A. Tóm tắt mở đầu - Tên tác giả: Hoàng Thị Đoan Trang - Tên luận án: Nghiên cứu các trường hợp miễn trách của người vận chuyển theo hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam. - Ngành khoa học của luận án: Kinh tế, chuyên ngành Kinh tế quốc tế. Mã số: 9310106 - Tên cơ sở đào tạo: Trường Đại học Ngoại Thương B. Nội dung bản trích yếu: 1. Mục đích và đối tượng nghiên cứu của luận án - Mục đích nghiên cứu của luận án là trên cơ sở phân tích để làm rõ những vấn đề lý luận về các trường hợp miễn trách của người vận chuyển theo hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển và mối quan hệ giữa hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp với hợp đồng vận chuyển hợp đồng bằng đường biển, đề tài phân tích thực trạng hiểu biết cùng những khó khăn đối với các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam khi đối mặt với các trường hợp miễn trách này và đề xuất giải pháp để doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam tăng cường vận dụng các trường hợp miễn trách của người vận chuyển theo hợp đồng vận chuyển hợp đồng bằng đường biển nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam trong thời gian tới. - Đối tượng nghiên cứu của luận án là: Dưới góc độ chủ thể nghiên cứu là các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam, đối tượng nghiên cứu của luận án là những vấn đề liên quan đến hợp đồng vận chuyển hợp đồng bằng đường biển và các trường hợp miễn trách nhiệm của người vận chuyển theo hợp đồng vận chuyển hợp đồng bằng đường biển trong Bộ luật Hàng hải Việt Nam 2005, Bộ luật Hàng hải Việt Nam 2015, Quy tắc Hague 1924, Quy tắc Hague-Visby 1968, Quy tắc Hamburg 1978, Quy tắc Rotterdam 2009 và mối quan hệ của việc am hiểu, vận dụng đúng các trường hợp miễn trách của người vận chuyển theo hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển với việc đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam. 2. Các phương pháp nghiên cứu đã sử dụng LATS được hoàn thành trên cơ sở các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau: - Phương pháp hệ thống hoá và phân tích: Phương pháp này được sử dụng ở Chương 1 nhằm hệ thống hoá các luận điểm mang tính lý luận về những trường hợp miễn trách của người chuyên chở đường biển theo hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng hóa của các doanh nghiệp xuất khẩu tại Việt Nam. Phương pháp này cũng được sử dụng chủ yếu trong Chương 4 của luận án nhằm luận giải cho phương hướng và 05 nhóm giải pháp để các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam tăng cường vận dụng và vận dụng đúng quy định của pháp luật về các trường hợp miễn trách của người vận chuyển theo hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển cũng như biết cách ứng phó khi gặp các trường hợp miễn trách này nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam. - Phương pháp phân tích, phương pháp thống kê và phương pháp so sánh: Được tác giả sử dụng ở Chương 2 để làm rõ một số vấn đề cơ bản liên quan đến đề tài luận án như: khái niệm về các trường hợp miễn trách của người vận chuyển theo hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển; phân loại các trường hợp miễn trách và sự cần thiết phải nghiên cứu các trường hợp miễn trách đối với các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam. Chương 2 luận án cũng so sánh Bộ luật hàng hải Việt Nam 2015 và một số nguồn luật quốc tế điều chỉnh về những trường hợp miễn trách của người chuyên chở hàng hóa bằng đường biển. - Phương pháp phân tích và phương pháp tổng hợp: Được sử dụng ở Chương 3 nhằm phân tích thực trạng và thực tiễn áp dụng, tổng hợp một số nguồn luật liên quan đến những trường hợp miễn trách của người chuyên chở theo hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam. - Phương pháp nghiên cứu tình huống (case study): Phương pháp này được sử dụng để phân tích kỹ các tình huống điển hình liên quan đến tranh chấp giữa doanh nghiệp vận tải biển và doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam về việc bồi thường cho tổn thất, thiệt hại của hàng hóa chuyên chở theo hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển mà doanh nghiệp vận tải biển được hưởng miễn trách nhiệm đối với tổn thất, thiệt hại của hàng hóa ở Chương 3. Nghiên cứu sinh cũng chú ý tới đặc thù của các tình huống điển hình này kèm theo các so sánh, đánh giá về sự tương đồng và khác biệt cũng như rút ra các nhận xét, kết luận, trên cơ sở đó, đề xuất những giải pháp dành cho doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp này trên cơ sở nghiên cứu những trường hợp miễn trách của người vận chuyển hàng hóa bằng đường biển theo hợp đồng chuyên chở hàng hóa bằng đường biển. - Phương pháp phỏng vấn chuyên sâu và phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Phương pháp phỏng vấn chuyên sâu được sử dụng để phỏng vấn trực tiếp hoặc qua điện thoại, thu thập thông tin, nhận xét, đánh giá, phân tích chuyên sâu của các chuyên gia đầu ngành ở một số vụ trực thuộc Bộ Giao thông vận tải, Bộ Công Thương, các tổng cục, cục trực thuộc Bộ Giao thông vận tải, Bộ Công Thương, các nhà lãnh đạo của một số doanh nghiệp xuất khẩu lớn ở Việt Nam, các viện trưởng, phó viện trưởng của một số viện nghiên cứu trực thuộc hai Bộ nói trên. Nội dung hỏi liên quan đến những bất cập trong quy định của pháp luật Việt Nam về các trường hợp miễn trách của người vận chuyển theo hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển, những ảnh hưởng của việc áp dụng quy định của pháp luật Việt Nam về các trường hợp miễn trách của người vận chuyển theo hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển đối với việc thúc đẩy hoạt động xuất khẩu, những vấn đề đặt ra đối với các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam khi gặp các trường hợp miễn trách của người vận chuyển theo hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi là phương pháp phỏng vấn viết, được thực hiện cùng lúc với 30 doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam giành được quyền thuê tàu biển theo một bảng hỏi in sẵn về những nhân tố chủ quan và khách quan ảnh hưởng đến việc áp dụng quy định của pháp luật Việt Nam về các trường hợp miễn trách của người vận chuyển theo hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam. 3. Các kết quả chính và kết luận: Kết quả nghiên cứu của Luận án là một công trình khoa học nghiêm túc, công phu, đảm bảo có tính mới. Luận án đã đạt một số kết quả như sau: Thứ nhất, Luận án đã giúp làm rõ thế nào là hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển và các trường hợp miễn trách của người vận chuyển theo hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển. Luận án cũng xác định rõ vai trò, ý nghĩa của việc nghiên cứu các trường hợp miễn trách này đối với các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam. Thứ hai, Luận án cũng phân tích được rõ việc áp dụng đúng các trường hợp miễn trách của người vận chuyển theo hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển có tác động như thế nào đến hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam. Thứ ba, Luận án nêu rõ có những trường hợp miễn trách cụ thể nào, theo quy định của pháp luật Việt Nam (cụ thể là Bộ luật hàng hải Việt Nam 2015), cho người vận chuyển theo hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển và thực tế các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam đã vận dụng các quy định của pháp luật Việt Nam như thế nào để bảo vệ quyền lợi của mình. Thứ tư, Luận án cũng nêu bật những bất cập trong quy định của pháp luật Việt Nam về các trường hợp miễn trách của người vận chuyển theo hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển, đồng thời phân tích ảnh hưởng của việc áp dụng quy định về những trường hợp miễn trách của người chuyên chở hàng hóa bằng đường biển theo nguồn luật Việt Nam đối với việc thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam. Luận án cũng đề xuất những giải pháp để loại bỏ những bất cập này trên cơ sở phân tích những nguyên nhân của bất cập và ảnh hưởng nói trên. Thứ năm, Luận án nêu rõ những vấn đề đặt ra đối với các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam khi gặp những trường hợp miễn trách của người vận chuyển theo hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển. Luận án phân tích khả năng ứng phó yếu kém của các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam khi gặp những trường hợp miễn trách của người vận chuyển theo hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển; chiến lược kinh doanh xuất khẩu của các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam chưa thực sự gắn kết với chiến lược thúc đẩy nghiệp vụ vận chuyển hàng hóa và chiến lược ứng phó với các trường hợp miễn trách của người vận chuyển đường biển. Giá trị thực tiễn của Luận án là : Thứ nhất, Luận án là tài liệu tham khảo có giá trị đối với các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam ký kết hợp đồng vận chuyển hàng hóa xuất khẩu bằng đường biển. Thứ hai, Luận án là tài liệu phục vụ cho việc giảng dạy, học tập và nghiên cứu về hoạt động xuất khẩu hàng hóa của doanh nghiệp xuất khẩu, về hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển, về pháp luật và về các trường hợp miễn trách của người vận chuyển hàng hóa bằng đường biển tại các cơ sở đào tạo kinh tế, thương mại, pháp luật ở Việt Nam. Thứ ba, các nhóm giải pháp về hoàn thiện quy định của pháp luật đối với các trường hợp miễn trách của người vận chuyển hàng hóa bằng đường biển, xây dựng chiến lược xuất khẩu có giá trị hữu ích đối với cơ quan lập pháp, hành pháp và các tòa án, trọng tài của Việt Nam. Các nhóm giải pháp về đào tạo nguồn nhân lực, ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu, hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển, ứng phó khi người vận chuyển được miễn trách theo hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển có giá trị áp dụng với các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam.
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
Tổng quan tình hình nghiên cứu
Trách nhiệm của người chuyên chở hàng hóa theo hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu và học giả cả ở Việt Nam và quốc tế Tuy nhiên, các nghiên cứu hiện tại chủ yếu chỉ tập trung vào trách nhiệm của người chuyên chở theo luật quốc tế hoặc theo các nguồn luật khác mà chưa đi sâu vào những khía cạnh cụ thể hơn.
Việt Nam vẫn chưa tiến hành so sánh giữa hai nguồn luật và chưa có nghiên cứu riêng về các căn cứ miễn trách của người chuyên chở đường biển theo hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển Để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam, cần có những biện pháp ứng phó hiệu quả nhằm giảm thiểu các trường hợp miễn trách của người chuyên chở hàng hóa bằng đường biển.
Doanh nghiệp sẽ không phải gánh chịu tổn thất từ các miễn trách liên quan đến hàng hóa xuất khẩu, giúp tiết kiệm chi phí xuất khẩu Điều này sẽ nâng cao doanh thu và kim ngạch xuất khẩu, đồng thời thúc đẩy hoạt động xuất khẩu Tuy nhiên, vẫn còn một số nghiên cứu trước đây đề cập đến các vấn đề liên quan đến đề tài của Luận án.
Để có cái nhìn tổng quan về tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài LATS, NCS sẽ tổng hợp nghiên cứu ở Việt Nam và quốc tế, chia thành hai nhóm: các trường hợp miễn trách của người vận chuyển theo hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển và hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam Đến nay, chưa có nghiên cứu nào đề cập đến các trường hợp miễn trách của người vận chuyển trong bối cảnh thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam.
1.1.1 Tình hình nghiên cứu về các trường hợp miễn trách của người vận chuyển theo hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển
Trong các nghiên cứu về trách nhiệm và các trường hợp miễn trách của người chuyên chở theo hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển, có một số điểm nổi bật cần lưu ý.
LATS của AA Sefara, "Basis of carrier’s liability in carriage of goods by sea", hoàn thành vào năm 2014, nghiên cứu cơ sở trách nhiệm của người chuyên chở đối với mất mát, hư hỏng hàng hóa hoặc chậm giao hàng Nghiên cứu so sánh các công ước hàng hải như Quy tắc Hague, Quy tắc Hague-Visby, Quy tắc Hamburg và Quy tắc Rotterdam, chỉ ra sự thay đổi trong trách nhiệm của người chuyên chở và sự tiến bộ trong các quy định về miễn trách Đặc biệt, nghiên cứu sâu về trường hợp miễn trách do lỗi hải vận, là miễn trách đầu tiên trong 17 trường hợp theo Quy tắc Hague-Visby Lỗi hải vận liên quan đến sơ suất của thuyền trưởng, thủy thủ, hoa tiêu hoặc nhân viên của người chuyên chở trong việc quản lý tàu Để được miễn trách theo Quy tắc Hague-Visby, người chuyên chở phải chứng minh rõ ràng rằng sơ suất trong điều khiển tàu là nguyên nhân duy nhất gây ra mất mát hoặc thiệt hại cho hàng hóa (AA Sefara, 2014).
Bài viết của Lưu Thiết Anh “Quy định điều khoản miễn trách với người vận chuyển đường biển quốc tế” nêu bật sự phát triển của các quy định miễn trách đối với người vận chuyển đường biển qua các thời kỳ và điều ước quốc tế Từ thế kỷ 15, trách nhiệm và miễn trách của người vận chuyển đã có những bước tiến đáng kể Năm 1893, Bộ luật hàng hải (Harter Act) của Mỹ yêu cầu người vận chuyển phải thận trọng trong quản lý tàu và quy định các trường hợp miễn trách khi thuyền trưởng hoặc thuyền viên có lỗi gây thiệt hại Ngày 25/8/1924, Quy tắc Hague được thông qua tại Brussel, quy định 17 trường hợp miễn trách cụ thể cho người vận chuyển.
Có hai loại miễn trách: miễn trách do có lỗi và miễn trách ngay cả khi người vận chuyển không có lỗi Quy tắc Visby ra đời nhằm cải tiến Quy tắc Hague, mở rộng phạm vi miễn trách cho cả đại lý và nhân viên của người vận chuyển Tiếp theo, Quy tắc Hamburg đã giới hạn các miễn trách đối với người vận chuyển, thiết lập chế độ trách nhiệm có lỗi hoàn toàn, nghĩa là người vận chuyển phải chịu trách nhiệm nếu có lỗi và không được miễn trách Người vận chuyển cần chứng minh mình không có lỗi để được miễn trách, trong khi người đòi bồi thường phải chứng minh không được hưởng miễn trách do hỏa hoạn Quy tắc Rotterdam năm 2008 cũng quy định về các miễn trách tương tự như Quy tắc Hamburg, nhưng có sự khác biệt khi hỏa hoạn được liệt kê vào các trường hợp miễn trách, trừ khi người đòi bồi thường chứng minh hỏa hoạn do lỗi của người vận chuyển Đối với trường hợp hàng hóa bị tổn thất do tàu không đi đúng tuyến đường hàng hải, người đòi bồi thường phải chứng minh lỗi ở mức sơ bộ, trong khi người vận chuyển chứng minh lỗi ở mức độ sâu hơn, làm giảm bớt sự hà khắc của nguyên tắc suy đoán lỗi trong Quy tắc Hamburg.
Trong bài luận "Nghiên cứu chế độ miễn trách của người vận chuyển đường biển quốc tế", Lưu Kiều đã phân tích sự phát triển của ngành vận tải biển và các điều ước quốc tế liên quan, sử dụng các phương pháp nghiên cứu lịch sử, thực chứng và so sánh Nghiên cứu chỉ ra tác động của các trường hợp miễn trách đối với người vận chuyển, ngành vận tải quốc tế và thương mại toàn cầu Lưu Kiều nhấn mạnh rằng Quy tắc Rotterdam mang nhiều nội dung mới về trách nhiệm của người vận chuyển và phân loại 15 trường hợp miễn trách theo Điều 17 khoản 3 thành ba dạng: kế thừa các miễn trách cũ, miễn trách mới hình thành từ miễn trách cũ, và miễn trách mới hoàn toàn Phần lớn các miễn trách trong Quy tắc Rotterdam là kế thừa từ Quy tắc Hague (Lưu Kiều, 2014, tr 11).
Bài báo của Su Tong-jiang và Wang Peng phân tích trách nhiệm của người vận chuyển hàng hóa theo các điều ước quốc tế về hàng hải, đặc biệt là trong bối cảnh HĐ vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển Các tác giả chỉ ra rằng thời gian chịu trách nhiệm của người vận chuyển đã được mở rộng nhờ sự phát triển của các quy tắc như Quy tắc Hague, Quy tắc Hague-Visby (áp dụng cho vận chuyển cảng đến cảng), Quy tắc Hamburg và Công ước Rotterdam (vận chuyển từ nơi nhận đến nơi giao) Trong khi Quy tắc Hague và Quy tắc Hague-Visby dựa trên danh sách trách nhiệm và miễn trách, thì Quy tắc Hamburg và Công ước Dự thảo Rotterdam lại áp dụng nguyên tắc suy đoán lỗi Ngoài ra, mức giới hạn trách nhiệm cũng đã tăng lên theo sự xuất hiện của các nguồn luật quốc tế mới.
Theo quy tắc Hague, mức bồi thường tối đa là 666,67 SDR/đơn vị hoặc 2 SDR/kg; theo quy tắc Hague-Visby là 835 SDR/đơn vị hoặc 2,5 SDR/kg; và theo quy tắc Hamburg, mức bồi thường cũng tương tự.
Dự thảo Công ước được giới hạn ở 875 SDR/đơn vị hoặc 3 SDR/kg tổng trọng lượng của HH (Su Tong‐jiang, 2009)
Trong cuốn sách “Carrier's Liability under the Hague, Hague-Visby and Hamburg Rules”, Sze Ping-fat đã phân tích trách nhiệm của người vận chuyển hàng hóa bằng đường biển theo ba quy tắc: Hague, Hague-Visby và Hamburg Tác giả xem xét liệu Quy tắc Hamburg có áp dụng chế độ trách nhiệm khác biệt và làm tăng đáng kể trách nhiệm của người vận chuyển so với hai quy tắc còn lại hay không Nghiên cứu tập trung vào pháp luật hàng hải của Úc và Anh, cho thấy rằng, trái với những ý kiến phổ biến, Quy tắc Hamburg không làm thay đổi đáng kể trách nhiệm hiện có của người vận chuyển, mà thực tế nâng cao vị trí pháp lý của họ trong một số lĩnh vực Kết luận của tác giả khẳng định rằng cả ba quy tắc không có sự khác biệt lớn về tính hợp pháp và trách nhiệm của người vận chuyển (Sze Ping-fat, 2002).
Bài viết của Si Yuzhou và Henry Hai Li trên tạp chí Heinonline.org mang tên “Cấu trúc mới của cơ sở trách nhiệm của người chuyên chở theo các quy tắc Rotterdam” tóm tắt chế độ trách nhiệm của người chuyên chở đường biển theo Công ước Rotterdam 2009 Công ước này không chỉ áp dụng nguyên tắc suy đoán lỗi mà còn quy định rõ ràng trách nhiệm của người chuyên chở đối với tổn thất, mất mát và chậm giao hàng Hơn nữa, Công ước Rotterdam còn kế thừa các nguồn luật về vận tải đường biển trước đó, bao gồm Quy tắc Hague-Visby 1968 và Quy tắc Hamburg 1978.
Karan Haran's work in "The Carrier's Liability Under International Maritime Conventions" examines the responsibilities of maritime carriers as defined by international shipping regulations, specifically the Hague Rules of 1924, the Hague-Visby Rules of 1968, and the Hamburg Rules.
Năm 1978 đánh dấu sự ra đời của ba công ước quốc tế quan trọng liên quan đến mất mát hoặc hư hỏng hàng hóa, bao gồm Quy tắc Hague, Hague-Visby và Hamburg Những công ước này với các phong cách lập pháp khác nhau đã dẫn đến sự thiếu thống nhất trong lĩnh vực vận tải hàng hóa bằng đường biển hiện nay Mục tiêu của các luật sư và doanh nhân là thống nhất, làm rõ và đơn giản hóa luật quốc gia điều chỉnh thương mại hàng hải, nhằm giảm thiểu rủi ro pháp lý trong các hợp đồng vận chuyển bằng đường biển (Karan Haran, 2005).
- LATS của Abdulrahim Hani M.S “Maritime Carrier's Liability for Loss of or
Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
Luận án được thực hiện dựa trên các lý thuyết nghiên cứu dưới đây:
- Học thuyết Mác-Lê nin về Nhà nước và pháp luật Theo quan điểm của Mác-
Lê nin, Nhà nước là bộ máy chính trị có bản chất là chuyên chính giai cấp (V.I.Lenin,
Pháp luật được coi là ý chí của giai cấp thống trị, được hình thành dựa trên điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội (C.Mác và F.Enghen, 1969) Học thuyết Mác-Lê nin đã làm rõ bản chất của Nhà nước và pháp luật, hiện nay vẫn là kim chỉ nam cho việc xây dựng các đường lối, chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, thương mại, và đặc biệt là vận tải biển tại Việt Nam.
Dựa trên học thuyết Mác-Lê nin, luận án phân tích sự khác biệt và tiến bộ trong quy định pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế liên quan đến miễn trách của người vận chuyển hàng hóa bằng đường biển Nghiên cứu này áp dụng học thuyết Mác-Lê nin về Nhà nước và pháp luật để giải thích tính ổn định của pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển, đặc biệt là các quy định về miễn trách của người vận chuyển.
HĐ vận chuyển HH bằng đường biển nói riêng
Lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo là một trong những nền tảng quan trọng của thương mại quốc tế, nhấn mạnh rằng tự do hóa thương mại và hội nhập kinh tế toàn cầu giúp các quốc gia khai thác lợi thế so sánh của mình Qua việc áp dụng lý thuyết này, các quốc gia có thể tận dụng cơ hội và lợi thế để phát triển kinh tế hiệu quả hơn trong môi trường thương mại quốc tế.
Lý thuyết này giải thích mối quan hệ giữa người vận chuyển hàng hóa và doanh nghiệp xuất khẩu qua hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển Doanh nghiệp xuất khẩu sẽ không thể tối ưu hóa việc đưa hàng hóa ra nước ngoài nếu không khai thác lợi thế của người vận chuyển, bao gồm tàu biển và đội ngũ thuyền viên Việc này giúp doanh nghiệp giảm thiểu chi phí vận chuyển so với việc tự tổ chức vận chuyển hàng hóa.
Lý thuyết lợi thế so sánh cũng được NCS vận dụng để làm rõ vì sao BLHHVN
Năm 2015 và các điều ước quốc tế quy định nhiều trường hợp miễn trách cho người vận chuyển trong hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển.
Chủ nghĩa trọng thương, xuất hiện sớm nhất tại Anh vào thế kỷ XVI-XVII, đã có vai trò quan trọng ở các nước Tây Âu trong giai đoạn này Những người theo chủ nghĩa này, như Montchretien, cho rằng hoạt động công nghiệp không phải là nguồn gốc của của cải mà chỉ có ngoại thương mới thực sự tạo ra sự giàu có Họ nhấn mạnh rằng chính sách xuất siêu (xuất nhiều, nhập ít) là cần thiết trong ngoại thương, và ví von rằng "nội thương là một hệ thống ống dẫn, ngoại thương là máy bơm," cho thấy để tăng của cải, cần phải có ngoại thương để nhập dần của cải qua nội thương.
Luận án này phân tích mối quan hệ giữa vận tải và sản xuất hàng hóa, cũng như sự kết nối giữa sản xuất hàng hóa và vận chuyển hàng hóa Đồng thời, nó cũng làm rõ vai trò của thương mại nội địa đối với thương mại quốc tế, đặc biệt là trong lĩnh vực vận chuyển hàng hóa bằng đường biển Qua đó, nghiên cứu nhấn mạnh tầm quan trọng của việc ký kết hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển để hỗ trợ hoạt động xuất khẩu hàng hóa của doanh nghiệp Việt Nam ra thị trường quốc tế.
Lý thuyết tự do kinh doanh, được phát triển bởi các nhà kinh tế học tư sản cổ điển như William Petty và Richard Cantillon vào những năm 30 của thế kỷ XX, khẳng định rằng nền kinh tế tư bản chủ nghĩa hoạt động theo các quy luật kinh tế khách quan một cách tự động Tư tưởng cốt lõi của lý thuyết này là khuyến khích tự do kinh doanh và tự do tham gia thị trường, đồng thời phản đối sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế.
Luận án này áp dụng lý thuyết tự do kinh doanh để phân tích tầm quan trọng của vận tải biển, đặc biệt là vận tải hàng hóa xuất khẩu qua đường biển Điều này phản ánh yêu cầu khách quan của nền kinh tế thị trường và quyền tự do lựa chọn ngành nghề kinh doanh Vận chuyển hàng hóa bằng đường biển đóng vai trò then chốt trong việc phát triển hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam.
Lý thuyết can thiệp của Nhà nước vào kinh tế do J.M Keynes, nhà kinh tế học người Anh, phát triển vào năm 1936, nhấn mạnh rằng để vượt qua khủng hoảng và giảm tỷ lệ thất nghiệp, Nhà nước cần có sự can thiệp và điều tiết nền kinh tế.
KT quốc dân, 1993), phải sử dụng ngân sách Nhà nước để kích thích đầu tư tư nhân
NCS áp dụng lý thuyết này để đề xuất 05 nhóm giải pháp nhằm tăng cường hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam, tập trung vào việc ứng phó hiệu quả với các tình huống miễn trách của người vận chuyển theo hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển.
Quản lý và phân tán rủi ro trong kinh doanh và thương mại quốc tế là quy trình quan trọng giúp tổ chức hiểu và đánh giá các rủi ro, từ đó thực hiện các hành động nhằm tăng xác suất thành công và giảm khả năng thất bại Theo Viện Quản lý Rủi ro (IRM), quản trị rủi ro bao gồm việc lựa chọn những rủi ro mà doanh nghiệp nên chấp nhận và những rủi ro cần tránh hoặc giảm nhẹ London School of Economics nhấn mạnh rằng hành động cần được thực hiện để giảm thiểu rủi ro Phân tán rủi ro, theo Paul Hopkin (2010), là việc chia nhỏ rủi ro ra nhiều lĩnh vực để hạn chế tác động tiêu cực từ bất kỳ biến số nào.
Luận án áp dụng lý thuyết quản lý và phân tán rủi ro trong kinh doanh và thương mại quốc tế nhằm đề xuất các giải pháp hiệu quả để giảm thiệt hại cho các doanh nghiệp Những giải pháp này không chỉ giúp tăng cường khả năng ứng phó với rủi ro mà còn nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Khi hàng hóa xuất khẩu (XK) được vận chuyển bằng đường biển, người chuyên chở sẽ được miễn trách nhiệm đối với các tổn thất, thiệt hại hoặc mất mát của hàng hóa trong quá trình vận chuyển.
Cơ chế giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực thương mại và hàng hải quốc tế là một phương pháp quan trọng để xử lý các bất đồng giữa các bên tham gia hoạt động thương mại quốc tế Các quy định về trình tự, thủ tục và cơ quan giải quyết tranh chấp có thể được quy định bởi pháp luật quốc gia hoặc thông qua các thỏa thuận giữa các quốc gia Cơ chế này có thể được xây dựng dựa trên pháp luật trong nước thông qua tòa án tư pháp, hoặc do các bên tự thỏa thuận thông qua trọng tài thương mại, cũng như các cơ chế giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia như ASEAN, WTO và APEC.
Luận án sử dụng lý thuyết này để phân tích các tình huống tranh chấp giữa DN
XK và người vận chuyển HH bằng đường biển về việc bồi thường tổn thất, mất mát của
HH XK vận chuyển trên biển mà hãng tàu biển được hưởng miễn trách nhiệm