PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Học thuyết Pháp trị của Trung Quốc ra đời đã trên 2000 năm, mặc dù có nhiều hạn chế do lịch sử, do bản chất giai cấp nhưng vẫn toát lên được những giá trị thực tiễn mà ngày nay vẫn áp dụng và phát huy được trong công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền. Học thuyết Pháp trị bên cạnh việc nêu ra vai trò của pháp luật và vị thế của người đúng đầu nhà nước còn có một thành tố hết sức cơ bản là đưa ra những phương pháp, cách thức để quản lý nhà nước, đó là thuật cai trị. Trong sự vận hành của nhà nước dù là chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa hay xã hội chủ nghĩa thì những người đứng đầu nhà nước đều cần có sự quản lý, đặc biệt là vấn đề quản lý con người, đó được xem như nhân tố quyết định của quản lý nhà nước. Ngày nay, trước xu thế hội nhập của thế giới, Việt Nam đang chuyển mình để hoà chung vào xu thế đó, vì vậy đòi hỏi phải có một nền chính trị khoa học, hiện đại. Nền chính trị đó phải được xây dựng bởi những con người có tri thức, có tài năng như thế nào thì tất cả phải được vận hành dưới sự quản lý từ cao đến thấp. Trong nhà nước Pháp quyền XHCN như ở nước ta đội ngũ cán bộ chính là những người chịu trách nhiệm quản lý đó, nên cần và rất cần thiết trong quản lý phải có một nghệ thuật quản lý sử dụng người hiện đại. Ta có thể tìm thấy rất nhiều kinh nghiệm phong phú và bổ ích, cũng như hoàn toàn có thể áp dụng một cách linh hoạt nghệ thuật quản lý con người trong tư tưởng về thuật cai trị của Hàn Phi Tử. Hơn nữa, tư tưởng chính trị của Hàn Phi Tử cũng là một nội dung quan trọng trong nghiên cứu lịch sử tư tưởng chính trị. Chính vì lý do đó mà em chọn đề tài: Thuật cai trị trong tư tưởng Hàn Phi Tử và việc vận dụng trong quản lý cán bộ ở nước ta hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Về vấn đề quản lý nhà nước cũng như quản lý con người trước nay đã có nhiều công trình khoa học, bài viết đề cập đến như: Đặng Huy Trú: Bàn về vấn đề trị nước của người xưa, Nxb văn hóa thông tin, Hà nội, 2002. Lương Xuân Quý (chủ biên): Quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb lý luận chính trị, Hà nội, 2006. Nguyễn Anh Tuấn (chủ biên): Vấn đề quản lý nhà nước trong triết học Trung Quốc cổ đại, Nxb Đồng Nai, 2002. Tuy nhiên, do quá trình tìm kiếm tài liệu của em chưa thu thập đầy đủ hết những tài liệu và bài viết về vấn đề em nghiên cứu nên trong quá trình viết có thể chưa cập nhật đầy đủ và phản ánh chọn vẹn, chính xác ý nghĩa của vấn đề, em cũng mong rằng qua những gì em sưu tầm và trình bày sẽ góp phần tìm ra những giá trị trong tư tưởng của Hàn Phi Tử về Thuật cai trị mà đến nay vẫn còn có ý nghĩa thực tiễn đối với việc quản lý con người ở nước ta hiện nay.
PHẦN MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Học thuyết Pháp trị của Trung Quốc, ra đời hơn 2000 năm, mặc dù còn nhiều hạn chế do lịch sử và bản chất giai cấp, vẫn mang lại những giá trị thực tiễn có thể áp dụng trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay Nó không chỉ nhấn mạnh vai trò của pháp luật và vị thế của người đứng đầu nhà nước, mà còn đề xuất các phương pháp quản lý nhà nước, được gọi là thuật cai trị Trong mọi hình thức nhà nước, từ chiếm hữu nô lệ đến xã hội chủ nghĩa, việc quản lý con người luôn là yếu tố quyết định cho sự thành công của quản lý nhà nước.
Trong bối cảnh hội nhập toàn cầu, Việt Nam cần xây dựng một nền chính trị hiện đại và khoa học, điều này đòi hỏi sự lãnh đạo từ những người có tri thức và tài năng Đội ngũ cán bộ trong nhà nước Pháp quyền XHCN có vai trò quan trọng trong quản lý, vì vậy việc áp dụng nghệ thuật quản lý hiện đại là rất cần thiết Nghiên cứu về tư tưởng cai trị của Hàn Phi Tử cung cấp nhiều kinh nghiệm quý báu, có thể linh hoạt áp dụng vào thực tiễn quản lý cán bộ tại Việt Nam hiện nay Do đó, đề tài "Thuật cai trị trong tư tưởng Hàn Phi Tử và việc vận dụng trong quản lý cán bộ ở nước ta hiện nay" trở nên rất ý nghĩa và cần thiết.
Tình hình nghiên cứu đề tài
Về vấn đề quản lý nhà nước cũng như quản lý con người trước nay đã có nhiều công trình khoa học, bài viết đề cập đến như:
- Đặng Huy Trú: "Bàn về vấn đề trị nước của người xưa", Nxb văn hóa thông tin, Hà nội, 2002.
Lương Xuân Quý, trong tác phẩm "Quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam", đã phân tích sâu sắc vai trò của quản lý nhà nước trong bối cảnh nền kinh tế thị trường tại Việt Nam Xuất bản năm 2006 bởi Nxb lý luận chính trị tại Hà Nội, cuốn sách cung cấp những luận điểm quan trọng về cách thức quản lý và điều tiết kinh tế nhằm đảm bảo phát triển bền vững và công bằng xã hội trong nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Nguyễn Anh Tuấn (chủ biên): "Vấn đề quản lý nhà nước trong triết học Trung Quốc cổ đại, Nxb Đồng Nai, 2002.
Mặc dù quá trình tìm kiếm tài liệu của tôi chưa thu thập đầy đủ các nguồn liên quan đến nghiên cứu, tôi hy vọng rằng những thông tin đã sưu tầm sẽ giúp làm rõ giá trị tư tưởng của Hàn Phi Tử về "Thuật cai trị" Những ý tưởng này vẫn còn nguyên giá trị thực tiễn trong việc quản lý con người tại Việt Nam hiện nay.
Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
Đề tài này nhằm nghiên cứu sâu về nội dung của thuật cai trị trong tư tưởng của Hàn Phi Tử và phân tích thực trạng đội ngũ cán bộ ở Việt Nam Từ đó, đề tài sẽ đưa ra các giải pháp áp dụng những ý nghĩa của tư tưởng này vào quản lý và xây dựng đội ngũ cán bộ hiện nay Để đạt được mục tiêu này, cần thực hiện tốt các nhiệm vụ đã đề ra.
- Nêu nội dung tư tưởng về thuật cai trị của Hàn Phi Tử
- Đánh giá tình hình quản lý cán bộ ở nước ta hiện nay
- Đưa ra những giá trị thực tiễn và những giải pháp để vận dụng tư tưởng về "Thuật" vào quản lý cán bộ hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu
Bài viết "Thuật cai trị trong tư tưởng Hàn Phi Tử và việc vận dụng trong quản lý cán bộ ở nước ta hiện nay" nghiên cứu lịch sử xã hội Trung Quốc cổ đại, đặc biệt là tư tưởng chính trị của Hàn Phi Tử về thuật cai trị Tác giả đã tham khảo nhiều tư liệu về tình trạng quản lý cán bộ tại Việt Nam hiện nay, từ đó đưa ra những ý kiến và giải pháp nhằm áp dụng các giá trị thiết thực của tư tưởng Hàn Phi Tử vào nghệ thuật quản lý cán bộ ở nước ta.
Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: đề tài sử dụng phương pháp luận Macxit là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
- Phương pháp chung: lôgic - lịch sử, phân tích hệ thống.
Bài viết sử dụng một số phương pháp nghiên cứu đặc thù như khảo sát, quan sát trực tiếp, và nghiên cứu tài liệu để đưa ra đánh giá, kết luận, phân tích tổng hợp và so sánh.
6 Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo thì nội dung của đề tài gồm 3 chương:
Chương I: Tình hình kinh tế xã hội Trung Quốc cổ đại và sự xuất hiện tư tưởng về thuật cai trị của Hàn Phi Tử.
Chương II: Nội dung của thuật cai trị trong tư tưởng của Hàn Phi Tử.Chương III: Vận dụng giá trị của thuật cai trị trong việc quản lý cán bộ ở nước ta hiện nay.
Kết cấu của tiểu luận
TÌ NH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI VÀ
SỰ XUẤT HIỆN TƯ TƯỞNG VỀ THUẬT CAI TRỊ CỦA HÀN PHI TỬ
1 Tình hình kinh tế - xã hội Trung Quốc cổ đại
Trung Quốc, một quốc gia lớn ở Đông Nam Á, có hai con sông lớn là Trường Giang ở phía nam và Hoàng Hà ở phía bắc Lưu vực của hai con sông này đã trở thành cái nôi của nền văn minh Trung Quốc từ rất sớm trong lịch sử.
Trung Quốc cổ đại, kéo dài từ thế kỷ XXI TCN đến cuối thế kỷ III TCN, được chia thành ba thời kỳ tương ứng với ba vương triều lớn: Hạ, Thương và Chu.
Thời kỳ Hạ (thế kỷ XXI - XVI TCN) đánh dấu giai đoạn đầu của lịch sử Trung Quốc, khi đất nước chỉ mới biết đến đồng đỏ và chưa phát triển chữ viết Sau bốn thế kỷ, triều đại Hạ kết thúc dưới triều đại vua Kiệt, một bạo chúa nổi tiếng, và không để lại dấu tích cụ thể nào cho lịch sử.
Thương, hay còn gọi là Ân, tồn tại từ thế kỷ XVI đến XII TCN, là thời kỳ mà Trung Quốc bắt đầu sử dụng đồng thau và phát minh ra chữ viết Trong giai đoạn này, người dân đã tạo ra lịch nông nghiệp và biết quan sát sự vận hành của mặt trăng, đồng thời tính toán chu kỳ dâng nước của sông.
Triều Chu (thế kỷ XI - III TCN) được chia thành hai thời kỳ: Tây Chu và Đông Chu Từ khi thành lập cho đến năm 771 TCN, triều Chu đóng đô ở Cảo Kinh, giai đoạn này được gọi là Tây Chu, khi xã hội Trung Quốc tương đối ổn định Năm 771 TCN, nhà Chu chuyển đô về Lạc Ấp ở phía đông, đánh dấu sự khởi đầu của thời kỳ Đông Chu, bao gồm hai giai đoạn: Xuân Thu (772 - 476 TCN) và Chiến Quốc (475 - 221 TCN).
481 TCN) và Chiến Quốc (403 - 221 TCN).
Tình hình kinh tế - xã hội Trung Quốc cổ đại và sự xuất hiện tư tưởng về thuật cai trị của Hàn Phi Tử
Tình hình kinh tế - xã hội Trung Quốc cổ đại
Trung Quốc, một quốc gia lớn ở Đông Nam Á, đã có một lịch sử dài và phong phú Trên lãnh thổ của mình, hai con sông lớn là Trường Giang ở phía nam và Hoàng Hà ở phía bắc chảy qua, tạo nên những lưu vực quan trọng Những lưu vực này đã sớm trở thành cái nôi của nền văn minh Trung Quốc.
Trung Quốc cổ đại, kéo dài từ thế kỷ XXI TCN đến cuối thế kỷ III TCN, được chia thành ba thời kỳ chính tương ứng với ba vương triều lớn: Hạ, Thương và Chu.
Thời kỳ Hạ (thế kỷ XXI - XVI TCN) đánh dấu giai đoạn đầu của nền văn minh Trung Quốc, khi mà đồng đỏ là kim loại duy nhất được biết đến và chữ viết vẫn chưa xuất hiện Sau bốn thế kỷ, triều đại Hạ kết thúc dưới triều vua Kiệt, một bạo chúa nổi tiếng, và không để lại nhiều dấu tích lịch sử cụ thể.
Thương, hay còn gọi là Ân, tồn tại từ thế kỷ XVI đến XII TCN, là một thời kỳ quan trọng trong lịch sử Trung Quốc Trong giai đoạn này, người dân đã biết sử dụng đồng thau, phát minh ra chữ viết và xây dựng lịch nông nghiệp Họ cũng đã quan sát được sự vận hành của mặt trăng và tính chu kỳ dâng nước của sông, thể hiện sự tiến bộ vượt bậc trong nhận thức khoa học và nông nghiệp.
Triều Chu (thế kỷ XI - III TCN) được chia thành hai thời kỳ chính: Tây Chu và Đông Chu Từ khi thành lập cho đến năm 771 TCN, triều Chu đóng đô ở Cảo Kinh, được gọi là Tây Chu, thời kỳ này chứng kiến xã hội Trung Quốc tương đối ổn định Năm 771 TCN, nhà Chu chuyển đô về Lạc Ấp ở phía đông, từ đó được gọi là Đông Chu, bao gồm hai thời kỳ là Xuân Thu (772 - 481 TCN) và Chiến Quốc (475 - 221 TCN).
481 TCN) và Chiến Quốc (403 - 221 TCN).
Thời Đông Chu đánh dấu sự chuyển biến từ chế độ công xã nguyên thủy sang chế độ phong kiến, với sự phát triển mạnh mẽ của đồ sắt, tạo ra cuộc cách mạng trong công cụ sản xuất Nông dân được hỗ trợ trong việc trồng hai vụ lúa nhờ vào hệ thống thủy lợi phát triển Các ngành nghề như khai khoáng, chế tác kim loại, sản xuất muối, dệt vải và đan lát cũng phát triển, dẫn đến sự xuất hiện của các trung tâm buôn bán và đô thị, cùng với việc mở rộng hệ thống giao thông.
1.2 Về chính trị - xã hội
Nhà Chu đã thiết lập một trật tự xã hội theo kiểu Tông, trong đó thiên tử là người đứng đầu, thay trời trị dân Các nước chư hầu do thiên tử lập ra được gọi là tông quốc, thể hiện mối liên hệ huyết thống chung Tông pháp, với bản chất là chế độ thống trị dựa trên huyết thống của một dòng họ, phản ánh đặc trưng của chính trị nhà Chu và là di sản của chế độ thị tộc Điều này cho thấy tính bảo thủ và lạc hậu của ý thức xã hội so với sự phát triển của xã hội Phương Đông.
Nhà Chu đã thiết lập nền thống trị qua chế độ Tông pháp, đạt đỉnh cao vào thời Tây Chu, nhưng từ năm 770 TCN, do nhiều nguyên nhân, nhà Chu phải dời đô sang Lạc ấp, dẫn đến sự suy yếu dần và mất kiểm soát các nước chư hầu Các nước chư hầu lợi dụng danh nghĩa "tôn Vương" để mở rộng quyền lực, gây ra sự tan rã của chế độ Tông pháp, mở đầu cho thời kỳ khủng hoảng xã hội và chiến tranh kéo dài giữa các nước chư hầu trong suốt 5 thế kỷ Sự ra đời của đồ sắt đã tạo ra bước nhảy vọt trong sản xuất, làm nảy sinh mâu thuẫn với quan hệ sản xuất ban đầu, dẫn đến sự tan rã của chế độ Tông pháp.
Đàm Gia Khiêm trong tác phẩm "Lịch sử văn hoá Trung Quốc" đã chỉ ra rằng các cuộc tranh giành quyền lực và khủng hoảng xã hội trong lịch sử Trung Hoa cổ đại xuất phát từ những nguyên nhân nội tại Sự biến động này phản ánh quá trình chuyển đổi từ hình thái xã hội nô lệ suy tàn sang hình thái xã hội phong kiến tập quyền đang trong giai đoạn hình thành.
Trong bối cảnh xã hội Trung Quốc đang trải qua những biến động lớn, các giá trị chuẩn mực cũ đang bị băng hoại trong khi những chuẩn mực mới chưa được xác định rõ ràng Điều này dẫn đến sự rối loạn trong trật tự lễ nghĩa và cường xã hội, tạo ra một cuộc khủng hoảng sâu sắc về chính trị, xã hội và đạo đức Sự thay đổi kinh tế xã hội đã khiến một bộ phận quý tộc cũ mất địa vị và chuyển sang làm thầy, từ đó họ đóng vai trò quan trọng trong việc truyền tải văn hóa quan phương Từ phong trào này, lớp kẻ sĩ xuất hiện cùng với một trào lưu học thuật và tự do tư tưởng, đại diện cho lợi ích của các tầng lớp xã hội khác nhau, như Lão Tử, Khổng Tử, Mặc Tử và Hàn Phi Tử với các học thuyết tương ứng.
Hiện thực xã hội hiện nay yêu cầu các học thuyết đưa ra giải pháp khôi phục trật tự Lão Tử cho rằng xã hội hỗn loạn là do con người vi phạm quy luật tự nhiên, vì vậy ông khuyên mọi người sống "vô vi" và trở về với tự nhiên Trang Tử có quan điểm bi quan hơn, mong muốn thoát ly thực tại Trong khi đó, Khổng Tử cho rằng sự suy đồi của xã hội xuất phát từ việc buông lỏng lễ chế nhà Chu, do đó ông đề xuất khôi phục lễ và thực hiện đức trị Hơn 200 năm sau, Mạnh Tử tiếp tục tư tưởng của Khổng Tử, kêu gọi các nhà lãnh đạo theo con đường Vương Đạo Mặc Tử thì lại nhấn mạnh vào chủ trương kiêm ái, kêu gọi xây dựng một xã hội hòa bình.
Đỗ Đức Minh trong bài viết "Về nguyên nhân ra đời của học thuyết Pháp trị ở Trung Quốc" đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị tháng 12 năm 2003, nhấn mạnh rằng học thuyết này xây dựng xã hội dựa trên tình thương không phân biệt giai cấp Mặc Tử, cùng với hàng nghìn đệ tử của ông, đã nỗ lực truyền bá tư tưởng này trong một thời gian dài, nhưng cuối cùng lại không nhận được sự trọng dụng từ xã hội.
Khổng Tử, Mặc Tử và Mạnh Tử là những nhà tư tưởng vĩ đại, nhiệt huyết trong việc cứu giúp nhân loại, nhưng họ đều thất bại do đứng trên lập trường của những giai cấp đã suy tàn Khổng Tử đại diện cho quý tộc cũ, trong khi Mặc Tử đại diện cho quý tộc bình dân, cả hai đều không còn vai trò tiên phong trong lịch sử Học thuyết của họ mang tính không tưởng và không đáp ứng được yêu cầu của thời đại, dẫn đến sự bế tắc lý luận, góp phần làm sâu sắc thêm khủng hoảng xã hội.
Lịch sử Trung Quốc đã thử nghiệm nhiều học thuyết như "Đức trị", "Vô Vi trị", và "Kiêm ái", nhưng đều không đáp ứng được yêu cầu thời cuộc Trong bối cảnh khó khăn, học thuyết Pháp trị xuất hiện như một giải pháp mới, nhanh chóng được chấp nhận và trở thành công cụ lý luận quan trọng của nhà Tần trong việc giải quyết hỗn loạn và thống nhất đất nước Dù ra đời muộn, Pháp trị đã kịp thời đáp ứng yêu cầu lịch sử, chiếm lĩnh chính trường và cùng với sự sụp đổ của nhà Tần, nó để lại dấu ấn sâu sắc trong lịch sử.
Học thuyết Pháp trị, đạt đỉnh cao tư tưởng chính trị - pháp lý cổ đại, được hình thành từ sự thống nhất của ba học phái: Pháp của Thương Ưởng, Thế của Thận Đáo và Thuật của Thân Bất Hại Mặc dù không được phát triển liên tục qua các thời kỳ như những học thuyết khác, nhưng dưới góc độ khoa học pháp lý hiện đại, học thuyết này vẫn mang lại những giá trị tư tưởng bổ ích cho việc nghiên cứu và hiểu biết về pháp luật.
(1) Đỗ Đức Minh: Học thuyết Pháp trị Trung Quốc cổ đại – một số tư tưởng cơ bản, Tạp chí nghiên cứu pháp luật số 2, 2/2002
Thuật cai trị - một trong ba thành tố cơ bản của học thuyết Pháp trị
2.1 Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng về thuật cai trị
Đạo Gia, được sáng lập bởi Lão Tử (580 - 500 TCN), nhấn mạnh tư tưởng "Vô vi nhi trị", khuyến khích việc để xã hội phát triển tự nhiên mà không can thiệp Quan điểm này cho rằng sự ổn định của xã hội sẽ được duy trì nếu không có sự can thiệp Lão Tử đã tổng kết 4 hình thức cai trị, phản ánh triết lý quản lý xã hội của ông.
+ Dùng Vô vi: dân sống tự nhiên; yên ổn; cai trị đơn giản
+ Dùng đức: giáo hoá dân; dân nghe theo mà ca ngợi
+ Dùng pháp: dân theo; nhưng vì sợ hãi mà theo
Ông chủ trương cai trị bằng phương pháp Vô vi, tức là không sử dụng trí tuệ hay mưu mẹo trong việc quản lý, vì cho rằng điều này hợp lẽ với tự nhiên Khi áp dụng pháp luật hay mưu lừa gạt, dân sẽ tìm cách lẩn tránh, dẫn đến sự phản đối khi họ nhận ra sự lừa dối Ông giới thiệu khái niệm "Tri túc", nghĩa là biết đủ để điều chỉnh hành vi con người, nhấn mạnh rằng sự hiểu biết quá mức và lòng tham sẽ gây ra hỗn loạn.
Khổng Tử (551 - 478 TCN), người sáng lập Nho giáo, có tên thật là Khổng Khâu và tự là Trọng Ni, đến từ nước Lỗ Ông đưa ra thuyết "chính danh định phận" nhằm giải quyết vấn đề cai trị con người, với những nội dung cơ bản thể hiện rõ sự quan trọng của danh phận trong xã hội.
Theo ông, việc giữ danh phận là yếu tố then chốt để xây dựng nền chính trị thời "Thiên hạ có đạo" Để thực hiện chính sự, trước tiên cần xác định danh phận của các đẳng cấp xã hội theo lễ chế nhà Chu Ông nhấn mạnh rằng mọi người cần tự giác giữ gìn danh phận của mình, từ Thiên tử, Chư hầu, Đại phu đến kẻ sĩ, đều phải tu dưỡng đạo nhân Đặc biệt, người cai trị cần phải chính mình trước, vì nếu không thể chính mình thì làm sao có thể chính người khác?
Khổng Tử cho rằng quan niệm chính danh của ông là ảo tưởng, bởi vì trong xã hội đương thời, danh và thực mâu thuẫn nhau một cách sâu sắc Đời sống xã hội đã trải qua nhiều biến đổi, khiến cho các danh phận cũ theo lễ chế nhà Chu không còn phù hợp Chính vì vậy, việc thực hiện quan niệm này trở nên không khả thi.
Mạnh Tử (372 - 289 TCN) là người kế thừa và phát triển tư tưởng của Khổng Tử, nhấn mạnh "vương đạo" trong cai trị, trái ngược với "bá đạo" Ông cho rằng vương đạo dựa trên nhân nghĩa, trong khi bá đạo chỉ tìm kiếm lợi ích cá nhân, dẫn đến rối ren xã hội Mối quan hệ giữa vua, xã tắc và dân được ông khẳng định qua quan điểm "dân vi quý; xã tắc thứ chi; quân vi khinh" Mạnh Tử cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tuyển chọn và đào tạo người cai trị, khẳng định rằng trị nước là một nghề cao quý Ông cảnh báo rằng không phải tất cả những người gần gũi đều là hiền, mà cần phải xem xét thực chất Sự thi hành nhân chính đối với nhân dân là cốt lõi của vương đạo, thể hiện sự tiến bộ trong học thuyết "vương chính".
Tuân Tử (315-230 TCN), tên thật là Huống, tự là Khanh, là một nhân vật nổi bật sống vào cuối thời Chiến Quốc, trong bối cảnh chiến tranh "thất hùng" đang đi đến giai đoạn cuối Thời kỳ này chứng kiến xã hội loạn lạc, dân chúng phải chịu đựng nhiều khổ cực do chiến tranh Chính vì vậy, Tuân Tử rất coi trọng việc xây dựng nền chính trị dựa trên hiền tài và quản lý đất nước bằng "lễ" và "luật".
Theo Tuân Tử, chính trị vương đạo cần trọng dụng người hiền, những người có khả năng cai trị Ông nhấn mạnh rằng người hiền tài phải được đặt ở vị trí xứng đáng, trong khi kẻ bất tài phải chấp nhận vị trí thấp hơn Việc chọn người hiền tài là cách thực hiện “lễ” và “luật” trong chính trị vương đạo Tuân Tử cho rằng những tư tưởng sai lệch và ngôn luận không đúng đắn cản trở “chính danh” và phá hoại “lễ nghĩa”, vì vậy cần sử dụng quyền lực để quyết định thay vì tranh luận Mặc dù quan điểm của ông về chính trị hiền tài và cai trị bằng pháp luật là tiến bộ, nhưng tư tưởng luật pháp của ông cũng có xu hướng chuyên chế, đánh dấu sự chuyển tiếp từ “nhân trị” sang “pháp trị” như Hàn Phi Tử đã đề cập trong thời kỳ Tiên Tần.
Tư tưởng Pháp trị đã xuất hiện từ thời Xuân Thu, với những nhân vật tiêu biểu như Quản Trọng và Tử Sản Quản Trọng được xem là người sáng lập phái pháp gia Đến thời Chiến Quốc, tư tưởng này phát triển mạnh mẽ với các đại biểu như Thận Đáo, Thân Bất Hại, Thương Ưởng và Hàn Phi Tử Bài viết này sẽ tập trung vào những tư tưởng chính liên quan đến nghệ thuật cai trị đất nước của các nhân vật này.
Quản Trọng (Quản Di Ngô) là một trong những đại biểu tiêu biểu đầu tiên của phái pháp gia, từng giữ chức tướng quốc nước Tề và đóng vai trò quan trọng trong việc giúp vua Tề Hoàn Công trở thành bá chủ đầu tiên ở Trung Quốc Ông nhấn mạnh rằng pháp luật do vua ban hành phải được tuân thủ bởi tất cả mọi người, không phân biệt vua tôi, giàu nghèo Để thực thi pháp luật hiệu quả, dân chúng cần phải hiểu biết về luật pháp, biết làm đúng và tránh làm sai, đồng thời phải được thưởng phạt công bằng Quản Trọng còn cho rằng dân có quyền dùng pháp luật để tranh luận với những người thi hành pháp luật.
Thận Đáo (370-290 TCN) là một triết gia người nước Triệu, chịu ảnh hưởng từ triết học Lão Tử, ông nhấn mạnh việc cai trị bằng pháp luật, coi pháp luật là công cụ khách quan và vô tri Ông đề cao quyền lực của người đứng đầu, cho rằng sức mạnh và địa vị là yếu tố quyết định trong việc điều hành xã hội, đồng thời chỉ trích chủ nghĩa nhân trị của Nho giáo Theo ông, nếu vua Nghiêu chỉ là người thường thì không thể quản lý ba người, trong khi vua Kiệt, dù có thể là kẻ xấu, vẫn có khả năng cai trị thiên hạ Từ đó, ông khẳng định rằng thế lực và địa vị có thể khuất phục lòng người, trong khi tài năng và trí tuệ không nhất thiết phải được tôn vinh.
Thương Ưởng (? – 338 TCN) là một nhân vật quan trọng trong lịch sử tư tưởng pháp trị, được thể hiện qua tác phẩm “Thương Quân” Ông chia lịch sử xã hội loài người thành ba giai đoạn, phản ánh quan điểm của mình về sự phát triển của pháp luật và quản lý xã hội.
Giai đoạn 1: “Thượng Thế”_thời đại lấy mẫu hệ làm đơn vị
Giai đoạn 2: “Trung Thế”_thời đại lấy “chủ nghĩa nhân trị” của nhà nước cổ đại
Giai đoạn 3: "Hạ Thế" đánh dấu thời đại quan trị với chủ trương thay đổi chế độ và thiết lập pháp luật Ông đề ra phương châm pháp luật ba điểm: đầu tiên, xác nhận tính hợp pháp của việc chiếm hữu ruộng đất thông qua mua bán; thứ hai, khẳng định quyền bình đẳng của các tầng lớp trong giai cấp địa chủ phong kiến trước pháp luật; và cuối cùng, thiết lập chủ nghĩa chuyên chế trung ương tập quyền cai trị bằng pháp luật.
Thương Ưởng đã đến nước Tần để hỗ trợ vua Tần Hiếu Công thực hiện các cải cách chính trị Ông thiết lập một nhà nước phong kiến trung ương tập quyền, quản lý bằng luật pháp nghiêm ngặt, đồng thời xoá bỏ tình trạng cát cứ phong kiến Thương Ưởng đã thiết lập các quận, huyện và chức quan theo sự điều hành của chính quyền trung ương, tạo nền tảng cho sự thống nhất của nước Tần và Trung Quốc.
Hàn Phi Tử là công tử nước Hàn, ông theo học Tuân Tử;cùng học có Lý
Tư Mã Tư, thừa tướng nước Tần, là một người học rộng, hiểu sâu và yêu nước, luôn mong muốn củng cố sức mạnh cho nước Hàn thông qua chủ trương pháp trị của mình, nhưng không thành công Ông đã viết sách về việc trị nước và dâng lên Tần Thủy Hoàng Sau khi đọc, vua Tần rất khâm phục và thừa nhận: "Ta được làm bạn với con người này, có chết cũng không uổng." Hàn Phi được giao nhiệm vụ làm sứ giả sang Tần để thuyết phục, nhằm cứu nước Hàn khỏi sự tiêu diệt của nước Tần, nhưng ông đã bị Lý
Nội dung của thuật cai trị trong tư tưởng Hàn Phi Tử
Nguyên tắc cơ bản trong thuật dùng người
1.1 Sử dụng người tận trung tận lực
Thời xưa, những người tận tụy phục vụ vua, cống hiến hết mình cho triều đình được gọi là trung thần Vậy thế nào mới được xem là bậc trung thần theo quan điểm của Hàn Phi?
Tử viết rằng bậc trung thần là những người tận tâm, tận lực phò vua, giúp đất nước yên ổn và danh tiếng để lại cho đời sau Hàn Phi trong chương Hữu Độ nhấn mạnh rằng người hiền không có hai lòng, luôn sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ mà không từ chối việc hèn kém hay khó khăn Họ phải nghe theo mệnh lệnh của bề trên mà không bàn luận việc riêng Bề tôi được ví như cánh tay, phục vụ vua để cai trị đất nước hiệu quả Ngược lại, bậc nghịch thần không nghe lệnh vua, lập bè phái và che giấu chính đạo, gây rối bên trong và làm loạn việc cai trị Những bậc bầy tôi này chỉ có vua thánh, chúa khôn mới có thể quản lý.
(2) Sđd: quyển II, tr.56 ngoan mới có thể cấm được, những ông vua hôn loạn làm sao thấy được cái gian của họ” (1)
1.2 Dùng thuật “vô vi” quản lí bề tôi
Hàn Phi Tử là nhân vật độc đáo trong lịch sử Trung Quốc, nổi bật với khả năng tổng hợp ba học thuyết Nho, Lão, Pháp Ông xem Nho là nền tảng xây dựng, Pháp là bản thiết kế, còn Lão là kỹ thuật thi công cho một nhà nước vững mạnh Khái niệm "vô vi" của Hàn Phi Tử nhấn mạnh rằng nhà vua chỉ cần quan sát và quản lý bộ máy hành chính mà không can thiệp vào những việc vụn vặt Để thực hiện nguyên tắc vô vi, vua chúa cần giữ kín cảm xúc yêu ghét của mình, tránh để bề tôi lợi dụng Nguyên lý cốt lõi mà ông đề xuất là: nhà vua không cần phải xuất sắc hơn những người tài giỏi, mà nên làm người hướng dẫn cho họ, để bề tôi lao động và nhà vua hưởng thành quả.
Vua không trực tiếp can thiệp vào công việc, mà coi trọng sự thanh tĩnh và khiêm nhường Dù không tham gia vào việc mưu hoạch, vua vẫn hiểu rõ những mưu kế của bề tôi, giúp họ gặp may mắn hay rủi ro Nhờ vậy, bề tôi tự nguyện đưa ra ý kiến hay để báo đáp vua, trong khi vua không áp đặt quyết định cứng nhắc, tạo điều kiện cho bề tôi phát huy kỹ năng và nâng cao hiệu quả công việc Đó chính là hình mẫu của một vị vua sáng suốt.
1.3 Thưởng phạt nghiêm minh là biện pháp quản lí hữu hiệu
Vua Thuấn từng sửa sai cho dân bằng cách mỗi năm khắc phục một tật, nhưng với số lượng tật nhiều, ông nhận ra rằng việc thưởng phạt nghiêm minh sẽ giúp cải thiện nhanh chóng Ông quy định rằng những ai làm đúng sẽ được thưởng, còn những ai không tuân thủ sẽ bị phạt, và mọi quyết định sẽ được thực hiện ngay trong ngày Hệ thống thưởng phạt này không chỉ khuyến khích dân chúng nỗ lực mà còn giúp họ nhận thức rằng công lao của mình sẽ được ghi nhận Như Hàn Phi đã viết, người có công sẽ được thưởng không phải vì lòng biết ơn mà vì năng lực của chính họ.
Theo quyển XVI, trang 449, mọi tội lỗi đều phải chịu hình phạt, vì đó là trách nhiệm của người gây ra Để việc cai trị hiệu quả, vua không nên để bề tôi nắm quyền thưởng phạt Quyền lực và đức độ của vua là cần thiết để kiểm soát bề tôi; nếu thiếu hai yếu tố này, vua sẽ bị bề tôi thống trị Tương tự như hổ, nếu không có nanh vuốt mà để chó sử dụng, hổ sẽ bị chó chế phục.
Thưởng phạt nghiêm minh trong quản lý nhà nước là điều tự nhiên, như Hàn Phi đã viết: “Những người xưa khéo léo sử dụng nhân tài đều theo quy luật trời đất, làm rõ ràng việc thưởng phạt Theo quy luật tự nhiên, công việc được thực hiện hiệu quả với ít sức lực, và hình phạt đơn giản giúp mệnh lệnh được thi hành Việc làm rõ thưởng phạt giúp phân biệt đúng sai, như Bá Di và Đạo Chích không thể lẫn lộn.”
1.4 Căn cứ vào tài năng và công lao để trao chức việc và bổng lộc
Vua Tề Hoàn Công lo lắng về việc nhiều người cầu chức quan trong khi số lượng chức vụ hạn chế Quản Trọng khuyên nhà vua không nên chỉ nghe theo những người thân tín, mà cần dựa vào tài năng và công lao để phân bổ chức vụ và bổng lộc Điều này cho thấy việc bố trí quan lại cần dựa vào khả năng và thành tích của họ: “vị vua sáng không tự mình cử bầy tôi, các bầy tôi tiến cử lẫn nhau; không tự chọn lấy người hiền mà căn cứ vào công lao để xét đoán Lấy nhiệm vụ họ làm để đánh giá, lấy sự việc họ làm để thử, lấy công lao để giáo dục.”
Theo quy tắc danh thực hợp nhau, việc tuyển dụng cần dựa vào khảo sát trực tiếp thay vì chỉ nghe lời giới thiệu từ người khác, vì người giới thiệu có thể có động cơ cá nhân Do đó, việc sử dụng nhân sự đòi hỏi nghệ thuật để đánh giá đúng khả năng của họ và phân công công việc phù hợp Khi giao nhiệm vụ, nên bắt đầu với những công việc nhỏ trước, sau đó mới giao những nhiệm vụ lớn hơn.
“Quan lại của vua chúa thì tể tướng phải bắt đầu từ một chức quan ở châu, quận,
Trong quyển XVI, trang 450, có nêu rõ rằng tướng soái cần bắt đầu từ những người lính bình thường Việc thăng cấp theo thứ tự sẽ dẫn đến việc những người có chức vụ cao hơn sẽ có khả năng cai trị tốt hơn.
Trong quá trình giao chức, cần phân công rõ ràng từng lãnh đạo cho mỗi vị trí, đảm bảo họ hoàn toàn chịu trách nhiệm về nhiệm vụ của mình Mọi công việc không thuộc chức vụ của cá nhân đều không được thực hiện, ngay cả khi có lợi cho quốc gia Hàn Phi đã chỉ trích việc vượt chức và kiêm nhiệm, vì điều này gây khó khăn trong việc kiểm soát hành động của các quan lại và không phù hợp với quy tắc hình danh.
Thuật phòng gian, trừ gian trong cai trị
2.1 Tin dùng người thành thật, đề phòng kẻ hiểm ác
Bậc vua chúa cần chú ý đến những kẻ có thể vụ lợi sau khi mình qua đời Câu nói "mặt trời, mặt trăng có quầng sáng bên ngoài là do chính bên trong của nó" nhấn mạnh tầm quan trọng của sự cảnh giác Thường thì người ta đề phòng những kẻ thù, nhưng nguy hiểm lại có thể đến từ những người mình yêu thương Do đó, nhà vua cần tin dùng những người thành thật và cẩn trọng trước kẻ hiểm ác Hàn Phi Tử đã so sánh hai nhân vật Nhạc Dương và Tần Tây để làm rõ tiêu chí phân biệt giữa người hiền và kẻ gian tà.
Nhạc Dương, tướng quốc nước Ngụy, đã thể hiện lòng trung thành khi uống canh được nấu từ con trai mình do vua Trung Sơn giết hại Tuy nhiên, sau khi đánh bại Trung Sơn, ông lại bị vua Nguy Văn Hầu nghi ngờ về sự trung thành Ngược lại, Mạnh Tôn tin tưởng Tần Tây Ba, người đã thả một con nai mà ông săn được, vì cho rằng người không nỡ hại nai cũng sẽ không hại con mình Hàn Phi Tử đã chỉ ra rằng "xảo trá không bằng vụng về nhưng thành thật", nhấn mạnh rằng Nhạc Dương dù có công vẫn bị nghi ngờ, trong khi Tần Tây Ba, dù có tội, lại được tin tưởng Điều này cho thấy sự cần thiết của bậc đế vương trong việc sắc sảo lựa chọn người và phòng ngừa hành vi gian tà.
(1) Nguyễn Hiến Lê: Hàn Phi Tử, Nxb Văn hóa - Thông tin, H.1998
Quyển VII, tr.211 nêu rõ rằng để phòng ngừa hiệu quả, nếu tên bay đến có phương hướng, cần sử dụng sắt để bảo vệ từ hướng đó Ngược lại, nếu tên không có phương hướng xác định, nên xây dựng một ngôi nhà bằng sắt để bảo vệ từ mọi phía Việc phòng bị này giúp bảo vệ cơ thể khỏi thương tích Do đó, để đảm bảo an toàn, nhà vua cần xem tất cả đều là kẻ thù, nhằm ngăn chặn sự xuất hiện của kẻ gian.
2.2 Kẻ gian là mối họa của đất nước,cần phải nghiêm trị
Hàn Phi cho rằng kẻ gian tà là ung nhọt của đất nước, và việc dung dưỡng chúng chỉ gây hại cho quốc gia Ông nhấn mạnh rằng nếu không loại bỏ nguyên nhân gây đau đớn, đất nước sẽ không thể yên ổn Vua cần nhận thức rằng để trị quốc hiệu quả, phải trải qua quá trình “chữa trị” gian khổ Nếu không, sẽ không thể nghe theo những kẻ giỏi pháp thuật để trừng trị bọn gian thần gây loạn.
Chuyện gian thần giết vua đoạt ngôi, xưa nay xảy ra không ít, như Châu
Hu nước Vệ có quyền lực lớn, khiến quần thần và bá tánh đều sợ hãi, dẫn đến việc Châu Hu giết vua để nắm quyền Tương tự, Sở Thành Vương đã lập Thương Thần làm thái tử nhưng sau đó lại muốn lập công tử Chức, khiến Thương Thần ghen tỵ và nổi loạn, giết chết Sở Thành Vương Điều này cho thấy, nếu bề tôi có quyền lực quá lớn, vua sẽ suy vong và có nguy cơ bị cướp ngôi Lịch sử nước Tấn cũng chứng minh rằng sự phân chia quyền lực dẫn đến sự sụp đổ của triều đại.
Tề bị cướp mất do sự giàu có của bầy tôi, vì vậy những kẻ có tà tâm cần phải bị xử lý nghiêm khắc Khi gian tà bị phát hiện, chúng sẽ tự biết răn mình Vua cần phải áp dụng biện pháp nghiêm trị để ngăn chặn sự lạm dụng quyền lực Sự phóng túng của bầy tôi xuất phát từ việc không bị phát giác và không bị xử lý Do đó, một vị minh chủ cần thực hiện các biện pháp phòng ngừa và nghiêm trị đối với kẻ gian, nhằm khiến dân chúng sợ hình phạt hơn là chỉ dựa vào tính liêm khiết để không làm bậy.
2.3 Diệt gian quan trọng là ở vua
Gian thần thường là những nhân vật nắm giữ quyền lực và được vua thân cận, sủng ái Mối quan hệ giữa vua và những người này giống như "cái màn trắng và cái vẻ cung của hòn đá", không thể tách rời Nếu chỉ dựa vào địa vị dân thường để chia cắt mối quan hệ này, sẽ dẫn đến hậu quả nghiêm trọng Việc loại bỏ gian thần phụ thuộc vào sự quyết đoán của vua; nếu vua yếu đuối, gian trá sẽ dễ dàng xuất hiện Hàn Phi Tử đã đưa ra ba phương pháp để kiểm soát những người có địa vị cao.
"Để quản lý hiệu quả, cần nắm bắt ba yếu tố quan trọng: tình cảm, tinh thần và sinh mạng Việc chăm sóc cha mẹ, vợ con và người thân không chỉ thể hiện lòng tin mà còn là cách để ban phát phúc lộc, giữ đúng lời hứa và tạo sự an tâm cho họ Điều này bao gồm việc lắng nghe ý kiến của họ để kiểm tra và điều chỉnh hành động Đối với người hiền, cần giữ vững tâm lý; với kẻ tham lam, nên cảm hóa bằng sự an ủi; còn với kẻ gian tà, cần phải kiểm soát chặt chẽ để khiến họ nhận thức được hậu quả."
Trong thời kỳ cổ đại, nhiều học thuyết chính trị đã được thử nghiệm tại Trung Quốc để giải quyết các vấn đề lịch sử, nhưng chỉ có học thuyết pháp trị của Hàn Phi Tử thành công Lí thuyết pháp trị trong “bách gia chư tử” mang tính thực tiễn cao, đáp ứng lợi ích của giai cấp địa chủ và phản ánh xu thế phát triển của lịch sử Mặc dù các vương triều phong kiến thường nhấn mạnh việc thi hành “đức trị” của Nho giáo và chỉ trích “pháp trị” là “bá đạo” và thiếu nhân nghĩa, nhưng thực tế cho thấy pháp trị là học thuyết có tính khoa học, cách mạng và thực tế.
Đỗ Đức Minh đã phân tích nguyên nhân ra đời của học thuyết Pháp trị ở Trung Quốc trong bài viết trên Tạp chí Lý luận Chính trị, số tháng 12 năm 2003 Ông chỉ ra rằng, mặc dù thực tế có những thách thức, nhưng việc sử dụng pháp luật để quản lý đất nước vẫn được áp dụng theo phương châm nhất quán.
Hàn Phi, với cái nhìn sâu sắc về con người và xã hội, đã trình bày nhiều thuật cai trị thông qua những câu chuyện ngụ ngôn dân gian, rút ra từ thực tiễn của các vua chư hầu, quan lại và kẻ sỹ trong thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc Những câu chuyện này không chỉ phản ánh sự biến động của xã hội Trung Quốc cổ đại mà còn chỉ ra con đường chính trị cần thiết để xây dựng một quốc gia phong kiến thống nhất.
Quá trình hình thành học thuyết pháp trị đã chỉ ra các quy luật khẳng định tính khách quan và chân lý khoa học của học thuyết Mác - Lênin Nó nhấn mạnh mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn, cho thấy thực tiễn quyết định lý luận, đồng thời cũng khẳng định vai trò quan trọng của lý luận trong việc dẫn dắt và thúc đẩy thực tiễn phát triển.
Vận dụng giá trị của thuật cai trị trong việc quản lý cán lý cán bộ ở nước ta hiện nay
Tình hình quản lý cán bộ ở nước ta hiện nay
1.1 Những ưu điểm căn bản
Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đội ngũ cán bộ đã nâng cao kiến thức, năng lực và kinh nghiệm để phù hợp với sự phát triển của đời sống chính trị Công tác quản lý cán bộ đã có những chuyển biến quan trọng, đảm bảo đội ngũ cán bộ các cấp có phẩm chất, năng lực và bản lĩnh chính trị vững vàng, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá và giữ vững độc lập tự chủ Việc bố trí cán bộ được thực hiện đúng tiêu chuẩn, khuyến khích sự phát triển cá nhân và tạo sức mạnh tập thể Quy chế bầu cử và bổ nhiệm có thời hạn, cùng với việc luân chuyển cán bộ giữa các vùng và ngành, đã giúp nâng cao hiệu quả sử dụng cán bộ và tạo sự đồng đều trong đội ngũ Đội ngũ cán bộ chủ chốt thể hiện sự đoàn kết, nhất trí về lập trường và quan điểm chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
1.2 Những tồn tại và hạn chế
Thời gian qua, một bộ phận cán bộ có dấu hiệu xuống cấp, với hàng loạt vụ bê bối, tham nhũng và hành vi sách nhiễu ngày càng gia tăng, gây bất bình trong nhân dân Nhiều hành vi tham nhũng xuất phát từ sự thiếu hiểu biết về pháp luật, khi nhiều bị cáo, kể cả những người giữ chức vụ cao, biện hộ cho hành vi vi phạm của mình bằng cách cho rằng "nhận thức không đúng" hay "trình độ hạn chế" Nhiều trường hợp cần truy tố nhanh chóng lại bị bỏ qua, dẫn đến việc vi phạm pháp luật không được xử lý nghiêm minh Các vụ vi phạm thường chỉ được phát hiện khi dấu hiệu phạm tội đã rõ ràng, trong khi hiện tượng bao che lẫn nhau vẫn phổ biến, như vụ tham nhũng đất đai ở thị xã Đồ Sơn – Hải Phòng, khiến cán bộ có chức có quyền vi phạm pháp luật mà không lo sợ bị xử lý.
Hiện tượng chạy chức, chạy quyền, chạy tội thể hiện sự vi phạm các quy định pháp luật, tạo ra suy nghĩ rằng có thể can thiệp bằng tiền để mua chuộc những người thực thi pháp luật và các cơ quan tư pháp Sự liên kết từ trên xuống dưới nhằm làm sai lệch nội dung pháp luật và ngăn chặn việc phát hiện sai phạm là hành vi trái pháp luật có tổ chức, gây thiệt hại cho tài sản nhà nước và làm biến dạng hoạt động chính trị Sự xuống cấp trong đội ngũ cán bộ, đảng viên còn thể hiện qua việc trù dập những người dũng cảm đấu tranh chống tham nhũng và độc tài Nhiều ví dụ cho thấy, khi tính chiến đấu của cơ sở Đảng yếu kém hoặc thiếu dân chủ, sự lũng đoạn của cá nhân diễn ra phổ biến.
Bùi Giang Nam nhấn mạnh tầm quan trọng của ý thức pháp luật trong việc nâng cao văn hóa chính trị cho đội ngũ cán bộ đảng viên hiện nay Ông cho rằng việc này không chỉ góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước mà còn nâng cao trách nhiệm và năng lực của cán bộ trong công tác lãnh đạo Tạp chí giáo dục lý luận đã đề cập đến những vấn đề này trong số ra tháng 3 năm 2006, trang 29 và 30.
Cấp độ không rõ ràng và không ổn định dẫn đến sự sa ngã về phẩm chất, gây ra tình trạng ăn chơi sa đọa Những phát ngôn bừa bãi, thiếu chính trị, thậm chí việc nói xấu và bêu xấu các cán bộ cao cấp, cùng với việc tung tin thất thiệt trên mạng Internet, đang trở thành vấn đề nghiêm trọng.
Thực trạng yếu kém trong đội ngũ cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay đang bộc lộ qua nhiều biểu hiện rõ rệt Đây là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự kém hiệu quả của bộ máy nhà nước.
Nghệ thuật quản lý cán bộ - sự kế thừa và phát triển logic của nghệ thuật cai trị
Theo quan điểm duy vật lịch sử, học thuyết pháp trị phản ánh quy luật vận động của lịch sử, đại diện cho tiếng nói của giai cấp địa chủ phong kiến thay thế cho giai cấp quý tộc chủ nô trong xã hội Trung Quốc cổ đại Đặc biệt, “thuật cai trị” – một trong ba thành tố cơ bản của học thuyết pháp trị, được Hàn Phi Tử phát triển, đã đóng góp những giá trị tiến bộ vẫn còn nguyên giá trị cho đến ngày nay.
Tử là một phương pháp và cách thức mà vua sử dụng để cai trị đất nước, thể hiện trí thông minh và khả năng phán đoán trong việc điều khiển nhân lực Nó cũng phản ánh sự khéo léo trong nghệ thuật cai trị của nhà vua.
Ngày nay, giá trị nghệ thuật quản lý nhà nước không chỉ được giữ gìn mà còn được nâng cao, đặc biệt trong quản lý cán bộ Để nhà nước hoạt động hiệu quả, cần một bộ máy chính quyền linh hoạt, điều này đòi hỏi nghệ thuật quản lý khoa học và phù hợp với thực tiễn Những giá trị này có thể kế thừa từ tư tưởng của Hàn Phi Tử về thuật cai trị, mặc dù một số quan điểm của ông có thể không còn phù hợp với xu thế hiện tại Tuy nhiên, những giá trị bền vững mà ông đề cập vẫn là nền tảng cho bất kỳ nhà nước nào mong muốn duy trì sự ổn định xã hội.
Quản lý cán bộ hiện nay là một hoạt động chủ động và thường xuyên của các cơ quan, nhằm phát triển và nâng cao khả năng của từng cá nhân trong đội ngũ Quá trình này không chỉ tập trung vào việc bồi dưỡng mà còn hướng tới việc rèn luyện, giúp tổ chức ngày càng vững mạnh và đáp ứng tốt hơn các yêu cầu đặt ra Quản lý cán bộ bao gồm cả việc quản lý đội ngũ và từng cán bộ theo phân cấp rõ ràng.
Quản lý cán bộ bao gồm các hoạt động quan trọng như tuyển chọn và bố trí cán bộ, phân công công tác, thực hiện quản lý và sử dụng nguồn nhân lực, quy hoạch đào tạo và bồi dưỡng cán bộ Ngoài ra, việc nhận xét và đánh giá cán bộ, bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng và kỷ luật cũng là những nhiệm vụ thiết yếu Quản lý cán bộ còn liên quan đến việc thực hiện chế độ chính sách, kiểm tra công tác cán bộ, cũng như giải quyết khiếu nại và tố cáo liên quan đến cán bộ.
Trong quản lý cán bộ hiện nay, đặc biệt tại Việt Nam, mục tiêu hướng tới là đảm bảo sự công bằng và nghiêm minh trong việc phát huy năng lực của cán bộ Việc sử dụng và bồi dưỡng cán bộ cần được thực hiện một cách phù hợp, đồng thời áp dụng các chính sách thưởng phạt công bằng Điều này thể hiện sự kế thừa và phát triển hợp lý các giá trị từ tư tưởng cai trị của Hàn Phi Tử.
Dựa trên những tư tưởng về quản lý nhân sự trong việc quản lý đất nước, chúng ta hiện nay đã phát triển một khung nội dung quản lý đội ngũ cán bộ hiệu quả.
Để quản lý hiệu quả, cần nắm vững tình hình và phân tích những điểm mạnh, điểm yếu của đội ngũ cán bộ, đồng thời hiểu rõ đặc điểm của từng loại cán bộ trong các ngành, địa phương và đơn vị cụ thể.
Trong phạm vi quyền hạn và trách nhiệm của mình, cần đề xuất các nhiệm vụ, chủ trương, chính sách, biện pháp phù hợp, đồng thời xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng và bố trí đội ngũ cán bộ hiệu quả.
- Xây dựng, hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện công tác cán bộ.
Còn đối với cá nhân là cán bộ thì :
Đánh giá phẩm chất, năng lực và phong cách lãnh đạo của từng cán bộ dựa trên việc thực hiện nhiệm vụ được giao là rất quan trọng Điều này không chỉ giúp nhận diện các điểm mạnh và điểm yếu của cán bộ mà còn cần hiểu rõ quá trình phát triển và triển vọng của họ Bên cạnh đó, việc xem xét các mối quan hệ gia đình và xã hội cũng có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả công việc của cán bộ.
Phát hiện sớm tài năng là bước quan trọng trong việc bồi dưỡng và bố trí cán bộ đúng lúc, đúng việc Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ Hơn nữa, cần có kế hoạch đào tạo và bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ toàn diện của cán bộ.
- Khen đúng mức, đúng lúc; thi hành kỷ luật công minh, chính xác, kịp thời phát huy ưu điểm sửa chữa khuyết điểm.
- Tổ chức thực hiện các chính sách, chế độ của Đảng và nhà nước đối với cán bộ.
- Lập hồ sơ cá nhân cán bộ, có chế độ bổ sung kịp thời và tổ chức quản lý tốt hồ sơ đó.
Phương hướng, biện pháp để xây dựng và quản lý cán bộ trong giai đoạn hiện nay ở nước ta
3.1 Phương hướng xây dựng đội ngũ cán bộ
Để xây dựng đội ngũ cán bộ hiệu quả, cần dựa trên yêu cầu và nhiệm vụ của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nhằm đạt được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh, tiến tới chủ nghĩa xã hội Mỗi ngành, địa phương và đơn vị cần xác định rõ nhiệm vụ chính trị của mình để phát triển đội ngũ cán bộ phù hợp.
Ngày nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đóng vai trò lãnh đạo trong sự phát triển của đất nước, với quyền lực thuộc về nhân dân Để quản lý cán bộ hiệu quả, cần quán triệt quan điểm giai cấp công nhân của Đảng, đồng thời phát huy truyền thống yêu nước và đoàn kết dân tộc Việc xây dựng đội ngũ cán bộ cần gắn liền với tổ chức và đổi mới cơ chế chính sách Thực hiện các hoạt động thực tiễn và phong trào cách mạng của quần chúng là cần thiết để nâng cao trình độ dân trí, từ đó tuyển chọn, giáo dục, rèn luyện và bồi dưỡng cán bộ.
Trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, việc phát triển giáo dục và đào tạo là cần thiết để xây dựng đội ngũ cán bộ có trình độ và hệ thống Cán bộ cần được giáo dục và rèn luyện thông qua hoạt động thực tiễn, với mọi phẩm chất, bằng cấp và tài năng được kiểm nghiệm qua thực tế Công tác quản lý cán bộ phải tuân theo nguyên tắc tập trung dân chủ, đồng thời phát huy trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị.
3.2 Biện pháp để thực hiện quản lý cán bộ ở nước ta hiện nay
Để xây dựng một đội ngũ cán bộ có đức và có tài, cần chú trọng đến việc lựa chọn những người trung thành và tận tâm Hàn Phi Tử đã nhấn mạnh rằng, để cai trị hiệu quả, vua phải sử dụng những bậc trung thần, những người không có lòng hai, vừa có đức vừa có tài trí Điều này cho thấy, trong bất kỳ thời đại nào, lãnh đạo không chỉ cần tài năng mà còn cần có đức, thể hiện qua sự tận tâm với công việc và vì lợi ích chung Ngày nay, sự tận trung không chỉ dành cho vua mà còn cho Đảng và nhân dân, vì họ mới là chủ thể của quyền lực chính trị.
- Bố trí và phân công công tác đối với cán bộ phải đúng với năng lực và nhiệm vụ.
Hàn Phi Tử nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đánh giá năng lực con người trong công tác tuyển dụng, cho rằng căn cứ vào công lao sẽ ngăn chặn tình trạng cậy nhờ, mua quan cầu chức Trong bối cảnh hiện nay, nạn quan liêu tham nhũng và chạy chức đã gây ra nhiều bất bình trong xã hội Để quản lý cán bộ hiệu quả, cần phải có sự công minh và nghiêm túc trong việc bố trí, phân công công việc Mỗi người nên được giao nhiệm vụ phù hợp với năng lực của mình, đồng thời phải thực hiện công việc một cách có trách nhiệm để đạt được hiệu quả cao.
Trong quản lý nhân sự, các lãnh đạo cần đặt đúng người vào vị trí phù hợp Để làm được điều này, việc chọn lựa cán bộ phải được thực hiện một cách khoa học, có kế hoạch và công khai, dựa trên các tiêu chuẩn chuyên môn rõ ràng Bên cạnh việc bổ nhiệm, cần đánh giá và phân bố lại cán bộ lãnh đạo khi họ không thích ứng với nhiệm vụ mới Quy trình đánh giá cán bộ cần được thực hiện định kỳ, đảm bảo tính khách quan và công tâm.
- Thường xuyên tiến hành công tác quản lý, sử dụng, quy hoạch đào tạo và bồi dưỡng cán bộ.
Để đảm bảo hiệu quả trong công tác tuyển chọn và đào tạo cán bộ, cần thực hiện nghiêm túc quy chế tuyển chọn, gắn đào tạo với quy hoạch và sử dụng cán bộ Mục tiêu chính là xây dựng đội ngũ cán bộ từ trung ương đến cơ sở, đặc biệt là cán bộ chủ chốt, có đủ phẩm chất và năng lực, đáp ứng yêu cầu trong bối cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế Nội dung đào tạo cần căn cứ vào tiêu chuẩn chức danh, bao gồm tri thức lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức và năng lực quản lý Việc này không chỉ khắc phục những hạn chế của đội ngũ cán bộ hiện tại mà còn đảm bảo sự chuyển tiếp liên tục và vững vàng giữa các thế hệ.
Trong công tác tổ chức cán bộ, cần tránh quan niệm giản đơn và tuyệt đối hóa một mặt, đồng thời không xem nhẹ phẩm chất đạo đức và uy tín của cán bộ Việc đề bạt và bãi miễn cán bộ phải được thực hiện nghiêm túc, tránh tư tưởng cục bộ, chủ nghĩa cá nhân và dân chủ hình thức Đảng và nhà nước cần mạnh dạn đề bạt những cán bộ trẻ tài năng vào các vị trí chủ chốt trong lĩnh vực kinh tế – xã hội, nhằm lựa chọn và bồi dưỡng những cán bộ xuất sắc, giúp họ trở thành những nhà lãnh đạo quan trọng trong sự phát triển của đất nước.
(1) Nam Dũng: Nhân tài và thực hiện chính sách đào tạo trọng dụng nhân tài của Đảng, Tạp chí Cộng sản, số 771, 1/2007
- Thưởng phạt nghiêm minh nhằm đẩy lùi tiêu cực trong bộ máy quan chức nhà nước
Hình và Đức là hai biện pháp thực thi pháp luật quan trọng, trong đó Hàn Phi Tử nhấn mạnh việc thưởng phạt nghiêm minh dựa trên lòng công lợi Trong bối cảnh quản lý nhà nước hiện nay, việc thực hiện thưởng phạt cần được công khai và chặt chẽ hơn Quản lý là một nghệ thuật, phản ánh trình độ tư duy và năng lực thực tiễn của người quản lý LêNin đã chỉ ra tầm quan trọng của việc xác định trách nhiệm và thực hiện biện pháp ngăn ngừa tái diễn sai phạm Cách tư duy của LêNin tương đồng với Hàn Phi, khi ông khẳng định cần trừng trị nghiêm khắc hành vi phạm tội Hiện nay, vấn đề quan liêu và tham nhũng trong quản lý cán bộ như một "ung nhọt" cần được chữa trị bằng cách nâng cao trình độ văn hóa Tư tưởng cai trị của Hàn Phi Tử mang lại ý nghĩa thiết thực trong quản lý nhà nước, đặc biệt là trong việc quản lý cán bộ.
Trong bối cảnh hiện nay, sự phát triển kinh tế và ổn định xã hội đòi hỏi sự thay đổi linh hoạt trong chính trị và nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước Cần hoàn thiện hệ thống thể chế và xác định rõ phạm vi quản lý nhà nước về kinh tế – xã hội để đáp ứng yêu cầu phát triển Chính phủ cần tập trung vào việc hoạch định chính sách, cải cách thủ tục hành chính và tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi cho các hoạt động kinh tế – xã hội Đồng thời, cần nâng cao năng lực chỉ đạo, kiểm tra và thực hiện thể chế, cũng như đổi mới chính sách cán bộ và quản lý công vụ theo hướng rõ ràng và minh bạch.
V.I Lênin toàn tập, T.39, Nxb CTQG, H.2006, tr.129 đề cập đến việc sử dụng cơ chế thư trưởng của cơ quan hành chính cấp trên để bổ nhiệm người đứng đầu cơ quan hành chính cấp dưới Đồng thời, cần thực hiện cơ chế tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy nhân sự và quản lý tài chính.
Học thuyết pháp trị của Hàn Phi Tử ra đời để đáp ứng nhu cầu của thời đại Trung Quốc cổ đại, nhưng do thiếu tính nhân văn của “đức trị”, nó chỉ tồn tại trong thời gian ngắn Tuy nhiên, đến nay, giá trị thực tiễn của học thuyết này vẫn còn hiện hữu, đặc biệt khi một nhà nước phát triển và nâng cao trình độ quản lý, thì vai trò của pháp luật càng trở nên quan trọng Việc sử dụng và quản lý con người trong công việc là điều mà các cán bộ, nhà lãnh đạo và những người nắm giữ vị trí chủ chốt cần chú ý.
Hiện nay, trong bộ phận cán bộ đảng viên tồn tại nhiều hiện tượng tiêu cực, đe dọa sự công bằng và văn minh của xã hội Để làm trong sạch bộ máy chính quyền, cần phải đẩy lùi và dẹp bỏ những hiện tượng này Mặc dù tư tưởng của Hàn Phi Tử đã lỗi thời và phục vụ lợi ích cho giai cấp cầm quyền, nhưng nghệ thuật dụng nhân của ông vẫn có nhiều điều mà các cán bộ hiện nay cần suy ngẫm và áp dụng Việc kết hợp tư tưởng này với pháp luật nghiêm minh sẽ giúp xây dựng một nhà nước pháp quyền XHCN, nơi nhân dân thực sự là người chủ.
Do quá trình thu thập tài liệu và thông tin chưa đầy đủ, bài tiểu luận này có một số thiếu sót Rất mong thầy cô và bạn đọc đóng góp ý kiến để tác giả hoàn thiện bài viết hơn.
Em xin chân thành cảm ơn !
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 Doãn Chính (chủ biên):Đại cương lịch sử triết học Phương Đông cổ đại, Nxb Đại học và giáo dục chuyên nghiệp, H, 1992.
2 Nam Dũng: Nhân tài và thực hiện chính sách đào tạo; trọng dụng nhân tài của Đảng, Tạp chí Cộng Sản, tháng1/2007.
3 Đàm Gia Khiêm: Lịch sử văn hoá Trung Quốc, Nxb Khoa học xã hội, H, 1993.
4 Max Kaltenmark: Triết học Trung Quốc, Nxb Thế giới, H, 1999.
5 Phùng Hữu Lan: Đại cương triết học lịch sử Trung Quốc, Nxb Thanh niên, H, 1999
6 Nguyễn Hiến Lê: Hàn Phi Tử, Nxb Văn hoá thông tin, H, 1998.
7 V.I.Lê - Nin: Toàn tập, T.39, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2006
8 Đỗ Đức Minh: Học thuyết Pháp trị Trung Quốc cổ đại- một số tư tưởng cơ bản, Tạp chí Nghiên cứu pháp luật, số 2, tháng 12/ 2002.
9 Đỗ Đức Minh: Về nguyên nhân ra đời của học thuyết Pháp trị ở Trung
Quốc, Tạp chí Lý luận chính trị, tháng 12/2003.
10 Bùi Giang Nam: Ý thức pháp luật với việc nâng cao văn hoá chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay Tạp chí Giáo dục lý luận, tháng3/2006.
11 Dương Xuân Ngọc(chủ biên): Lịch sử tư tưởng chính trị, Nxb Chính trị quốc gia, Hn, 2001.
12 Phan Ngọc: Hàn Phi Tử, Nxb Văn học, Hn, 2005.
13 Hồ Văn Thông(chủ biên): Tập bài giảng chính trị học, Nxb Chính trị quốc gia, Hn, 2000.
14 Nguyễn Anh Tuấn(chủ biên): Vấn đề quản lý nhà nước trong triết học
Trung Quốc cổ đại, Nxb Đồng Nai, 1998.
15 Hồ Thích: Lịch sử logic học thời Tiên Tần, Nxb Tổng hợp Hồ Chí Minh.
16 Lã Trấn Vũ: Lịch sử tư tưởng chính trị Trung Quốc, Nxb.Sự thật, H, 1964.
1 Lý do chọn đề tài 1
2 Tình hình nghiên cứu đề tài 2
3 Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài 2
6 Kết cấu của tiểu luận 3
Chương I: Tình hình kinh tế - xã hội Trung Quốc cổ đại và sự xuất hiện tư tưởng về thuật cai trị của Hàn Phi Tử 4
1 Tình hình kinh tế - xã hội Trung Quốc cổ đại 4
2 Thuật cai trị - một trong ba thành tố cơ bản của học thuyết Pháp trị 8
Chương II: Nội dung của thuật cai trị trong tư tưởng Hàn Phi Tử 18
1 Nguyên tắc cơ bản trong thuật dùng người 18
2 Thuật phòng gian, trừ gian trong cai trị 21
Chương III: Vận dụng giá trị của thuật cai trị trong việc quản lý cán lý cán bộ ở nước ta hiện nay 25
1 Tình hình quản lý cán bộ ở nước ta hiện nay 25
2 Nghệ thuật quản lý cán bộ - sự kế thừa và phát triển logic của nghệ thuật cai trị 27
3 Phương hướng, biện pháp để xây dựng và quản lý cán bộ trong giai đoạn hiện nay ở nước ta 29
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 35