LÝ DO NGHIÊN CỨU
Chính sách tiền tệ nhằm giữ ổn định giá trị đồng tiền để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tạo việc làm, nhưng hội nhập tài chính gia tăng đang thách thức khả năng điều hành của các quốc gia Độc lập trong chính sách tiền tệ là vấn đề cốt lõi của nền kinh tế mở, theo lý thuyết Bộ ba bất khả thi, một quốc gia chỉ có thể chọn hai trong ba lựa chọn: cố định tỷ giá, độc lập chính sách tiền tệ và tự do di chuyển dòng vốn quốc tế Nếu không kiểm soát dòng vốn quốc tế trong khi giữ tỷ giá cố định, việc thực thi chính sách tiền tệ độc lập sẽ bị cản trở Nghiên cứu cho thấy hội nhập tài chính toàn cầu làm tăng sự biến động của điều kiện tài chính trong nước, khiến lãi suất ngắn hạn và dài hạn ngày càng tách rời Trong khi lãi suất ngắn hạn bị ảnh hưởng bởi chính sách tiền tệ trong nước, lãi suất dài hạn lại bị tác động bởi các yếu tố toàn cầu, làm cho việc kiểm soát lãi suất dài hạn trở nên khó khăn Sự không gắn kết giữa hai loại lãi suất này gây khó khăn trong quản lý ổn định tài chính và kinh tế vĩ mô.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa tài chính ngày càng gia tăng, Việt Nam đang tích cực mở cửa thị trường để thu hút nguồn vốn quốc tế, qua đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nội địa.
Hình 1.1 Tổng dòng vốn quốc tế của Việt Nam giai đoạn 2000 – 2019
Kể từ khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào năm 2007, dòng chảy vốn đầu tư đã tăng nhanh chóng Đồng thời, tỷ giá cũng được duy trì ở mức ổn định cao trong thời gian gần đây.
Theo báo cáo của IMF (2019), Việt Nam áp dụng cơ chế quản lý tỷ giá thả nổi có kiểm soát, với tỷ giá VND/USD ổn định trong biên độ 2% IMF phân loại tỷ giá hối đoái của Việt Nam là quản lý ổn định, thuộc hình thức neo mềm Sự kết hợp giữa việc điều hành tỷ giá chặt chẽ và xu hướng gia tăng hội nhập tài chính đang tạo ra thách thức đối với độc lập chính sách tiền tệ của Việt Nam.
Hình 1.2 Tỷ giá bình quân liên ngân hàng/ tỷ giá trung tâm (VND/USD) giai đoạn 2000 – 2019
Lãi suất ngắn hạn và dài hạn của Việt Nam đã có xu hướng di chuyển lệch nhau trong nhiều năm, cùng với sự gia tăng của dòng vốn quốc tế Quá trình thực thi chính sách tiền tệ trong một số năm cho thấy có khoảng cách lớn giữa kết quả đạt được và mục tiêu lạm phát đề ra Những diễn biến này đặt ra yêu cầu cần xem xét lại cơ chế truyền dẫn chính sách tiền tệ trong bối cảnh hội nhập tài chính ngày càng gia tăng.
Lãi suất VND liên ngân hàng qua đêm Lãi suất trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 10 năm
Hình 1.3 Lãi suất ngắn hạn và dài hạn Việt Nam giai đoạn 2009 - 2019
Nguồn: Datastream (2020) Các nghiên cứu có liên quan
Hội nhập tài chính có tác động đáng kể đến độc lập chính sách tiền tệ, như đã được nghiên cứu trong các tài liệu quốc tế Các nghiên cứu thường xem xét mối quan hệ này trong bối cảnh Bộ ba bất khả thi và các yếu tố liên quan như dự trữ ngoại hối Aizenman, Chinn & Ito (2008) đã phân tích sự liên kết giữa độc lập chính sách tiền tệ và hội nhập tài chính qua cơ chế tỷ giá và dự trữ ngoại hối của hơn 100 quốc gia trong giai đoạn 1970 - 2006 Họ đã phát triển bộ số liệu đo lường các yếu tố của Bộ ba bất khả thi, trong đó độc lập chính sách tiền tệ được đánh giá qua tương quan lãi suất ngắn hạn, ổn định tỷ giá được đo qua độ lệch chuẩn của tỷ giá cặp đồng tiền, và hội nhập tài chính được xác định dựa trên mức độ kiểm soát giao dịch vốn qua chỉ số độ mở tài khoản vốn (KAOPEN) Kết quả cho thấy tổng tỷ trọng của ba chỉ số này là một hằng số, nghĩa là sự gia tăng của một yếu tố sẽ dẫn đến sự giảm sút tổng tỷ trọng.
Nghiên cứu phân tích mối liên hệ giữa các biến chính sách và dư trữ ngoại hối trong nền kinh tế, chỉ ra rằng các quốc gia công nghiệp với tỷ giá ổn định và hội nhập tài chính cao thường có độc lập chính sách tiền tệ giảm và dư trữ ngoại hối thấp Ngược lại, các quốc gia đang phát triển duy trì mức độ độc lập nhất định nhờ vào tỷ giá thả nổi có quản lý và dư trữ ngoại hối lớn Nhiều nghiên cứu, như của Aizenman & ctg (2008) và các tác giả khác, cho thấy có sự đánh đổi giữa ba biến chính sách: khi hội nhập tài chính tăng và tỷ giá ổn định, độc lập chính sách tiền tệ giảm Để giữ độc lập chính sách tiền tệ cao, tỷ giá cần linh hoạt và kiểm soát dòng vốn quốc tế phải chặt chẽ Tuy nhiên, nghiên cứu hiện tại chưa làm rõ tác động trực tiếp của hội nhập tài chính và vai trò của dư trữ ngoại hối đối với độc lập chính sách tiền tệ.
Nhiều nghiên cứu đã nỗ lực đo lường tác động trực tiếp của chính sách tiền tệ trong mối quan hệ với hội nhập tài chính, cơ chế tỷ giá và dự trữ ngoại hối Một nghiên cứu tiêu biểu của Taguchi và cộng sự (2011) đã kiểm tra độc lập chính sách tiền tệ ở năm quốc gia châu Á: Thái Lan, Hàn Quốc, Indonesia, Philippines và Ấn Độ trong hai thập kỷ Kết quả cho thấy, Thái Lan, Hàn Quốc và Indonesia với cơ chế tỷ giá thả nổi đạt được mức độ độc lập chính sách tiền tệ cao hơn, trong khi độc lập chính sách tiền tệ của Ấn Độ giảm sút do áp dụng cơ chế neo tỷ giá và hội nhập tài chính gia tăng Hơn nữa, việc tích lũy dự trữ ngoại hối cũng đóng vai trò hỗ trợ nhất định trong việc duy trì độc lập chính sách tiền tệ của các quốc gia này.
Nghiên cứu của Klein & Shambaugh (2013) cho thấy rằng việc sử dụng lãi suất ngắn hạn trong nước dựa trên lãi suất nước ngoài có thể đo lường độc lập chính sách tiền tệ, với mức độ ổn định tỷ giá phụ thuộc vào cơ chế tỷ giá của từng quốc gia Kết quả chỉ ra rằng, ở các nước không kiểm soát vốn, lãi suất nhạy cảm hơn tại các quốc gia áp dụng cơ chế neo tỷ giá so với những nước thả nổi, trong khi các quốc gia có cơ chế neo mềm đạt mức độc lập chính sách tiền tệ trung bình Nghiên cứu của Aizenman & ctg (2016) mở rộng khái niệm độc lập CSTT với các công cụ lãi suất và tỷ giá, đồng thời chỉ ra rằng dự trữ ngoại hối đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ độc lập CSTT Hơn nữa, mối liên kết tài chính có tác động đáng kể đến nhạy cảm lãi suất, trong khi liên kết thương mại ảnh hưởng đến tỷ giá Theo nghiên cứu của Law, Tee & Ooi (2019), chỉ khi hội nhập tài chính vượt quá 13.64% GDP thì mới có ảnh hưởng tiêu cực đến độc lập chính sách tiền tệ, nhưng dự trữ ngoại hối lại giúp nâng cao mức độ độc lập này Đối với nền kinh tế Việt Nam, nghiên cứu về tác động của mối quan hệ này vẫn còn hạn chế, chủ yếu được xem xét qua sự đánh đổi giữa các biến trong bộ ba chính sách.
Hồng 2012; Phạm Thị Tuyết Trinh 2012; Tô Trung Thành 2012; Pham 2016; Ho &
Hội nhập tài chính tại Việt Nam chủ yếu được đo lường qua các chỉ số pháp lý như độ mở tài khoản vốn (KAOPEN), nhưng chỉ số này không phản ánh chính xác mức độ hội nhập thực tế hay kết quả thu hút vốn quốc tế Nghiên cứu của Ho & Ho (2018) đã áp dụng phương pháp thực để tính toán mức độ hội nhập tài chính, tuy nhiên, việc đo lường tổng tài sản và nợ phải trả so với sản lượng và xuất nhập khẩu vẫn không cho thấy được quy mô hội nhập tài chính của Việt Nam so với nền kinh tế.
Hội nhập tài chính toàn cầu không chỉ ảnh hưởng đến độc lập chính sách tiền tệ thông qua sự đánh đổi của Bộ ba bất khả thi, mà còn làm gia tăng quy mô dòng vốn quốc tế, dẫn đến tác động từ các yếu tố bên ngoài lên nền kinh tế trong nước Nhiều nghiên cứu gần đây, đặc biệt sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007-2008, đã chỉ ra rằng hội nhập tài chính đã làm cho điều kiện tài chính trong nước trở nên biến động hơn, phản ánh sự thay đổi của thị trường vốn quốc tế.
Cú sốc từ bên ngoài chủ yếu đến từ lãi suất của các nước trung tâm, đặc biệt là Mỹ, cùng với chính sách nới lỏng định lượng và các thông báo thay đổi chính sách tiền tệ Ngoài ra, rủi ro toàn cầu, được đo lường qua chỉ số biến động VIX, cũng góp phần tạo ra những tác động này.
Tại Việt Nam, nghiên cứu về quá trình và hiệu quả truyền dẫn chính sách tiền tệ (CSTT) chủ yếu tập trung vào sức mạnh truyền dẫn từ các công cụ chính sách và mục tiêu trung gian tới mục tiêu cuối cùng là sản lượng và giá cả (Le & Pfau 2009; Trần Ngọc Thơ & Nguyễn Hữu Tuấn 2013; Nguyen & Vo 2014; Anwar & Nguyen 2018) Tuy nhiên, các nghiên cứu hiện tại chưa chú trọng đủ vào tác động từ các nhân tố bên ngoài, đặc biệt là những yếu tố có vai trò quan trọng trong quá trình này.
Trong bối cảnh hội nhập tài chính toàn cầu, có 8 trò chơi đang gia tăng, bao gồm lãi suất dài hạn của Mỹ và các rủi ro toàn cầu Tuy nhiên, cần phải đánh giá hiệu quả của quá trình truyền dẫn từ chính sách đến các mục tiêu trung gian, cũng như xem xét ảnh hưởng của các yếu tố bên ngoài Việc này sẽ giúp xác định nguyên nhân khi hiệu quả truyền dẫn không đạt như mong đợi và những tác động không mong muốn khác.
Qua việc nghiên cứu các tài liệu trước đây về hội nhập tài chính và chính sách tiền tệ tại các quốc gia, cũng như ở Việt Nam, luận án đã chỉ ra những vấn đề chưa được làm rõ đối với nền kinh tế Việt Nam.
Thứ nhất, chưa có nghiên cứu đo lường một cách chi tiết về mức độ hội nhập tài chính thực của Việt Nam.
VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Trong bối cảnh toàn cầu hóa tài chính, Việt Nam đang mở cửa thị trường để thu hút vốn quốc tế và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nhưng vẫn cần thận trọng trước rủi ro từ biến động thị trường Câu hỏi đặt ra là liệu chính sách mở cửa thận trọng có mang lại phản ứng tích cực từ dòng vốn quốc tế hay không Hơn nữa, với cách điều hành tỷ giá hiện tại, liệu hội nhập tài chính có ảnh hưởng đến khả năng độc lập trong chính sách tiền tệ của Việt Nam? Dự trữ ngoại hối có thực sự hỗ trợ cho độc lập chính sách tiền tệ như nhiều nghiên cứu đã chỉ ra? Bên cạnh đó, dòng vốn lớn vào Việt Nam cũng đặt ra thách thức cho quá trình truyền dẫn của chính sách tiền tệ, liệu điều kiện tài chính trong nước có còn tuân theo chính sách tiền tệ hay bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi các yếu tố bên ngoài? Luận án sẽ tập trung vào việc giải quyết những vấn đề này.
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Mục tiêu chung của luận án là phân tích tác động của hội nhập tài chính đến chính sách tiền tệ tại Việt Nam, từ đó đề xuất giải pháp cho quá trình hội nhập tài chính và điều hành chính sách tiền tệ trong bối cảnh toàn cầu hóa tài chính gia tăng Luận án xác định các mục tiêu cụ thể nhằm đạt được mục tiêu này.
Mục tiêu thứ nhất là làm rõ tác động của hội nhập tài chính đến độc lập chính sách tiền tệ Việt Nam.
Mục tiêu thứ hai là làm rõ vai trò của các yếu tố bên ngoài trong quá trình truyền dẫn chính sách tiền tệ tại Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập tài chính toàn cầu.
Mục tiêu thứ ba đề xuất các chính sách nhằm thúc đẩy tiến trình hội nhập tài chính và quản lý chính sách tiền tệ của Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa tài chính ngày càng gia tăng.
CÂU HỎI NGHIÊN CỨU
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, luận án trả lời ba câu hỏi nghiên cứu sau.
Hội nhập tài chính có ảnh hưởng đến độc lập chính sách tiền tệ tại Việt Nam, với tác động này có thể được phân tích theo hai khía cạnh: ngắn hạn và dài hạn Cần xem xét mức độ ảnh hưởng của hội nhập tài chính đối với khả năng điều hành chính sách tiền tệ của Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Hai là, trong điều kiện HNTC, những nhân tố nào ở bên ngoài có vai trò trong truyền dẫn CSTT Việt Nam, chiều hướng và mức độ ảnh hưởng?
Ba là, giải pháp nào cho tiến trình hội nhập tài chính và điều hành chính sách tiền tệ
Việt Nam trong bối cảnh gia tăng toàn cầu hóa tài chính?
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, luận án áp dụng phương pháp định lượng với mô hình phân phối trễ tư hồi quy (ARDL) nhằm đo lường tác động giữa các biến Kết quả từ phương trình đồng liên kết sẽ cho thấy tác động dài hạn, trong khi phương trình hiệu chỉnh sai số sẽ cung cấp thông tin về tác động ngắn hạn.
Luận án kế thừa nghiên cứu của Aizenman và các cộng sự (2008) nhằm xem xét tác động trực tiếp của các biến số lên độc lập chính sách tiền tệ của các quốc gia Để đạt được điều này, luận án đã chuyển đổi phương trình tương tự của Taguchi và các cộng sự (2011) cùng với Law và các cộng sự (2019), từ đó đánh giá chi tiết hơn mức độ và chiều hướng tác động của các biến số đến độc lập chính sách tiền tệ Phương trình ước lượng được đề xuất trong luận án như sau:
Trong mô hình (1.1), các biến độc lập gồm chính sách tiền tệ (MI), hội nhập tài chính (IFI), ổn định tỷ giá (ES) và dư trữ ngoại hối (RES) được phân tích Tác động của hội nhập tài chính đến độc lập chính sách tiền tệ được thể hiện qua dấu và độ lớn của hệ số 1.
Phương trình (1.1) chỉ ra mối quan hệ giữa ổn định tỷ giá và dự trữ ngoại hối đối với độc lập chính sách tiền tệ của Việt Nam, thể hiện qua hệ số 2.
Phương pháp tính toán các biến trong mô hình tương tư Aizenman & ctg (2008) bao gồm việc đo lường độc lập CSTT qua chỉ số tương quan giữa lãi suất qua đêm trên thị trường liên ngân hàng Việt Nam và lãi suất Mỹ, ổn định tỷ giá tính bằng sai số chuẩn hàng quý của tỷ giá VND/USD, và dư trữ ngoại hối tính theo tỷ lệ phần trăm trên GDP Đối với mức độ HNTC, nghiên cứu áp dụng phương pháp thực của Lane & Milesti-Frerreti (2006), tính bằng tổng tích lũy tài sản và nợ phải trả từ FDI, FPI và vốn đầu tư khác, cũng theo tỷ lệ phần trăm trên GDP Giai đoạn nghiên cứu từ 2009Q1 – 2019Q2 được chọn để tránh ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính toàn cầu Để đạt mục tiêu nghiên cứu thứ hai, luận án sử dụng mô hình véc tơ tư hồi quy dạng cấu trúc (SVAR) nhằm đo lường phản ứng của lãi suất dài hạn Việt Nam đối với lãi suất dài hạn Mỹ, rủi ro toàn cầu (đo bằng chỉ số VIX), cùng với các yếu tố trong nước như lãi suất ngắn hạn, tăng trưởng sản lượng và lạm phát.
Mô hình nghiên cứu của Filardo & ctg (2016) và Jain – Chandra & Unsal (2014) được phân chia thành hai nhóm biến: nhóm các nhân tố trong nước là các biến nội sinh và nhóm các nhân tố tác động từ bên ngoài là các biến ngoại sinh.
� � = �(� 1,� , � 2,� ) (1.2) Các nhân tố được biểu diễn trong hai nhóm như sau:
� 1,� = �(I_VN_ON, I_VN_10Y, IP, IF) và � 2,� = �(I_US_10Y, VIX) (1.3)
Y1,t và Y2,t đại diện cho các nhân tố trong nước và bên ngoài, trong đó nhóm nhân tố trong nước bao gồm lãi suất ngắn hạn (I_VN_ON), lãi suất dài hạn (I_VN_10Y), thay đổi tăng trưởng sản lượng (IP) và thay đổi lạm phát (IF) tại Việt Nam Nhóm nhân tố bên ngoài bao gồm lãi suất dài hạn của Mỹ (I_US_10Y) và chỉ số rủi ro toàn cầu (VIX).
Kết quả đo lường được xác định qua việc phân tích hàm phản ứng và phân rã phương sai của lãi suất dài hạn tại Việt Nam, dựa trên các cú sốc từ biến trong nước và bên ngoài Để đạt được mục tiêu nghiên cứu thứ ba, luận án áp dụng phương pháp phân tích, so sánh và tổng hợp nhằm lựa chọn giải pháp phù hợp cho quá trình hội nhập tài chính và điều hành chính sách tiền tệ của Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa tài chính đang gia tăng.
Dữ liệu nghiên cứu được thu thập theo tần suất quý từ 2009Q1 đến 2019Q2 để phục vụ cho mục tiêu đầu tiên, trong khi tần suất tháng từ 2009M1 đến 2019M8 được sử dụng cho mục tiêu nghiên cứu thứ hai Đối với lãi suất và tỷ giá, dữ liệu được lấy theo ngày nhằm tính toán tương quan và độ lệch chuẩn theo quý.
Data is sourced from reputable global organizations, including the International Financial Statistics (IFS) of the International Monetary Fund (IMF), the Global Economic Monitor (GEM) of the World Bank (WB), the Asia Regional Integration Center (ARIC) of the Asian Development Bank (ADB), and Datastream data from Thomson Reuters.
14 giao dịch quyền chọn Chicago (Chicago Board Options Exchange); và trong nước,bao gồm Tổng cục thống kê, Ngân hàng Nhà nước (NHNN).
ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN
Luận án này tổng hợp các thước đo hội nhập tài chính, đặc biệt nhấn mạnh vào thước đo dựa trên kết quả thực tế, nhằm đánh giá mức độ hội nhập tài chính thực sự của Việt Nam Hiện tại, các nghiên cứu về hội nhập tài chính tại Việt Nam chủ yếu dựa vào các thước đo theo quy định pháp lý, trong khi việc đo lường dựa trên kết quả thực còn hạn chế Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng chưa chú trọng đến việc đánh giá sự khác biệt giữa các thước đo, điều này cần thiết để đưa ra kết quả chi tiết hơn cho nền kinh tế Việt Nam.
Luận án này tổng hợp và làm rõ lý thuyết về tác động của hội nhập tài chính đến độc lập chính sách tiền tệ, bắt đầu từ mô hình IS-LM trong nền kinh tế đóng cho đến mô hình Mundell-Fleming khi dòng vốn quốc tế được tự do di chuyển Đặc biệt, luận án phân tích ảnh hưởng của hội nhập tài chính đến quá trình truyền dẫn chính sách tiền tệ ở giai đoạn đầu, khi dòng vốn vào lớn dẫn đến những thay đổi trong chính sách tiền tệ và rủi ro từ bên ngoài, ảnh hưởng đến trung gian truyền dẫn chính sách tiền tệ trong nước, từ đó tác động đến kết quả điều hành chính sách tiền tệ của quốc gia.
Luận án này bổ sung kết quả đo lường mức độ hội nhập tài chính của Việt Nam, cập nhật đến cuối năm 2019 Nghiên cứu trước đây chưa cung cấp chỉ số này cho Việt Nam ở giai đoạn hiện tại Thêm vào đó, luận án so sánh để làm nổi bật sự khác biệt trong việc đo lường hội nhập tài chính, cho thấy sự gia tăng và thay đổi liên tục qua thời gian.
15 các năm trong khi hội nhập tài chính đo lương dựa trên quy định pháp lý (chỉ số KAOPEN) giữ nguyên trong suốt giai đoạn nghiên cứu.
Luận án cung cấp bằng chứng thực nghiệm về ảnh hưởng của hội nhập tài chính đến độc lập chính sách tiền tệ tại Việt Nam, điều mà các nghiên cứu trước đây chưa làm rõ Kết quả cho thấy hội nhập tài chính có tác động ngược chiều đến độc lập chính sách tiền tệ trong ngắn hạn Bằng chứng này sẽ hỗ trợ đánh giá tác động của hội nhập tài chính và định hướng điều hành chính sách tiền tệ phù hợp trong bối cảnh toàn cầu hóa tài chính ngày càng gia tăng.
Luận án phân tích vai trò của các nhân tố bên ngoài trong truyền dẫn chính sách tiền tệ Việt Nam trong bối cảnh hội nhập tài chính, đặc biệt là ảnh hưởng của lãi suất dài hạn Mỹ và rủi ro toàn cầu (VIX) Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng vai trò của các nhân tố bên ngoài ngày càng gia tăng đối với biến động lãi suất dài hạn tại Việt Nam, trong khi ảnh hưởng của các nhân tố nội địa đang giảm dần Những phát hiện này cung cấp cơ sở cho việc điều hành chính sách tiền tệ nhằm nâng cao hiệu quả đạt được mục tiêu trong môi trường toàn cầu hóa tài chính.
Thứ tư, giai đoạn nghiên cứu được cập nhật từ sau khủng hoảng tài chính toàn cầu
2008 -2009 nên có thể tránh được gãy cấu trúc ảnh hưởng đến độ chính xác của các hệ số đo lường.
CẤU TRÚC CỦA LUẬN ÁN
Chương 1 trình bày rõ ràng lý do và vấn đề nghiên cứu, xác định mục tiêu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đồng thời, chương này cũng mô tả phương pháp nghiên cứu, dữ liệu sử dụng, những đóng góp chính của luận án và cấu trúc tổng thể của tài liệu.
Chương 2 giới thiệu khung lý thuyết về hội nhập tài chính và chính sách tiền tệ, đồng thời phân tích tác động của hội nhập tài chính đối với chính sách tiền tệ Bài viết cũng tổng hợp các nghiên cứu trước đây liên quan đến việc đo lường ảnh hưởng của hội nhập tài chính đến tính độc lập của chính sách tiền tệ và các yếu tố bên ngoài có liên quan.
Nghiên cứu về 16 yếu tố ảnh hưởng đến việc truyền dẫn chính sách tiền tệ ở các quốc gia trên thế giới và Việt Nam đã chỉ ra những khoảng trống cần thiết cho việc lựa chọn mô hình, phương pháp và thực hiện nghiên cứu Những yếu tố này đóng vai trò quan trọng trong việc hiểu rõ cách thức mà chính sách tiền tệ được áp dụng và ảnh hưởng đến nền kinh tế.
Chương 3 cung cấp thông tin chi tiết về quy trình thực hiện nghiên cứu, mô hình nghiên cứu, lựa chọn phương pháp ước lượng và quy trình xử lý dữ liệu Chương này cũng làm rõ cách tính toán các biến và nguồn dữ liệu, từ đó phục vụ cho việc tiến hành thực nghiệm và trình bày kết quả trong chương tiếp theo.
Chương 4 trình bày kết quả đo lường mức độ hội nhập tài chính thực của Việt Nam và tác động của hội nhập tài chính đến độc lập chính sách tiền tệ Bên cạnh đó, chương cũng phân tích vai trò của các nhân tố bên ngoài trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ Việt Nam trong bối cảnh hội nhập tài chính Qua việc xem xét quá trình hội nhập tài chính và điều hành chính sách tiền tệ, chương so sánh kết quả nghiên cứu với các nghiên cứu trước đây và thảo luận về những phát hiện này ở phần cuối.
Chương 5 tóm tắt vấn đề nghiên cứu, mục tiêu và phương pháp thực hiện, đồng thời tổng hợp kết quả nghiên cứu Những kết quả này sẽ làm cơ sở gợi ý giải pháp cho quá trình hội nhập tài chính và điều hành chính sách tiền tệ tại Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa tài chính đang gia tăng như một xu thế tất yếu.
Trong chương 1, luận án trình bày tổng quan về lý do và vấn đề nghiên cứu, cùng với mục tiêu, câu hỏi nghiên cứu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu Bên cạnh đó, phương pháp nghiên cứu và dữ liệu cũng được đề cập, cùng với một tóm tắt về những đóng góp của nghiên cứu Cuối cùng, cấu trúc của luận án được giới thiệu một cách ngắn gọn.
NGHIÊN CỨU LÝ THUYẾT VÀ THỰC
Chương 2 sẽ trình bày lý thuyết về hội nhập tài chính, chính sách tiền tệ và tác động của hội nhập tài chính đối với độc lập chính sách tiền tệ cũng như truyền dẫn chính sách tiền tệ trong bối cảnh hội nhập Qua việc tổng hợp các nghiên cứu trước đây về ảnh hưởng của hội nhập tài chính đến độc lập chính sách tiền tệ và truyền dẫn chính sách tại các quốc gia, bao gồm Việt Nam, luận án sẽ chỉ ra những khoảng trống cần thiết cho việc lựa chọn mô hình, phương pháp và thực hiện nghiên cứu trong chương tiếp theo.
HỘI NHẬP TÀI CHÍNH
Khái niệm hội nhập tài chính
Hội nhập tài chính (HNTC) và toàn cầu hóa tài chính có mối liên hệ chặt chẽ, trong đó toàn cầu hóa tài chính đề cập đến sự gia tăng kết nối toàn cầu qua dòng chảy tài chính giữa các quốc gia HNTC phản ánh mối liên kết của một quốc gia với thị trường vốn quốc tế, và để thúc đẩy toàn cầu hóa, cần tăng cường HNTC ở các quốc gia (Prasad & ctg 2003) HNTC được hiểu là quá trình liên kết thị trường tài chính của một nền kinh tế với thị trường tài chính toàn cầu, dẫn đến gia tăng dòng vốn quốc tế và xu hướng cân bằng giá cả cũng như thu nhập của các tài sản tài chính (Brouwer 2005) Ngoài ra, HNTC bao gồm việc mở cửa thị trường tài chính trong nước, di chuyển vốn tự do qua biên giới và hội nhập các dịch vụ tài chính, với mục tiêu quốc tế hóa hệ thống tài chính và các tài sản tài chính của quốc gia (Pongsaparn & Unteroberdoerster 2011; Mougani 2012).
Trong luận án này, khái niệm HNTC (Hệ thống Ngân hàng Tài chính Quốc tế) và toàn cầu hóa tài chính được sử dụng thay thế cho nhau, tương tự như quan điểm của Prasad & ctg (2003), Brouwer (2005), Pongsaparn & Unteroberdoerster (2011) và Mougani (2012) HNTC đề cập đến mối liên kết giữa một quốc gia và thị trường tài chính quốc tế, từ đó tăng cường dòng chảy tài chính giữa các quốc gia và quy mô tài sản tài chính cũng như nợ phải trả của quốc gia đó.
Theo quan điểm ủng hộ HNTC, quá trình này là một bước đi cần thiết cho sự phát triển của quốc gia và vì vậy cần được chấp nhận Quan điểm này được thể hiện rõ ràng qua ý kiến của Fischer.
Sự lưu chuyển vốn tự do được cho là sẽ khuyến khích phân bổ nguồn tiết kiệm toàn cầu một cách hợp lý, giúp tối ưu hóa việc sử dụng tài nguyên và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cùng lợi ích xã hội tại các quốc gia Đặc biệt, HNTC hỗ trợ các nước đang phát triển tiếp cận thị trường tài chính toàn cầu, nâng cao hiểu biết và ứng dụng công nghệ tiên tiến thông qua chuyển giao công nghệ, đồng thời phát triển khu vực tài chính nội địa với sự tham gia của ngân hàng nước ngoài Điều này tạo động lực cho cải tiến hoạt động giám sát, tăng cường kỷ luật thị trường và đảm bảo tính nhất quán trong chính sách kinh tế vĩ mô.
Nhiều nghiên cứu cho thấy thị trường tài chính toàn cầu hóa dễ rơi vào trạng thái hỗn loạn và bị ảnh hưởng tiêu cực từ bên ngoài do mối liên kết chặt chẽ và chu kỳ tăng trưởng nóng dẫn đến đổ vỡ Mặc dù HNTC được coi là cần thiết cho tăng trưởng kinh tế, nhưng không phải quốc gia nào cũng tận dụng được lợi ích này, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển Thực tế, HNTC có thể đi kèm với những biến động gia tăng và dẫn đến khủng hoảng Dòng vốn tư do vào các quốc gia đang phát triển có thể gây hại cho sự phát triển của hệ thống tài chính nội địa, làm gia tăng biến động kinh tế vĩ mô do ảnh hưởng của dòng vốn từ bên ngoài.
Sự thâm nhập của ngân hàng nước ngoài không chứng minh được khả năng cải thiện hiệu quả kinh tế vĩ mô của hệ thống tài chính Trước những tranh cãi về lý thuyết vốn, Keynes đã chỉ trích các chính sách tự do hóa dòng vốn từ năm 1930, cho rằng chúng sẽ loại bỏ "không gian chính sách", tức là khả năng thực hiện các chính sách kinh tế trong nước nhằm tối đa hóa sản lượng và việc làm (Kregel 2008).
Các thành phần của dòng chảy tài chính quốc tế
Dòng chảy tài chính qua biên giới bao gồm vốn đầu tư trực tiếp (FDI), vốn đầu tư gián tiếp (FPI) và các loại vốn đầu tư khác Vốn FDI liên quan đến đầu tư từ bên ngoài với tỷ lệ góp vốn từ 10% trở lên, trong khi FPI bao gồm chứng khoán vốn và chứng khoán nợ Các dòng vốn này, đặc biệt là FDI và FPI, được xem là ổn định và ít bị đảo ngược, không chỉ cung cấp nguồn vốn mà còn mang lại lợi ích gián tiếp như chuyển giao công nghệ và kỹ năng quản lý Ngược lại, dòng chảy nợ gián tiếp thường liên quan đến các cuộc khủng hoảng ở các thị trường mới nổi do sai lệch về kỳ hạn và loại tiền trong nợ nước ngoài.
Dòng vốn đầu tư trực tiếp
Dòng vốn FDI là nguồn tài trợ quốc tế tư nhân quan trọng nhất cho các nền kinh tế thị trường mới nổi và đang phát triển, không chỉ gia tăng nguồn vốn trong nước mà còn nâng cao năng suất sản xuất Điều này đạt được thông qua việc áp dụng phương pháp sản xuất mới, đào tạo kỹ năng cho người lao động, và tạo ra sự cạnh tranh, giúp các doanh nghiệp sử dụng hiệu quả nguồn lực hiện có và mở rộng tiềm năng xuất khẩu.
Các quốc gia tiếp nhận FDI thường ít phải đối mặt với rủi ro đảo chiều dòng vốn đột ngột, vì loại hình đầu tư này có xu hướng ổn định hơn so với các loại dòng vốn khác.
Nhiều nghiên cứu thực nghiệm đã chứng minh lợi ích của dòng vốn FDI, mặc dù bằng chứng vẫn chưa hoàn toàn nhất quán Các nghiên cứu gần đây sử dụng phương pháp luận phức tạp và dữ liệu vi mô đã chỉ ra rằng FDI có khả năng thúc đẩy tăng trưởng mạnh mẽ hơn ở các nước đang phát triển so với các nước phát triển Tuy nhiên, FDI chỉ thực sự thúc đẩy tăng trưởng ở những nền kinh tế có điều kiện ban đầu tốt như nguồn nhân lực chất lượng cao, khu vực tài chính phát triển và chính sách thương mại tự do Lợi ích từ FDI cũng phụ thuộc vào khu vực đầu tư và mối tương tác với đầu tư trong nước, với FDI vào các khu vực trọng điểm có thể hạn chế tác động lan tỏa do liên quan đến các dự án lớn ít sử dụng hàng hóa trung gian trong nước Ngược lại, FDI vào lĩnh vực sản xuất thường có ảnh hưởng tích cực hơn đến tăng trưởng kinh tế nhờ mối liên kết chặt chẽ với phần còn lại của nền kinh tế Tác động lan tỏa năng suất từ doanh nghiệp nước ngoài đến doanh nghiệp trong nước còn phụ thuộc vào các yếu tố như trình độ nguồn nhân lực, mức độ cạnh tranh, khả năng áp dụng công nghệ mới, và các yếu tố thể chế, thương mại và chính sách đầu tư.
Dòng vốn chủ sở hữu đầu tư gián tiếp
Nghiên cứu của Bekaert, Harvey & Lundblad (2005) cho thấy tư do hóa thị trường chứng khoán có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế, với việc phân tích 95 quốc gia trong giai đoạn 1980-1997 cho thấy tăng trưởng kinh tế tăng khoảng một điểm phần trăm Tương tự, Li (2003) cũng chỉ ra rằng tư do hóa thị trường chứng khoán có thể dẫn đến tăng trưởng GDP tăng 0,6 điểm phần trăm khi sử dụng mẫu và phương pháp luận khác.
Việc tư do hóa thị trường chứng khoán có thể giúp giảm chi phí vốn, như được chỉ ra bởi nghiên cứu của Henry (2000a) trên 12 quốc gia thị trường mới nổi, cho thấy chỉ số giá cổ phiếu thường tăng mạnh trong những tháng trước khi tư do hóa diễn ra Điều này cho thấy mối liên hệ giữa tư do hóa và sự giảm chi phí vốn Hơn nữa, Bekaert & Harvey (2000) cũng đã phân tích và báo cáo rằng tỷ suất cổ tức có sự thay đổi tích cực sau khi tư do hóa, dẫn đến việc giảm chi phí vốn từ 5%.
Tư do hóa thị trường chứng khoán đã chứng minh là một yếu tố thúc đẩy tăng trưởng đầu tư, với nghiên cứu của Henry (2000b) cho thấy tỷ lệ tăng trưởng đầu tư tư nhân ở 9 trong 11 quốc gia thị trường mới nổi tăng mạnh trong năm đầu tiên sau khi tư do hóa Hơn nữa, tốc độ tăng trưởng trung bình của đầu tư tư nhân thực tế trong ba năm sau khi tư do hóa cao hơn 22 điểm phần trăm so với mức trung bình của mẫu Nghiên cứu của Alfaro & Hammel (2006) cũng chỉ ra rằng tư do hóa thị trường chứng khoán thúc đẩy nhập khẩu máy móc, từ đó gia tăng đầu tư thiết bị trong nước.
Nghiên cứu của Gupta & Yuan (2005) sử dụng dữ liệu từ 31 nền kinh tế thị trường mới nổi trong giai đoạn 1981-1998 cho thấy, sau khi tư do hóa, các ngành công nghệ phụ thuộc vào tài chính bên ngoài có mức tăng trưởng cao hơn, đặc biệt là các ngành có cơ hội tăng trưởng tốt hơn Hammel (2006) cung cấp thêm bằng chứng rằng, sau khi tư do hóa thị trường chứng khoán, các ngành này phát triển nhanh hơn ở các nước có tỷ lệ vốn hóa thị trường chứng khoán cao Chari & Henry (2004, 2005) cũng chỉ ra rằng tư do hóa thị trường chứng khoán làm giảm chi phí vốn chủ sở hữu và tăng đầu tư tại 11 quốc gia thị trường mới nổi Mitton (2006) lập luận rằng tư do hóa này giúp các công ty tiếp cận kênh tài chính mới, từ đó tăng cơ hội đầu tư và tăng trưởng Hơn nữa, các nhà đầu tư nước ngoài thường yêu cầu tiêu chuẩn quản trị cao hơn, điều này có thể mang lại tác động tích cực đến lợi nhuận và hiệu quả hoạt động.
Nghiên cứu thực nghiệm của Mitton chỉ ra rằng các công ty cho phép nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào cổ phiếu của họ thường ghi nhận mức tăng trưởng doanh số, đầu tư và hiệu quả cao hơn, đồng thời có tỷ lệ đòn bẩy thấp hơn.
Dòng vốn nợ gián tiếp và nợ khác
Dòng chảy nợ, bao gồm vốn FPI qua trái phiếu và các khoản vay ngân hàng thương mại, mang lại rủi ro lớn nhất khi mở cửa tài chính Rủi ro này xuất phát từ việc phân bổ vốn không hiệu quả nếu thiếu giám sát từ các ngân hàng trong nước Hơn nữa, dòng chảy nợ có tính biến động cao hơn so với các loại vốn khác và dễ dàng bị đảo ngược trong thời kỳ khủng hoảng.
Wei (2006) cho rằng các nước phụ thuộc nhiều vào dòng nợ FPI và khoản vay ngân hàng có nguy cơ cao gặp phải sự đảo ngược đột ngột dòng vốn quốc tế, đặc biệt là trong bối cảnh suy thoái kinh tế Các khoản vay ngắn hạn có tính chu kỳ, thường gia tăng trong thời kỳ tăng trưởng và giảm nhanh khi kinh tế suy thoái (WB 2000), dẫn đến tác động tiêu cực lên tăng trưởng kinh tế Nghiên cứu cho thấy mối liên hệ giữa nợ ngắn hạn và khả năng xảy ra khủng hoảng tài chính, với mức nợ nước ngoài ngắn hạn bằng ngoại tệ cao làm tăng tính dễ bị tổn thương (Berg, Borenzstein & Patillo 2004) Rodrik & Velasco (2000) cũng chỉ ra rằng tỷ lệ nợ ngắn hạn trên dư trữ là yếu tố dự báo chính xác khủng hoảng tài chính, với các quốc gia có nợ ngắn hạn lớn hơn dư trữ có nguy cơ cao bị đảo ngược dòng vốn Nghiên cứu cho thấy mức độ nghiêm trọng của khủng hoảng càng tăng khi tỷ lệ nợ ngắn hạn gia tăng.
Mặc dù dòng nợ ngắn hạn có nhiều rủi ro, việc cấm chúng không phải lúc nào cũng mang lại lợi ích Theo Diamond & Rajan (2001), các ngân hàng ở nước đang phát triển thường phải sử dụng nợ ngắn hạn để tạo thanh khoản cho các dự án đầu tư kém chất lượng Điều này cho thấy rằng sự dễ bị tổn thương của các quốc gia này trước khủng hoảng tài chính không chỉ do nợ ngắn hạn, mà còn do thanh khoản kém và chất lượng dự án Ngay cả khi một quốc gia thiếu vốn và khó tiếp cận vốn chủ sở hữu hoặc FDI, dòng nợ vẫn có thể hỗ trợ đầu tư, mặc dù rủi ro cao hơn Jeanne (2003) cũng nhấn mạnh rằng nợ ngắn hạn có thể thúc đẩy các cam kết, từ đó cải thiện chính sách kinh tế vĩ mô, mặc dù nó có thể làm tăng tính dễ bị tổn thương của nền kinh tế trước cú sốc bên ngoài.
Thước đo hội nhập tài chính
Mức độ hội nhập tài chính quốc tế (HNTC) của một quốc gia có thể được đánh giá qua ba loại thước đo chính: (i) thước đo dựa trên quy định pháp lý của quốc gia đối với các dòng chảy tài chính qua biên giới (de jure measures), (ii) thước đo dựa trên kết quả HNTC thực tế (de facto measures), và (iii) thước đo kết hợp (hybrid measures) (Quinn & ctg 2011).
2.1.3.1 Thước đo dựa trên quy định pháp lý
Thước đo HNTC dựa trên quy định pháp lý (de jure measures) đánh giá mức độ rào cản pháp lý đối với dòng chảy tài chính xuyên biên giới tại các quốc gia Nguồn thông tin chủ yếu cho các chỉ số này là Báo cáo thường niên của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) về các quy định quản lý ngoại hối, được gọi là AREAER Kể từ năm 1950, AREAER đã cung cấp thông tin về các quy định mà các quốc gia áp dụng để quản lý giao dịch vốn, giao dịch vãng lai, và thu nhập từ những giao dịch này, đồng thời bổ sung báo cáo dạng bảng để cung cấp cái nhìn rõ ràng hơn về các quy định hiện hành.
Bài viết đề cập đến 25 giới hạn trong hoạt động thanh toán liên quan đến giao dịch vốn và giao dịch vãng lai Mặc dù các chỉ số dựa trên bảng dễ sử dụng, nhưng chúng chỉ phản ánh độ bao phủ của quy định pháp lý mà không thể hiện mức độ nghiêm ngặt của các kiểm soát tài chính Để khắc phục nhược điểm này, báo cáo AREAER dưới dạng chữ được thiết kế nhằm đo lường mức độ nghiêm ngặt của các kiểm soát đối với hoạt động tài chính xuyên biên giới.
Grilli & Milesi-Ferretti (1995) là những người tiên phong trong việc sử dụng chỉ số nhị phân từ báo cáo AREAER, nhưng chỉ số này chỉ phản ánh một cách đơn giản độ mở tài khoản vốn của quốc gia mà không cung cấp thông tin chi tiết về các biện pháp kiểm soát vốn (Schindler 2009) AREAER sau đó đã bổ sung ba biến nhị phân về tính mở tài khoản vãng lai, yêu cầu kết hối từ xuất khẩu và sự tồn tại của cơ chế đa tỷ giá Mody & Murshid (2005) đã mở rộng bốn biến này đến năm 1999 và tính tổng của chúng như một chỉ số HNTC, trong khi Grilli & Milesi-Ferretti (1995) xem xét chúng một cách riêng biệt Chinn & Ito (2008) tiếp tục mở rộng bốn biến này cho 182 quốc gia đến năm 2006 và áp dụng phương pháp các thành phần chính để tổng hợp Chỉ số Chinn-Ito (KAOPEN) đã trở thành công cụ phổ biến trong nghiên cứu về độ mở tài khoản vốn, được tính toán dựa trên thông tin về giới hạn giao dịch vãng lai, giao dịch vốn, yêu cầu kết hối và sự tồn tại của hình thức đa tỷ giá, cho thấy độ mở càng lớn.
Bekaert, Harvey & Lundblad (2005) đã nghiên cứu các đợt tư do hóa tại 42 quốc gia từ 1960 đến 2006, trong khi Edison & Warnock (2003) tập trung vào các hạn chế vốn chủ sở hữu ở 29 quốc gia từ 1989 đến 2006 với tần suất hàng tháng, đo lường phần vốn hóa thị trường mở cho đầu tư nước ngoài Nghiên cứu của IMF về cải cách cơ cấu sử dụng chỉ số thay thế của Quinn (1997) (Ostry, Prati & Spilimbergo).
Một phiên bản cập nhật vào năm 2009 đã bao gồm dữ liệu từ 94 quốc gia trong giai đoạn 1950–2005, cho phép đánh giá hiệu quả của các biện pháp kiểm soát bằng cách xếp hạng các công cụ kiểm soát khác nhau dựa trên tầm quan trọng kinh tế của chúng.
Thước đo HNTC dựa trên quy định pháp lý nhằm xem xét ý định chính sách của các quốc gia đối với dòng vốn xuyên biên giới, nhưng có một số hạn chế Đầu tiên, việc đo lường chỉ dựa vào quy định pháp lý mà không phản ánh thực tế thực thi của các quy định này Thứ hai, thước đo không thể hiện chính xác mức độ HNTC thực sự của một quốc gia; như nghiên cứu của Aricca và các cộng sự (2008) đã chỉ ra, nhiều quốc gia có tài khoản vốn tương đối đóng vẫn duy trì mức HNTC cao qua nhiều năm.
2.1.3.2 Thước đo dựa trên kết quả thực
Thước đo HNTC (Hệ thống tài chính quốc tế) dựa trên kết quả thực tế đánh giá mức độ hội nhập tài chính của một quốc gia với thị trường tài chính toàn cầu Có hai loại thước đo: đo lường dựa trên lượng và đo lường dựa trên giá Đo lường dựa trên lượng liên quan đến khái niệm HNTC và sự luân chuyển vốn qua biên giới, tính toán chi tiết quy mô các giao dịch tài chính Trong số các phương pháp này, chỉ số HNTC do Lane & Milesi-Ferretti (2006) phát triển là phương pháp được sử dụng phổ biến nhất.
Chỉ số HNTC được tính bằng tỷ lệ phần trăm của tổng giá trị tích lũy tài sản nợ và tài sản có nước ngoài trên GDP, bao gồm vốn FPI, FDI, nợ, phái sinh tài chính và dự trữ ngoại hối (ctg 2011) Lane & Milesi-Ferretti (2006) không chỉ xem xét chỉ số tổng thể mà còn phân tích các chỉ số HNTC hẹp hơn, tập trung vào vốn FDI hoặc độ mở tài chính tư nhân, loại trừ viện trợ chính thức và dự trữ quốc tế để đo lường các khía cạnh khác nhau Công thức đo lường HNTC theo Lane & Milesi-Ferretti (2006) được xây dựng nhằm cung cấp cái nhìn chi tiết hơn về tình hình tài chính quốc gia.
Trong đó, �� (��) là giá trị tích lũy của tài sản (nợ phải trả) nước ngoài.
Chỉ số HNTC tổng thể của nền kinh tế được cung cấp nhằm đánh giá tỷ trọng của các công cụ vốn chủ sở hữu Theo Lane & Milesi-Ferretti (2006), chỉ số này được tính toán ở góc độ hẹp hơn, tập trung vào vốn FPI chủ sở hữu và vốn FDI.
FPI (Đầu tư gián tiếp nước ngoài) đại diện cho giá trị tích lũy của tài sản và nợ phải trả của vốn chủ sở hữu Trong khi đó, FDI (Đầu tư trực tiếp nước ngoài) phản ánh giá trị tích lũy của tài sản và nợ phải trả liên quan đến vốn FDI.
Lane và Milesi-Ferretti (2006) đã phát triển một chỉ số để đánh giá mức độ phụ thuộc vào tài trợ dựa trên nợ và nợ dựa trên vốn chủ sở hữu, nhằm xem xét cấu trúc vốn nước ngoài.
Nhiều nghiên cứu đánh giá mức độ hội nhập tài chính quốc tế (HNTC) dựa trên quy mô dòng chảy, nhưng phương pháp này thường biến động và không phản ánh chính xác thực trạng HNTC của quốc gia Đo lường dựa trên giá thực chất kiểm nghiệm giả thuyết Luật một giá, sử dụng các chỉ số so sánh tỷ lệ lợi nhuận của tài sản tương đương giữa các nền kinh tế Các nghiên cứu thường dựa vào ngang giá lãi suất để kiểm tra sự hội nhập thị trường tài chính, xem xét chênh lệch lãi suất và đồng di chuyển doanh thu tài sản tài chính Hầu hết các thước đo này giả định rằng chênh lệch giá giữa các quốc gia sẽ biến mất trong các nền kinh tế hội nhập, nhưng thực tế, nếu chênh lệch giá do hoạt động kinh doanh chênh lệch giá không hiệu quả, kết quả đo lường sẽ không phản ánh đúng mức độ HNTC của quốc gia.
Thước đo kết hợp (hybrid measures) kết hợp giữa các chỉ số pháp lý và kết quả thực tế, như chỉ số độ mở tài khoản vốn do Edison & Warnock (2003) phát triển Chỉ số này tính toán độ mở tài khoản vốn hàng tháng dựa trên tỷ trọng vốn trong nước dành cho nhà đầu tư nước ngoài, phản ánh các giới hạn pháp lý qua lượng vốn mở cho họ Tương tự, chỉ số toàn cầu hóa kinh tế theo phương pháp của Dreher (2006) cũng sử dụng thước đo kết hợp để đánh giá quy mô dòng chảy thực của các thành phần thương mại, FDI và FPI vốn chủ sở hữu.
Bài báo cáo AREAER nêu rõ 13 loại mã nhị phân cùng với các chỉ số về mức thuế trung bình, rào cản nhập khẩu và thuế thương mại quốc tế Tuy nhiên, các chỉ số này thường chỉ xem xét HNTC như một yếu tố trong bức tranh hội nhập kinh tế tổng thể, dẫn đến việc không đánh giá chi tiết mức độ HNTC của từng quốc gia.