1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Môn chính sách xã hội chính sách việc làm thực trạng và giải pháp

40 59 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Chính Sách Việc Làm - Thực Trạng Và Giải Pháp
Chuyên ngành Chính Sách Xã Hội
Thể loại Tiểu Luận
Định dạng
Số trang 40
Dung lượng 534 KB

Cấu trúc

  • Thứ nhất là tìm ra được những thành tựu và hạn chế của chính sách việc làm của Việt Nam.

  • Thứ hai là tìm ra những giải pháp giải quyết được những khó khăn đang tồn tại của chính sách việc làm của Việt Nam.

  • Thứ ba là Cho thấy tầm quan trọng rất lớn của chính sách đối với việc giải quyết các vấn đề xã hội và phát triển đất nước thông qua việc chứng minh tầm quan trọng của chính sách việc làm đối với vấn đề giải quyết nạn thất nghiệp.

  • I. Khái quát

    • 1. Khái niệm việc làm

    • 2. Vai trò của việc làm

  • II. Thực trạng vấn đề việc làm ở nước ta

  • III. Tình hình việc làm qua các số liệu thống kê năm 2016

    • 1. Nguồn lao động

  • 3. Cơ cấu lao động có việc làm 2016

  • Theo số liệu thống kê của Tổng Cục thống kê Việt Nam thì tới quý 4 năm 2016 ở nước ta có 53,41 triệu người lao động có việc làm. Trong đó về giới tính thì nam chiếm 51,55% còn nữ chiếm 48,45% tên tổng số người lao động. Số người lao động ở nông thôn chiếm 68,16 % còn số lao động ở thành thị chỉ chiếm 31,84 % tổng số người lao động.

  • Cơ cấu ngành lao động cũng có sự phân chia không hợp lí, số người làm việc trong ngành Nông – lâm - thủy sản vẫn chiếm ở mức cao ( 41,54 % ), số người hoạt động trong ngành Công nghiệp – dịch vụ vẫn ở mức tương đối 25,05 % và số người hoạt động trong ngành dịch vụ vẫn còn thấp ( 33,41 % ).

  • Cơ cấu các loại hình kinh tế trong những năm gần đây gần như không đổi. Khu vực cá nhân/hộ sản xuất kinh doanh cá thể chiếm tới 77,8% (39,2 triệu lao động). Kinh tế tập thể hiện nay chỉ còn một tỷ trọng rất nhỏ (0,3%). Tư nhân và vốn đầu tư nước ngoài là hai loại hình kinh tế năng động, nhưng tỷ trọng lao động đang làm việc trong hai loại hình này khá khiêm tốn (8,1% và 3,4%).

  • Số liệu qua các cuộc điều tra từ năm 2009 đến nay cho thấy tỷ trọng lao động đang làm việc của khu vực tư nhân và vốn đầu tư nước ngoài đang có xu hướng tăng lên. Điều này cho thấy thị trường lao động ở nước ta đã phát triển trong thời gian qua, nhưng vẫn ở mức thấp.

  • 4. Thu nhập bình quân/tháng của lao động làm công ăn lương

    • 5. Tình trạng thiếu việc làm và thất nghiệp

  • I. Hệ thống chính sách việc làm

    • 1. Về hoàn thiện thể chế phát triển thị trường lao động

    • 2. Về kết nối cung cầu lao động

    • 3. Về hỗ trợ lao động di chuyển

    • 4. Về tín dụng ưu đãi cho sản xuất, kinh doanh

    • 5. Về đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài

    • 6. Về cho phép lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam

  • II. Đánh giá chính sách việc làm

    • 1. Những thành tựu

    • 2. Những hạn chế chủ yếu và nguyên nhân

Nội dung

MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài. Ở nước ta, trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nguồn lực con người được xem là nguồn lực quan trọng nhất, quyết định sự thành bại của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động không chỉ là yêu cầu cấp bách mà còn là vấn đề mang tính chiến lược của Đảng và Nhà nước ta. Với quan điểm và mục tiêu và chiến lược đó, Đảng và Nhà nước ta đã có nhưng định hướng cho việc xây dựng nguồn nhân lực, hướng tới giải quyết tốt mối quan hệ giữa cơ cấu kinh tế với cơ cấu lao động và giải quyết việc làm cho người lao động. Việc làm là một trong những nhu cầu cơ bản của con người để đảm bảo cuộc sống và sự phát triển toàn diện. Quyền lao động và đảm bảo việc làm của người lao động đã được khẳng định trong Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và đã được cụ thể hoá trong Bộ luật Lao động đầu tiên ở nước ta. Việc làm, giải quyết việc làm cho người lao động là một trong những ưu tiên hàng đầu trong các chính sách phát triển kinh tế – xã hội của nước ta. Tuy nhiên, để thực hiện được điều đó, cần hoàn thiện chính sách, pháp luật về việc làm. Việc làm và giải quyết việc làm là vấn đề có ý nghĩa to lớn cả về kinh tế, xã hội và pháp lý, cả góc độ quốc gia và mỗi cá nhân người lao động. Chính vì vậy, Bộ luật lao động có quy định rõ ràng, đầy đủ về khái niện, nội dung và trách nhiệm của nhà nước, trách nhiệm của từng thành viên trong xã hội đối với vần đề việc làm. “Giả quyết việc làm, đảm bảo cho mọi người có khả năng lao động đều có cơ hội có việc làm là trách nhiệm của nhà nước, của các doanh nghiệp và của toàn xã hội”. Giải quyết tốt việc làm cho người lao động là một trong những động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội và khắc phục các tệ nạn xã hội, đảm bảo giữ trật tự kỷ cương và an toàn xã hội. Với tầm quan trọng của vấn đề việc làm như vậy nên em nghĩ cần phải đi sâu vào nghiên cứu đề tài này. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Đang trên đà phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Việt Nam luôn là điểm sáng thu hút các nhà đầu tư nước ngoài như Hàn Quốc, Đài Loan, và đặc biệt là Nhật Bản. Là bộ phận trực tiếp tham gia vào các quy trình sản xuất vì thế mà việc phát triển nguồn nhân lực cũng đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc phát triển kinh tế của doanh nghiệp. Tuy nhiên, theo số liệu thống kê của Viện Khoa học Lao động và xã hội, tỉ lệ thất nghiệp của cả nước tính đến hết tháng 6 – 2014 ở khoảng 1,84%, nằm trong top những nước có tỉ lệ thất nghiệp thấp trên thế giới. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là Việt Nam đang có tình trạng việc làm ổn định cho người dân. Theo đánh giá của Ngân hàng thế giới ( World Bank), thì nước ta đang rất thiếu lao động có trình độ tay nghề, công nhân kĩ thuật bậc cao và chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam cũng thấp hơn nhiều so với các nước khác. Trong khi tồn tại một nghịch lý đó là cử nhân, thạc sĩ ra trường không có việc làm vẫn còn ở mức báo động.

Khái quát

Khái niệm việc làm

Khái niệm việc làm được định nghĩa khác nhau từ nhiều góc độ nghiên cứu và phụ thuộc vào các yếu tố như điều kiện kinh tế, chính trị và luật pháp ở mỗi quốc gia Do đó, không tồn tại một định nghĩa chung và tổng quát về việc làm Để hiểu rõ hơn về khái niệm và bản chất của việc làm, cần phải liên hệ đến phạm trù lao động, vì giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ.

Lao động là yếu tố thiết yếu trong cuộc sống con người, gắn liền với lợi ích cá nhân và xã hội Mỗi người lao động đảm nhận những vị trí cụ thể trong hệ thống sản xuất, tạo thành sự kết hợp của các yếu tố trong quá trình sản xuất, được gọi là chỗ làm hay việc làm.

Việc làm là một yếu tố quan trọng trong nền sản xuất xã hội, phụ thuộc vào các điều kiện hiện có của hệ thống sản xuất Người lao động được xem là có việc làm khi đảm nhận một vị trí nhất định trong xã hội, từ đó thực hiện quá trình lao động và tạo ra sản phẩm phục vụ cho xã hội và bản thân.

Một hoạt động được xem là việc làm khi nó có những đặc điểm sau: người lao động nhận được tiền công, tạo ra lợi nhuận cho bản thân và gia đình, và hoạt động đó phải được pháp luật công nhận.

Trên thực tế, việc làm được thừa nhận dưới 3 hình thức:

- Làm công việc để nhận được tiền lương, tiền công hoặc hiện vật cho công việc đó

Công việc được thực hiện nhằm thu lợi cho bản thân, trong đó cá nhân có quyền sử dụng hoặc sở hữu một phần hoặc toàn bộ tư liệu sản xuất cần thiết để thực hiện công việc đó.

Việc làm trong hộ gia đình tại Việt Nam không được trả thù lao bằng tiền lương, mà thường liên quan đến sản xuất nông nghiệp và các hoạt động kinh tế phi nông nghiệp do chủ hộ hoặc thành viên gia đình quản lý Theo Điều 13 của Bộ luật lao động, việc làm được định nghĩa là mọi hoạt động lao động tạo ra thu nhập hợp pháp, không bị pháp luật cấm, và vì vậy, những công việc này đều được công nhận là việc làm hợp pháp.

Tùy theo các mục đích nghiên cứu khác nhau mà người ta phân chia việc làm ra thành nhiều loại

Theo cách phân loại theo thời gian làm việc, có hai loại việc làm: việc làm chính và việc làm phụ Việc làm chính là công việc mà người lao động dành nhiều thời gian và có thu nhập cao hơn, trong khi việc làm phụ là công việc mà họ dành thời gian sau khi hoàn thành công việc chính.

Ngoài ra, người ta còn chia việc làm thành việc làm toàn thời gian, bán thời gian, việc làm thêm.

- Việc làm toàn thời gian: Chỉ một công việc làm 8 tiếng mỗi ngày, hoặc theo giờ hành chính 8 tiếng mỗi ngày và 5 ngày trong tuần.

Việc làm bán thời gian là công việc không yêu cầu làm đủ 8 tiếng mỗi ngày và 5 ngày mỗi tuần theo quy định của Nhà nước Thời gian làm việc linh hoạt, có thể dao động từ 0.5 đến 5 tiếng mỗi ngày và không nhất thiết phải liên tục.

- Việc làm thêm: Mô tả một công việc không chính thức, không thường xuyên bên cạnh một công việc chính thức và ổn định.

Trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa hiện nay, Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) nhấn mạnh tầm quan trọng của việc làm nhân văn và bền vững.

Vai trò của việc làm

Việc làm đóng vai trò thiết yếu trong đời sống xã hội, ảnh hưởng trực tiếp đến cá nhân và nền kinh tế Đối với mỗi cá nhân, việc làm không chỉ mang lại thu nhập mà còn gắn liền với trình độ học vấn và tay nghề, trong khi những người thất nghiệp thường tập trung ở các vùng khó khăn Thiếu việc làm lâu dài có thể dẫn đến mất cơ hội nâng cao kỹ năng và kiến thức Về mặt kinh tế, lao động là nguồn lực quan trọng, thúc đẩy tăng trưởng và thu nhập quốc dân, do đó nền kinh tế cần tạo ra việc làm để duy trì sự phát triển bền vững Trong xã hội, việc làm ảnh hưởng tích cực đến sự hòa hợp và phát triển, ngăn chặn các vấn đề xã hội tiêu cực Ngược lại, thiếu việc làm có thể gây ra mâu thuẫn, ảnh hưởng xấu đến nhân cách và tạo ra khoảng cách giàu nghèo, dẫn đến các vấn đề chính trị.

Việc làm đóng vai trò quan trọng đối với cá nhân, kinh tế và xã hội Để đáp ứng nhu cầu việc làm của toàn xã hội, Nhà nước cần xây dựng những chiến lược và kế hoạch cụ thể nhằm thỏa mãn nhu cầu này.

Thực trạng vấn đề việc làm ở nước ta

Sau 25 năm đổi mới, vấn đề việc làm tại Việt Nam đã được cải thiện theo quy luật của kinh tế hàng hóa và thị trường lao động, góp phần vào sự phát triển kinh tế và đạt được nhiều thành tựu lịch sử quan trọng.

Thực trạng việc làm ở nước ta hiện nay còn nhiều bất cập, không đáp ứng kịp yêu cầu phát triển kinh tế Sự mất cân đối giữa cung và cầu lao động thể hiện rõ khi cung vượt cầu, với tỷ lệ thất nghiệp ở thành phố giảm chậm và tỷ lệ sử dụng lao động ở nông thôn chỉ đạt khoảng 70% Số doanh nghiệp trên đầu dân số còn thấp, hạn chế khả năng tạo việc làm, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp Tình trạng thiếu việc làm cao và chính sách tiền lương chưa khuyến khích người lao động gắn bó với công việc Ngoài ra, vai trò điều tiết của Nhà nước trong quan hệ cung cầu lao động cũng còn hạn chế.

Kiểm soát và giám sát thị trường lao động hiện nay chưa được thực hiện một cách chặt chẽ, dẫn đến việc vai trò của “tòa án lao động” trong việc giải quyết tranh chấp lao động chưa được phát huy hiệu quả Hơn nữa, cải cách hành chính vẫn còn thấp hiệu quả, ảnh hưởng không chỉ đến quyền lợi của người lao động mà còn đến sự phát triển chung của xã hội.

Cơ cấu lao động hiện nay chưa đáp ứng yêu cầu chuyển đổi kinh tế theo hướng công nghiệp hóa và hội nhập quốc tế, với tỷ lệ lao động được đào tạo nghề thấp Kỹ năng tay nghề và thể lực của người lao động còn yếu, kỷ luật lao động và tác phong làm việc công nghiệp chưa cao Các văn bản pháp luật về lao động và thị trường lao động chưa được thực hiện đầy đủ, gây khó khăn trong việc giải quyết việc làm Điều này dẫn đến khả năng cạnh tranh yếu, đặc biệt trong các lĩnh vực cần lao động có trình độ cao, trong khi cơ cấu ngành nghề đào tạo chuyên môn kỹ thuật chưa phù hợp với nhu cầu của nền kinh tế.

Hệ thống giao dịch trên thị trường lao động tại Việt Nam còn yếu kém, với hệ thống thông tin về thị trường lao động và việc làm chính thức chưa phát triển mạnh mẽ Hiện cả nước chỉ có khoảng 200 trung tâm giao dịch và hơn 3.000 doanh nghiệp giới thiệu việc làm, chủ yếu tập trung ở TP Hồ Chí Minh và Hà Nội Tuy nhiên, hoạt động của các trung tâm này chưa hiệu quả và không thường xuyên, chỉ đáp ứng khoảng 20% nhu cầu thông tin của người lao động trong việc tìm kiếm việc làm.

Hiện nay, chúng ta đang đối mặt với thách thức lớn trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt từ sản phẩm đến doanh nghiệp và toàn nền kinh tế, cả trong nước và quốc tế Nhiều doanh nghiệp không kịp thích nghi có nguy cơ phá sản, dẫn đến tình trạng thất nghiệp cao, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp Chất lượng nguồn lực lao động chưa đáp ứng yêu cầu, gây cản trở trong quá trình hội nhập Sự di chuyển lao động từ nông thôn ra thành phố và ra nước ngoài kéo theo nhiều vấn đề xã hội nhạy cảm, như "chảy máu chất xám" và tình trạng buôn bán phụ nữ và trẻ em qua biên giới.

Tình hình việc làm qua các số liệu thống kê năm 2016

Nguồn lao động

Theo Tổng cục Thống kê, tính đến ngày 1-7-2016, dân số Việt Nam gần 92 triệu người, đứng thứ 8 Châu Á và thứ 3 Đông Nam Á Trong lực lượng lao động, người trong độ tuổi từ 15 đến 64 tuổi chiếm 69,4% tổng dân số, với khoảng 70% lực lượng lao động đến từ khu vực nông thôn.

Nguồn: Kết quả điều tra Biến động dân số và Kế hoạch hóa gia đình 2013; Ủy ban Dân số Kế hoạch hóa gia đình; Tổng cục Thống kê

Mặc dù Việt Nam có số lượng người trong độ tuổi lao động cao, nhưng thị trường lao động vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu của doanh nghiệp do thiếu hụt lao động có tay nghề và chất lượng Sự chênh lệch lớn về chất lượng lao động giữa nông thôn và thành phố ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế chung Nhiều lao động từ nông thôn di chuyển đến thành phố tìm việc, nhưng mục đích chủ yếu của họ không phải là học nghề mà là tham gia vào các công việc tạm thời, buôn bán hoặc các công việc không yêu cầu kinh nghiệm và tay nghề.

Mặc dù Việt Nam có nguồn lao động dồi dào và tỷ lệ thất nghiệp gia tăng, các doanh nghiệp vẫn đang đối mặt với tình trạng thiếu lao động Nguyên nhân chính là do lao động Việt Nam chưa đáp ứng được yêu cầu về chất lượng, chỉ đủ về số lượng Tình trạng này không chỉ gây khó khăn cho các doanh nghiệp mà còn khiến người lao động đánh mất cơ hội việc làm cho chính mình.

2 Tỷ lệ lao động đang làm việc đã qua đào tạo

Trong số hơn 50,35 triệu người lao động từ 15 tuổi trở lên tại Việt Nam, chỉ có khoảng 7,8 triệu người, tương đương 15,4%, đã được đào tạo Đáng chú ý, 84,6% người lao động hiện chưa qua đào tạo, với sự chênh lệch rõ rệt giữa khu vực thành thị (30,9%) và nông thôn (9%) Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo thấp nhất ghi nhận ở Đồng bằng sông Cửu Long (8,6%) và Tây Nguyên (10,8%), trong khi Hà Nội và TP HCM có tỷ lệ cao nhất, với 17,1% và 17,4% người lao động có trình độ đại học trở lên.

Tỷ lệ lao động được đào tạo tại Việt Nam hiện nay cho thấy chất lượng việc làm còn thấp, đặt ra thách thức lớn trong việc đạt được mục tiêu phát triển bền vững Lao động chất lượng kém dẫn đến việc làm không bền vững, mức lương thấp và không đáp ứng được xu hướng sử dụng công nghệ hiện đại trong sản xuất và quản lý.

Trong tháng 2/2016, nhu cầu tuyển dụng lao động chưa qua đào tạo chiếm đến 38,24%

Nguồn: Trung tâm dự báo nguồn nhân lực TP HCM.

Bảng số liệu cho thấy tỷ lệ người chưa qua đào tạo đang tìm việc rất cao, đồng thời có sự mất cân bằng lớn giữa các đối tượng tuyển dụng Điều này cho thấy số lượng người chưa được đào tạo ở nước ta là rất lớn, tạo ra một trong những thách thức lớn đối với vấn đề việc làm.

Cơ cấu lao động có việc làm 2016

Theo số liệu thống kê của Tổng Cục thống kê Việt Nam thì tới quý 4 năm

Năm 2016, Việt Nam có 53,41 triệu người lao động, trong đó nam giới chiếm 51,55% và nữ giới chiếm 48,45% Tỷ lệ lao động ở nông thôn đạt 68,16%, trong khi lao động ở thành phố chỉ chiếm 31,84% tổng số người lao động.

Cơ cấu ngành lao động hiện nay cho thấy sự phân chia không hợp lý, với 41,54% số người làm việc trong ngành Nông - lâm - thủy sản, trong khi đó, tỷ lệ người hoạt động trong ngành Công nghiệp - dịch vụ chỉ đạt 25,05%.

% và số người hoạt động trong ngành dịch vụ vẫn còn thấp ( 33,41 % ).

Bảng 3 Số lượng và cơ cấu việc làm

Nữ 48,60 48,30 48,36 48,48 48,45 b Thành thị/nông thôn

Nông thôn 68,35 68,32 68,12 68,09 68,16 c Ngành kinh tế

Dịch vụ 33,40 33,24 33,45 33,46 33,41 d Vị thế công việc

Nguồn: TCTK (2015, 2016), Điều tra LĐ-VL hằng quý

Trong những năm gần đây, cơ cấu các loại hình kinh tế không có nhiều thay đổi, với khu vực cá nhân và hộ sản xuất kinh doanh cá thể chiếm 77,8% tổng số lao động, tương đương 39,2 triệu người Trong khi đó, tỷ trọng của kinh tế tập thể hiện nay chỉ còn rất nhỏ, chỉ đạt 0,3%.

Tư nhân và vốn đầu tư nước ngoài là hai hình thức kinh tế năng động, tuy nhiên, tỷ lệ lao động làm việc trong hai loại hình này còn thấp, chỉ đạt 8,1% và 3,4%.

Từ các cuộc điều tra từ năm 2009 đến nay, tỷ lệ lao động trong khu vực tư nhân và vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đang có xu hướng gia tăng Điều này phản ánh sự phát triển của thị trường lao động trong nước, mặc dù vẫn còn ở mức thấp.

Thu nhập bình quân/tháng của lao động làm công ăn lương

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê trong quý 4/2016, thu nhập bình quân tháng của lao động làm công hưởng lương đạt 5,08 triệu đồng Mặc dù con số này có vẻ ổn định, nhưng so với mức sống và điều kiện phát triển hiện đại, nó không đủ để đảm bảo cuộc sống tốt nhất cho người lao động Thu nhập này chỉ giúp người lao động phần nào ổn định cuộc sống, nhưng chưa thể đáp ứng đầy đủ nhu cầu cuộc sống ngày càng cao.

Thu nhập bình quân tháng của lao động làm công hưởng lương Đơn vị: triệu đồng

Nguồn: TCTK (2015, 2016), Điều tra LĐ-VL hằng quý.

Tình trạng thiếu việc làm và thất nghiệp

Trong quý 4 năm 2016, Tổng cục Thống kê ghi nhận có 1.352 nghìn lao động thiếu việc làm, trong đó 750 nghìn người thuộc độ tuổi lao động, chiếm 55,5% Đặc biệt, lao động ở khu vực nông thôn chiếm tới 88% trong tổng số người thiếu việc làm.

Lao động thiếu việc làm chỉ làm việc trung bình 26,1 giờ mỗi tuần, tương đương 55% so với tổng số giờ làm việc trung bình của lao động cả nước là 47,2 giờ/tuần.

Hình 6 Số lượng và tỷ lệ thiếu việc làm của LLLĐ trong độ tuổi lao động, quý 4/2016

Nguồn: TCTK (2015, 2016), Điều tra LĐ-VL hằng quý

Tỷ lệ thất nghiệp của người trong độ tuổi lao động Đơn vị: %

Chứng chỉ nghề dưới 3 tháng 0,98 1,29 1,58 1,01 1,69

Cao đẳng 7,64 7,69 6,25 7,50 7,38 ĐH trở lên 3,30 3,93 4,00 4,22 4,43

Thất nghiệp dài hạn (≥12 tháng) 23,08 24,67 22,57 28,10 24,01

Nguồn: TCTK (2015, 2016), Điều tra LĐ-VL hằng quý

Số người thất nghiệp dài hạn (12 tháng trở lên) chiếm 24,0% tổng số người thất nghiệp 54% số người thất nghiệp chưa từng có việc làm (thất nghiệp lần đầu).

IV Phương hướng giải quyết vấn đề việc làm Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đề ra mục tiêu: "Giải quyết việc làm cho 8 triệu lao động Tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân 2%/ năm, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 55% Phát triển đa dạng các ngành, nghề để tạo nhiều việc làm và thu nhập; khuyến khích tạo thuận lợi để người lao động học tập nâng cao trình độ lao động, tay nghề; đồng thời có cơ chế chính sách phát triển, trọng dụng nhân tài”

Kinh nghiệm 25 năm đổi mới chỉ ra rằng để tạo ra nhiều việc làm và thu hút lao động hiệu quả, cần tăng cường đầu tư và mở rộng sản xuất trong cả ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ chế biến và các dịch vụ phục vụ đời sống.

Giải quyết vấn đề lao động và việc làm cần gắn liền với việc cơ cấu lại nguồn lực theo mô hình năng suất cao, nhằm đạt được tăng trưởng nhanh và bền vững Để thực hiện điều này, cần tiến hành đồng bộ nhiều biện pháp cơ bản và hiệu quả.

Tiếp tục hoàn thiện thể chế thị trường lao động là cần thiết, nhằm tạo ra khung pháp lý phù hợp và đảm bảo sự công bằng giữa người sử dụng lao động và người lao động Cần thực hiện nghiêm túc các luật liên quan đến lao động, tiền lương tối thiểu, bảo hiểm lao động, xuất khẩu lao động và pháp lệnh đình công Đồng thời, cần khắc phục tình trạng bất hợp lý đối với người lao động trong các doanh nghiệp liên doanh và một số doanh nghiệp trong nước, đảm bảo họ được hưởng lương xứng đáng với công sức bỏ ra, cùng với việc bảo đảm chỗ ở và các điều kiện làm việc, an sinh theo quy định của pháp luật.

Việc phê chuẩn và thực hiện các công ước của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) là rất quan trọng đối với thị trường lao động Việt Nam, đặc biệt khi nước ta đã trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại quốc tế.

Để phát triển mạnh khu vực dân doanh, cần chú trọng vào việc phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm tạo ra việc làm và thu hút lao động vào sản xuất, phấn đấu đạt tỷ lệ trên 200 người dân có một doanh nghiệp Cần phát triển kinh tế trang trại và hợp tác xã trong nông nghiệp, đồng thời đặc biệt coi trọng phát triển kinh tế dịch vụ và công nghiệp chế biến nông sản Việc khôi phục và phát triển các làng nghề thủ công mỹ nghệ sẽ giúp sản xuất sản phẩm phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, từ đó tận dụng lao động dư thừa và lao động có nghề truyền thống Điều này sẽ tạo điều kiện thúc đẩy thị trường lao động trong nông nghiệp và thị trường xuất khẩu lao động phát triển mạnh mẽ hơn.

Nhà nước và doanh nghiệp cần chú trọng đào tạo công nhân có trình độ cao, lành nghề và văn hóa, đặc biệt là lao động trẻ ở khu vực nông thôn, nhằm đáp ứng nhu cầu của các vùng kinh tế trọng điểm, khu công nghiệp, khu du lịch và xuất khẩu lao động Cần giải quyết tình trạng lao động dôi dư trong doanh nghiệp nhà nước bằng cách chuyển đổi ngành nghề cho họ Đồng thời, cần khắc phục tình trạng "đóng băng" trong đổi mới cơ cấu lao động, ảnh hưởng đến sự phát triển đa dạng và chiều sâu của nền kinh tế trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế Chuyển đổi các đơn vị sự nghiệp cung cấp dịch vụ công sang mô hình tự chủ, tự chịu trách nhiệm và thực hiện hợp đồng lao động để nâng cao hiệu quả lao động và tạo điều kiện cho lao động khu vực này tham gia vào thị trường lao động trong và ngoài nước.

Việc mở rộng và phát triển thị trường lao động ngoài nước là một thế mạnh của Việt Nam nhờ vào lực lượng lao động đông đảo và trẻ trung Để tận dụng cơ hội này, cần tập trung vào việc đào tạo ngoại ngữ và kiến thức pháp luật cho lao động xuất khẩu, đặc biệt là thanh niên nông thôn Điều này sẽ giúp họ dễ dàng tiếp cận với thị trường lao động toàn cầu, đặc biệt là các quốc gia phát triển cao đang có nhu cầu thu hút lao động cho các ngành sản xuất.

Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, cần mở rộng và nâng cấp hệ thống dạy nghề cho người lao động ở ba cấp trình độ: sơ cấp, trung cấp và cao đẳng Việc đào tạo và đào tạo lại lao động cần được thực hiện theo định hướng nhu cầu của thị trường, nhằm tạo ra lực lượng lao động có tay nghề cao, sức khỏe tốt, kỹ thuật và tác phong công nghiệp phù hợp với yêu cầu sản xuất Điều này không chỉ đáp ứng nhu cầu lao động trong nước mà còn mở rộng cơ hội cho thị trường lao động quốc tế trong những năm tới.

Để phát triển thị trường lao động hiệu quả, cần đa dạng hóa các loại hình dạy nghề từ Nhà nước, tư nhân đến quốc tế, đồng thời áp dụng cơ chế thị trường trong lĩnh vực này Cần quy hoạch và đầu tư hệ thống dạy nghề kỹ thuật thực hành, đảm bảo mỗi địa phương đều có trường và trung tâm dạy nghề Việc cổ phần hóa các cơ sở dạy nghề công lập và phát triển cơ sở ngoài công lập sẽ giúp giảm gánh nặng ngân sách cho Nhà nước Ngoài ra, cần đa dạng hóa kênh giao dịch trên thị trường lao động thông qua hệ thống thông tin, quảng cáo và tổ chức hội chợ việc làm, tạo điều kiện cho người lao động và nhà tuyển dụng ký kết hợp đồng lao động hợp pháp Cuối cùng, xây dựng hệ thống thông tin thị trường lao động quốc gia kết nối tại các vùng kinh tế trọng điểm và khu vực công nghiệp sẽ giúp người lao động tìm kiếm việc làm hiệu quả hơn.

Chương II CHÍNH SÁCH VIỆC LÀM Ở VIỆT NAM

Hệ thống chính sách việc làm

Về kết nối cung cầu lao động

Hệ thống dịch vụ việc làm, được phát triển từ năm 1992 theo Chương trình việc làm quốc gia, đã tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi cho việc kết nối cung-cầu lao động và tăng cường cơ hội cho người lao động tiếp cận thông tin việc làm Sự sửa đổi Điều 18 của Bộ luật lao động năm 1995 cùng với các Nghị định 19/2005/NĐ-CP và 71/2008/NĐ-CP đã hoàn thiện khung pháp lý cho dịch vụ việc làm Ngoài các trung tâm giới thiệu việc làm công lập, doanh nghiệp cũng được phép hoạt động trong lĩnh vực này, bao gồm cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

Về hỗ trợ lao động di chuyển

Chính phủ đã triển khai nhiều chương trình hỗ trợ di cư đến các vùng kinh tế mới nhằm định canh định cư cho đồng bào dân tộc thiểu số, như Quyết định số 33/2007/QĐ-TTg và Chương trình di dân gắn với xóa đói giảm nghèo trong giai đoạn 2006-2010 Những chương trình này không chỉ góp phần tái phân bổ nguồn lao động mà còn đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế vùng, từ đó ổn định đời sống cho đồng bào dân tộc thiểu số và bảo vệ an ninh quốc phòng.

Các quy định về cư trú và đăng ký hộ khẩu tại các khu đô thị và thành phố lớn ngày càng trở nên thông thoáng Luật Cư trú năm 2007 đã mở rộng quyền cư trú của công dân, tạo điều kiện thuận lợi cho di chuyển lao động Chính sách phát triển đô thị, khu công nghiệp, khu chế xuất và các vùng kinh tế trọng điểm đã kích thích sự di chuyển lao động, đặc biệt là từ nông thôn ra đô thị, góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động và nâng cao điều kiện việc làm cũng như thu nhập cho lao động nông thôn.

Về tín dụng ưu đãi cho sản xuất, kinh doanh

Nhà nước đã ban hành gần 20 chính sách tín dụng ưu đãi nhằm hỗ trợ vốn sản xuất và kinh doanh cho các nhóm yếu thế, bao gồm lao động nghèo, lao động nông thôn, lao động làm việc có thời hạn ở nước ngoài, và lao động ở các vùng chuyển đổi đất nông nghiệp Việc sử dụng cơ chế cho vay tín dụng thông qua các chương trình, tổ chức và hội đoàn thể giúp nâng cao khả năng tiếp cận vốn cho những đối tượng này, đồng thời khuyến khích các tổ chức kinh doanh thu hút nhiều lao động.

Chương trình Việc làm quốc gia, được thành lập theo Nghị quyết số 120/1992/NQ-HĐBT ngày 11/4/1992, nhằm hỗ trợ các cá nhân và tổ chức kinh doanh thông qua việc cung cấp các khoản vay ưu đãi Mục tiêu của chương trình là giúp doanh nghiệp và hộ gia đình tạo ra việc làm và thúc đẩy xuất khẩu lao động.

Nhà nước đã triển khai nhiều chính sách tín dụng ưu đãi nhằm hỗ trợ người lao động, đặc biệt là người nghèo, dân tộc thiểu số, người khuyết tật và thanh niên Các chương trình như Chương trình mục tiêu quốc gia xoá đói giảm nghèo đã giúp hộ nghèo vay vốn phát triển sản xuất Ngoài ra, Quyết định số 32/2007/QĐ-TTg và Quyết định số 126/2008/QĐ-TTg cũng cung cấp nguồn vốn cho các hộ dân tộc thiểu số gặp khó khăn Quyết định số 71/2009/QĐ-TTg phê duyệt Đề án Hỗ trợ các huyện nghèo, nhằm thúc đẩy xuất khẩu lao động và giảm nghèo bền vững trong giai đoạn 2009-2020.

Từ năm 2007 đến nay, nhiều chương trình hỗ trợ đã được triển khai nhằm giúp doanh nghiệp và hộ sản xuất kinh doanh vượt qua khó khăn trong thời kỳ suy giảm kinh tế Các quyết định như Quyết định số 30/2009/QĐ-TTg hỗ trợ người lao động mất việc làm và Quyết định số 92/2009/QĐ-TTg về tín dụng cho thương nhân ở vùng khó khăn đã đóng vai trò quan trọng Ngoài ra, các biện pháp như miễn, giảm thuế, giãn thời gian nộp thuế theo Nghị quyết số 11/NQ-CP và Nghị quyết số 08/2011/QH13 cũng đã giúp tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp Quyết định số 21/2011/QĐ-TTg gia hạn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp nhỏ và vừa nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế Các biện pháp khuyến khích xuất khẩu và ứng trước kế hoạch đầu tư ngân sách cũng đã góp phần duy trì việc làm và thu nhập cho người lao động trong bối cảnh khó khăn này.

Chính phủ đã ban hành Nghị định số 55/2015/NĐ-CP, điều chỉnh chính sách tín dụng nhằm phát triển nông nghiệp và nông thôn, với nhiều sửa đổi so với Nghị định 41 trước đó Nghị định này mở rộng đối tượng vay vốn, bao gồm cá nhân và hộ gia đình sống tại các thành phố, thị xã nhưng tham gia sản xuất và kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp.

Về đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài

Nhà nước đã xây dựng một hệ thống chính sách nhằm thúc đẩy việc làm ngoài nước, bao gồm các chương trình hỗ trợ toàn diện cho người lao động, đặc biệt là những người thuộc hộ nghèo Các quyết định quan trọng như Quyết định số 365/2004/QĐ-NHNN về cho vay vốn cho lao động đi làm việc ở nước ngoài, Quyết định số 143/2007/QĐ-TTg về quản lý Quỹ hỗ trợ việc làm ngoài nước, và Quyết định số 71/2009/QĐ-TTg phê duyệt Đề án hỗ trợ các huyện nghèo trong việc xuất khẩu lao động, đều góp phần quan trọng vào việc giảm nghèo bền vững giai đoạn 2009 - 2020.

Ngày 15 tháng 6 năm 2016, liên bộ Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Bộ Tài chính đã ban hành thông tư liên tịch số 09/2016/TTLT- BLĐTBXH-BTC hướng dẫn thực hiện một số điều về hỗ trợ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng quy định tại Nghị định số 61/2015/NĐ-CP về chính sách hỗ trợ tạo việc làm và Quỹ quốc gia về việc làm.

Thông tư này áp dụng cho các đối tượng lao động có nhu cầu làm việc ở nước ngoài, bao gồm người dân tộc thiểu số, người thuộc hộ nghèo và cận nghèo, thân nhân của người có công với cách mạng, cùng với những người thuộc hộ bị thu hồi đất.

Thông tư 09/2016/TTLT-BLĐTBXH-BTC quy định về việc hỗ trợ chi phí đào tạo nghề và ngoại ngữ, cũng như bồi dưỡng kiến thức cần thiết Mức hỗ trợ đào tạo nghề sẽ được tính theo chi phí thực tế, tuy nhiên không được vượt quá mức hỗ trợ đã quy định trong Quyết định số 46/2015/QĐ-TTg liên quan đến chính sách hỗ trợ đào tạo trình độ sơ cấp và đào tạo dưới 03 tháng.

Về cho phép lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam

Khi gia nhập WTO, Chính phủ Việt Nam đã mở cửa thị trường lao động cho lao động có kỹ thuật Nghị định số 34/2008/NĐ-CP ngày 25/3/2008 quy định về tuyển dụng và quản lý người nước ngoài làm việc tại Việt Nam, cùng với Nghị định số 46/2011/NĐ-CP ngày 17/6/2011 sửa đổi bổ sung, đã hỗ trợ đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước đối với các vị trí yêu cầu trình độ chuyên môn cao.

Vào ngày 03/02/2016, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Nghị định số 11/2016/NĐ-CP, quy định chi tiết về việc thực hiện một số điều của Bộ luật Lao động liên quan đến lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam.

Nghị định 11/2016/NĐ-CP quy định rõ về đối tượng áp dụng, bao gồm người lao động nước ngoài di chuyển nội bộ trong doanh nghiệp, tình nguyện viên, chuyên gia, nhà quản lý, giám đốc điều hành và lao động kỹ thuật Nghị định cũng xác định nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài và quy định về việc sử dụng lao động nước ngoài của nhà thầu, cũng như các quy định liên quan đến trường hợp lao động nước ngoài không cần cấp giấy phép lao động.

Nghị định 11/2016/NĐ-CP quy định về việc lao động là công dân nước ngoài làm việc tại Việt Nam thông qua nhiều hình thức, bao gồm thực hiện hợp đồng lao động, di chuyển nội bộ trong doanh nghiệp, ký kết hợp đồng kinh tế, thương mại, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, khoa học kỹ thuật, văn hóa, thể thao, giáo dục, giáo dục nghề nghiệp và y tế Ngoài ra, nghị định cũng áp dụng cho các nhà cung cấp dịch vụ theo hợp đồng, chào bán dịch vụ, làm việc cho tổ chức phi chính phủ nước ngoài và tổ chức quốc tế được phép hoạt động tại Việt Nam, cũng như tình nguyện viên, người chịu trách nhiệm thành lập hiện diện thương mại, và các nhà quản lý, giám đốc điều hành, chuyên gia, lao động kỹ thuật tham gia thực hiện các gói thầu, dự án.

Người sử dụng lao động nước ngoài bao gồm: Doanh nghiệp hoạt động theo Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư hoặc theo điều ước Quốc tế mà nước

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một thành viên quan trọng trong các hoạt động kinh tế, bao gồm cả nhà thầu nước ngoài và trong nước tham gia thầu và thực hiện hợp đồng Các tổ chức như văn phòng đại diện, chi nhánh doanh nghiệp, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, và tổ chức phi chính phủ quốc tế đều được cấp phép hoạt động tại Việt Nam Ngoài ra, các văn phòng dự án nước ngoài, văn phòng điều hành của nhà đầu tư nước ngoài, và các tổ chức hành nghề luật sư cũng hoạt động theo quy định pháp luật Hợp tác xã và hiệp hội được thành lập theo luật pháp Việt Nam, cùng với hộ kinh doanh và cá nhân có giấy phép, góp phần vào sự phát triển kinh tế của đất nước.

Đánh giá chính sách việc làm

Những thành tựu

Thứ nhất, hệ thống chính sách được ban hành ngày càng đầy đủ và hoàn thiện.

Việt Nam đã thông qua nhiều văn bản pháp luật quan trọng như Bộ luật Lao động 2012, Luật Việc làm, Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi), Luật Giáo dục nghề nghiệp và Luật An toàn vệ sinh lao động Từ năm 2012, Việt Nam cũng đã phê chuẩn ba công ước quốc tế về lao động, bao gồm Công ước 122 về Chính sách việc làm, Công ước lao động Hàng hải (MLC 2006) và Công ước 187 về khung chính sách thúc đẩy an toàn vệ sinh lao động Những nỗ lực này cho thấy Việt Nam đang từng bước đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế trong lĩnh vực lao động và việc làm.

Các chính sách việc làm đã được xây dựng toàn diện, bao gồm quyền và nghĩa vụ của người lao động, cũng như trách nhiệm của Nhà nước trong việc hỗ trợ việc làm thông qua các chương trình mục tiêu quốc gia và dự án cho vay giải quyết việc làm Bên cạnh đó, chính sách hỗ trợ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài cũng được chú trọng, với các hình thức cho vay tín dụng và bồi dưỡng kiến thức, nghề nghiệp trước khi xuất khẩu lao động.

Hệ thống chính sách việc làm đã thúc đẩy sự đa dạng hóa kết nối cung cầu lao động qua 150 trung tâm dịch vụ việc làm, tư vấn cho hơn 603 nghìn người tìm việc mỗi năm Nhiều địa phương tổ chức sàn giao dịch việc làm hiệu quả, góp phần phát triển thị trường lao động Điều này đã tạo cơ hội cho khoảng 200 nghìn lao động nông thôn di cư ra thành phố và các khu công nghiệp, khu chế xuất mỗi năm để tìm kiếm việc làm tốt hơn.

Thị trường lao động trong nước đang phát triển mạnh mẽ, với sự chú trọng vào việc giải quyết việc làm Sự gia tăng lao động đi làm việc ở nước ngoài không chỉ tăng về số lượng mà còn nâng cao chất lượng, mở rộng cơ hội cho người lao động.

Nhờ triển khai thực hiện nhiều chính sách, cơ chế mới trong giải quyết việc làm và phát triển thị trường lao động, trong 5 năm từ 2011-

Năm 2015, Việt Nam đã tạo việc làm cho hơn 7,8 triệu người, giảm tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị xuống dưới 4%, đồng thời giảm tỷ trọng lao động trong nông – lâm – thủy sản từ 50% năm 2010 xuống còn 40-41% Đối với lao động ngoài nước, Việt Nam đã khôi phục thị trường truyền thống và mở rộng thị trường mới, với hơn 500 ngàn lao động Việt Nam làm việc tại hơn 40 quốc gia, gửi về từ 1,6 - 2 tỷ USD mỗi năm Lao động Việt Nam đã tham gia vào các lĩnh vực mới yêu cầu chất lượng cao, như y tá và điều dưỡng tại Nhật Bản và Đức.

Thứ ba, Dạy nghề từng bước gắn với nhu cầu thị trường lao động, góp phần phát triển nguồn nhân lực đất nước.

Để thực hiện Chiến lược phát triển dạy nghề và Đề án đổi mới đến năm 2020, hệ thống cơ sở dạy nghề đã phát triển theo hướng xã hội hóa, với mục tiêu xây dựng hơn 40 trường nghề chất lượng cao Hiện cả nước có 1.463 cơ sở dạy nghề, trong đó khoảng 800 cơ sở ngoài công lập, tăng 205 cơ sở so với năm 2010 Chất lượng dạy nghề được cải thiện thông qua việc đầu tư tập trung vào các nghề trọng điểm, liên kết chặt chẽ với thị trường lao động Đề án dạy nghề cho lao động nông thôn (Đề án 1956) đã giúp gần 2,4 triệu người nâng cao kiến thức sản xuất và kinh doanh, tạo cơ hội chuyển đổi nghề nghiệp phù hợp với nhu cầu phát triển khu công nghiệp, góp phần vào xây dựng nông thôn mới và cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp theo hướng hàng hóa.

Trong 5 năm qua, kết quả dạy nghề đã đạt hơn 8,6 triệu người, tăng hơn 3 lần so với giai đoạn trước, góp phần nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo toàn quốc lên 51,6%, tăng 11,6% so với cuối năm 2010 Tỷ lệ sinh viên và học sinh học nghề có việc làm hoặc tự tạo việc làm sau khi tốt nghiệp đạt khoảng 70%, cho thấy sự gắn kết giữa dạy nghề và thị trường lao động.

Năm 2014, Việt Nam tổ chức thành công Kỳ thi tay nghề ASEAN lần thứ 10 và giành giải Nhất toàn đoàn Tại Kỳ thi tay nghề thế giới lần thứ 43 ở Sao Paulo, Brazil, học sinh nghề Việt Nam lần đầu tiên giành Huy chương Đồng, khẳng định sự phát triển mạnh mẽ của ngành dạy nghề Việt Nam và tạo ra nhiều cơ hội việc làm cho xã hội.

Cơ hội việc làm cho người lao động đang gia tăng, giúp giảm bớt áp lực trong bối cảnh lực lượng lao động ngày càng mở rộng.

Giai đoạn 2000-2010, quy mô lực lượng lao động tại Việt Nam đã tăng đáng kể, từ 39,3 triệu người vào năm 2000 lên 50,5 triệu người vào năm 2010 Tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 2,6% mỗi năm, gấp đôi tốc độ tăng dân số trong cùng thời kỳ.

Số lượng việc làm đang gia tăng, với sự tăng trưởng mạnh mẽ trong ngành công nghiệp và dịch vụ, vượt trội hơn so với ngành nông nghiệp Xu hướng này phản ánh quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa của nền kinh tế Bên cạnh đó, cơ cấu lao động theo nghề nghiệp cũng đang có những biến đổi đáng kể.

Dịch chuyển cơ cấu việc làm không chỉ diễn ra về số lượng mà còn về chất lượng Trong khi lao động ở một số ngành nghề như lãnh đạo, chuyên môn kỹ thuật bậc cao và nhân viên văn phòng không thay đổi nhiều, thì các ngành như dịch vụ cá nhân, bảo vệ và bán hàng kỹ thuật lại có sự tăng trưởng đáng kể, đặc biệt trong hai năm 2009 và 2010.

Lao động phổ thông tại Việt Nam đã giảm cả về số lượng tuyệt đối và tương đối trong những năm qua Cụ thể, năm 2007, cả nước có hơn 28 triệu lao động làm các nghề giản đơn, chiếm 61,7% tổng số lao động Đến năm 2010, con số này giảm xuống còn 19 triệu người, chỉ còn 39,5% Sự giảm sút này cho thấy Việt Nam đang trong quá trình chuyển mình từ phát triển theo chiều rộng sang phát triển theo chiều sâu.

Lao động tự làm và lao động trong hộ gia đình không hưởng lương đang chiếm tỷ lệ lớn và thường xuyên phải đối mặt với nguy cơ thiếu việc làm Chính sách việc làm cần chú ý đến nhóm lao động này, đặc biệt khi số lượng lao động tự làm đã giảm từ 21.792 nghìn người (46,9%) năm 2008 xuống 21.583 nghìn người (43,9%) năm 2010 Tương tự, lao động trong hộ gia đình không hưởng lương cũng giảm từ 8.519 nghìn người (18,3%) năm 2008 xuống 7.553 nghìn người (15,4%) năm 2010.

Thứ năm, việc làm tăng góp phần giảm nghèo và công bằng xã hội cũng được cải thiện.

Tỷ lệ nghèo chung của Việt Nam đã giảm mạnh từ 37,4% vào năm 1998 xuống còn 14% vào năm 2008 và tiếp tục giảm xuống 9,4% vào năm 2010 Sự giảm nghèo diễn ra ở cả khu vực thành thị và nông thôn, với tỷ lệ nghèo giảm từ hơn 45% năm 1998 xuống còn 13% năm 2010.

Những hạn chế chủ yếu và nguyên nhân

Hạn chế lớn nhất của chính sách việc làm hiện nay là tập trung chủ yếu vào việc tạo ra nhiều việc làm mà chưa chú trọng đến chất lượng Điều này dẫn đến việc không khuyến khích người lao động nâng cao trình độ và tay nghề của mình.

Tính đến ngày 01/7/2016, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của cả nước ước tính đạt 54,4 triệu người, trong đó chỉ có 10,8 triệu lao động đã qua đào tạo từ trình độ “Sơ cấp nghề” trở lên, chiếm 35,7% trong khu vực thành thị, gấp gần 3 lần so với khu vực nông thôn Tuy nhiên, hiện có đến 79,7% số người đang làm việc chưa được đào tạo chuyên môn kỹ thuật, dẫn đến tính ổn định và hiệu quả trong việc làm còn thấp Đây là thách thức lớn đối với người lao động trong việc tăng thu nhập và tiếp cận công bằng về cơ hội việc làm cũng như hòa nhập xã hội.

Thứ hai, chính sách về việc làm ban hành còn tản mạn ở nhiều văn bản gây chồng chéo.

Theo ông Gyorgy Sziraczki, Giám đốc Văn phòng ILO tại Việt Nam, mặc dù Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu ấn tượng, nhưng vẫn cần giải quyết những thách thức lớn như sự thiếu đồng bộ trong chính sách Ông nhấn mạnh rằng cần có sự hợp tác chặt chẽ và hiệu quả giữa các bộ, ngành để thúc đẩy môi trường thuận lợi và tạo ra nhiều việc làm tốt hơn Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội có vai trò quan trọng trong quản trị thị trường lao động, nhưng các chính sách kinh tế vĩ mô lại có tác động lớn hơn đến nhu cầu lao động Sự hợp tác liên bộ là cần thiết để đảm bảo tăng trưởng kinh tế không chỉ tạo thêm việc làm mà còn nâng cao chất lượng việc làm, đồng thời giúp tiết kiệm chi phí cho Chính phủ.

Các quy định trong chính sách việc làm hiện nay chưa đủ mạnh mẽ và chủ yếu tập trung vào việc hỗ trợ, khuyến khích mà chưa xác định rõ trách nhiệm của các đối tượng liên quan Nhiều chính sách hỗ trợ việc làm như miễn giảm thuế để khuyến khích doanh nghiệp tạo việc làm, hay khuyến khích lao động có chuyên môn làm việc ở nước ngoài vẫn thiếu hướng dẫn cụ thể Bên cạnh đó, chính sách hỗ trợ lao động sau khi trở về nước cũng cần được cải thiện để đáp ứng tốt hơn nhu cầu thực tiễn.

Chính sách tín dụng hiện tại chưa phù hợp với điều kiện vay và mức vay, dẫn đến việc thiếu sự liên kết giữa cho vay và hỗ trợ đầu vào tiếp cận thị trường, làm giảm hiệu quả sử dụng vốn Ngoài ra, sự chồng chéo của nhiều chính sách ưu đãi tín dụng đối với cùng một đối tượng gây khó khăn trong việc thực hiện và áp dụng vào thực tế.

Quỹ quốc gia giải quyết việc làm hiện đang chú trọng nhiều hơn vào việc hỗ trợ hộ gia đình vay vốn, trong khi sự hỗ trợ cho các doanh nghiệp để tạo ra việc làm mới lại bị hạn chế Hơn nữa, các quy định liên quan đến Quỹ giải quyết việc làm chưa được cập nhật kịp thời, dẫn đến nhiều khó khăn trong quá trình triển khai thực hiện.

Hệ thống chính sách hỗ trợ lao động di chuyển đến các khu công nghiệp và khu đô thị hiện còn thiếu sót, khiến đa số người dân di cư không được hưởng các chính sách hỗ trợ cần thiết để ổn định cuộc sống tại nơi đến Ngoài ra, một số quy định hiện hành còn hạn chế khả năng tiếp cận của người di cư đối với việc làm tốt và các dịch vụ xã hội cơ bản tại đô thị.

2.2 Nguyên nhân của những hạn chế

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến hạn chế của chính sách việc làm hiện nay.

Bộ luật Lao động, đặc biệt là Chương II về việc làm, là cơ sở pháp lý quan trọng nhất trong việc xây dựng chính sách việc làm tại Việt Nam Được hình thành trong bối cảnh nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Bộ luật này chỉ phản ánh những vấn đề sơ khai của quan hệ việc làm Mặc dù đã có sự sửa đổi và bổ sung vào năm 2002, cùng với việc ban hành một số văn bản Luật mới, nhưng sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế thị trường đã bộc lộ nhiều hạn chế trong quá trình thực hiện chính sách việc làm, đồng thời phát sinh những vấn đề mới cần được điều chỉnh trong một văn bản Luật thống nhất.

Việc thiếu định hướng và quy hoạch tổng thể cho phát triển việc làm dài hạn, cũng như quy hoạch vùng và ngành nghề sản xuất kinh doanh, đã dẫn đến sự chuyển dịch cơ cấu lao động chậm chạp Hiện nay, lao động chủ yếu tập trung trong lĩnh vực nông nghiệp hoặc khu vực phi chính thức, dẫn đến năng suất lao động và hiệu quả kinh tế thấp.

Chính sách việc làm chưa được thực hiện hiệu quả, với sự phối hợp chưa đồng bộ giữa các cơ quan trung ương và địa phương Mặc dù công tác tuyên truyền và phổ biến chính sách việc làm đã được chú trọng, nhưng kết quả vẫn chưa đạt được như kỳ vọng.

Hoạt động dịch vụ việc làm hiện nay chưa đạt yêu cầu chuyên nghiệp và khoa học, với các trung tâm và doanh nghiệp giới thiệu việc làm chủ yếu tập trung vào đào tạo nghề mà chưa chú trọng đến tư vấn và cung cấp thông tin thị trường lao động Sự phối hợp giữa các trung tâm giới thiệu việc làm và doanh nghiệp, cũng như giữa các trung tâm với người sử dụng lao động còn hạn chế, đặc biệt trong việc chia sẻ thông tin thị trường lao động, dẫn đến tình trạng thiếu kết nối thông tin giữa các vùng và địa phương.

Hoạt động đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài hiện chưa đạt hiệu quả mong muốn Đồng thời, các chương trình hỗ trợ người lao động trở về nước để tái hòa nhập thị trường lao động trong nước vẫn chưa được chú trọng đúng mức.

Hiện nay, việc giải quyết vấn đề việc làm cần tập trung vào chất lượng và tính bền vững, bao gồm “việc làm bền vững” và “việc làm xanh”, thay vì chỉ chú trọng vào chỉ tiêu “tạo việc làm mới” có nhiều hạn chế Những khó khăn trong phương thức tính toán, thiếu sự phân biệt theo ngành nghề, giới tính và khu vực nông thôn/thành thị, cũng như độ tin cậy thấp và thiếu tính so sánh quốc tế, đã dẫn đến phản ánh không chính xác với thực tế Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế này bao gồm việc thiếu cơ sở dữ liệu quản lý dân cư, hệ thống thống kê báo cáo chưa khoa học, sự khó khăn trong việc phân tích sự dịch chuyển lao động và việc làm mới- cũ, cùng với tính pháp lý chưa đủ mạnh để yêu cầu các tổ chức và cá nhân thực hiện chế độ thống kê và báo cáo một cách nghiêm túc.

3 Giải pháp giải quyết khó khăn, hạn chế của chính sách việc làm

Theo dự báo của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, lực lượng lao động Việt Nam sẽ tăng chậm trong giai đoạn 2011-2015 với mức tăng bình quân 860 ngàn người/năm, và giai đoạn 2016-2020 chỉ đạt 743 ngàn người/năm Mặc dù số việc làm vẫn tiếp tục gia tăng, nhưng tốc độ tăng trưởng đã giảm, chỉ đạt 1,39%/năm so với 2,40%/năm trong giai đoạn 2000-2010 Dự kiến, tổng số lao động có việc làm sẽ đạt 53,25 triệu người vào năm 2015 và 56,48 triệu người vào năm 2020.

Số lượng việc làm tăng trung bình 815 nghìn/năm thời kỳ 2011-2015 và

Từ năm 2012 đến 2015, trung bình mỗi năm có 1,6 triệu lao động mới được tạo ra, trong đó khoảng 300 nghìn lao động đến từ Chương trình mục tiêu quốc gia về Việc làm và dạy nghề cùng với Chương trình việc làm công.

Ngày đăng: 15/12/2021, 01:59

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
3. Giáo trình Chính sách xã hội – Học viện Báo chí và Tuyên truyền Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chính sách xã hội
1. Tài liệu thống kê hàng quý của Tổng cụ thống kê các năm 2. Báo lao động, báo dân trí, báo thanh niên Khác
4. Cổng thông tin điện tử viện nghiên cứu lập pháp Khác
5. Kết quả điều tra Biến động dân số và Kế hoạch hóa gia đình 2013; Ủy ban Dân số Kế hoạch hóa gia đình; Tổng cục Thống kê 6. Trung tâm dự báo nguồn nhân lực TP HCM Khác
7. TCTK (2015, 2016), Điều tra LĐ-VL hằng quý Khác

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Bảng số liệu trên cho thấy tỷ lệ người chưa qua đào cần tìm việc rất  nhiều và có sự mất cân bằng rất lớn giữa các đối tượng tuyển dụng - Môn chính sách xã hội chính sách việc làm thực trạng và giải pháp
Bảng s ố liệu trên cho thấy tỷ lệ người chưa qua đào cần tìm việc rất nhiều và có sự mất cân bằng rất lớn giữa các đối tượng tuyển dụng (Trang 12)
Bảng 3. Số lượng và cơ cấu việc làm - Môn chính sách xã hội chính sách việc làm thực trạng và giải pháp
Bảng 3. Số lượng và cơ cấu việc làm (Trang 13)
Hình 6. Số lượng và tỷ lệ thiếu việc làm của LLLĐ trong độ tuổi lao động, quý 4/2016 - Môn chính sách xã hội chính sách việc làm thực trạng và giải pháp
Hình 6. Số lượng và tỷ lệ thiếu việc làm của LLLĐ trong độ tuổi lao động, quý 4/2016 (Trang 15)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w