Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu
Trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, hội nhập kinh tế quốc tế đang trở thành xu thế tất yếu, dẫn đến sự cạnh tranh khốc liệt giữa các doanh nghiệp không chỉ trong nước mà còn trên thị trường khu vực và toàn cầu Để tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp cần cải thiện hiệu quả hoạt động nội bộ và nâng cao khả năng cạnh tranh Việc nghiên cứu và ứng dụng các công cụ quản lý hiệu quả là cần thiết, trong đó KTTN (Kế toán tài nguyên nhân) nổi bật như một công cụ quan trọng KTTN, một phần của kế toán quản trị, dựa trên việc phân cấp và phân quyền cho các nhà quản lý, sử dụng các phương pháp kế toán chi phí và đánh giá thành quả để cung cấp thông tin hữu ích cho việc ra quyết định, từ đó kiểm soát hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm đạt được mục tiêu đề ra.
KTTN cung cấp thông tin kịp thời cho các nhà quản trị trong doanh nghiệp, giúp họ đưa ra quyết định phù hợp và phát huy năng lực quản lý Ngoài việc cải thiện lợi nhuận và hiệu quả hoạt động, KTTN còn tạo điều kiện cho việc kiểm soát các hoạt động nhằm đạt được mục tiêu của tổ chức.
Năm 2018, nhiều nhà quản lý và các nhà nghiên cứu đã công nhận tầm quan trọng của kinh tế tri thức (KTTN) trong việc thúc đẩy sự phát triển bền vững của doanh nghiệp (DN) KTTN không chỉ khẳng định vai trò quan trọng trong quản lý kinh tế mà còn trở thành một phương pháp hiệu quả để quản lý và kiểm soát hoạt động của DN (Meda, 2003).
Kế toán quản trị tài nguyên (KTTN) là một phần quan trọng của kế toán quản trị (KTQT) với yêu cầu cao hơn, đòi hỏi điều kiện như phân cấp quản lý rõ ràng và đội ngũ quản trị viên đủ năng lực KTTN đã được nghiên cứu và áp dụng trong các doanh nghiệp (DN) trên toàn thế giới hơn 70 năm qua, đóng góp vào thành công của nhiều lĩnh vực như sản xuất, ngân hàng và y tế Tuy nhiên, không phải DN hay quốc gia nào cũng áp dụng thành công KTTN Tại Việt Nam, do nền kinh tế chuyển đổi sang kinh tế thị trường hơn 20 năm, kiến thức về KTQT và KTTN vẫn còn mới mẻ Pháp lý về KTTN được đề cập trong thông tư 53/2006/TT-BTC, nhưng hướng dẫn còn hạn chế, gây khó khăn trong việc áp dụng Thực tế, KTTN chỉ mới được nghiên cứu và áp dụng trong vài năm gần đây, với số lượng nghiên cứu còn hạn chế và thiếu hướng dẫn cụ thể cho DN Do đó, việc tìm hiểu và phát triển các đặc thù của KTTN tại Việt Nam là rất cần thiết.
Việt Nam, với tư cách là một nước đang phát triển, đang trong quá trình chuyển đổi kinh tế và hội nhập toàn cầu, có cơ hội tiếp thu những thành tựu quản lý từ các quốc gia đi trước, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế tư nhân (KTTN) Tuy nhiên, sau hơn 15 năm nghiên cứu và áp dụng, KTTN tại Việt Nam vẫn còn khoảng cách nhất định so với các nước khác, đặt ra câu hỏi về các yếu tố tác động đến tình trạng này Đặc biệt, trong ngành sản xuất ô tô, các doanh nghiệp phải đối mặt với nhiều yếu tố đặc thù như vốn đầu tư lớn và công nghệ sản xuất phức tạp, dẫn đến việc hình thành các trung tâm tư nhân (TTTN) có tính phân tầng và yêu cầu kiểm soát chi phí chi tiết Do đó, ngành ô tô là một lĩnh vực phù hợp để nghiên cứu sâu hơn về KTTN.
KTTN tại các DN sản xuất ô tô ở Việt Nam cho thấy, việc áp dụng KTTN tại các
Sản xuất ô tô tại Việt Nam đang trong giai đoạn triển khai nhưng Kế toán Trách nhiệm (KTTN) vẫn chưa rõ ràng, gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc xác định và phân định các Trung tâm Trách nhiệm (TTTN) Mặc dù các dự toán hoạt động sản xuất kinh doanh hàng năm được lập tại doanh nghiệp, nhưng chưa chi tiết đến từng TTTN Hệ thống tài khoản và sổ kế toán hiện tại chưa đáp ứng yêu cầu chi tiết theo TTTN, làm hạn chế khả năng đánh giá trách nhiệm quản lý Nhận thức của các nhà quản lý về KTTN còn nhiều hạn chế, do đó, nghiên cứu và khuyến nghị để các đơn vị thực hiện hiệu quả KTTN là rất cần thiết Đến nay, chưa có nghiên cứu nào về KTTN tại các doanh nghiệp sản xuất ô tô ở Việt Nam.
Dựa trên các cơ sở lý luận và thực tiễn đã nêu, tác giả đã quyết định nghiên cứu đề tài “Kế toán trách nhiệm tại các doanh nghiệp sản xuất ô tô ở Việt Nam” cho luận án tiến sĩ của mình.
Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Luận án nghiên cứu Kế toán tài nguyên nhân tại các doanh nghiệp sản xuất ô tô ở Việt Nam, phân tích và đánh giá thực trạng áp dụng KTTN Nghiên cứu làm rõ các yếu tố ảnh hưởng đến việc áp dụng KTTN tại các đơn vị này Trên cơ sở đó, luận án đưa ra khuyến nghị nhằm hoàn thiện và thúc đẩy việc áp dụng KTTN trong ngành sản xuất ô tô ở Việt Nam.
Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu, luận án xác định các nhiệm vụ nghiên cứu như sau:
Về lý luận: Hệ thống hóa, phân tích và làm rõ thêm cơ sở lý thuyết và những vấn đề lý luận chung về nội dung KTTN trong DN
- Khảo sát, đánh giá thực trạng KTTN tại các DN sản xuất ô tô ở Việt Nam;
- Xác định và đánh giá mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến áp dụng KTTN tại các DN sản xuất ô tô ở Việt Nam;
Dựa trên kết quả nghiên cứu, tác giả đã đưa ra những gợi ý và khuyến nghị nhằm hoàn thiện và thúc đẩy việc áp dụng kinh tế thị trường tại các doanh nghiệp sản xuất ô tô ở Việt Nam.
Câu hỏi nghiên cứu
Nhằm đáp ứng mục tiêu và thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu, luận án tập trung phân tích và trả lời 4 câu hỏi sau:
- Nội dung KTTN và các yếu tố ảnh hưởng đến áp dụng KTTN trong DN nói chung?
- Thực trạng KTTN tại các DN sản xuất ô tô ở Việt Nam hiện nay như thế nào?
- Các yếu tố nào ảnh hưởng đến áp dụng KTTN tại các DN sản xuất ô tô ở
Việt Nam? Mức độ tác động của các yếu tố này?
- Cần có những giải pháp, khuyến nghị nào nhằm thúc đẩy hơn nữa việc áp dụng KTTN tại các DN sản xuất ô tô ở Việt Nam?
4 Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Luận án này nghiên cứu về kinh tế tri thức (KTTN), tập trung vào các khía cạnh lý luận và thực trạng áp dụng KTTN trong các doanh nghiệp sản xuất ô tô Đồng thời, bài viết cũng phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến việc áp dụng KTTN tại các doanh nghiệp này.
Luận án nghiên cứu Kế toán tài chính trong doanh nghiệp, tập trung vào việc cung cấp thông tin cho các nhà quản lý nhằm đo lường, kiểm soát và đánh giá thành quả của từng trung tâm tài chính, cũng như trách nhiệm của các nhà quản lý tại mỗi trung tâm này Nội dung không đi sâu vào các vấn đề kỹ thuật cụ thể của kế toán tài chính tại từng trung tâm, mà chỉ sử dụng dẫn chứng và số liệu để minh chứng cho việc áp dụng kế toán tài chính tại các doanh nghiệp khảo sát Đồng thời, luận án cũng không nghiên cứu về kế toán tài chính xã hội và kế toán tài chính môi trường.
- Phạm vi về không gian nghiên cứu: Các DN sản xuất ô tô tại Việt Nam trong đó bao gồm cả DN có vốn đầu tư nước ngoài (FDI)
- Phạm vi về thời gian nghiên cứu: Nghiên cứu được thực hiện trong khoảng thời gian từ 2017 đến 2021
5 Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Trong nghiên cứu này, tác giả đã áp dụng một cách kết hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học, bao gồm cả phương pháp luận chung và các phương pháp cụ thể khác để đạt được kết quả chính xác và hiệu quả.
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu đã xác định, luận án áp dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử trong việc phân tích dữ liệu, nhằm đảm bảo tính chính xác và sâu sắc trong kết quả nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Luận án sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính kết hợp với nghiên cứu định lượng để bổ sung thông tin trong quá trình xử lý và phân tích dữ liệu Phương pháp định tính giúp thiết lập bảng hỏi, điều chỉnh các biến độc lập và xây dựng thang đo cho các yếu tố ảnh hưởng đến việc áp dụng KTTN tại các doanh nghiệp sản xuất ô tô ở Việt Nam, thông qua thảo luận nhóm và phỏng vấn chuyên sâu với các chuyên gia Trong khi đó, phương pháp định lượng được thực hiện dựa trên mô hình nghiên cứu từ bước định tính để kiểm định giả thuyết và đánh giá mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến việc áp dụng KTTN tại các doanh nghiệp này.
6 Những đóng góp mới của của đề tài
Luận án này nhằm bổ sung và làm rõ cơ sở lý thuyết về kinh tế thị trường trong doanh nghiệp, đồng thời cung cấp thông tin hữu ích cho các nhà quản lý Qua đó, giúp họ đo lường, kiểm soát và đánh giá thành quả của từng trung tâm tài chính, cũng như xác định trách nhiệm của các nhà quản lý trong đơn vị.
Luận án phân tích thực trạng kế toán quản trị tại các doanh nghiệp sản xuất ô tô ở Việt Nam qua năm nội dung chính: nhận diện và xác định trách nhiệm kế toán tại từng trung tâm tính toán, lập dự toán, thu thập và xử lý thông tin thực hiện, báo cáo kế toán quản trị, và đánh giá thành quả tại các trung tâm tính toán Ngoài ra, luận án cũng làm rõ ảnh hưởng của các yếu tố đến việc áp dụng kế toán quản trị tại các doanh nghiệp này thông qua các phương pháp nghiên cứu tin cậy, kết hợp giữa nghiên cứu định tính và định lượng.
Luận án đã đưa ra các khuyến nghị nhằm tăng cường áp dụng kinh tế thị trường tại các doanh nghiệp sản xuất ô tô ở Việt Nam, dựa trên kết quả nghiên cứu.
DN sản xuất cùng loại hình
7 Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục bảng biểu sơ đồ, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án gồm 5 chương:
Chương 1: Tổng quan nghiên cứu và nhận diện khoảng trống nghiên cứu Chương 2: Cơ sở lý luận về kế toán trách nhiệm trong doanh nghiệp
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu
Chương 4: Kết quả nghiên cứu thực trạng kế toán trách nhiệm tại các DN sản xuất ô tô ở Việt Nam
Chương 5: Bàn luận và các khuyến nghị từ kết quả nghiên cứu
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VÀ NHẬN DIỆN KHOẢNG
Trong chương này, tác giả tổng hợp các nghiên cứu liên quan đến KTTN, một chủ đề thu hút sự chú ý của nhiều tác giả cả trong và ngoài nước Để phục vụ cho mục tiêu nghiên cứu, tác giả phân loại các công trình thành hai hướng chính: (i) Nghiên cứu về nội dung KTTN trong doanh nghiệp và (ii) Nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến KTTN trong doanh nghiệp Từ đó, tác giả xác định khoảng trống nghiên cứu cho đề tài.
1.1 Các nghiên cứu về nội dung kế toán trách nhiệm trong doanh nghiệp
1.1.1 Nội dung kế toán trách nhiệm trước năm 1965
Diemer và Hugo (1924) và Weger (1926) cho rằng KTTN được khởi xướng vào những năm 1920 Tuy nhiên, chỉ đến cuối những năm 1950 và đầu những năm
1960 KTTN mới phát triển nhanh chóng (Scapens và cộng sự, 1984; Zimnicki,
2016) Trong giai đoạn này, KTTN bao gồm những nội dung cơ bản sau:
Nhận diện và xác định trách nhiệm kế toán ở từng Trung tâm Tính toán Nội bộ (TTTN) là rất quan trọng Theo Higgins (1952), việc xác định các TTTN phải dựa vào sơ đồ tổ chức để đảm bảo tính chính xác và hiệu quả trong quản lý tài chính Các TTTN không chỉ giúp theo dõi và kiểm soát chi phí mà còn hỗ trợ trong việc ra quyết định chiến lược cho tổ chức.
Doanh nghiệp (DN) được phân chia thành ba loại trung tâm: trung tâm trách nhiệm chi phí (TTCP), trung tâm trách nhiệm doanh thu (TTDT) và trung tâm trách nhiệm lợi nhuận (TTLN) Theo Kellogg (1962), để thiết lập kế toán trách nhiệm nội bộ (KTTN), DN cần phân chia thành các bộ phận theo chức năng cụ thể Nghiên cứu của Gordon (1963) cho thấy quy trình thực hiện KTTN bắt đầu từ việc nhận diện các TTTN, tuy nhiên, Higgins (1952) chỉ công nhận hai loại TTTN là TTCP và TTLN Sau khi thiết lập các TTTN, DN cần giao quyền và trách nhiệm cho các trung tâm này (Kellogg, 1962), tập trung vào các bộ phận chức năng và cá nhân trong đơn vị (Hansen và Mowen, 2007) TTTN thường được xác định là một bộ phận trong tổ chức như nhà máy hoặc dây chuyền sản xuất, với KTTN giai đoạn này tập trung vào việc tối ưu hóa kết quả tài chính ở cấp đơn vị hoặc bộ phận của DN.
Trách nhiệm của người quản lý được xác định chủ yếu dựa trên khía cạnh tài chính, liên quan đến chi phí mà họ có quyền kiểm soát (Kellogg, 1962; Vlogel, 1962) Người quản lý chỉ chịu trách nhiệm với những khoản chi phí mà họ có ảnh hưởng đáng kể hoặc kiểm soát trực tiếp (Higgins, 1952) Ferrara (1964) cũng nhấn mạnh rằng quản đốc nhà máy chỉ chịu trách nhiệm với chi phí mà họ kiểm soát trực tiếp và gián tiếp thông qua cấp dưới Do đó, trong giai đoạn này, kiểm soát chi phí trở thành trọng tâm chính (Phillippe, 1959).
Lập dự toán ngân sách là điều kiện quan trọng để thực hiện Kinh tế tư nhân (KTTN) trong doanh nghiệp, yêu cầu các nhà quản trị tại mỗi trung tâm phải tham gia vào quá trình này (Higgins, 1952) Trong giai đoạn này, dự toán chủ yếu tập trung vào khía cạnh chi phí, vì vậy định mức chi phí và dự toán chi phí trở thành nội dung cốt lõi trong việc lập dự toán ngân sách tại doanh nghiệp (Kellogg, 1962; Scapens và cộng sự).
1984) Việc xây dựng dự toán chi phí được thiết lập cho từng bộ phận trong tổ chức (organizational unit budgets) và là dự toán tĩnh (Hansen và Mowen, 2007)
Theo Kellog (1962), việc thực hiện kiểm toán tài chính trong doanh nghiệp cần tuân theo các quy tắc tương tự như kế toán chi phí Điều này bao gồm việc xác định tài khoản kế toán để phản ánh các khoản mục chi phí, mỗi tài khoản đại diện cho một nhóm chi phí nhằm thuận lợi cho việc phân tích, và tất cả các khoản chi phí cần được ghi chép chi tiết theo trách nhiệm của từng bộ phận và cá nhân cụ thể.
Trong giai đoạn này, KTTN tập trung chủ yếu vào việc thu thập và xử lý thông tin từ TTCP, mà chưa đề cập đến các loại thông tin tài nguyên khác (Lương Thị Thanh Việt, 2018).