mới máy móc và thiết bị, cùng với nghiên cứu cải tiến quy trình và công nghệ sản xuất, giúp nâng cao năng suất lao động, đảm bảo chất lượng ổn định và tăng cường năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp.
Công ty VTEC đã xác lập vị thế thương hiệu vững mạnh với sản phẩm áo sơ mi và quần tây, không chỉ trên thị trường nội địa mà còn trong xuất khẩu Thương hiệu đã được đăng ký tại Mỹ và Canada, đồng thời mở rộng xây dựng thương hiệu tại 6 quốc gia ASEAN và tiếp tục phát triển tại thị trường EU.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là ngành dệt may, phải nâng cao năng lực cạnh tranh, cải thiện năng suất và chất lượng sản phẩm Đồng thời, việc xây dựng hình ảnh thương hiệu thân thiện với người tiêu dùng và quảng bá ra thị trường quốc tế cũng trở nên cấp thiết Nhận thức được điều này, Tổng Công ty Cổ phần May Việt Tiến đã nỗ lực không ngừng để nâng cao uy tín, đạt chứng chỉ quản lý ISO 9002 và hướng tới các chứng chỉ quốc tế khác.
SA 8000 là một hệ thống quản lý trách nhiệm xã hội mà các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là những đơn vị hướng đến thị trường tiềm năng Mỹ, đang chú trọng Điều này xuất phát từ việc SA 8000 là một trong những yêu cầu nghiêm ngặt mà các nhà nhập khẩu đặt ra.
Các nhà sản xuất và cung ứng dịch vụ tại Mỹ cần có trách nhiệm xã hội mạnh mẽ, đặc biệt là đối với người lao động.
Thiếu vốn, đặc biệt là vốn lưu động, đang trở thành thách thức lớn đối với các doanh nghiệp Việt Nam và Ban Lãnh đạo công ty Kể từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, Tổng Công ty phải tự tìm kiếm nguồn vốn để bổ sung cho vốn lưu động, thay vì nhận ngân sách cấp phát đầy đủ như trong thời kỳ bao cấp trước đây.
Công ty chưa xây dựng hệ thống thông tin kịp thời hiệu quả cho Doanh nghiệp.
Mặc dù các doanh nghiệp dệt may trong nước có sự phát triển vượt trội, nhưng trang thiết bị vẫn chưa đạt tiêu chuẩn so với các quốc gia có ngành công nghiệp dệt may phát triển, dẫn đến năng suất chưa tối ưu Hơn nữa, việc phụ thuộc vào nguyên phụ liệu nhập khẩu làm tăng giá thành sản phẩm, gây khó khăn trong việc cạnh tranh với các nước trong khu vực.
Khi kinh doanh quốc tế, đặc biệt là xuất khẩu vào thị trường Mỹ, việc đăng ký thương hiệu là cần thiết để được bảo vệ theo quy định pháp luật của nước nhập khẩu Dù đã đăng ký thương hiệu tại Mỹ và Canada, nhãn hiệu VTEC cùng một số sản phẩm khác của doanh nghiệp vẫn đang bị các công ty nhạy bén đăng ký trước, gây khó khăn cho việc bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp trong ngành.
Mỹ và đang được rao bán công khai trên mạng Đây thực sự là việc khó khăn khi dành lại “đứa con đẻ” của mình.
Hiện nay, nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã tham gia xuất khẩu trực tiếp, khiến Việt Tiến không chỉ đối mặt với sự cạnh tranh từ các công ty Trung Quốc và khu vực mà còn từ các doanh nghiệp may mặc trong nước được đầu tư mạnh Thêm vào đó, sự cạnh tranh không lành mạnh từ một số công ty khác trong việc nhái nhãn hiệu, vi phạm kiểu dáng và thu hút công nhân kỹ thuật càng làm gia tăng áp lực cho Việt Tiến.
8.3 Thuận lợi: nước và quốc tế Khi chuyển sang hình thức doanh nghiệp Cổ phần, Công ty sẽ tiếp tục kế thừa và phát huy trong những năm tiếp theo:
Vào ngày 11/01/2007, Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới WTO với tư cách là thành viên thứ 150, dẫn đến việc bãi bỏ quota vào thị trường Hoa Kỳ Sự kiện này đã mở ra nhiều cơ hội đầu tư cho Việt Nam, đặc biệt trong ngành dệt may, giúp doanh nghiệp tìm kiếm và hợp tác với nhiều đối tác kinh doanh mới.
Công ty coi trọng việc cải tiến kỹ thuật, sắp xếp theo lao động hợp lý và đã thực hiện hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001 : 2000.
Chuyển đổi mô hình Công ty cổ phần sẽ tạo điều kiện cho Tổng Công ty cơ cấu lại tổ chức một cách gọn nhẹ và hiện đại, đồng thời áp dụng các chính sách lương thưởng liên kết chặt chẽ với hiệu quả hoạt động kinh doanh.
Chủ động trong tổ chức sản xuất kinh doanh là yếu tố then chốt giúp doanh nghiệp vượt qua sự cạnh tranh khốc liệt Khi không còn phụ thuộc vào hàng rào hạn ngạch giữa các quốc gia, các doanh nghiệp cần linh hoạt và sáng tạo để thích ứng với thị trường toàn cầu Sự chủ động này không chỉ nâng cao năng lực cạnh tranh mà còn mở ra nhiều cơ hội phát triển bền vững cho doanh nghiệp.
Kể từ ngày 01/06/2007, Chính phủ Hoa Kỳ đã thực hiện các biện pháp kiểm soát nghiêm ngặt đối với hàng dệt may nhập khẩu từ Việt Nam, dẫn đến nhiều khó khăn cho sản phẩm dệt may Việt Nam khi thâm nhập vào thị trường Hoa Kỳ.