1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

TIỂU LUẬN LSĐ Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam

31 296 2

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 31
Dung lượng 65,23 KB

Cấu trúc

  • Chương 1: Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam 4 (4)
    • 1.1 Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam 4 (4)
      • 1.1.1 Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam 4 (5)
        • 1.1.1.1 Sự chuyển biến của phong trào yêu nước Việt Nam, các tổ chức cộng sản ra đời 4 (5)
        • 1.1.1.2. Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam 6 (6)
      • 1.1.2 Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng 7 (7)
    • 1.2 Sự lãnh đạo và nắm bắt thời cơ tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam dẫn tới thành công của Cách mạng tháng Tám năm 1945 lịch sử. 9 (9)
      • 1.2.1 Bối cảnh lịch sử 9 (9)
      • 1.2.2. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng đã dẫn tới thành công Cách mạng tháng Tám năm 1945. 10 (10)
    • 1.3 Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân xây dựng, bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ - Đường lối của Đảng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954) 13 (13)
      • 1.3.1. Đường lối kháng chiến toàn quốc đúng đắn của Đảng và quá trình tổ chức thực hiện từ năm 1946 đến năm 1950 13 (13)
        • 1.3.1.1 Đường lối kháng chiến toàn quốc đúng đắn của Đảng 13 (13)
        • 1.3.1.2 Đảng tổ chức, chỉ đạo cuộc kháng chiến từ năm 1947 đến năm 1950 15 (15)
      • 1.3.2 Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân ta, đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi ( 1951 - 1954 ) 16 (16)
  • Chương 2: Trách nhiệm của sinh viên đối với việc bảo vệ Đảng hiện nay 25 (25)
    • 2.1. Sinh viên cần tích cực tham gia các hoạt động của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và Hội Sinh viên trong các học viện, nhà trường. 26 (26)
    • 2.2. Mỗi sinh viên cần tăng cường học tập Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. 26 (26)
    • 2.3. Không ngừng trau dồi, học hỏi, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng về việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. 26 (26)
    • 2.4. Phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo, ý thức trách nhiệm của sinh viên trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng 26 (27)
    • 2.5. Tích cực xây dựng lực lượng nòng cốt trong sinh viên. 27 (27)
    • 2.6. Là những sinh viên sống trong thời đại 4.0 phải biết tận dụng các phương tiện truyền thông để bảo vệ Đảng 27 (28)

Nội dung

Tiểu luận nói về sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi cách mạng, và trách nhiệm của sinh viên trong việc bảo vệ Đảng hiện nay. Đây là một bài tiểu luận cực kì hay và chi tiết về đề tài này. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam là việc làm hết sức quan trọng đối với lớp trẻ và đặc biệt là sinh viên Việt Nam, những người chủ tương lai của đất nước để thấy được công lao to lớn của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam và sự nghiệp xây dựng , bảo vệ dân tộc Việt Nam.Từ đó giúp lớp trẻ ngày nay thấy được trách nhiệm của mình trong việc xây dựng và bảo vệ đảng ,cũng như thấy được trách nhiệm phải góp phần xây dựng và bảo vệ nền độc lập dân tộc mà nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam đã đỗ bao xương máu mới giành được. Chính vì thế, để nhắc nhớ công lao to lớn ấy một lần nữa và đào sâu nghiên cứu về trách nhiệm của mỗi sinh viên, em quyết định chọn đề tài “ Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam và trách nhiệm của sinh viên đối với việc bảo vệ Đảng hiện nay “ để nghiên cứu viết đề tài tiểu luận.

Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam 4

Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam 4

1.1.1 Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam

1.1.1.1 Sự chuyển biến của phong trào yêu nước Việt Nam, các tổ chức cộng sản ra đời

Nguyễn Ái Quốc đã nỗ lực truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, qua đó thúc đẩy phong trào yêu nước theo khuynh hướng cách mạng vô sản Những hoạt động tích cực của các cấp bộ trong tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên trên toàn quốc đã nâng cao ý thức giác ngộ và lập trường cách mạng của giai cấp công nhân Kết quả là phong trào công nhân đã bùng nổ mạnh mẽ và sôi nổi trên khắp ba kỳ.

Trong giai đoạn 1928-1929, số lượng cuộc đấu tranh của công nhân đã tăng lên tới 40 cuộc, gấp 2,5 lần so với hai năm trước đó Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào công nhân, nông dân và các tầng lớp thị dân đã tạo ra nhu cầu cấp thiết về tổ chức và lãnh đạo Điều này dẫn đến yêu cầu thành lập một chính đảng cách mạng có khả năng tập hợp lực lượng dân tộc và đảm nhận vai trò lãnh đạo trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, trở thành một vấn đề bức xúc đối với cách mạng Việt Nam thời bấy giờ.

Vào năm 1929, trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng Việt Nam, tổ chức Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên không còn đủ sức lãnh đạo Để đối phó với tình hình này, vào tháng 3-1929, các lãnh đạo Kỳ bộ Bắc Kỳ đã họp tại Hà Nội và quyết định thành lập Chi bộ Cộng sản đầu tiên tại Việt Nam Ngày 17-6-1929, khoảng 20 đại biểu từ các tổ chức cộng sản ở Bắc Kỳ đã họp tại Hà Nội, quyết định thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng, thông qua Tuyên ngôn và Điều lệ, lấy cờ đỏ búa liềm làm Đảng kỳ và quyết định xuất bản báo Búa liềm làm cơ quan ngôn luận.

Trước tác động của Đông Dương Cộng sản Đảng, nhiều thanh niên yêu nước tại Nam Kỳ đã theo đuổi xu hướng cộng sản và tổ chức các chi bộ cộng sản Vào tháng 11, các hoạt động này ngày càng gia tăng, thể hiện sự phát triển mạnh mẽ của phong trào.

Năm 1929, An Nam Cộng sản Đảng được thành lập tại Khánh Hội, Sài Gòn dựa trên các chi bộ cộng sản ở Nam Kỳ, công bố Điều lệ và quyết định phát hành Tạp chí Bônsơvích.

Tại Trung Kỳ, Tân Việt Cách mạng đảng, một tổ chức thanh niên yêu nước với sự tham gia của Trần Phú và Nguyễn Thị Minh Khai, đã chịu ảnh hưởng sâu sắc từ Hội Việt Nam.

Cách mạng thanh niên đã hướng tới con đường cách mạng vô sản Vào tháng 9 năm 1929, các thành viên tiên tiến của Tân Việt cách mạng đảng đã tổ chức cuộc họp để thảo luận về việc thành lập Đông.

1 Ngô Văn Hòa, Dương Kinh Quốc: Giai cấp công nhân Việt Nam những năm trước khi thành lập Đảng, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1978, trang 335.

Vào cuối tháng 12 năm 1929, tại Đại hội các đại biểu liên tỉnh do đồng chí Nguyễn Xuân Thanh tổ chức ở ga Chợ Thượng, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh, các đại biểu đã thống nhất quyết định bỏ tên gọi Tân Việt và đổi tên thành Đông Dương Cộng sản Liên đoàn Tuy nhiên, trong quá trình di chuyển đến địa điểm mới để tránh bị lộ, các đại biểu đã bị địch bắt vào sáng ngày 1 tháng 1 năm 1930.

Cuối tháng 12 năm 1929 đánh dấu thời điểm hoàn tất quá trình thành lập Đông Dương Cộng sản liên đoàn, khởi nguồn từ sự kiện công bố Tuyên ngôn vào tháng 9 năm 1929.

Sự ra đời ba tổ chức cộng sản trên cả nước diễn ra trong vòng nửa cuối năm

Năm 1929 đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ của phong trào công nhân và yêu nước Việt Nam theo hướng cách mạng vô sản Sự ra đời của ba tổ chức cộng sản ở ba miền tuyên bố ủng hộ Quốc tế Cộng sản và mong muốn được công nhận, nhưng điều này dẫn đến tình trạng phân tán lực lượng và thiếu thống nhất trong tổ chức trên toàn quốc.

Trước tình hình phong trào công nhân và nông dân đang phát triển mạnh mẽ, tài liệu của Quốc tế Cộng sản ngày 27-10-1929 nhấn mạnh sự thiếu vắng một Đảng Cộng sản duy nhất ở Đông Dương là mối nguy hiểm cho tương lai cách mạng Do đó, nhiệm vụ cấp bách của các cộng sản Đông Dương là thành lập một Đảng Cộng sản mang tính chất giai cấp của giai cấp vô sản, với tính chất quần chúng và trở thành tổ chức duy nhất tại Đông Dương.

1.1.1.2 Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam Đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn cách mạng, ngày 17/6/1929, Kỳ Bộ Bắc Kỳ Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên đã thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng tại Hà Nội Tháng 11/1929, các đồng chí Tổng bộ và Kỳ Bộ Nam Kỳ của Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên quyết định thành lập An Nam Cộng sản Đảng Ngày 1/1/1930, những đại biểu ưu tú của Tân Việt cách mạng Đảng (một tổ chức tiền thân của Đảng) đã họp và thành lập Đông Dương Cộng sản Liên Đoàn ở Trung Kỳ Tuy nhiên ở một nước có tới ba tổ chức cộng sản nên không tránh khỏi sự phân tán về lự c lượng và tổ chức, không thể thống nhất về tư tưởng và hành động Trách nhiệm lịch sử là phải thành lập một Đảng Cộng sản duy nhất, chấm dứt tình trạng chia rẽ phong trào Cộng sản ở Việt Nam

2 Lịch sử biên niên Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tập 1, trang 319.

3 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tập

Từ ngày 6/1 đến 7/2/1930, Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản tại bán đảo Cửu Long, Hồng Kông, do đồng chí Nguyễn Ái Quốc chủ trì, đã quyết định thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam Tại hội nghị, đồng chí Nguyễn Ái Quốc nhấn mạnh 5 điểm quan trọng, trong đó có việc tự phê bình và phê bình, nhằm thống nhất các nhóm cộng sản Đông Dương Hội nghị đã nhất trí thành lập một đảng mang tên Đảng Cộng sản Việt Nam và thông qua các văn kiện quan trọng như Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt và Lời kêu gọi gửi đến công nhân, nông dân, binh lính, thanh niên, học sinh và đồng bào bị áp bức Những văn kiện này phản ánh nội dung cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, đánh dấu ý nghĩa lịch sử của hội nghị như một Đại hội thành lập Đảng.

1.1.2 Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng

Cương lĩnh chính trị là văn kiện quan trọng, xác định mục tiêu, đường lối, nhiệm vụ chiến lược và phương pháp hoạt động của một chính đảng trong một giai đoạn lịch sử nhất định Nó thống nhất ý chí và hành động của toàn Đảng, đồng thời là ngọn cờ tập hợp các lực lượng xã hội hướng tới mục tiêu cách mạng Là văn bản cao nhất của Đảng, cương lĩnh có tính chiến lược lâu dài, định hướng cho sự nghiệp cách mạng của đất nước Hai văn kiện do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, gồm Chánh cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt, đã phản ánh những nội dung cơ bản về đường lối chiến lược và sách lược cách mạng Việt Nam, đánh dấu cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.

Cương lĩnh của Đảng xác định mục tiêu chiến lược của cách mạng Việt Nam là thực hiện tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng để tiến tới xã hội cộng sản Mục tiêu này làm rõ nội dung cách mạng thuộc địa trong bối cảnh cách mạng vô sản, liên kết giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp và con người, đồng thời gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội Qua đó, chiến lược phát triển cách mạng Việt Nam, một nước thuộc địa nửa phong kiến, hướng tới việc giải phóng dân tộc, giành độc lập và ruộng đất cho người cày, đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.

Sự lãnh đạo và nắm bắt thời cơ tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam dẫn tới thành công của Cách mạng tháng Tám năm 1945 lịch sử 9

Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 là một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử Việt Nam, khi nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đứng lên chống lại ách thống trị của thực dân Pháp và phát xít Nhật, đồng thời chấm dứt hàng nghìn năm chế độ quân chủ Sự kiện này không chỉ giành lại quyền làm chủ đất nước mà còn mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do và Chủ nghĩa xã hội Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong việc chuẩn bị lực lượng là yếu tố quyết định cho thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, khẳng định tầm quan trọng của sự lãnh đạo chính trị trong các cuộc đấu tranh giành độc lập.

1.2.1 Bối cảnh lịch sử Đến tháng 8-1945, ở Việt Nam tình thế khách quan vô cùng thuận lợi xuất hiện. Thực hiện lời cam kết ở Hội nghị Yanta, ngày 8-8-1945, Liên Xô tuyên chiến với Nhật, quân đội Liên Xô tấn công đội quân Quan Đông tinh nhuệ nhất gồm hơn 1 triệu quân của Nhật ở Đông Bắc Trung Quốc Bên cạnh việc quân đội Liên Xô tiến đánh quân đội Nhật thì Mỹ ném hai quả bom nguyên tử xuống Hirôsima ngày (6-8-1945) và Nagadaki ngày (9-8-1945) Trước sức mạnh của đồng minh, ngày 11-8-1945 Chính

Vào năm 1998, trong tập 2 của "Văn kiện Đảng Toàn tập" do Nxb Chính trị quốc gia xuất bản, trang 4-6, ghi nhận rằng chính phủ Nhật Bản đã gửi thông điệp tới Liên Xô, Mỹ và các nước Đồng minh, yêu cầu chấp nhận đầu hàng vô điều kiện Lãnh tụ Hồ Chí Minh đã dự đoán rằng đây sẽ là cơ hội quý báu cho nhân dân Việt Nam thực hiện tổng khởi nghĩa.

Thời cơ khởi nghĩa đã đến vào tháng 8 năm 1945, không chỉ ở Việt Nam mà còn ở nhiều nước Đông Nam Á bị Nhật Bản chiếm đóng Mặc dù các nước này có điều kiện thuận lợi tương tự như Việt Nam, họ không tận dụng được cơ hội để khởi nghĩa, dẫn đến thành quả không đáng kể do lực lượng chưa được chuẩn bị đầy đủ và Đảng chưa nắm quyền lãnh đạo cách mạng Chỉ riêng Việt Nam, từ khi Đảng thành lập năm 1930 đến năm 1945, đã từng bước chuẩn bị lực lượng và kịp thời chớp lấy thời cơ, lãnh đạo nhân dân giành thắng lợi trong Tổng khởi nghĩa.

1.2.2 Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng đã dẫn tới thành công Cách mạng tháng Tám năm 1945 Đảng đã vận dụng đúng đắn chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, ra sức và tích cực chuẩn bị lực lượng để đón thời cơ giành thắng lợi chứ không khoanh tay chờ thời một cách bị động Sự lãnh đạo tích cực của Đảng trong việc chuẩn bị lực lượng chờ thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền, được thể hiện trên

Một là, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quần chúng nhân dân được chuẩn bị mọi mặt sẵn sàng nổi dậy khởi nghĩa khi thời cơ đến

Quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng tiến hành cao trào cách mạng

Cuộc tổng diễn tập đầu tiên cho Cách mạng tháng Tám diễn ra từ 1930 đến 1931, đánh dấu bước thắng lợi quyết định trong tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam, mặc dù phải đối mặt với sự đàn áp tàn bạo từ đế quốc và tay sai Sự lãnh đạo của Đảng và khối liên minh công nông đóng vai trò chiến lược trong việc đảm bảo thành công cho cách mạng Cao trào dân chủ từ 1936 đến 1939 tiếp tục là cuộc tổng diễn tập thứ hai, trong khi cuộc vận động giải phóng dân tộc từ 1939 đến 1945 là giai đoạn chuẩn bị trực tiếp cho thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám Đặc biệt, trong thời kỳ kháng Nhật, chỉ thị “Nhật pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” vào ngày 12/3/1945 đã dẫn đến sự phát triển mạnh mẽ của các cuộc khởi nghĩa, diễn ra đồng thời ở nhiều nơi Trong giai đoạn tiền khởi nghĩa, nhân dân Việt Nam, đặc biệt là các tổ chức Cứu quốc, đã sẵn sàng hy sinh để giành độc lập và quyết tâm chiến đấu.

Đảng đã tích cực vận động và thu hút các tầng lớp trung gian, bao gồm tiểu tư sản, tư sản dân tộc và những nhân sĩ yêu nước trong giai cấp địa chủ, nhằm ủng hộ cách mạng.

Trong thời kỳ Cách mạng tháng Tám, Đảng đã thực hiện chính sách phê bình và đoàn kết với tầng lớp trung gian nhằm đưa cách mạng đến thành công Đảng hỗ trợ các tầng lớp này thành lập tổ chức của mình, như sự ra đời của Đảng Dân chủ Việt Nam vào tháng 6 năm 1944, góp phần làm phong phú thêm Mặt trận Việt Minh và tăng cường khả năng tham gia của họ trong cuộc kháng chiến chống Nhật Tuy nhiên, trước cuộc đảo chính của Nhật ngày 9-3-1945, số lượng tầng lớp trung gian tham gia phong trào cách mạng vẫn chưa đông đảo do một số nhân vật thiếu quan điểm đấu tranh rõ ràng Họ có xu hướng lợi dụng tình hình để xây dựng lực lượng cho Việt Nam, như trường hợp của tổ chức Tân Việt Nam hội Để giải quyết tình hình này, Đảng đã chủ trương vạch mặt chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim, chỉ ra rằng thực chất nó chỉ là công cụ cho Nhật Bản, hứa hẹn nhiều nhưng thực hiện ít, và thực hiện trái ngược với lời hứa.

Sự phê bình và hỗ trợ từ Đảng đã giúp quần chúng trung gian nhận thức và hướng về cách mạng Vào ngày 13/8/1945, sau khi Nhật Bản đầu hàng đồng minh, tầng lớp trung gian đã đồng loạt ủng hộ cách mạng.

Ba là, Đảng tiền phong đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, sẵn sàng lãnh đạo quần chúng khởi nghĩa giành chính quyền

Từ năm 1930, tại Hội nghị thành lập Đảng, Chánh cương vắn tắt xác định nhiệm vụ cách mạng Việt Nam là "Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập." Đường lối chiến lược và sách lược của Đảng đã được xác định đúng đắn từ đầu và liên tục được bổ sung, phát triển theo từng giai đoạn cách mạng Đặc biệt, tại Hội nghị lần thứ Tám của Ban Chấp hành Trung ương vào tháng 5 năm 1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã trực tiếp chủ trì và đề ra những định hướng quan trọng cho cách mạng.

5 Ban nghiên cứu lịch sử Đảng, Cách mạng tháng tám 1945, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1971, tr 80

6 Thanh Đạm: Vấn đề tầng lớp trung gian trong Cách mạng tháng Tám, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 163, năm 1975

Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng vào năm 1945 đã quyết định tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất để mở rộng Mặt trận Dân tộc thống nhất, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giải quyết vấn đề dân tộc giải phóng nhằm đạt được độc lập và tự do cho toàn thể dân tộc Hội nghị cũng chủ trương thành lập Mặt trận Việt Minh và chuẩn bị cho khởi nghĩa vũ trang, từ khởi nghĩa từng phần đến tổng khởi nghĩa Ngày 9-3-1945, khi Nhật đảo chính Pháp, Ban Thường vụ Trung ương nhận định rằng tình hình chính trị khủng hoảng và nạn đói là cơ hội thuận lợi cho khởi nghĩa Đồng thời, bản Chỉ thị khẳng định rằng không thể phụ thuộc vào quân Đồng minh để khởi nghĩa, mà cần nắm bắt thời cơ, vì nếu cách mạng Nhật nổ ra hoặc Nhật Bản thất bại, cuộc tổng khởi nghĩa của ta có thể thành công ngay cả khi quân Đồng minh chưa vào Đông Dương Dự kiến này đã gần đúng với thực tế diễn ra trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Đảng đã phát động cao trào kháng Nhật cứu nước, lãnh đạo toàn dân chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa giành chính quyền Hội nghị đã thay đổi khẩu hiệu từ "đánh đuổi phát xít Nhật - Pháp" sang "đánh đuổi phát xít Nhật" và đề ra việc thành lập chính quyền cách mạng của nhân dân Bản Chỉ thị “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” thể hiện sự lãnh đạo sáng suốt và quyết đoán, là kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và Mặt trận Việt Minh trong cao trào kháng Nhật cứu nước, góp phần quyết định vào thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám Để chuẩn bị cho khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền, Ban thường vụ Trung ương đã triệu tập hội nghị quân sự Bắc.

Vào ngày 16 tháng 4 năm 1945, tại Kỳ Hiệp Hoà, Bắc Giang, Hội nghị đã quyết định thống nhất các lực lượng vũ trang thành Việt Nam Giải phóng quân, đồng thời phát triển lực lượng vũ trang và nửa vũ trang Hội nghị cũng nhấn mạnh việc xây dựng căn cứ kháng Nhật nhằm chuẩn bị cho cuộc tổng khởi nghĩa đúng thời điểm Trong cao trào tiền khởi nghĩa, mọi hoạt động của Đảng về chính trị, quân sự và tư tưởng đều tập trung vào việc chống lại phát xít Nhật và chính phủ bù nhìn, với mục tiêu giành chính quyền thông qua tổng khởi nghĩa.

Ngày 13/8/1945, sau khi quân Nhật hoàn toàn tan rã và xin đầu hàng Liên Xô cùng các nước Đồng minh, Hội nghị toàn quốc của Đảng được khai mạc ở Tân Trào (Tuyên Quang) Tại đây, Đảng nhận định thời cơ giành độc lập đã đến, và cần phải lãnh đạo toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật và bọn bù nhìn trước khi quân Đồng minh vào Việt Nam Ngay trong đêm 13/8, Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc do đồng chí Trường Chinh phụ trách đã được thành lập và ra Quân lệnh số 1, hạ lệnh tổng khởi nghĩa Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư kêu gọi đồng bào cả nước nổi dậy giành chính quyền Sau nhiều năm chuẩn bị lực lượng từ năm 1930, Đảng đã sẵn sàng lãnh đạo quần chúng nhân dân chớp thời cơ này, đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo thắng lợi của cuộc khởi nghĩa.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám được tạo nên bởi nhiều yếu tố quan trọng, trong đó có nhận định thời cơ và sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Đồng thời, tinh thần dũng cảm và sức mạnh đấu tranh của nhân dân cũng đóng vai trò then chốt Sự kết hợp giữa đường lối của Đảng và quyết tâm chiến đấu của nhân dân đã dẫn đến chiến thắng vang dội này Điều cần nhấn mạnh là nếu Đảng không chuẩn bị đầy đủ và không kịp thời chớp lấy thời cơ, thì dù điều kiện khách quan có thuận lợi đến đâu, cách mạng cũng sẽ không thể diễn ra Điều này càng khẳng định tầm quan trọng của sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng.

Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân xây dựng, bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ - Đường lối của Đảng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954) 13

1.3.1 Đường lối kháng chiến toàn quốc đúng đắn của Đảng và quá trình tổ chức thực hiện từ năm 1946 đến năm 1950

1.3.1.1 Đường lối kháng chiến toàn quốc đúng đắn của Đảng

Vào tháng 12 năm 1946, trước sự xâm lược của thực dân Pháp, Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị Toàn dân kháng chiến, kêu gọi toàn dân tham gia kháng chiến với quyết tâm bảo vệ độc lập, tự do Ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, thể hiện ý chí kiên quyết của nhân dân ta trong việc chống lại thực dân Pháp Đường lối kháng chiến được thể hiện rõ qua nhiều văn kiện quan trọng, bắt đầu từ Chỉ thị về Kháng chiến kiến quốc vào ngày 25/11/1945 và tiếp theo là Công việc khẩn cấp bây giờ vào tháng 10/1946.

Vào ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, đánh dấu sự hình thành những quan điểm cơ bản của đường lối kháng chiến Đến giữa năm 1947, Tổng Bí thư Trường Chinh đã viết nhiều bài báo hướng dẫn thực hiện đường lối của Đảng, tập hợp lại trong cuốn sách "Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi" Tác phẩm này nêu rõ các quan điểm cốt lõi về đường lối kháng chiến, nhấn mạnh tính toàn dân, toàn diện, lâu dài và tự lực, góp phần đưa cuộc kháng chiến của nhân dân đến thắng lợi.

Vào tháng 2 năm 1951, II của Đảng đã tổng kết 5 năm kháng chiến và bổ sung, phát triển đường lối kháng chiến nhằm đối phó với tình hình mới khi cuộc kháng chiến đã phá thế bị bao vây và đế quốc Mỹ can thiệp sâu vào chiến tranh Đông Dương Đường lối chung của cuộc kháng chiến tập trung vào một số nội dung quan trọng.

Về mục đích kháng chiến: Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp

Mỹ là sự kế thừa và phát triển thành quả Cách mạng Tháng Tám nhằm đánh đổ thực dân Pháp xâm lược, giành thống nhất, độc lập hoàn toàn.

Cuộc kháng chiến được Đảng xác định là một cuộc chiến tranh cách mạng chính nghĩa, mang tính chất toàn dân, toàn diện và lâu dài Đây là cuộc chiến tiến bộ vì tự do, độc lập, dân chủ và hòa bình, có tính chất dân tộc giải phóng và dân chủ mới Đảng cũng chủ trương liên hiệp với dân tộc Pháp, chống lại thực dân Pháp và đoàn kết với các dân tộc Miên, Lào cùng những người yêu chuộng tự do, hòa bình.

Đảng chủ trương thực hiện chiến tranh nhân dân với phương châm "kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính".

Kháng chiến toàn dân là sự huy động sức mạnh, tài lực và lực lượng của toàn thể nhân dân, khuyến khích sự đoàn kết và tham gia tích cực của mọi tầng lớp trong cuộc kháng chiến Để đạt được mục tiêu này, cần xây dựng sự đồng thuận và nhất trí trong toàn quốc, tiến hành đấu tranh chống kẻ thù ở mọi nơi, mọi lúc Mỗi người dân trở thành một chiến sĩ, mỗi làng xã là một pháo đài, và mỗi phố là một mặt trận Trong cuộc chiến này, Quân đội nhân dân và các lực lượng vũ trang đóng vai trò nòng cốt, dẫn dắt toàn dân trong cuộc kháng chiến.

Kháng chiến toàn diện là việc đánh địch trên tất cả các lĩnh vực và mặt trận, bao gồm quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng và ngoại giao Trong đó, mặt trận quân sự với đấu tranh vũ trang đóng vai trò mũi nhọn và quyết định Cần phát huy mọi tiềm năng và sức mạnh của dân tộc để đạt được thắng lợi trong kháng chiến.

Kháng chiến lâu dài bắt nguồn từ sự so sánh lực lượng giữa ta và địch, khi ban đầu địch mạnh còn ta yếu Đảng chủ trương đánh lâu dài, kết hợp giữa việc xây dựng và phát triển lực lượng với việc tiêu hao, tiêu diệt địch, nhằm dần tạo ra lợi thế cho ta Mục tiêu là chuyển từ thế yếu sang thế mạnh để cuối cùng giành chiến thắng Tuy nhiên, Đảng nhấn mạnh rằng trong quá trình đánh lâu dài, cần tạo ra thế chủ động và phát triển thế và lực, nhằm nắm bắt thời cơ giành thắng lợi quyết định.

Kháng chiến dựa vào sức mình là yếu tố then chốt, bao gồm sức lực của nhân dân, đường lối đúng đắn của Đảng, cùng với các điều kiện thiên thời, địa lợi, nhân hòa Đồng thời, việc tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ từ quốc tế cũng là cần thiết để đạt được chiến thắng trước kẻ thù.

Đường lối kháng chiến của Đảng trong những năm đầu chống Pháp là đúng đắn, trở thành ngọn cờ dẫn đường cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân Đường lối này đã huy động mọi nguồn lực và sức mạnh của dân tộc, giúp đánh bại kẻ thù xâm lược và tận dụng hiệu quả sự hỗ trợ quốc tế Sự ủng hộ của nhân dân đối với đường lối kháng chiến đã trở thành yếu tố quyết định cho thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

1.3.1.2 Đảng tổ chức, chỉ đạo cuộc kháng chiến từ năm 1947 đến năm 1950

Sau khi xác định đường lối kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp và sự can thiệp của Mỹ, Đảng ta đã tiếp tục chỉ đạo và thực hiện các chiến lược kháng chiến từ năm 1947.

Năm 1950, sự lãnh đạo của Đảng được củng cố, Nhà nước dân chủ nhân dân trở nên vững mạnh hơn, và mặt trận Việt Minh, Liên Việt cùng các tổ chức cách mạng đã tạo ra sự đoàn kết dân tộc rộng rãi.

Trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa và xã hội, Đảng tiếp tục thúc đẩy phong trào tăng gia sản xuất và tự cấp, tự túc lương thực để đảm bảo đời sống cho bộ đội và nhân dân Đồng thời, duy trì phong trào bình dân học vụ, nâng cao chất lượng dạy và học tại các trường phổ thông Đảng cũng tìm kiếm sự ủng hộ từ lực lượng tiến bộ và nhân dân thế giới cho cuộc kháng chiến, thiết lập cơ quan đại diện tại Thái Lan và Myanmar, cũng như cử các đoàn đại biểu tham gia hội nghị quốc tế.

Đảng và Chính phủ Việt Nam chủ trương mở rộng quan hệ ngoại giao với các nước xã hội chủ nghĩa nhằm phá vỡ thế bị bao vây và nhận được sự ủng hộ từ bạn bè quốc tế, đặc biệt từ các nước dân chủ nhân dân Đông Âu và Triều Tiên Trong bối cảnh quân sự, vào ngày 15/10/1947, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã ra chỉ thị nhằm đối phó với cuộc tấn công của thực dân Pháp, khẳng định quyết tâm của quân và dân ta Chỉ thị nêu rõ các nhiệm vụ quân sự, trong đó tập trung vào việc phát động mạnh mẽ cuộc chiến tranh du kích ở đồng bằng Bắc Bộ và Trung Bộ, chặt đứt giao thông để ngăn chặn tiếp tế của địch, và tiến hành đồng loạt tấn công trên tất cả các hướng.

Sau 75 ngày đêm chiến đấu liên tục và oanh liệt, vào ngày 21/12/1947, quân và dân ta đã đẩy lùi tất cả các mũi tiến công nguy hiểm của thực dân Pháp, tiêu diệt hàng ngàn tên địch Chiến thắng này không chỉ bảo toàn được cơ quan đầu não và căn cứ địa kháng chiến mà còn đánh bại âm mưu đánh nhanh, thắng nhanh của quân Pháp.

Trách nhiệm của sinh viên đối với việc bảo vệ Đảng hiện nay 25

Ngày đăng: 15/12/2021, 16:08

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Ban nghiên cứu lịch sử Đảng, Cách mạng tháng tám 1945, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1971, tr. 80 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cách mạng tháng tám 1945
Nhà XB: Nxb Sự thật
2. Thanh Đạm: Vấn đề tầng lớp trung gian trong Cách mạng tháng Tám, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 163, năm 1975 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Vấn đề tầng lớp trung gian trong Cách mạng tháng Tám
3. ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 2, tr .2 4. Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t. 4, tr. 4 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn kiện Đảng Toàn tập", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 2, tr .24. Hồ Chí Minh "Toàn tập
Nhà XB: Nxb Chính trị quốc gia
5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb CTQG, H.1996, tr.73 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII
Nhà XB: NxbCTQG
6. Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Nxb CTQG-ST, H.2011, tr.9 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lênchủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011)
Nhà XB: Nxb CTQG-ST
7. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 7, Nxb CTQG-ST, H.2011, tr.25, tr.21 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Toàn tập
Nhà XB: Nxb CTQG-ST
8. Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh sống mãi trong trái tim nhân loại, Nxb Lao động, H.1993, tr.62 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hồ Chí Minh sống mãi trong trái tim nhân loại
Nhà XB: Nxb Lao động
9. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, H.1987, tr.29 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI
Nhà XB: Nxb Sựthật
10. Giáo trình lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam, Hà Nội ( 2018 ), PSG.TS Nguyễn Trọng Phúc Khác

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w