Bài Tập Thảo Luận Luật Dân Sự Cuối Học Kỳ (Những Quy Định Chung Tài Sản, Thừa Kế) Bài Tập Thảo Luận Luật Dân Sự Cuối Học Kỳ (Những Quy Định Chung Tài Sản, Thừa Kế) NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ LUẬT DÂN SỰ, TÀI SẢN VÀ THỪA KẾ BÀI THẢO LUẬN CUỐI HỌC KỲ MỤC LỤC PHẦN 1: TRƯỜNG HỢP ĐẠI DIỆN HỢP LỆ 1 PHẦN 2: TRƯỜNG HỢP ĐẠI DIỆN KHÔNG HỢP LỆ 6 PHẦN 3: HÌNH THỨC SỞ HỮU TÀI SẢN 9 PHẦN 4: DIỆN THỪA KẾ 13 PHẦN 5: THỪA KẾ KHÔNG PHỤ THUỘC VÀO NỘI DUNG CỦA DI CHÚC 17 PHẦN 6: NGHĨA VỤ TÀI SẢN CỦA NGƯỜI ĐỂ LẠI DI SẢN 25 PHẦN 7: 28 I. Nghiên cứu: Quyết định số 6192011; Quyết định số 7672011; Quyết định số 1942012; Quyết định 3632013. 28 II. Nghiên cứu: Án Lệ số 242018 về di sản chuyển thành tài sản thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng hợp pháp của cá nhân. 35 III. Nghiên cứu Án lệ 052016 của Tòa án nhân dân tối cao 38 PHẦN 1: TRƯỜNG HỢP ĐẠI DIỆN HỢP LỆ Tóm tắt Quyết định số 082013KDTMGĐT: Vụ án tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa giữ hai bên đương sự, nguyên đơn là Công ty Vinausteel, bị đơn là Công ty Hưng Yên, được biết, Công ty Hưng Yên với Tổng giám đốc là bà Lê Thị Ngọc Lan, sau là bà Nguyễn Thị Toàn, còn ông Lê Văn Dũng (chồng bà Lan) là cố vấn đầu tư kinh doanh và có cam kết với bà Toàn là trả toàn các khoản nợ của Công ty Hưng Yên (trong đó có Vinausteel). Cả hai bên mâu thuẫn về hợp đồng mua bán, cụ thể là bên phía bị đơn có mâu thuẫn về trách nhiệm của người đại diện trong nội bộ. Bà Lan cựu Tổng giám đốc của Hưng Yên đã có giấy ủy quyền cho ông Lê Văn Mạnh, tức Phó Tổng giám đốc làm người đại diện ký kết hợp đồng với Vinausteel. Ngoài ra các vấn đề về cam kết chịu trách nhiệm các khoản nợ giữa ông Dũng và bà Toàn là các vấn đề nội bộ của Công ty Hưng Yên. Từ đó, có thể xác định việc bồi thường và thanh toán các khoản nợ là trách nhiệm của Công ty Hưng Yên đối với Vinausteel chứ không phải của riêng ông Mạnh, ông Hùng. Câu 1: Điểm mới của BLDS 2015 (so với BLDS 2005) về người đại diện. Tiêu chí BLDS 2005 BLDS 2015 Đại diện Sử dụng từ người để chỉ người đại diện cụ thể ở Khoản 1 Điều 139 quy định: “ Đại diện là việc một người (sau đây gọi là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của người khác (sau đây gọi là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện.” Không làm rõ đối tượng đại diện là ai. Xác định rõ ràng người đại diện có thể là các nhân hoặc pháp nhân Khoản 1 Điều 134 quy định: “Đại diện là việc cá nhân, pháp nhân (sau đây gọi chung là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác (sau đây gọi chung là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.” Phân loại đại diện Căn cứ xác lập quyền: Đại diện theo pháp luật: Điều 141 Đại diện theo ủy quyền: Điều 142 và không quy định gì về các thành viên hộ gia đình, tôt hợp tác, tổ chức khác trong đại diện ủy quyền Căn cứ xác lập quyền và quy định rõ chủ thể đại diện: Đại diện theo ủy quyền: Điều 138, có thêm khoản 2: “Các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân có thể thỏa thuận cử cá nhân, pháp nhân khác đại diện theo ủy quyền xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung của các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân.” Đại diện theo cá nhân: Điều 136 Đại diện theo pháp nhân: Điều 137 Quy định rõ hơn về các đối tượng trong các quan hệ dân sự. Hình thức ủy quyền Có quy định theo Khoản 2 Điều 142: “ Hình thức ủy quyền do các bên thoả thuận, trừ trường hợp pháp luật quy định việc ủy quyền phải được lập thành văn bản.” Không có điều luật nào quy định cụ thể về vấn đề này. Câu 2: Trong Quyết định số 08, đoạn nào cho thấy ông Mạnh đại diện cho Hưng Yên xác lập hợp đồng với Vinausteel? Ở phần xét thấy của Tòa án đã cho ta thấy được ông Mạnh là người đại diện cho Hưng Yên xác nhận hợp đồng với Vinausteel. “…ngày 1612007, ông Mạnh đã đại diện cho Công ty kim khí Hưng Yên ký Hợp đồng mua bán phôi thép số 01HĐPT2007VAHY với Công ty Vinausteel…” Câu 3: Theo Hội đồng thẩm phán, ông Mạnh có trách nhiệm gì với Vinausteel không? Theo Hội đồng thẩm phán, ông Mạnh không có trách nhiệm với Vinausteel. Vì ở phần xét thấy của Tòa án đã nêu “việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân giữa ông Lê Văn Dũng và bà Lê Thị Ngọc Lan; việc bà Nguyễn Thị Toàn và ông Lê Văn Dũng có thỏa thuận với nhau về trách nhiệm thanh toán các khoản nợ cũng như việc ông Mạnh cam kết chịu trách nhiệm về các khoản nợ của Công ty liên doanh sản xuất thép Vinausteel là việc nội bộ của Công ty kim khí Hưng Yên. Do đó, Công ty kim khí Hưng Yên phải có trách nhiệm thanh toán các khoản nợ và bồi thường thiệt hại cho Công ty Vinausteel chứ không phải cá nhân ông Mạnh, ông Dũng”. Câu 4: Cho biết suy nghĩ của anhchị về hướng giải quyết trên của Tóa giám đốc thẩm liên quan đền ông Mạnh (có văn bản nào không về chủ đề này? Có thuyết phục không?) Tòa án đã giải quyết cho ông Mạnh không phải chịu trách nhiệm gì đối với công ty Vinausteel là hợp lí. Thứ nhất, theo bản án đã nêu, ông Mạnh được bà Lan ký giấy ủy quyền cho việc thực hiện các giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại, trong phạm vi ngành kinh doanh của Công ty. Nên việc ông ký kết hợp đồng với Vinausteel là hoàn toàn không vượt quá thẩm quyền của ông, căn cứ theo khoản 1 Điều 141 BLDS 2015 về phạm vi đại diện như sau: “1. Người đại diện chỉ được xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện theo căn cứ sau đây: a) Quyết định của cơ quan có thẩm quyền; b) Điều lệ của pháp nhân; c) Nội dung ủy quyền; d) Quy định khác của pháp luật”. Và ngoài ra, ông Mạnh là người đại diện theo ủy quyền mà bà Lan đã ủy quyền cho ông trước đó nên căn cứ theo khoản 2 Điều 567 BLDS 2015 quy định về nghĩa vụ của bên ủy quyền: “2. Chịu trách nhiệm về cam kết do bên được ủy quyền thực hiện trong phạm vi ủy quyền.” Thì ông Mạnh không phải chịu trách nhiệm đối với Công ty Vinausteel mà Công ty Hưng Yên mới là chủ thể phải chịu trách nhiệm với Vinausteel. Câu 5: Theo Hội đồng thẩm phán, Hưng Yên có trách nhiệm gì với Vinausteel không? Theo Hội đồng thẩm phán nêu trong phần xét thấy: “Công ty kim khí Hưng Yên phải có trách nhiệm thanh toán các khoản nợ và bồi thường thiệt hại cho Công ty Vinausteel chứ không phải cá nhân ông Mạnh, ông Dũng.” Câu 6: Cho biết suy nghĩ của anhchị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm liên quan đến Hưng Yên nêu trên. Hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm liên quan đến Hưng Yên nêu trên là hoàn toàn thuyết phục. Bởi lẽ ông Mạnh đã thực hiện đúng thẩm quyền trong phạm vi cho phép của mình. Căn cứ vào khoản 1 Điều 143 BLDS 2015 về người đại diện theo ủy quyền. Mặt khác nếu căn cứ tại khoản 3 Điều 16 Luật doanh nghiệp 2014 quy định về trách nhiệm của người đại diện theo ủy quyền của chủ sở hữu, thành viên, cổ đông là tổ chức như sau: “3. Người đại diện theo ủy quyền chịu trách nhiệm trước chủ sở hữu, thành viên, cổ đông ủy quyền do vi phạm các nghĩa vụ quy định tại Điều này. Chủ sở hữu, thành viên, cổ đông ủy quyền chịu trách nhiệm trước bên thứ ba đối với trách nhiệm phát sinh liên quan đến quyền và nghĩa vụ được thực hiện thông qua người đại diện theo ủy quyền”. Như vậy, việc công ty Hưng Yên phải chịu trách nhiệm với Vinausteel là có căn cứ và thỏa đáng. Câu 7: Nếu ông Mạnh là người đại diện theo pháp luật của Hưng Yên và trong hợp đồng có thỏa thuận trọng tài thì thỏa thuận trọng tài này có ràng buộc Hưng Yên không? Biết rằng điều lệ của Hưng Yên quy định mọi tranh chấp liên quan đến Hưng Yên (như tranh chấp phát sinh từ hợp đồng do đại diện theo pháp luật xác lập) phải được giải quyết tại Tòa án. Nếu ông Mạnh là đại diện theo pháp luật của Hưng Yên và trong hợp đồng có thỏa thuận trọng tài thì thỏa thuận trọng tài này sẽ ràng buộc Hưng Yên. Vì: Bản chất của thỏa thuận trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp dựa trên sự thỏa thuận của các bên tranh chấp. Cụ thể trong trường hợp của Hưng Yên và Vinausteel, căn cứ theo các điều luật sau: Theo Điều 6 Luật trọng tài thương mại 2010 quy định: “Trong trường hợp các bên tranh chấp đã có thỏa thuận trọng tài mà một bên khởi kiện tại Tòa án thì Tòa án phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu, hoặc thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được.” Công ty Hưng Yên có điều lệ như trên là quy định của riêng công ty, không thể áp dụng với một công ty khác được. Và Điều 19 Luật Trọng tài thương mại 2010 cũng chỉ rõ: “Thỏa thuận trọng tài hoàn toàn độc lập với hợp đồng. Việc thay đổi, gia hạn, hủy bỏ hợp đồng, hợp đồng vô hiệu hoặc không thể thực hiện được không làm mất hiệu lực của thỏa thuận trọng tài”. Tức là dù thỏa thuận trọng tài được thể hiện dưới hình thức một điều khoản nằm trong hợp đồng chính hay dưới hình thức văn bản riêng đi kèm hợp đồng chính thì thỏa thuận trọng tài thực chất là hợp đồng nhỏ có nội dung khác biệt và giá trị độc lập với hợp đồng chính. Như vậy, dù thỏa thuận trọng tài là điều khoản nhỏ hay văn bản đi kèm thì đều tách biệt với hợp đồng được thỏa thuận. Do đó, Công ty Hưng yên vẫn phải chịu trách nhiệm cho nhữn phần khác của hợp đồng chính, không vì có thỏa thuận trọng tài mà mất đi nghĩa vụ của mình. PHẦN 2: TRƯỜNG HỢP ĐẠI DIỆN KHÔNG HỢP LỆ Tóm tắt Quyết định số 102013KDTMGĐT Nguyên đơn là Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam kiện bị đơn là Công ty cổ phần xây dựng 16Vinaconex. Ngày 1452001 Ngân hàng TMCP Công thương đã cho Xí nghiệp xây dựng 4Công ty Xây dựng số II nay là Công ty cổ phần xây dựng 16Vinaconex vay 2 tỷ đồng. Nay Xí nghiệp xây dựng 4 không có khả năng trả nợ nên Ngân hàng đã xử lý phát mại một phần tài sản thế chấp. Do xí nghiệp xây dựng 4 thuộc Công ty cổ phần xây dựng 16Vinaconex nên Ngân hàng yêu cầu công ty này phải có trách nhiệm thanh toán khoản nợ nêu trên và xử lý tài sản thế chấp, bảo lãnh để thu hồi nợ. Quyết định của các cấp xét xử: Tại bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 012008KDTMST Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An ra quyết định Công ty cổ phần xây dựng 16Vinaconex phải thanh toán cho ông Trần Quốc Toản số tiền là 75.000.000 đồng, hợp đồng bảo lãnh số 02HĐCT ngày 1052001 giữa Ngân hàng và ông Trần Quốc Toản vô hiệu. Tại bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 952009 KDTMPT quyết định giữ nguyên bản án sơ thẩm. Tại bản Quyết định giám đốc thẩm số 102013KDTMGĐT quyết định hủy bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 952009 KDTMPT và bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 012008KDTMST. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm lại. Cơ sở pháp lý: Điều 142 BLDS 2015 quy định về hình thức sở hữu tài sản, thời điểm mở thừa kế, diện thừa kế và thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc. Câu 1: Trong Quyết định số 10, đoạn nào cho thấy người xác lập hợp đồng với Ngân hàng không được Vinaconex ủy quyền (không có thẩm quyền đại diện để xác lập)? Trong Quyết định số 10, đoạn cho thấy người xác lập hợp đồng với Ngân hàng không được Vinaconex ủy quyền là: “…Nhưng ngày 1332001, ông Thuận được bổ nhiệm làm Giám đốc thay ông Bạch Văn Thìn, đã không đồng ý cho Xí nghiệp xây dựng 4 vay vốn Ngân hàng nữa. Khi đó Xí nghiệp xây dựng 4 mới ký kết hợp đồng tín dụng với Ngân hàng ngày 1452001...Thời điểm đó ông Thuận không bảo lãnh hay ký một văn bản nào cho Xí nghiệp xây dựng 4 vay vốn.” Và đoạn xét thấy: “Công ty xây dựng số II Nghệ An có Công văn số 64 CVXDII.TCKT gửi Chi nhánh Ngân hàng Công thương Nghệ An trong đó có nội dung “đề nghị Ngân hàng Công thương Nghệ An không cho các xí nghiệp thuộc Công xây dựng số II Nghệ An vay vốn khi chưa có bảo lãnh vay vốn của công ty kể từ ngày 0642001...” và “Các văn bản của Công ty liên quan tới vay vốn tại Ngân hàng hàng Công thương Nghệ An ban hành trước ngày 0642001 đều bãi bỏ”, nhưng ngày 1452001 Ngân hàng vẫn ký Hợp đồng tín dụng” Câu 2: Trong vụ việc trên, theo Tòa giám đốc thẩm, Vinaconex có chịu trách nhiệm với Ngân hàng về hợp đồng trên không? Trong vụ việc trên, theo Tòa giám đốc thẩm, Vinaconex có chịu trách nhiệm với Ngân hàng về hợp đồng trên dựa vào phần xét thấy có đoạn: “Như vậy, sau khi Xí nghiệp xây dựng 4 vay tiền Ngân hàng, Công ty xây dựng số II Nghệ An biết và không phản đối nên Công ty xây dựng số II Nghệ An (nay là Công ty cổ phần xây dựng 16 – Vinaconex) phải chịu trách nhiệm trả khoản nợ này. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm buộc Công ty cổ phần xây dựng 16 – Vinaconex phải trả khoản tiền nợ gốc và lãi (1.382.040.000 đồng) cho Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam là có căn cứ.” Câu 3: Cho biết suy nghĩ của anhchị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm. Hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm là hợp lý. Căn cứ vào khoản 3, khoản 5 Điều 93 BLDS 2005: “3. Chi nhánh là đơn vị phụ thuộc của pháp nhân, có nhiệm vụ thực hiện toàn bộ hoặc một phần chức năng của pháp nhân, kể cả chức năng đại diện theo ủy quyền. 5. Pháp nhân có các quyền, nghĩa vụ dân sự phát sinh từ giao dịch dân sự do văn phòng đại diện, chi nhánh xác lập, thực hiện.” Xí nghiệp xây dựng 4 là đơn vị trực thuộc của Công ty xây dựng số II Nghệ An, có nhiệm vụ thực hiện toàn bộ hoặc một phần chức năng của pháp nhân. Như vậy, việc xác định Công ty xây dựng số II Nghệ An có trách nhiệm trả khoản nợ gốc và nợ lãi (1.382.040.000 đồng) cho Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam là hợp lý. Câu 4: Nếu hoàn cảnh tương tự như trong Quyết định số 10 nhưng chỉ phía Ngân hàng phản đối hợp đồng (yêu cầu hủy bỏ hợp đồng do người đại diện Vinaconex không có quyền đại diện) thì phải xử lý như thế nào trên cơ sở BLDS 2015? Vì sao? Nếu hoàn cảnh tương tự như trong Quyết định số 10 nhưng chỉ phía Ngân hàng phản đối hợp đồng (yêu cầu hủy bỏ hợp đồng do người đại diện Vinaconex không có quyền đại diện) thì trách nhiệm thanh toán hợp đồng sẽ thuộc về Vinaconex, do đó nếu chỉ có phía Ngân hàng phản đối hợp đồng có nghĩa là công ty Vinaconex biết việc giao dịch này nhưng không có động thái phản đối nên việc Ngân hàng yêu cầu hủy bỏ hợp đồng sẽ thuộc về trách nhiệm của Vinaconex. Căn cứ theo khoản 1 Điều 142 BLDS 2015 quy định về hậu quả của giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện: “1. Giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện, trừ một trong các trường hợp sau đây: a) Người được đại diện đã công nhận giao dịch; b) Người được đại diện biết mà không phản đối trong một thời hạn hợp lý; c) Người được đại diện có lỗi dẫn đến việc người đã giao dịch không biết hoặc không thể biết về việc người đã xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với mình không có quyền đại diện.” PHẦN 3: HÌNH THỨC SỞ HỮU TÀI SẢN Tóm tắt Quyết định 3772008: Vụ án tranh chấp thừa kế tài sản giữa nguyên đơn là bà Cao Thị Xê và bị đơn là chị Võ Thị Thu Hương và anh Nguyễn Quốc Chính. Tài sản tranh chấp là ngôi nhà cùng một số tài sản trong gia đình tại thành phố Mỹ Tho. Theo nguyên đơn, bà kết hôn với ông Võ Văn Lưu năm 1996 và tài sản trên là tài sản chung của vợ chồng. Năm 2003, ông Lưu chết để lại di chúc để lại toàn bộ tài sản cho bà. Theo bị đơn, ông Lưu lấy bà Xê là bất hợp pháp vì ông đã kết hôn với bà Nguyễn Thị Thẩm – là mẹ của chị Hương có đăng ký kết hôn vào ngày 26101964 tại tỉnh Phú Thọ. Sau ngày công tác ông Lưu chuyển vào miền Nam còn mẹ con chị vẫn ở Phú Thọ. Theo Hội đồng Giám đốc thẩm, quan hệ hôn nhân giữa ông Lưu và bà Thẩm là hợp pháp và vẫn tồn tại theo quy định của pháp luật, còn quan hệ hôn nhân giữa ông và bà Xê là bất hợp pháp. Mặc dù căn nhà do ông Lưu tạo lập trong thời gian hôn nhân nhưng được tạo lập bằng nguồn thu nhập riêng của ông nên tài sản tranh chấp là tài sản riêng của ông. Công nhận bản di chúc để lại tài sản cho bà Xê là hợp pháp (có xác nhận của ông Nguyễn Văn Thành trưởng khu phố). Tuy nhiên, bà Thẩm vẫn được thừa kế tài sản của ông Lưu mà không phụ thuộc vào nội dung di chúc vì bà là vợ hợp pháp của ông và có công nuôi dưỡng các con. Câu 1: Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về hình thức sở hữu tài sản. BLDS 2015 quy định 3 hình thức sở hữu gồm: sở hữu toàn dân, sở hữu riêng và sở hữu chung thay thế cho 6 hình thức sở hữu quy định tại Điều 172 BLDS 2015 là: “Trên cơ sở chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, các hình thức sở hữu bao gồm sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở hữu chung, sở hữu của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, sở hữu của tổ chức chính trị xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp.” 1. Sở hữu toàn dân BLDS 2015 quy định tên gọi của hình thức sở hữu này là “sở hữu toàn dân” thay cho “sở hữu nhà nước” ở BLDS 2005 và nội dung của các quy định không đổi. 2. Sở hữu riêng BLDS 2015 không liệt kê các loại tài sản trong hình thức “sở hữu riêng” như BLDS 2005 mà chỉ quy định về “sở hữu riêng” ở Điều 205, 206. 3. Sở hữu chung BLDS 2015 đã bổ sung thêm Điều 212 về “Sở hữu chung của các thành viên gia đình”. BLDS 2015 đã bổ sung thêm Điều 212 về “Sở hữu chung của các thành viên gia đình”. BLDS 2015 còn sửa đổi, bổ sung khoản 4, 5, 6 Điều 218 về các trường hợp một hay nhiều chủ sở hữu chung từ bỏ quyền sở hữu đối với tài sản thuộc sở hữu chung. Câu 2: Căn nhà số 1506A Lý Thường Kiệt có được ông Lưu tạo lập trong thời kỳ hôn nhân với bà Thẩm không? Đoạn nào của Quyết định số 377 (sau đây viết gọn là Quyết định 377 ) cho câu trả lời? Căn nhà số 1506A Lý Thường Kiệt được ông Lưu tạo lập trong thời kì hôn nhân với bà Thẩm. Đoạn xét thấy của Quyết đinh 377 cho thấy: “Quan hệ hôn nhân của ông Lưu và bà Thẩm là mối quan hệ hợp pháp và vẫn đang tồn tại theo qui định của pháp luật, còn hôn nhân của ông Lưu và bà Xê là vi phạm pháp luật. Căn nhà số 1506A Lý Thường Kiệt được ông Lưu tạo lập trong thời kì hôn nhân giữa ông và bà Thẩm.” Câu 3: Theo bà Thẩm, căn nhà trên thuộc sở hữu chung của vợ chồng bà hay sở hữu riêng của ông Lưu? Đoạn nào của Quyết định 377 cho câu trả lời? Theo bà Thẩm, căn nhà trên là thuộc sở hữu chung của vợ chồng bà. Tại Quyết định 377 có nêu rõ: “Còn bà Thẩm cho rằng căn nhà số 1506A Lý Thường Kiệt trên diện tích 101m2 đất là tài sản cũng của vợ chồng bà nên không nhất trí theo yêu cầu của bà Xê. Bà đề nghị Toà giải quyết theo pháp luật để bà được hưởng thừa kế tài sản của ông Lưu cùng với chị Hương.” Ngoài ra, sau khi xét xử phúc thẩm, bà Thẩm có đơn khiếu nại cho rằng căn nhà đang tranh chấp là tài sản chung của bà và ông Lưu, yêu cầu được chia tài sản chung và được chia thừa kế theo pháp luật. Câu 4: Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, căn nhà trên thuộc sở hữu chung của ông Lưu, bà Thẩm hay thuộc sở hữu riêng của ông Lưu? Đoạn nào của Quyết định 377 cho câu trả lời ? Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, căn nhà trên là thuộc sở hữu riêng của ông Lưu. Điều đó thể hiện ở đoạn nhận định của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao: “Tuy căn nhà nhà số 1506A Lý Thường Kiệt, phường 6, Thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang được ông Lưu tạo lập trong thời kỳ hôn nhân giữa ông Lưu và bà Thẩm vẫn tồn tại, nhưng giữa ông Lưu với bà Thẩm có kinh tế riêng và ông Lưu đứng tên riêng đối với nhà đất trên, hơn nữa trong quá trình giải quyết vụ án bà Thẩm thừa nhận căn nhà là do ông Lưu tạo lập và là tài sản riêng của ông Lưu… còn bà Thẩm và chị Hương vẫn ở ngoài miền Bắc nên có cơ sở xác định căn nhà nhà số 1506A Lý Thường Kiệt, phường 6, thành phố Mỹ Tho trên diện tích 101m2 đất là tài sản riêng của ông Lưu”. Thêm vào đó, ở phần xét thấy, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã nhất trí với quyết định nêu trên của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về tài sản của ông Lưu. Câu 5: Anhchị có suy nghĩ gì về giải pháp trên của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao? Giải pháp trên của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao là chưa thỏa đáng. Vì căn cứ theo khoản 1 Điều 33 Luật hôn nhân và gia đình quy định: “Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.” Do đó căn nhà được ông Lưu tạo lập trong thời kỳ hôn nhân với bà Thẩm là tài sản chung của hai vợ chồng Vì căn cứ theo khoản 2 Điều 213 BLDS 2015 “2. Vợ chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản chung; có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung. 3. Vợ chồng thỏa thuận hoặc ủy quyền cho nhau chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.” Do đó ông Lưu và bà Thẩm có quyền ngang nhau đối với căn nhà nên ông Lưu không thể lập di chúc cho bà Xê được quyền sử dụng toàn bộ tài sản gồm nhà cửa, đồ dùng trong gia đình. Câu 6: Nếu căn nhà trên là tài sản chung của ông Lưu, bà Thẩm thì ông Lưu có thể di chúc định đoạt toàn bộ căn nhà này không? Nêu căn cứ pháp lý khi trả lời. Nếu căn nhà trên là Tài sản chung của ông Lưu, bà Thẩm thì ông Lưu không thể di chúc định đoạt toàn bộ căn nhà. Căn cứ theo khoản 2 Điều 213 BLDS 2015 về sỡ hữu chung của vợ chồng: “Vợ chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản chung; có quyền ngang nhau trng việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung”. Và theo khoản 1 Điều 29 của Luật hôn nhân và gia đình 2014: “Vợ, chồng bình đẳng với nhau về quyền, nghĩa vụ trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung; không phân biệt giữa lao động trong gia đình và lao động có thu nhập.” Do đó trong trừng hợp này, ông Lưu chỉ có quyền di chúc định đoạt ½ căn nhà còn ½ còn lại của căn nhà là thuộc về bà Thẩm. PHẦN 4: DIỆN THỪA KẾ Câu 1: Bà Thẩm, chị Hương và bà Xê có thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Lưu không? Vì sao? Bà Thẩm thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Lưu. Vì theo nhận định, ông Lưu và bà Thẩm là vợ chồng có đăng kí kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Kinh Nghệ, tỉnh Phú Thọ năm 1964 trên cơ sở tự nguyện. Quan hệ giữa ông Lưu và bà Thẩm là hợp pháp và vẫn đang tồn tại theo quy định của pháp luật. Vì thế, căn cứ theo điểm a khoản 1 Điều 676 BLDS 2005 về Người thừa kế theo pháp luật thì bà Thẩm được xếp vào hàng thừa kế thứ nhất của ông Lưu: “a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;” Chị Hương là con gái chung của ông Lưu và bà Thẩm nên có thể kết luận chị Hương thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Lưu. Căn cứ vào Điểm a Khoản 1 Điều 676 BLDS 2005 được nêu trên. Về phía bà Xê, năm 1996 bà Xê và ông Lưu có đăng kí kết hôn tại UBND phường 6 thuộc tỉnh Tiền Giang và chung sống với nhau đến năm 2003 thì ông Lưu chết. Có thể thấy rằng quan hệ hôn nhân giữa ông lưu và bà Xê là vi phạm pháp luật. Theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, tại Điều 1 và khoản a Điều 7 có quy định: “Điều 1. Nhà nước bảo đảm thực sự chế độ hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng, nhằm xây dựng gia đình dân chủ, hoà thuận, hạnh phúc, bền vững.” “Điều 7 Cấm kết hôn trong những trường hợp sau đây : a) Đang có vợ hoặc có chồng” Theo như nhận định thì năm 1964 ông Lưu đã đăng kết hôn với bà Thẩm, trên cơ sở đó đã xác định được rằng ông Lưu và bà Thẩm có quan hệ hôn nhân một vợ một chồng. Đến năm 1996 bà Xê và ông Lưu đăng kí kết hôn, lúc này luật hôn nhân và gia đình năm 1986 đã phát sinh hiệu lực. Có thể thấy quan hệ hôn nhân giữa ông Lưu và bà Xê không được pháp luật công nhận vì trước đó ông Lưu đã có vợ là bà Thẩm và quan hệ hôn nhân vẫn đang tồn tại theo pháp luật. Vậy nên có thể xác định rằng bà Xê không là vợ hợp pháp của ông Lưu và không thuộc hàng thừa kế của ông Lưu theo như điểm a khoản 1 Điều 676 BLDS 2005 được nêu trên. Câu 2: Nếu ông Lưu kết hôn với bà Xê vào cuối năm 1976 thì câu trả lời cho câu hỏi trên có khác không? Vì sao? Nếu ông Lưu kết hôn với bà Xê vào cuối năm 1976 thì câu trả lời cho câu hỏi trên sẽ có thay đổi. Sau ngày giải phóng miền Nam thì ông Lưu đã chuyển công tác về miền Nam và kết hôn với bà Xê, lúc này (năm 1976) Luật hôn nhân và gia đình tại miền nam chưa phát sinh hiệu lực theo Khoản a Điều 4 Nghị quyết 02HĐTP ngày 19091990: “a) Trong trường hợp một người có nhiều vợ (trước ngày 13011960 ngày công bố Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 đối với miền Bắc; trước ngày 2531977 ngày công bố danh mục văn bản pháp luật được áp dụng thống nhất trong cả nước đối với miền Nam và đối với cán bộ, bộ đội có vợ ở miền Nam sau khi tập kết ra Bắc lấy thêm vợ mà việc kết hôn sau không bị huỷ bỏ bằng bản án có hiệu lực pháp luật), thì tất cả các người vợ đều là người thừa kế hàng thứ nhất của người chồng và ngược lại, người chồng là người thừa kế hàng thứ nhất của tất cả các người vợ.” Và theo Điểm a Khoản 1 Điều 676 BLDS 2005 quuy định: “a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;” Ta có thể thấy đây là vụ việc xảy ra ở miền Nam, nếu bà Xê và ông Lưu kết hôn vào cuối năm 1976 tức sau ngày 25031976 thì vẫn được coi là hôn nhân hợp pháp và bà Xê sẽ thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Lưu. Về phía bà Thẩm và chị Hương thì 2 người này vẫn sẽ thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Lưu theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 676 BLDS 2005 được nêu trên. Câu 3: Trong vụ việc này, chị Hương có được chia di sản của ông Lưu không? Vì sao? Trong vụ việc này chị Hương không được hưởng di sản thừa kế của ông Lưu. Theo khoản 1 Điều 669 BLDS 2005 quy định về đối tượng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc như sau: “Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó, trừ khi họ là những người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 642 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 643 của Bộ luật này: 1. Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng; 2. Con thành niên mà không có khả năng lao động.” Trong trường hợp này, không có chi tiết nào trong quyết định nói rằng chị Hương không có khả năng lao động, nên chị Hương sẽ không thuộc diện đương nhiên hưởng thừa kế mặc dù không có tên trong di chúc. Câu 4: Theo pháp luật hiện hành, ở thời điểm nào người thừa kế có quyền sở hữu đối với tài sản là di sản do người quá cố để lại? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời? Theo pháp luật hiện hành, Điều 614 BLDS 2015 và khoản 1 Điều 611 BLDS 2015: Căn cứ theo Điều 614 BLDS 2015 quy định: “Kể từ thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại”; Căn cứ theo khoản 1 Điều 611 BLDS 2015 quy định: “1. Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trường hợp Tòa án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định tại khoản 2 Điều 71 của Bộ luật này”. Từ đó ta có thể kết luận, thời điểm người thừa kế có quyền sở hữu đối với tài sản là di sản do người quá cố để lại, hay thời điểm phát sinh quyền và nghĩa vụ của người thừa kế là thời điểm mở thừa kế, tức lúc người để lại di sản chết. Câu 5: Trong Quyết định số 08, theo nội dung của bản án, ở thời điểm nào người thừa kế của ông Hà có quyền sở hữu nhà ở và đất có tranh chấp? Vì sao? Trong Quyết định số 08, theo nội dung của bản án, người thừa kế của ông Hà có quyền sở hữu nhà ở và đất có tranh chấp vào thời điểm ông Hà chết, cụ thể: “Ông Hà chết ngày 1252008 thì bà Lý Thị Ơn là vợ và các con ông Hà được hưởng thừa kế và nhà đất này đã chuyển dịch quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở sang cho bà Lý Thị Ơn”. Vì thời điểm mở thừa kế được hiểu là thời điểm người để lại di sản chết, căn cứ theo Điều 633 BLDS 2005 quy định về thời điểm, địa điểm mở thừa kế: “1. Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trong trường hợp Toà án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định tại khoản 2 Điều 81 của Bộ luật này”. PHẦN 5: THỪA KẾ KHÔNG PHỤ THUỘC VÀO NỘI DUNG CỦA DI CHÚC Tóm tắt bản án số 24932009DSST: Trong đơn khởi kiện ngày và tại các biên bản của Tòa án giữa nguyên đơn bà Nguyễn Thị Khót và bị đơn ông Nguyễn Tài Nhật, nội dung vụ việc như sau: cụ Khánh có 3 người con là bà Khót, ông Tâm (bà Khót và ông Tâm là con cụ Khánh với cụ Lầm) và ông Nhật (ông là con cụ Khánh với cụ Ngọt). Năm 2000 cụ Khánh chết để lại di sản là căn nhà số 83 Lương Định Của, phường Khánh An, quận 2, Tp. Hồ Chí Minh. Mặc dù theo di chúc của cụ Khánh thì toàn bộ căn nhà cụ để lại cho ông Nhật nhưng tại thời điểm mở thừa kế, bà Khót đã 71 tuổi, già yếu không còn khả năng lao động; ông Tâm đã 68 tuổi, là thương binh 24, không có khả năng lao động nên bà Khót và ông Tâm yêu cầu được hưởng thừa kế của cụ Khánh theo quy định của pháp luật về người thừa kế không phụ thuộc nội dung di chúc, xác định di sản của cụ Khánh để lại là 1.800.000.000 đồng và thống nhất mỗi người được hưởng số tiền 400.000.000 đồng. Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử nhận thấy các nguyên đơn không xuất trình được chứng cứ chứng minh tại thời điểm mở thừa kế họ là những người không có khả năng lao động nên không có cở sở để chấp nhận yêu cầu của bà Khót, ông Tâm về người được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc. Do đó Tòa án quyết định xác định di sản của cụ Khánh là giá trị quyền sử dụng đất căn nhà bằng 1.800.000.000 đồng và không chấp nhận toàn bộ yêu cầu của bà Nguyễn Thị Khót và ông An Văn Tâm về việc được hưởng di sản theo diện những người được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc Câu 1: Đoạn nào của Quyết định cho thấy ông Lưu đã định đoạt bằng di chúc toàn bộ tài sản của ông Lưu cho bà Xê? Phần Xét thấy của Hội đồng giám đốc thẩm Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao cho thấy việc ông Lưu đã định đoạt bằng di chúc toàn bộ tài sản của ông Lưu có bà Xê như sau: “Việc ông Lưu lập văn bản đề là “Di chúc” ngày 2772002 là thể hiện ý chí của ông Lưu để lại tài sản của ông cho bà Xê là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật”. Câu 2: Bà Xê, bà Thẩm, chị Hương có thuộc diện được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc đối với di sản của ông Lưu không? Vì sao? Bà Xê và chị Hương không thuộc diện được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc mà chỉ có bà Thẩm thuộc diện trên. Bởi vì bà Xê là người có tên trong di chúc nên không hưởng di sản theo pháp luật, chị Hương là con của ông Lưu nhưng đã thành niên và không mất khả năng lao động. Như vậy chỉ có bà Thẩm, vợ hợp pháp của ông Lưu, là đối tượng phù hợp với khoản 1 Điều 664 BLDS 2015 hoặc căn cứ theo Điều 669 BLDS 2005 quy định về người thừa kế không thuộc vào nội dung di chúc. Câu 3: Theo Tòa án dân sự Tòa án nhân dân tối cao, vì sao bà Thẩm được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc đối với di sản của ông Lưu? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời? Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, bà Thẩm được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc đối với di sản của ông Lưu vì bà Thẩm là vợ hợp pháp của ông Lưu, có công nuôi dưỡng con chung khi ông Lưu xa nhà và không còn khả năng lao động. Đoạn sau trong Quyết định có phân tích: “Bà Thẩm đang là vợ hợp pháp của ông Lưu đã già yếu, không còn khả năng lao động và là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất nhưng không được ông Lưu xác định là người thừa kế tài sản theo di chúc nên theo quy định tại Điều 669 Bộ luật dân sự thì bà Thẩm được thừa kế tài sản của ông Lưu mà không phụ thuộc vào nội dung di chúc của ông Lưu”. Câu 4: Nếu bà Thẩm khỏe mạnh, có khả năng lao động thì có được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc đối với di sản của ông Lưu không? Vì sao? Nếu bà Thẩm khỏe mạnh, có khả năng lao động thì vẫn được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc đối với di sản của ông Lưu. Vì theo Điều 669 BLDS 2005 quy định về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc: “Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó, trừ khi họ là những người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 642 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 643 của Bộ luật này: 1. Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng; 2. Con đã thành niên mà không có khả năng lao động.” Trong trường hợp này, bà Thẩm tuy không mất đi khả năng lao động nhưng theo điều khoản trên, bà là vợ hợp pháp của ông Lưu nhưng không được hưởng tài sản theo di chúc nên vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật. Đó là còn chưa tính đến công lao bà là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung từ lúc nhỏ cho đến khi trưởng thành. Câu 5: Nếu di sản của ông Lưu có giá trị 600 triệu đồng thì bà Thẩm sẽ được hưởng khoản tiền là bao nhiêu? Vì sao? Giả sử nếu di sản của ông Lưu được chia theo pháp luật, mà bà Xê là vợ bất hợp pháp, bà Thẩm là vợ hợp pháp của ông Lưu, bà Thẩm và ông Lưu có một người con chung: Suất thừa kế chia theo pháp luật mà bà Thẩm được nhận: (600:2)x23 = 200 tr Căn cứ theo Điều 669, BLDS 2005 về Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc: “Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó,…”. Do vậy, bà Thẩm sẽ được hưởng hai phần ba của một suất thừa kế, tức 200 triệu đồng Câu 6: Nếu bà Thẩm yêu cầu được chia di sản bằng hiện vật thì yêu cầu của bà Thẩm có được chấp nhận không? Vì sao? Vì bà Thẩm thuộc hàng thừa kế thứ nhất theo điểm a khoản 1 điều 651 BLDS 2015 (điểm a khoản 1 Điều 676 BLDS 2005) nên việc bà được chia di sản theo pháp luật, không phụ thuộc vào nội dung di chúc là đương nhiên. Tuy nhiên, việc bà Thẩm yêu cầu được chia di sản bằng hiện vật có được chấp nhận hay không vẫn còn tùy vào sự thỏa thuận của bà với các cá nhân có quyền và nghĩa vụ liên quan đến di sản mà đặc biệt là bà Xê. Vì đối với tài sản hiện vật ông Lưu tạo lập được (ở đây là nhà cửa và đồ dùng trong gia đình), ông Lưu đã có định đoạt bằng di chúc hợp pháp để lại toàn bộ cho bà Xê. Khi giải quyết tranh chấp thừa kế tài sản, xét thấy công sức nuôi dưỡng con chung từ khi còn nhỏ đến lúc trưởng thành của bà Thẩm, bà Thẩm được bù đắp công sức trích từ giá trị khối tài sản của ông Lưu. Nếu không thỏa thuận được, bà Thẩm sẽ nhận thừa kế bằng tiền. Ngoài ra, nếu xét về mặt nhu cầu sử dụng và tính cấp thiết thì cũng có thể nói bà Thẩm có thể được chia di sản bằng hiện vật vì nhu cầu sử dụng của gia đình chị Hương và bà Thẩm là người già yếu và không có khả năng lao động. Câu 7:Trong Bản án số 2493 (sau đây viết gọn là Bản án), đoạn nào của bản án cho thấy bà Khót, ông Tâm và ông Nhật là con của cụ Khánh? Đoạn của bản án cho thấy bà Khót, ông Tâm và ông Nhật là con của cụ Khánh được Tòa án xác định ở phần xét thấy: “Về diện và hàng thừa kế: Cụ Nguyễn Thị Khánh có 3 người con là bà Nguyễn thị Khót sinh năm 1929, ông An Văn Tâm sinh năm 1932 (bà Khót, ông Tâm là con của cụ Khót và cụ An Văn Lầm chết năm 1938) và ông Nguyễn Tài Nhật sinh năm 1930 (ông Nhật là con của cụ Khánh và cụ Nguyễn Tài Ngọt chết năm 1973).” Câu 8: Ai được cụ Khánh di chúc cho hưởng toàn bộ tài sản có tranh chấp? Ông Nguyễn Tài Nhật là người được cụ Khánh di chúc cho hưởng toàn bộ tài sản có tranh chấp. Cụ thể ở phần Xét thấy của Toàn án: “Ngày 3051992 tại Phòng công chứng nhà nước số 2, Thành phố Hồ Chí Minh, cụ Khánh lập di chúc cho ông Nhật là người duy nhất được quyền thừa kế căn nhà 83 Lương Định Của, phường An Khánh, quận 2” Câu 9: Tại thời điểm cụ Khánh chết, bà Khót và ông Tâm có là con đã thành niên của cụ Khánh không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời? Căn cứ vào Điều 18 BLDS 2005 quy định về người thành niên, người chưa thành niên: “Người từ đủ mười tám tuổi trở lên là người thành niên. Người chưa đủ mười tám tuổi là người chưa thành niên.” Do đó tại thời điểm cụ Khánh chết, bà Khót và ông Tâm là con đã thành niên của cụ Khánh. Điều này cũng đã được thể hiện rõ trong bản án: “...tại thừa điểm mở thừa kế bà Khót đã 71 tuổi, ông Tâm đã 68 tuổi lại là thương binh 24...”. Câu 10: Bà Khót và ông Tâm có được Tòa án chấp nhận cho hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời? Bà Khót và ông Tâm không được Tòa án chấp nhận cho hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc. Trong đoạn xét thấy: “Hội đồng xét xử nhận thấy không có cơ sở để chấp nhận yêu cầu của bà Khót, ông Tâm về người được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc, cụ thể mỗi người được hưởng là 400.000.000 đồng” Tòa cũng giải thích rằng: “ Bộ luật lao động còn có các quy định về chế độ đối với người lao động từ 56 tuổi trở lên đối với nữ và 61 tuổi trở lên đối với nam. Như vậy, pháp luật không đặt ra giới hạn tuổi tối đa được tham gia các qua hệ lao động mà việc tham gia quan hệ lao động tùy thuộc và thể lực, trí lực của từng người. Do đó, độ tuổi lao động là cơ sở xác định người hết tuổi lao động để được hưởng các chế độ đãi ngộ chứ không phải là căn cứ xác định một người không còn khả năng lao động. Các nguyên đơn cũng không xuất trình được chứng minh tại thời điểm mở thừa kế họ là những người không có khả năng lao động. Hơn nữa, từ trước đến nay ông Tâm, bà Khót có đời sống kinh tế độc lập, không phụ thuộc vào cụ Khánh.” Câu 11: Suy nghĩ của anhchị về hướng giải quyết trên của Tòa án. Theo em về hướng giải quyết trên của Tòa án về việc bà Nguyễn Thị Khót và ông An Văn Tâm về việc được hưởng di sản của cụ Khánh mỗi người là 400.000.000 đồng theo diện những người được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc là hợp lí. Vì theo Điều 644 Bộ luật dân sự 2015 quy định về những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc có nhắc đến việc người được hưởng sẽ là con thành niên mà không có khả năng lao động, tuy nhiên tại thời điểm mở thừa kế bà Khót và ông Tâm không xuất trình được chứng cứ chứng minh họ không có khả năng lao động và từ trước đến nay, bà Khót và ông Tâm có đời sống kinh tế độc lập không phụ thuộc vào cụ Khánh. Câu 12: Hướng giải quyết có khác không khi ông Tâm bị tai nạn mất 85% sức lao động? Vì sao? Hướng giải quyết sẽ thay đổi khi ông Tâm bị tai nạn mất 85% sức lao động. Vì theo Nghị quyết số 032006NQHĐTP ngày 0872006 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, có quy định về bồi thường thiệt hại trong trường hợp “mất khả năng lao động” theo đó, “người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần có người thường xuyên chăm sóc (người bị thiệt hại không còn khả năng lao động do bị liệt cột sống, mù hai mắt, liệt hai chi, bị tâm thần nặng và các trường hợp khác do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định bị suy giảm khả năng lao động vĩnh viễn từ 81% trở lên) thì phải bồi thường chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại”. Nên theo trường hợp ông Tâm bị tai nạn mất 85% sức lao động thì hướng giải quyết có khác. Câu 13: Nêu những điểm giống và khác nhau giữa di chúc và tặng cho tài sán. Giống nhau: Đều là quyền quyết định, định đoạt về tài sản của người có tài sản, là sự chuyển giao tài sản thuộc sở hữu của người này sang người khác. Khác nhau: Tiêu chí Di chúc Tặng cho Khái niệm Là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết. (Điều 624 BLDS 2015) Là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên tặng cho giao tài sản của mình và chuyển quyền sở hữu cho bên được tặng cho mà không yêu cầu đền bù, bên được tặng cho đồng ý nhận. (Điều 457 BLDS 2015) Đặc điểm Người thừa kế thường là người thân của người lập di chúc. Khi lập di chúc, nếu không được chia di sản theo di chúc thì người thừa kế vẫn được chia di sản theo pháp luật. Thể hiện ý chí đơn phương của một người định đoạt tài sản của mình cho những người thừa kế sau khi chết Bất kỳ ai. Nếu không được cho tài sản theo di chúc thì cũng không được đòi chia tài sản đã được tặng cho. Thể hiện ý chí giữa người cho và người được tặng và họ phải còn sống trong thời điểm cho nhận Bản chất Ý chí chủ quan của người để lại di sản Sự thỏa thuận của hai bên Đối tượng Tài sản: đang có, đang tồn tại, hình thành trong tương lai Tài sản: đang có, đang tồn tại Thực hiện nghĩa vụ tài sản Hợp đồng có đền bù, người thừa kế phải thực hiện quyền, nghĩa vụ do người chết để lại. Hợp đồng không có đền bù, người nhận không thực hiện bất kì nghĩa vụ nào về tài sản. Thời điểm nhận được tài sản Sau khi người lập di chúc chết, và thời gian nhận phải thể hiện rõ trong di chúc. Nếu là động sản thì có hiệu lực kể từ thời điểm bên được tặng cho nhận tài sản, trừ trường hợp có thỏa thuận khác (Khoản 1 Điều 458 BLDS 2015) Nếu là bất động sản thì có hiệu lực kể từ lúc đăng ký quyền sỡ hữu, nếu không có đăng ký thì có hiệu lực kể từ lúc chuyển giao tài sản (Khoản 2 Điều 459 BLDS 2015). Hình thức Di chúc phải được lập thành văn bản: • Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng; • Di chúc bằng văn bản có người làm chứng; • Di chúc bằng văn bản có công chứng; • Di chúc bằng văn bản có chứng thực. Nếu không thể lập bằng văn bản thì có thể di chúc miệng. Di chúc của người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi phải được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực. Tặng cho bất động sản phải được lập thành văn bản có công chứng, chứng thực hoặc phải đăng ký, nếu bất động sản phải đăng ký quyền sở hữu theo quy định của luật Câu 14: Nếu ông Lưu không định đoạt tài sản của ông cho bà Xê bằng di chúc mà, trước khi chết, ông Lưu làm hợp đồng tặng cho bà Xê toàn bộ tài sản của ông Lưu thì bà Thẩm có được hưởng di sản của ông Lưu như trên không? Trong trường hợp ông Lưu không định đoạt tài sản của ông cho bà Xê bằng di chúc mà trước khi chết, ông Lưu làm hợp đồng tặng cho bà Xê toàn bộ tài sản của ông Lưu thì bà Thẩm sẽ không được hưởng phần di sản của ông Lưu. Xét theo Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, căn cứ theo khoản 1 Điều 44 quy định về việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng của vợ chồng: “Vợ, chồng có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng của mình; nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào tài sản chung” Trong trường hợp của ông Lưu và Thẩm, căn nhà đã được bà Thẩm xác định là tài sản riêng của ông Lưu, cụ thể ở đoạn nhận định của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao: “…trong quá trình giải quyết vụ án bà Thẩm thừa nhận căn nhà là do ông Lưu tạo lập và là tài sản riêng của ông Lưu…”. Như vậy, căn cứ theo những dữ kiện trên, hoàn toàn có thể khẳng định nếu ông Lưu làm hợp đồng tặng cho bà Xê toàn bộ tài sản của ông Lưu thì bà Thẩm sẽ không được hưởng di chúc như trên. Câu 15: Đối với hoàn cảnh như câu trên, pháp luật nước ngoài điều chỉnh như thế nào? Với hoàn cảnh nêu trên, BLDS của Pháp có nêu và cho thấy rõ sẽ không có trường hợp bà Thẩm được nhận phần thừa kế của ông Lưu nếu ông làm hợp đồng cho tặng bà Xê. Căn cứ theo Điều 893 Bộ luật này quy định về hình thức tặng cho và không có bất kỳ đền bù nào: “Một người chỉ có thể định đoạt tài sản của mình mà sẽ không có yêu cầu đền bù bằng cách lập chứng thư tặng cho hoặc di chúc”. Ở đây có thể hiểu “chứng thư tặng cho” là một hình thức văn bản hay hợp đồng mà trong đó khi bên thực hiện chuyển giao tài sản cho ai, tức là tài sản thuộc về bên kia vĩnh viễn. Như vậy, có thể kết luận rằng, nếu áp dụng BLDS của Pháp, thì trong trường hợp nêu trên, bà Thẩm sẽ không được nhận bất kỳ tài sản nào từ ông Lưu, tức chồng hợp pháp của mình. Câu 16: Suy nghĩ của anhchị về khả năng mở rộng chế định đang nghiên cứu cho cả trường hợp hợp đồng tặng cho. Về vấn đề tặng cho tài sản vẫn chưa có quy định rõ về tài sản trong hôn nhân hay trước hôn nhân, hoặc tài sản riêng trong hôn nhân. Nhưng việc mở rộng vấn đề tặng cho tài sản sẽ rất có nhiều cơ hội mở rộng trong xã hội ngày nay. Với sự đa dạng của các vấn đề dân sự, cụ thể như trong trường hợp trên, các vấn đề liên quan đền tặng cho tài sản cần được đưa đến nhiều mặt trong các quan hệ khác nhau. Nhằm tránh các tình trạng trốn tránh các nghĩa vụ dân sự, phi táng tài sản, hay chỉ đơn thuần là tranh giành tài sản trong gia đình. PHẦN 6: NGHĨA VỤ TÀI SẢN CỦA NGƯỜI ĐỂ LẠI DI SẢN Tóm tắt Quyết định 7672011DSGĐT: Vụ án về việc “tranh chấp quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn là anh Dương Văn Đang và bị đơn là ông Dương Văn Sáu. Được biết năm 1997, cụ Trượng (ông nội của anh Đang) nhờ ông Nguyễn Văn Tam lập “Tờ ủy quyền để lại thay lời di ngôn” có nội dung cho anh Đang 3000m2 đất, có chữ ký của cụ Trượng và điểm chỉ của cụ Tảo (vợ ông Trượng) và có xác nhận của UBND xã. Năm 1999, cụ Trượng lại lập di chúc, nhờ bà Dương Thị Tám (con gái cụ) viết giúp với nội dung cho anh Đang quyền sử dụng 2000m2 đất, anh Thanh (cháu nội) quyền sử dụng 2600m2 đất, cho ông Sáu quyền sử dụng 2000m2 đất ruộng và 4310m2 đất vườn để phụng dưỡng cha mẹ lúc tuổi già, có chữ ký của cụ Trượng và cụ Tảo gạch chữ X. Với bản di chúc này các con của ông Trượng đều thừa nhận cụ Trượng cụ Tảo có lập di chúc ngày 721999, nhưng anh Đang không thừa nhận và anh không hề biết có di chúc này. Tòa án cần giám định di chúc năm 1999 có đúng với ý chí của cụ Trượng cụ Tảo hay không. Ngoài ra, trong hồ sơ vụ án có “Tờ cam kết” đề ngày 731999 đứng tên cụ Trượng. Tuy nhiên nhìn mắt thường thì thấy chữ ký đứng tên cụ Trượng tại giấy này và chữ ký đứng tên cụ Trượng tại hai tài liệu nêu trên là có sự khác nhau. Do đó cần làm rõ sự việc này và nếu có căn cứ xác định là ý chí của cụ Trượng thì cụ Trượng cũng chỉ có quyền quyết định đối với ½ là phần tài sản của cụ. Câu 1: Theo BLDS, những nghĩa vụ nào của người để lại di sản được ưu tiên thanh toán? Theo BLDS 2015 được quy định trong Điều 658 thì những nghĩa vụ của người để lại di sản sau đây được ưu tiên thanh toán theo thứ tự: 1. Chi phí hợp lý theo tập quán cho việc mai táng. 2. Tiền cấp dưỡng còn thiếu. 3. Chi phí cho việc bảo quản di sản. 4. Tiền trợ cấp cho người sống nương nhờ. 5. Tiền công lao động. 6. Tiền bồi thường thiệt hại. 7. Thuế và các khoản phải nộp khác vào ngân sách nhà nước. 8. Các khoản nợ khác đối với cá nhân, pháp nhân. 9. Tiền phạt. 10. Các chi phí khác. Câu 2: Ông Lưu có nghĩa vụ nuôi dưỡng chị Hương từ khi còn nhỏ đền khi trưởng thành không? Ông Lưu có nghĩa vụ nuôi dưỡng chị Hương từ khi còn nhỏ đến khi trưởng thành. Căn cứ theo khoản 2 Điều 69 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “2. Trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.” Theo các điều khoản trên thì ông Trải phải có quyền yêu thương, chăm sóc chị Hương từ lúc còn nhỏ đến lúc trưởng thành không vì bất kỳ lí do nào và kể cả khi ông và mẹ chị Hương không còn chung sống với nhau. Câu 3: Đoạn nào của Quyết định cho thấy bà Thẩm tự nuôi dưỡng chị Hương từ khi còn nhỏ đến khi trưởng thành? Đoạn xét thấy của Quyết định cho thấy bà Thẩm tự nuôi chị Hương từ khi còn nhỏ đến khi trưởng thành là: “Mặt khác trong suốt thời gian từ khi ông Lưu vào miền Nam công tác, bà Thẩm là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung từ lúc còn nhỏ đến khi trưởng thành, khi giải quyết lại cũng cần xem xét đến công sức nuôi con chung của bà Thẩm và trích từ giá trị khối tài sản của ông Lưu để bù đắp công sức nuôi con chung cho bà Thẩm.” Câu 4: Theo Tòa dân sự, Tòa án nhân dân tối cao, nếu bà Thẩm yêu cầu thì có phải trích cho bà Thẩm từ di sản của ông Lưu một khoản tiền để bù đắp công sức nuôi dưỡng con chung không? Theo Toà án dân sự Toà án nhân dân tối cao, nếu bà Thẩm yêu cầu thì phải trích cho bà Thẩm một khoản tiền từ di sản của ông Lưu để bù đắp công sức nuôi dưỡng con chung. Có thể thấy qua đoạn xét thấy của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao: “Mặt khác, trong suốt thời gian từ khi ông Lưu vào miền Nam công tác, bà Thẩm là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung từ lúc còn nhỏ cho đến khi trưởng thành, khi giải quyết lại cũng cần xem xét đến công sức nuôi con chung của bà Thẩm và trích từ giá trị khối tài sản của ông Lưu đền bù đắp công sức nuôi con chung cho bà Thẩm (nếu bà Thẩm có yêu cầu).” Câu 5: Trên cơ sở các quy định về nghĩa vụ tài sản của người để lại di sản, anhchị hãy giải thích giải pháp trên của Tòa án. Thứ nhất, từ khi ông Lưu vào miền Nam công tác, bà Thẩm là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung từ lúc còn nhỏ cho đến khi trưởng thành cho nên bà Thẩm có công sức nuôi con chung của hai người. Thứ hai, bà Thẩm được Tòa án xác nhận là vợ hợp pháp của ông Lưu, và bà không có khả năng lao động, đã già yếu. Với các điều kiện đó, bà Thẩm là người thuộc trường hợp hưởng di sản không phụ thuộc vào nội dung của di chúc như Tòa án đã xác định. Hướng giải quyết của Tòa án, và các giải pháp đưa ra có thể nói căn cứ theo quy định tại Điều 683 BLDS 2005 quy định về các thứ tự ưu tiên thanh toán về nghĩa vụ tài sản và các khoản chi phí liên quan đến thừa kế phải thanh toán thì: “Các nghĩa vụ tài sản và các khoản chi phí liên quan đến thừa kế được thanh toán theo thứ tự sau đây: 1. Chi phí hợp lý theo tập quán cho việc mai táng. 2. Tiền cấp dưỡng còn thiếu. 3. Chi phí cho việc bảo quản di sản. 4. Tiền trợ cấp cho người sống nương nhờ. 5. Tiền công lao động. 6. Tiền bồi thường thiệt hại. 7. Thuế và các khoản phải nộp khác vào ngân sách nhà nước. 8. Các khoản nợ khác đối với cá nhân, pháp nhân. 9. Tiền phạt. 10. Các chi phí khác.” Theo đó, khoản tiền cũng như công sức mà c
TRƯỜNG HỢP ĐẠI DIỆN HỢP LỆ
Tóm tắt Quyết định số 08/2013/KDTM-GĐT:
Vụ án tranh chấp hợp đồng mua bán giữa Công ty Vinausteel và Công ty Hưng Yên, do bà Lê Thị Ngọc Lan làm Tổng giám đốc, đã phát sinh mâu thuẫn về trách nhiệm đại diện nội bộ Bà Lan đã ủy quyền cho ông Lê Văn Mạnh, Phó Tổng giám đốc, ký kết hợp đồng với Vinausteel, trong khi ông Lê Văn Dũng, chồng bà Lan, cam kết trả nợ cho Công ty Hưng Yên Các vấn đề liên quan đến trách nhiệm nợ giữa ông Dũng và bà Toàn là nội bộ của Công ty Hưng Yên, do đó, việc bồi thường và thanh toán nợ thuộc về Công ty Hưng Yên, không phải trách nhiệm cá nhân của ông Mạnh hay ông Hùng.
Câu 1: Điểm mới của BLDS 2015 (so với BLDS 2005) về người đại diện
Tiêu chí BLDS 2005 BLDS 2015 Đại diện
Theo Khoản 1 Điều 139, "người đại diện" là cá nhân thực hiện giao dịch dân sự nhân danh và vì lợi ích của "người được đại diện" Việc đại diện này được thực hiện trong phạm vi đã được quy định, nhằm đảm bảo quyền lợi cho bên được đại diện.
Không làm rõ đối tượng đại diện là ai
Theo Khoản 1 Điều 134, người đại diện có thể là cá nhân hoặc pháp nhân, thực hiện giao dịch dân sự nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác Việc xác định rõ ràng người đại diện là rất quan trọng để đảm bảo tính hợp pháp và hiệu quả trong các giao dịch.
Căn cứ xác lập quyền: Đại diện theo pháp luật: Điều 141 Đại diện theo ủy quyền: Điều 142 và không quy định gì về các thành
Căn cứ xác lập quyền và quy định rõ về chủ thể đại diện theo ủy quyền được quy định tại Điều 138, trong đó bổ sung khoản 2 nêu rõ rằng các thành viên trong hộ gia đình, tổ hợp tác, và các tổ chức khác không có tư cách pháp nhân cũng có thể thực hiện quyền đại diện.
Hộ gia đình, tổ hợp tác và tổ chức khác có thể thỏa thuận cử cá nhân hoặc pháp nhân đại diện theo ủy quyền để thực hiện các giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung Điều này được quy định tại Điều 136 về đại diện theo cá nhân và Điều 137 về đại diện theo pháp nhân.
Quy định rõ hơn về các đối tượng trong các quan hệ dân sự
Theo Khoản 2 Điều 142, hình thức ủy quyền có thể được các bên thỏa thuận, tuy nhiên, trong một số trường hợp pháp luật yêu cầu việc ủy quyền phải được lập thành văn bản.
Không có điều luật nào quy định cụ thể về vấn đề này
Trong Quyết định số 08, phần xét thấy của Tòa án xác nhận rằng ông Mạnh đại diện cho Hưng Yên đã ký hợp đồng với Vinausteel.
“…ngày 16/1/2007, ông Mạnh đã đại diện cho Công ty kim khí Hưng Yên ký Hợp đồng mua bán phôi thép số 01/HĐPT/2007/VA-HY với Công ty Vinausteel…”
Câu 3: Theo Hội đồng thẩm phán, ông Mạnh có trách nhiệm gì với Vinausteel không?
Theo Hội đồng thẩm phán, ông Mạnh không có trách nhiệm đối với Vinausteel, vì Tòa án đã xác định rằng việc chia tài sản chung giữa ông Lê Văn Dũng và bà Lê Thị Ngọc Lan, cũng như thỏa thuận giữa bà Nguyễn Thị Toàn và ông Lê Văn Dũng về việc thanh toán nợ, là vấn đề nội bộ của Công ty kim khí Hưng Yên Do đó, Công ty kim khí Hưng Yên phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ liên quan.
3 trách nhiệm thanh toán các khoản nợ và bồi thường thiệt hại cho Công ty Vinausteel chứ không phải cá nhân ông Mạnh, ông Dũng”
Hướng giải quyết của Tòa giám đốc thẩm liên quan đến ông Mạnh cần được đánh giá một cách cẩn thận Việc có văn bản cụ thể về chủ đề này sẽ giúp làm rõ hơn quan điểm và lập luận của Tòa Nếu các quyết định và lý do được nêu ra trong văn bản thuyết phục và hợp lý, điều này sẽ tạo ra niềm tin và sự đồng thuận từ phía công chúng Tuy nhiên, nếu thiếu sự minh bạch hoặc không có căn cứ vững chắc, hướng giải quyết này có thể gặp phải sự phản đối và hoài nghi.
Tòa án đã giải quyết cho ông Mạnh không phải chịu trách nhiệm gì đối với công ty Vinausteel là hợp lí
Ông Mạnh được bà Lan ủy quyền thực hiện các giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại trong phạm vi kinh doanh của Công ty, do đó, việc ông ký hợp đồng với Vinausteel hoàn toàn nằm trong thẩm quyền của mình, phù hợp với khoản 1 Điều 141 Bộ luật Dân sự 2015 về phạm vi đại diện.
Người đại diện chỉ được thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện dựa trên các căn cứ như quyết định của cơ quan có thẩm quyền, điều lệ của pháp nhân, nội dung ủy quyền và các quy định khác của pháp luật.
Ông Mạnh, người đại diện theo ủy quyền của bà Lan, đã được bà ủy quyền trước đó Theo khoản 2 Điều 567 Bộ Luật Dân Sự 2015, bên ủy quyền có nghĩa vụ thực hiện các trách nhiệm liên quan đến việc ủy quyền.
“2 Chịu trách nhiệm về cam kết do bên được ủy quyền thực hiện trong phạm vi ủy quyền.”
Thì ông Mạnh không phải chịu trách nhiệm đối với Công ty Vinausteel mà Công ty Hưng Yên mới là chủ thể phải chịu trách nhiệm với Vinausteel
Câu 5: Theo Hội đồng thẩm phán, Hưng Yên có trách nhiệm gì với Vinausteel không?
Hội đồng thẩm phán khẳng định rằng Công ty kim khí Hưng Yên có trách nhiệm thanh toán các khoản nợ và bồi thường thiệt hại cho Công ty Vinausteel, không phải cá nhân ông Mạnh hay ông Dũng.
Câu 6: Cho biết suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm liên quan đến Hưng Yên nêu trên
Quyết định của Tòa giám đốc thẩm liên quan đến Hưng Yên là hoàn toàn thuyết phục, vì ông Mạnh đã thực hiện đúng thẩm quyền trong phạm vi cho phép Theo khoản 1 Điều 143 BLDS 2015, ông Mạnh được coi là người đại diện theo ủy quyền hợp pháp Bên cạnh đó, khoản 3 Điều 16 Luật Doanh nghiệp 2014 cũng quy định rõ trách nhiệm của người đại diện theo ủy quyền của chủ sở hữu, thành viên, cổ đông là tổ chức, điều này càng củng cố tính hợp pháp trong hành động của ông Mạnh.
Người đại diện theo ủy quyền có trách nhiệm với chủ sở hữu, thành viên, cổ đông ủy quyền nếu vi phạm nghĩa vụ theo quy định Đồng thời, chủ sở hữu, thành viên, cổ đông ủy quyền cũng phải chịu trách nhiệm trước bên thứ ba về các nghĩa vụ phát sinh liên quan đến quyền và nghĩa vụ thực hiện qua người đại diện theo ủy quyền.
Như vậy, việc công ty Hưng Yên phải chịu trách nhiệm với Vinausteel là có căn cứ và thỏa đáng
TRƯỜNG HỢP ĐẠI DIỆN KHÔNG HỢP LỆ
Tóm tắt Quyết định số 10/2013/KDTM-GĐT
Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam đã kiện Công ty cổ phần xây dựng 16-Vinaconex do khoản vay 2 tỷ đồng mà Xí nghiệp xây dựng 4, thuộc công ty này, không có khả năng trả nợ Ngân hàng yêu cầu Công ty cổ phần xây dựng 16-Vinaconex có trách nhiệm thanh toán nợ và xử lý tài sản thế chấp Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An đã ra quyết định buộc công ty này phải thanh toán 75.000.000 đồng cho ông Trần Quốc Toản và tuyên hợp đồng bảo lãnh giữa Ngân hàng và ông Toản vô hiệu Tuy nhiên, bản án phúc thẩm đã giữ nguyên quyết định sơ thẩm, cho đến khi Quyết định giám đốc thẩm hủy cả hai bản án trước đó và giao hồ sơ cho Tòa án tỉnh Nghệ An xét xử lại Cơ sở pháp lý cho vụ án dựa trên Điều 142 BLDS 2015 về hình thức sở hữu tài sản và thừa kế.
Trong Quyết định số 10, đoạn thể hiện rằng người xác lập hợp đồng với Ngân hàng không được Vinaconex ủy quyền là khi nêu rõ rằng cá nhân đó không có thẩm quyền đại diện để thực hiện các giao dịch.
Theo Quyết định số 10, ông Thuận, người được bổ nhiệm làm Giám đốc vào ngày 13/3/2001, đã không đồng ý cho Xí nghiệp xây dựng 4 vay vốn từ Ngân hàng Mặc dù Xí nghiệp xây dựng 4 ký hợp đồng tín dụng với Ngân hàng vào ngày 14/5/2001, nhưng ông Thuận không bảo lãnh hay ký bất kỳ văn bản nào liên quan đến việc vay vốn này.
Công ty xây dựng số II Nghệ An đã gửi Công văn số 64 CV/XDII.TCKT đến Chi nhánh Ngân hàng Công thương Nghệ An, trong đó đề nghị ngân hàng không cấp tín dụng cho các xí nghiệp thuộc Công ty này.
Kể từ ngày 06/04/2001, việc vay vốn mà không có bảo lãnh từ công ty đã trở thành một quy định quan trọng Các văn bản liên quan đến quy trình vay vốn tại Ngân hàng Công thương Nghệ An cũng cần được xem xét kỹ lưỡng để đảm bảo tính hợp lệ và tuân thủ các quy định hiện hành.
7 hành trước ngày 06/4/2001 đều bãi bỏ”, nhưng ngày 14/5/2001 Ngân hàng vẫn ký Hợp đồng tín dụng”
Câu 2: Trong vụ việc trên, theo Tòa giám đốc thẩm, Vinaconex có chịu trách nhiệm với Ngân hàng về hợp đồng trên không?
Trong vụ việc trên, theo Tòa giám đốc thẩm, Vinaconex có chịu trách nhiệm với Ngân hàng về hợp đồng trên dựa vào phần xét thấy có đoạn:
Công ty cổ phần xây dựng 16 – Vinaconex phải chịu trách nhiệm thanh toán khoản nợ 1.382.040.000 đồng, bao gồm cả gốc và lãi, cho Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam Điều này được xác nhận bởi cả Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm, do Công ty xây dựng số II Nghệ An không phản đối việc Xí nghiệp xây dựng 4 vay tiền từ ngân hàng.
Câu 3: Cho biết suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm
Hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm là hợp lý
Căn cứ vào khoản 3, khoản 5 Điều 93 BLDS 2005:
Chi nhánh là một đơn vị phụ thuộc của pháp nhân, có nhiệm vụ thực hiện toàn bộ hoặc một phần các chức năng của pháp nhân, bao gồm cả chức năng đại diện theo ủy quyền.
5 Pháp nhân có các quyền, nghĩa vụ dân sự phát sinh từ giao dịch dân sự do văn phòng đại diện, chi nhánh xác lập, thực hiện.”
Xí nghiệp xây dựng 4, thuộc Công ty xây dựng số II Nghệ An, có nhiệm vụ thực hiện các chức năng của pháp nhân Do đó, Công ty xây dựng số II Nghệ An phải có trách nhiệm trả nợ gốc và lãi tổng cộng 1.382.040.000 đồng cho Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam.
Nếu Ngân hàng phản đối hợp đồng theo Quyết định số 10 do người đại diện Vinaconex không có quyền đại diện, việc xử lý cần tuân theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015 Cụ thể, hợp đồng có thể bị tuyên bố vô hiệu nếu bên đại diện không đủ thẩm quyền, dẫn đến việc Ngân hàng có quyền yêu cầu hủy bỏ hợp đồng Điều này nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên tham gia giao dịch và đảm bảo tính minh bạch trong các hoạt động kinh doanh.
Trong trường hợp Ngân hàng phản đối hợp đồng như trong Quyết định số 10, trách nhiệm thanh toán sẽ thuộc về Vinaconex nếu lý do phản đối là do người đại diện không có quyền đại diện Điều này cho thấy Vinaconex đã nhận thức được giao dịch này, mặc dù chỉ có Ngân hàng đưa ra phản đối.
8 nhưng không có động thái phản đối nên việc Ngân hàng yêu cầu hủy bỏ hợp đồng sẽ thuộc về trách nhiệm của Vinaconex
Căn cứ theo khoản 1 Điều 142 BLDS 2015 quy định về hậu quả của giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện:
Giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện thực hiện sẽ không phát sinh quyền và nghĩa vụ đối với người được đại diện, trừ khi có một trong các trường hợp sau: người được đại diện đã công nhận giao dịch, người được đại diện biết nhưng không phản đối trong thời hạn hợp lý, hoặc người được đại diện có lỗi khiến người giao dịch không biết hoặc không thể biết về việc không có quyền đại diện.
HÌNH THỨC SỞ HỮU TÀI SẢN
Vụ án tranh chấp thừa kế giữa bà Cao Thị Xê và các bị đơn Võ Thị Thu Hương, Nguyễn Quốc Chính liên quan đến tài sản là ngôi nhà và một số tài sản gia đình tại Mỹ Tho Bà Xê cho rằng tài sản là chung của vợ chồng bà với ông Võ Văn Lưu, người đã qua đời năm 2003 và để lại di chúc cho bà Tuy nhiên, các bị đơn lập luận rằng ông Lưu đã có vợ hợp pháp là bà Nguyễn Thị Thẩm từ năm 1964, do đó hôn nhân giữa ông Lưu và bà Xê là bất hợp pháp Hội đồng Giám đốc thẩm xác nhận quan hệ hôn nhân giữa ông Lưu và bà Thẩm là hợp pháp, dẫn đến việc tài sản tranh chấp được coi là tài sản riêng của ông Lưu, mặc dù di chúc để lại cho bà Xê là hợp pháp Bà Thẩm vẫn có quyền thừa kế tài sản của ông Lưu do bà là vợ hợp pháp và có công nuôi dưỡng con cái.
Câu 1: Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về hình thức sở hữu tài sản
BLDS 2015 quy định ba hình thức sở hữu chính, bao gồm sở hữu toàn dân, sở hữu riêng và sở hữu chung, thay thế cho sáu hình thức sở hữu đã được quy định tại Điều 172 của Bộ luật này.
Dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân, các hình thức sở hữu bao gồm sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở hữu chung, cũng như sở hữu của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội và tổ chức xã hội - nghề nghiệp.
BLDS 2015 đã thay đổi tên gọi của hình thức sở hữu từ “sở hữu nhà nước” trong BLDS 2005 thành “sở hữu toàn dân”, tuy nhiên nội dung quy định vẫn giữ nguyên.
BLDS 2015 không liệt kê các loại tài sản trong hình thức “sở hữu riêng” như BLDS 2005 mà chỉ quy định về “sở hữu riêng” ở Điều 205, 206
BLDS 2015 đã bổ sung thêm Điều 212 về “Sở hữu chung của các thành viên gia đình”
Bộ luật Dân sự 2015 đã bổ sung Điều 212 quy định về "Sở hữu chung của các thành viên gia đình" Ngoài ra, luật cũng sửa đổi và bổ sung các khoản 4, 5, 6 của Điều 218, quy định về các trường hợp mà một hoặc nhiều chủ sở hữu chung có thể từ bỏ quyền sở hữu đối với tài sản chung.
Căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt có được ông Lưu tạo lập trong thời kỳ hôn nhân với bà Thẩm hay không, có thể tìm thấy câu trả lời trong Quyết định số 377 Đoạn nào của Quyết định 377 nêu rõ thông tin này sẽ giúp xác định quyền sở hữu tài sản trong bối cảnh hôn nhân của hai bên.
Căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt được ông Lưu xây dựng trong thời gian hôn nhân hợp pháp với bà Thẩm Theo Quyết định 377, mối quan hệ hôn nhân giữa ông Lưu và bà Thẩm vẫn đang tồn tại theo quy định của pháp luật, trong khi hôn nhân với bà Xê là vi phạm pháp luật.
Theo bà Thẩm, căn nhà này là tài sản chung của vợ chồng bà hay thuộc sở hữu riêng của ông Lưu? Đoạn nào trong Quyết định 377 cung cấp câu trả lời cho vấn đề này?
Bà Thẩm khẳng định rằng căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt, với diện tích 101m², là tài sản chung của vợ chồng bà Theo Quyết định 377, bà không đồng ý với yêu cầu của bà Xê và đề nghị Tòa án giải quyết theo pháp luật để bà được hưởng thừa kế tài sản của ông Lưu cùng với chị Hương.
Sau khi xét xử phúc thẩm, bà Thẩm đã nộp đơn khiếu nại, trong đó khẳng định rằng ngôi nhà đang tranh chấp là tài sản chung giữa bà và ông Lưu Bà yêu cầu được chia tài sản chung và thừa kế theo quy định của pháp luật.
Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, căn nhà thuộc sở hữu chung của ông Lưu và bà Thẩm, không phải sở hữu riêng của ông Lưu Đoạn trong Quyết định 377 cung cấp câu trả lời rõ ràng cho vấn đề này.
Theo Tòa án nhân dân tối cao, căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt, phường 6, Thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang là tài sản riêng của ông Lưu Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã nhấn mạnh rằng mặc dù căn nhà được ông Lưu tạo lập trong thời kỳ hôn nhân với bà Thẩm, nhưng ông Lưu có kinh tế riêng và đứng tên sở hữu nhà đất Bà Thẩm cũng đã thừa nhận rằng căn nhà là tài sản riêng của ông Lưu, trong khi bà và chị Hương vẫn đang sinh sống ở miền Bắc.
11 cơ sở xác định căn nhà nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt, phường 6, thành phố Mỹ Tho trên diện tích 101m 2 đất là tài sản riêng của ông Lưu”
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã đồng thuận với quyết định của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao liên quan đến tài sản của ông Lưu.
Câu 5: Anh/chị có suy nghĩ gì về giải pháp trên của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao?
Giải pháp trên của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao là chưa thỏa đáng
Vì căn cứ theo khoản 1 Điều 33 Luật hôn nhân và gia đình quy định:
Tài sản chung của vợ chồng bao gồm tài sản do cả hai tạo ra, thu nhập từ lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, cũng như hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng và các nguồn thu hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân Ngoài ra, tài sản thừa kế chung, tài sản được tặng cho chung và những tài sản mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung cũng được tính là tài sản chung.
Do đó căn nhà được ông Lưu tạo lập trong thời kỳ hôn nhân với bà Thẩm là tài sản chung của hai vợ chồng
Vì căn cứ theo khoản 2 Điều 213 BLDS 2015
“2 Vợ chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản chung; có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung
3 Vợ chồng thỏa thuận hoặc ủy quyền cho nhau chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.”
Ông Lưu và bà Thẩm có quyền ngang nhau đối với căn nhà, vì vậy ông Lưu không thể lập di chúc chỉ định bà Xê được quyền sử dụng toàn bộ tài sản, bao gồm nhà cửa và đồ dùng trong gia đình.
DIỆN THỪA KẾ
Câu 1: Bà Thẩm, chị Hương và bà Xê có thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Lưu không? Vì sao?
Bà Thẩm là người thừa kế thứ nhất của ông Lưu, do họ là vợ chồng hợp pháp đã đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Kinh Nghệ, tỉnh Phú Thọ vào năm 1964 Quan hệ hôn nhân giữa ông Lưu và bà Thẩm vẫn đang tồn tại và được công nhận theo quy định pháp luật Theo Điều 676 Bộ luật Dân sự 2005, bà Thẩm được xác định là người thừa kế theo pháp luật của ông Lưu.
“a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;”
Chị Hương là con gái chung của ông Lưu và bà Thẩm, do đó chị Hương thuộc hàng thừa kế thứ nhất theo quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 676 Bộ luật Dân sự 2005.
Bà Xê và ông Lưu đã kết hôn vào năm 1996 tại UBND phường 6, tỉnh Tiền Giang, và sống cùng nhau cho đến khi ông Lưu qua đời vào năm 2003 Tuy nhiên, mối quan hệ hôn nhân giữa họ được xác định là vi phạm pháp luật.
Theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, tại Điều 1 và khoản a Điều 7 có quy định:
Nhà nước cam kết bảo vệ chế độ hôn nhân tự nguyện và tiến bộ, với nguyên tắc một vợ một chồng, cùng sự bình đẳng giữa vợ và chồng Mục tiêu là xây dựng gia đình dân chủ, hòa thuận, hạnh phúc và bền vững.
Cấm kết hôn trong những trường hợp sau đây : a) Đang có vợ hoặc có chồng”
Năm 1964, ông Lưu đã kết hôn với bà Thẩm, xác nhận mối quan hệ hôn nhân một vợ một chồng Đến năm 1996, ông Lưu và bà Xê đăng ký kết hôn, nhưng theo luật hôn nhân và gia đình năm 1986, mối quan hệ này không được pháp luật công nhận do ông Lưu vẫn đang có vợ hợp pháp là bà Thẩm Do đó, bà Xê không phải là vợ hợp pháp của ông Lưu.
14 ông Lưu và không thuộc hàng thừa kế của ông Lưu theo như điểm a khoản 1 Điều 676 BLDS 2005 được nêu trên
Câu 2: Nếu ông Lưu kết hôn với bà Xê vào cuối năm 1976 thì câu trả lời cho câu hỏi trên có khác không? Vì sao?
Nếu ông Lưu kết hôn với bà Xê vào cuối năm 1976 thì câu trả lời cho câu hỏi trên sẽ có thay đổi
Sau ngày giải phóng miền Nam, ông Lưu chuyển công tác vào miền Nam và kết hôn với bà Xê Vào thời điểm năm 1976, Luật hôn nhân và gia đình tại miền Nam chưa có hiệu lực theo Khoản a Điều 4 Nghị quyết 02/HĐTP ngày 19/09/1990.
Trong trường hợp một người có nhiều vợ trước các thời điểm quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình, tất cả các người vợ đều được coi là người thừa kế hàng thứ nhất của chồng Ngược lại, người chồng cũng là người thừa kế hàng thứ nhất của tất cả các người vợ.
Và theo Điểm a Khoản 1 Điều 676 BLDS 2005 quuy định:
“a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;”
Vụ việc diễn ra ở miền Nam, cho thấy nếu bà Xê và ông Lưu kết hôn sau ngày 25/03/1976, tức vào cuối năm 1976, thì hôn nhân của họ vẫn được công nhận là hợp pháp Do đó, bà Xê sẽ thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Lưu.
Bà Thẩm và chị Hương sẽ được coi là những người thừa kế thứ nhất của ông Lưu, theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 676 của Bộ luật Dân sự 2005.
Câu 3: Trong vụ việc này, chị Hương có được chia di sản của ông Lưu không? Vì sao?
Trong vụ việc này chị Hương không được hưởng di sản thừa kế của ông Lưu Theo khoản
1 Điều 669 BLDS 2005 quy định về đối tượng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc như sau:
Những người này sẽ nhận được hai phần ba di sản của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được phân chia theo quy định pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc chỉ định hưởng di sản hoặc chỉ được hưởng phần di sản ít hơn hai phần.
Theo quy định tại Điều 642, những người từ chối nhận di sản sẽ không được hưởng quyền lợi, và theo khoản 1 Điều 643, những người không có quyền hưởng di sản cũng sẽ không nhận được bất kỳ phần nào của di sản.
1 Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
2 Con thành niên mà không có khả năng lao động.”
Chị Hương không được xác định là không có khả năng lao động trong quyết định, vì vậy chị sẽ không tự động được hưởng thừa kế mặc dù không có tên trong di chúc.
Theo pháp luật hiện hành, người thừa kế có quyền sở hữu tài sản di sản do người quá cố để lại từ thời điểm mở thừa kế, tức là khi người để lại di sản qua đời Cơ sở pháp lý cho quy định này được nêu rõ trong Bộ luật Dân sự, điều 611, quy định về thời điểm phát sinh quyền thừa kế.
Theo pháp luật hiện hành, Điều 614 BLDS 2015 và khoản 1 Điều 611 BLDS 2015: Căn cứ theo Điều 614 BLDS 2015 quy định:
“Kể từ thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại”;
Căn cứ theo khoản 1 Điều 611 BLDS 2015 quy định:
Thời điểm mở thừa kế được xác định là khi người có tài sản qua đời Nếu Tòa án tuyên bố một người đã chết, thời điểm mở thừa kế sẽ là ngày được quy định tại khoản 2 Điều.
Thời điểm người thừa kế có quyền sở hữu tài sản di sản do người quá cố để lại chính là thời điểm mở thừa kế, tức là thời điểm người để lại di sản qua đời.
THỪA KẾ KHÔNG PHỤ THUỘC VÀO NỘI DUNG CỦA DI CHÚC
Tóm tắt bản án số 2493/2009/DS-ST:
Trong vụ kiện giữa nguyên đơn bà Nguyễn Thị Khót và bị đơn ông Nguyễn Tài Nhật, nội dung liên quan đến di sản của cụ Khánh, người có ba người con: bà Khót, ông Tâm (con với cụ Lầm) và ông Nhật (con với cụ Ngọt) Sau khi cụ Khánh qua đời vào năm 2000, di sản để lại là căn nhà số
Tại địa chỉ 83 Lương Định Của, phường Khánh An, quận 2, Tp Hồ Chí Minh, theo di chúc của cụ Khánh, toàn bộ căn nhà được để lại cho ông Nhật Tuy nhiên, bà Khót (71 tuổi) và ông Tâm (68 tuổi, thương binh 2/4) đã yêu cầu được hưởng thừa kế theo quy định pháp luật, với tổng di sản là 1.800.000.000 đồng, mỗi người được nhận 400.000.000 đồng Hội đồng xét xử đã xem xét hồ sơ vụ án và nhận thấy các nguyên đơn không có chứng cứ chứng minh rằng họ không có khả năng lao động tại thời điểm mở thừa kế, do đó không chấp nhận yêu cầu của bà Khót và ông Tâm Tòa án quyết định xác định di sản của cụ Khánh là giá trị quyền sử dụng đất căn nhà là 1.800.000.000 đồng và không chấp nhận yêu cầu của họ về việc hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc.
Câu 1: Đoạn nào của Quyết định cho thấy ông Lưu đã định đoạt bằng di chúc toàn bộ tài sản của ông Lưu cho bà Xê?
Hội đồng giám đốc thẩm Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao đã xác nhận rằng ông Lưu đã lập di chúc để định đoạt toàn bộ tài sản của mình cho bà Xê.
Ông Lưu đã lập văn bản mang tên “Di chúc” vào ngày 27-7-2002, thể hiện rõ ý chí của ông trong việc để lại tài sản cho bà Xê Hành động này hoàn toàn có căn cứ và phù hợp với các quy định của pháp luật.
Bà Xê, bà Thẩm và chị Hương có thuộc diện được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc liên quan đến di sản của ông Lưu hay không? Điều này phụ thuộc vào các quy định pháp luật về thừa kế và các mối quan hệ gia đình giữa các bên.
Bà Xê và chị Hương không được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào di chúc, trong khi bà Thẩm là người duy nhất thuộc diện này Bà Xê là người được chỉ định trong di chúc, do đó không nhận di sản theo pháp luật Chị Hương, dù là con của ông Lưu, đã thành niên và không mất khả năng lao động, nên cũng không đủ điều kiện thừa kế Kết luận, chỉ có bà Thẩm, vợ hợp pháp của ông, mới được hưởng di sản.
Lưu, là đối tượng phù hợp với khoản 1 Điều 664 BLDS 2015 hoặc căn cứ theo Điều 669 BLDS 2005 quy định về người thừa kế không thuộc vào nội dung di chúc
Theo Tòa án nhân dân tối cao, bà Thẩm được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc của ông Lưu vì lý do pháp lý nhất định Đoạn trong Quyết định nêu rõ rằng quyền thừa kế của bà Thẩm được xác định dựa trên các quy định của pháp luật, không bị ràng buộc bởi di chúc.
Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, bà Thẩm có quyền thừa kế di sản của ông Lưu mà không phụ thuộc vào di chúc, vì bà là vợ hợp pháp và đã nuôi dưỡng con chung trong thời gian ông Lưu xa nhà và không còn khả năng lao động Quyết định này nhấn mạnh tầm quan trọng của mối quan hệ hôn nhân và trách nhiệm nuôi dưỡng trong việc xác định quyền thừa kế.
Bà Thẩm, vợ hợp pháp của ông Lưu, hiện đã lớn tuổi và không còn khả năng lao động Mặc dù bà là người thừa kế hàng đầu nhưng không được ông Lưu chỉ định trong di chúc, theo Điều 669 Bộ luật Dân sự, bà vẫn có quyền thừa kế tài sản của ông Lưu mà không phụ thuộc vào nội dung di chúc.
Nếu bà Thẩm có sức khỏe và khả năng lao động, bà vẫn có quyền hưởng thừa kế từ di sản của ông Lưu mà không bị ảnh hưởng bởi nội dung của di chúc Điều này có thể được giải thích bởi quy định pháp luật liên quan đến quyền thừa kế, nơi mà quyền lợi của người thừa kế không bị giới hạn bởi tình trạng sức khỏe hay khả năng lao động của họ.
Bà Thẩm, nếu có sức khỏe và khả năng lao động, vẫn được quyền thừa kế di sản của ông Lưu mà không bị ảnh hưởng bởi nội dung di chúc Điều này được quy định rõ trong Điều 669 của Bộ luật Dân sự 2005, nêu rõ rằng người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc.
Những người sau đây sẽ nhận được hai phần ba di sản của một người thừa kế theo pháp luật khi di sản được chia theo quy định, trừ khi họ bị người lập di chúc loại trừ hoặc chỉ được nhận phần di sản ít hơn hai phần ba Điều này không áp dụng cho những người từ chối nhận di sản theo Điều 642 hoặc những người không có quyền hưởng di sản theo khoản 1 Điều 643.
1 Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
2 Con đã thành niên mà không có khả năng lao động.”
Bà Thẩm, dù không mất khả năng lao động, vẫn không được hưởng tài sản theo di chúc của ông Lưu, nhưng theo quy định pháp luật, bà có quyền nhận hai phần ba suất di sản của một người thừa kế Hơn nữa, bà còn có công lao nuôi dưỡng con chung từ nhỏ đến khi trưởng thành, điều này càng củng cố quyền lợi của bà trong việc thừa kế.
Câu 5: Nếu di sản của ông Lưu có giá trị 600 triệu đồng thì bà Thẩm sẽ được hưởng khoản tiền là bao nhiêu? Vì sao?
Nếu di sản của ông Lưu được chia theo quy định pháp luật, bà Thẩm, vợ hợp pháp của ông, sẽ được hưởng quyền lợi từ tài sản này, trong khi bà Xê, vợ bất hợp pháp, sẽ không có quyền thừa kế Ông Lưu và bà Thẩm có một người con chung, điều này càng củng cố quyền thừa kế của bà Thẩm và con của họ trong việc phân chia di sản.
Suất thừa kế chia theo pháp luật mà bà Thẩm được nhận: (600:2)x2/3 = 200 tr
Căn cứ theo Điều 669, BLDS 2005 về Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc:
Những cá nhân này sẽ nhận được hai phần ba giá trị di sản của một người thừa kế hợp pháp, nếu di sản được phân chia theo quy định pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc chỉ định nhận di sản hoặc chỉ được nhận phần di sản ít hơn hai phần ba giá trị đó.
Do vậy, bà Thẩm sẽ được hưởng hai phần ba của một suất thừa kế, tức 200 triệu đồng
Câu 6: Nếu bà Thẩm yêu cầu được chia di sản bằng hiện vật thì yêu cầu của bà Thẩm có được chấp nhận không? Vì sao?
NGHĨA VỤ TÀI SẢN CỦA NGƯỜI ĐỂ LẠI DI SẢN
Tóm tắt Quyết định 767/2011/DS-GĐT:
Vụ án "tranh chấp quyền sử dụng đất" giữa anh Dương Văn Đang và ông Dương Văn Sáu liên quan đến việc phân chia quyền sử dụng đất do cụ Trượng (ông nội của anh Đang) để lại Năm 1997, cụ Trượng đã lập "Tờ ủy quyền" cho anh Đang 3000m2 đất với chữ ký của cụ và xác nhận của UBND xã Đến năm 1999, cụ Trượng lập di chúc cho anh Đang 2000m2, anh Thanh 2600m2, và ông Sáu 2000m2 đất ruộng cùng 4310m2 đất vườn, nhằm phụng dưỡng cha mẹ Mặc dù các con của cụ Trượng thừa nhận di chúc này, anh Đang không công nhận và không biết về sự tồn tại của nó Tòa án cần giám định tính hợp pháp của di chúc năm 1999, đồng thời xem xét "Tờ cam kết" ngày 7/3/1999, trong đó chữ ký của cụ Trượng có sự khác biệt so với các tài liệu trước đó Việc làm rõ những vấn đề này là cần thiết để xác định quyền quyết định của cụ Trượng đối với tài sản của mình.
Câu 1: Theo BLDS, những nghĩa vụ nào của người để lại di sản được ưu tiên thanh toán?
Theo BLDS 2015 được quy định trong Điều 658 thì những nghĩa vụ của người để lại di sản sau đây được ưu tiên thanh toán theo thứ tự:
1 Chi phí hợp lý theo tập quán cho việc mai táng
2 Tiền cấp dưỡng còn thiếu
3 Chi phí cho việc bảo quản di sản
4 Tiền trợ cấp cho người sống nương nhờ
6 Tiền bồi thường thiệt hại
7 Thuế và các khoản phải nộp khác vào ngân sách nhà nước
8 Các khoản nợ khác đối với cá nhân, pháp nhân
Câu 2: Ông Lưu có nghĩa vụ nuôi dưỡng chị Hương từ khi còn nhỏ đền khi trưởng thành không?
Ông Lưu có trách nhiệm nuôi dưỡng chị Hương từ khi còn nhỏ cho đến khi trưởng thành, theo quy định tại khoản 2 Điều 69 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
Trông nom và chăm sóc cho những người chưa thành niên, cũng như những người đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động, là trách nhiệm quan trọng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ, đặc biệt khi họ không có tài sản để tự nuôi sống bản thân.
Theo các điều khoản đã được nêu, ông Trải có trách nhiệm yêu thương và chăm sóc chị Hương từ khi còn nhỏ cho đến khi trưởng thành, không phụ thuộc vào bất kỳ lý do nào, kể cả khi ông và mẹ chị Hương không còn sống chung.
Bà Thẩm đã tự nuôi dưỡng chị Hương từ khi còn nhỏ cho đến khi trưởng thành, điều này được thể hiện rõ trong đoạn xét thấy của Quyết định.
Trong suốt thời gian ông Lưu công tác tại miền Nam, bà Thẩm đã trực tiếp nuôi dưỡng con chung từ khi còn nhỏ đến khi trưởng thành Do đó, khi giải quyết tài sản, cần xem xét công sức nuôi con của bà Thẩm và trích từ giá trị tài sản của ông Lưu để bù đắp cho bà Thẩm.
Theo Tòa dân sự của Tòa án nhân dân tối cao, nếu bà Thẩm có yêu cầu, thì bà có quyền được trích một khoản tiền từ di sản của ông Lưu để bù đắp cho công sức nuôi dưỡng con chung.
Theo Toà án dân sự Toà án nhân dân tối cao, bà Thẩm có quyền yêu cầu được trích một khoản tiền từ di sản của ông Lưu nhằm bù đắp cho công sức nuôi dưỡng con chung.
Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao nhấn mạnh rằng bà Thẩm đã trực tiếp nuôi dưỡng con chung từ khi còn nhỏ cho đến khi trưởng thành Do đó, trong quá trình giải quyết, cần xem xét công sức nuôi con của bà Thẩm và có thể trích từ giá trị tài sản của ông Lưu để bù đắp cho những đóng góp này nếu bà Thẩm có yêu cầu.
Câu 5: Trên cơ sở các quy định về nghĩa vụ tài sản của người để lại di sản, anh/chị hãy giải thích giải pháp trên của Tòa án
Kể từ khi ông Lưu vào miền Nam làm việc, bà Thẩm đã đảm nhận vai trò nuôi dưỡng con chung của hai người từ khi còn nhỏ cho đến khi trưởng thành, do đó, bà Thẩm có nhiều công sức trong việc chăm sóc và nuôi dạy con cái.
Bà Thẩm được Tòa án công nhận là vợ hợp pháp của ông Lưu và do tuổi tác cũng như tình trạng sức khỏe không thể lao động, bà thuộc diện được hưởng di sản không phụ thuộc vào nội dung di chúc, theo xác định của Tòa án.
Tòa án đã căn cứ vào Điều 683 BLDS 2005 để đưa ra hướng giải quyết và các giải pháp liên quan đến thứ tự ưu tiên thanh toán nghĩa vụ tài sản cùng các khoản chi phí liên quan đến thừa kế.
“Các nghĩa vụ tài sản và các khoản chi phí liên quan đến thừa kế được thanh toán theo thứ tự sau đây:
1 Chi phí hợp lý theo tập quán cho việc mai táng
2 Tiền cấp dưỡng còn thiếu
3 Chi phí cho việc bảo quản di sản
4 Tiền trợ cấp cho người sống nương nhờ
6 Tiền bồi thường thiệt hại
7 Thuế và các khoản phải nộp khác vào ngân sách nhà nước
8 Các khoản nợ khác đối với cá nhân, pháp nhân
Khoản tiền và công sức mà cụ Thẩm đã đầu tư để nuôi dưỡng con chung của hai người cần được ưu tiên thanh toán, theo quy định cụ thể đã được nêu rõ.
Theo quy định hiện hành, giải pháp thừa kế theo pháp luật mà Tòa án đưa ra nhằm bảo vệ quyền lợi của bà Thẩm Do đó, các giải pháp này của Tòa án được xem là hợp lý.