1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Tài liệu luận văn Một Số Giải Pháp Hạn Chế Rủi Ro Trong Hoạt Động Đấu Thầu

116 3 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Một Số Giải Pháp Hạn Chế Rủi Ro Trong Hoạt Động Đấu Thầu
Tác giả Nguyễn Trần Thanh Trung
Người hướng dẫn TS. Lê Tấn Bửu
Trường học Trường Đại Học Kinh Tế TP.HCM
Chuyên ngành Thương mại
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2010
Thành phố Thành Phố Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 116
Dung lượng 2,36 MB

Cấu trúc

  • BÌA

  • MỤC LỤC

  • DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

  • DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

  • DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ

  • PHẦN MỞ ĐẦU

  • CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG

    • 1.1 Vai trò và đặc điểm ngành xây dựng trong nền kinh tế quốc dân

      • 1.1.1 Vai trò của ngành xây dựng trong nền kinh tế quốc dân

      • 1.1.2 Đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của ngành xây dựng

    • 1.2 Bản chất và vai trò của đấu thầu.

      • 1.2.1 Bản chất của đấu thầu

      • 1.2.2 Vai trò của đấu thầu

    • 1.3 Phân biệt đấu thầu và đấu giá

    • 1.4 Một số vấn đề lý luận về đấu thầu trong xây dựng.

      • 1.4.1 Một số thuật ngữ cơ bản thường dùng trong lĩnh vực đấu thầu xây dựng

      • 1.4.2. Các hình thức lựa chọn nhà thầu

      • 1.4.3 Phương thức đấu thầu

      • 1.4.4 Phương pháp đánh giá HSDT

      • 1.4.5 Các mốc thời gian chính trong đấu thầu XDCB

    • 1.5 Quy trình đấu thầu xây dựng.

      • 1.5.1 Chuẩn bị đấu thầu

      • 1.5.2 Tổ chức đấu thầu

      • 1.5.3 Mở thầu và xét thầu

      • 1.5.4 Thẩm định và phê duyệt kết quả đấu thầu

      • 1.5.5 Công bố kết quả đấu thầu

      • 1.5.6 Thương thảo và hoàn thiện hợp đồng

      • 1.5.7 Ký hợp đồng

    • 1.6 Lý thuyết rủi ro

    • 1.7 Rủi ro trong đấu thầu xây dựng.

      • 1.7.1 Rủi ro đối với bên mời thầu (chủ đầu tư)

      • 1.7.2 Rủi ro đối với bên dự thầu (nhà thầu)

    • Kết luận chương 1

  • CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG NHỮNG RỦI RO TRONG QUÁ TRÌNHTHỰC HIỆN ĐẤU THẦU CÁC CÔNG TRÌNH XÂY DỰNGCÓ VỐN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

    • 2.1 Thực trạng đấu thầu các công trình xây dựng có vốn ngân sách nhà nước những năm 2005 – 2009.

      • 2.1.1 Các văn bản pháp lý

      • 2.1.2 Nguồn vốn đầu tư cho lĩnh vực XDCB

      • 2.1.3 Mức tiết kiệm cho nhà nước thông qua hoạt động đấu thầu

      • 2.1.4 Thực trạng chung về hoạt động đấu thầu các công trình xây dựng có vốn ngân sách nhà nước những năm 2005 – 2009.

    • 2.2 Phân tích những rủi ro trong đấu thầu các công trình xây dựng có vốn ngân sách nhà nước qua số liệu khảo sát thực nghiệm tại Thành phố Hồ Chí Minh.

    • Kết luận chương 2:

  • CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HẠN CHẾ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG ĐẤU THẦUXÂY DỰNG CƠ BẢN TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

    • 3.1 Định hướng phát triển hoạt động đấu thầu trong tương lai tại Việt Nam.

      • 3.1.1 Đẩy mạnh phát triển hoạt động đấu thầu qua mạng

      • 3.1.2 Đẩy mạnh phát triển mô hình tổng thầu EPC

    • 3.2. Một số giải pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động đấu thầu các công trình xây dựng có vốn ngân sách nhà nước tại Thành phố Hồ Chí Minh.

      • 3.2.1 Các kiến nghị đối với nhà nước về lĩnh vực đấu thầu xây dựng

      • 3.2.2 Giải pháp đối với chủ đầu tư

      • 3.2.3 Giải pháp đối với nhà thầu

    • Kết luận chương 3

  • KẾT LUẬN

  • DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

  • PHỤ LỤC

  • Phiếu điều tra

Nội dung

Vai trò và đặc điểm ngành xây dựng trong nền kinh tế quốc dân

Vai trò của ngành xây dựng trong nền kinh tế quốc dân

Trong những năm qua, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong lĩnh vực kinh tế, trở thành một trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất ở châu Á Ngành xây dựng đã đóng góp đáng kể vào thành tựu chung này với mức tăng trưởng cao, tạo ra giá trị sản lượng lớn và giải quyết nhiều việc làm cho người lao động Ngành này cũng rất chú trọng đến việc áp dụng tiến bộ khoa học và công nghệ trong sản xuất và thi công Nhiều công trình quan trọng đã được khởi công và hoàn thành, tiêu biểu như Thủy điện Hòa Bình.

Nhiệt điện Phả Lại, Nhà máy xi măng Hoàng Thạch, Bỉm Sơn, Nhà máy super phốt phát Lâm Thao, giấy Bãi Bằng, Apatit Lào Cai, Nhà máy Kính Đáp Cầu và Giấy Tân Mai là những cơ sở sản xuất quan trọng, đóng góp vào sự phát triển kinh tế và công nghiệp của Việt Nam.

Xi măng Hà Tiên, công trình dầu khí Vũng Tàu, Cung Văn hoá Lao động Hữu nghị Việt -

Viện Bảo tàng Hồ Chí Minh và các công trình giao thông nổi bật như cầu Mỹ Thuận, cầu Cần Thơ, cầu Phú Mỹ, đại lộ Đông Tây, và hầm Thủ Thiêm đã thể hiện sự phát triển vượt bậc của ngành xây dựng Những công trình lớn này đóng góp quan trọng vào quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, hỗ trợ xây dựng các ngành công nghiệp thiết yếu.

Từ năm 2001, ngành Xây dựng Việt Nam đã phát triển hiệu quả nhờ vào các kế hoạch và chiến lược quan trọng như quy hoạch vật liệu xây dựng, sản xuất xi măng, và phát triển đô thị đến năm 2020 với tầm nhìn 2030 Hệ thống đô thị quốc gia đã được mở rộng lên 725 đô thị, cùng với các khu công nghiệp và kinh tế cửa khẩu, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở cả khu vực đô thị và nông thôn.

Ngày nay, khi đời sống kinh tế phát triển, nhu cầu sinh hoạt của con người cũng tăng cao, đòi hỏi ngành xây dựng không chỉ tạo cơ sở vật chất cho phát triển kinh tế mà còn xây dựng các công trình phục vụ đời sống, vui chơi, giải trí và nghỉ ngơi Vai trò của ngành xây dựng ngày càng quan trọng, với hàng ngàn công trình mới mỗi năm tại Thành phố Hồ Chí Minh, chiếm khoảng 40% tổng số công trình xây dựng mới của cả nước Điều này cho thấy nhu cầu xây dựng ngày càng lớn và liên tục cập nhật theo sự phát triển của xã hội.

Ngành xây dựng Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ, với sự gia tăng về nhân sự và vốn đầu tư Các công ty trong lĩnh vực này đã nâng cao trình độ năng lực, cho ra đời nhiều công trình lớn phục vụ cho công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước Nhờ đó, Việt Nam ngày càng có nhiều kỹ sư giỏi, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng.

Tuy nhiên bên cạnh những mặt mạnh như vậy thì ngành xây dựng của Việt Nam cũng gặp phải một số các khó khăn cơ bản sau:

Nguồn nhân lực trong ngành xây dựng hiện nay chưa hoàn thiện, với sự không đồng đều giữa các địa phương Mặc dù có một số kỹ sư được đào tạo chính quy và chuyên gia có bằng cấp quốc tế, nhưng lao động có trình độ cao chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn Đồng thời, lực lượng lao động phổ thông chưa được đào tạo chuyên môn chiếm tỷ trọng lớn, dẫn đến tỷ lệ tai nạn nghề nghiệp cao và năng suất lao động chưa đạt yêu cầu.

Cơ sở vật chất kỹ thuật và nguyên vật liệu của ngành hiện nay vẫn còn ở mức sơ khai và lạc hậu, dẫn đến việc không đáp ứng được nhu cầu cao của khách hàng.

Khi Việt Nam gia nhập WTO, sự gia tăng đầu tư từ các doanh nghiệp nước ngoài đã tạo ra áp lực cạnh tranh mạnh mẽ cho các tập đoàn xây dựng trong nước Những doanh nghiệp này không chỉ sở hữu cơ sở vật chất hiện đại mà còn có nguồn nhân lực được đào tạo chuyên sâu, mang lại kỹ năng tay nghề cao.

Các tập đoàn xây dựng nước ngoài đầu tư vào Việt Nam không chỉ mang lại trình độ và chất lượng sản phẩm cao, mà còn tạo ra nhiều thành công lớn Họ không chỉ chứng minh được chất lượng vượt trội và khả năng đáp ứng nhu cầu khách hàng, mà còn thực hiện nhiều hoạt động hỗ trợ khác Ngược lại, hầu hết các doanh nghiệp xây dựng Việt Nam vẫn dựa vào mối quan hệ kinh doanh truyền thống và chưa áp dụng hiệu quả các chiến lược marketing.

Đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của ngành xây dựng

Khái ni ệ m v ề s ả n ph ẩ m xây d ự ng:

- Sản phẩm đầu tư xây dựng là các công trình xây dựng đã hoàn thành, bao gồm cả việc lắp đặt thiết bị công nghệ ở bên trong

- Sản phẩm xây dựng là kết tinh của các thành quả khoa học - công nghệ và tổ chức sản xuất của toàn xã hội ở một thời kỳ nhất định

Sản phẩm có tính chất liên ngành, bao gồm sự tham gia của nhiều lực lượng như chủ đầu tư, doanh nghiệp thầu xây lắp, doanh nghiệp tư vấn xây dựng, doanh nghiệp sản xuất thiết bị công nghệ và vật tư xây dựng, cùng với các tổ chức cung ứng dịch vụ ngân hàng và tài chính, cũng như các cơ quan quản lý Nhà nước liên quan.

Công trình xây dựng là sản phẩm của công nghệ xây lắp, được hình thành từ vật liệu xây dựng, thiết bị công nghệ và lao động, gắn liền với đất Đặc điểm kinh tế kỹ thuật của ngành xây dựng có thể được phân tích từ hai hướng khác nhau.

Ngành xây dựng có những đặc thù riêng vì thế cần được nghiên cứu riêng Các đặc thù ở đây chia ra làm 4 nhóm:

- Bản chất tự nhiên của sản phẩm;

- Cơ cấu của ngành cùng với tổ chức quá trình xây dựng;

- Những nhân tố quyết định nhu cầu;

- Phương thức xác định giá cả

Sản phẩm xây dựng với tư cách là các công trình xây dựng hoàn chỉnh thường có những đặc điểm sau:

- Sản phẩm mang nhiều tính cá biệt, đa dạng về công dụng, cơ cấu và cả về phương diện chế tạo

- Sản phẩm mang tính đơn chiếc vì phụ thuộc vào đơn đặt hàng của chủ đầu tư, điều kiện địa lý, địa chất công trình nơi xây dựng

- Sản phẩm là những công trình được xây dựng tại chỗ Vốn đầu tư xây dựng lớn, thời gian xây dựng và thời gian sử dụng lâu dài

- Sản phẩm thường có kích thước lớn và trọng lượng lớn

Sản phẩm này liên quan đến nhiều ngành nghề, từ việc cung cấp các yếu tố đầu vào cho thiết kế và chế tạo sản phẩm, cho đến việc sử dụng trong các công trình.

Sản phẩm xây dựng có ảnh hưởng lớn đến cảnh quan môi trường và tự nhiên, do đó, chúng gắn liền với lợi ích của cộng đồng, đặc biệt là đối với cư dân tại địa phương nơi công trình được thực hiện.

Sản phẩm xây dựng là sự tổng hợp của các yếu tố kỹ thuật, kinh tế, xã hội, văn hóa - nghệ thuật và quốc phòng, chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ nhân tố thượng tầng kiến trúc Nó không chỉ mang bản sắc truyền thống dân tộc mà còn phản ánh thói quen sinh hoạt của cộng đồng Qua từng giai đoạn phát triển, sản phẩm này thể hiện trình độ kinh tế, khoa học - kỹ thuật và văn hóa của một quốc gia.

* Đặ c đ i ể m c ủ a quá trình s ả n xu ấ t xây d ự ng

Dựa trên tính chất và đặc điểm của sản phẩm xây dựng, có thể xác định một số đặc điểm kinh tế - kỹ thuật quan trọng trong sản xuất xây dựng.

- Sản xuất thiếu tính ổn định, có tính lưu động cao theo lãnh thổ Đặc điểm này kéo theo một loạt các tác động gây bất lợi sau:

+ Thiết kế có thể thay đổi theo yêu cầu của chủ đầu tư về tính công dụng hoặc trình độ kỹ thuật, các vật liệu

Các phương án công nghệ và tổ chức xây dựng cần được điều chỉnh liên tục để phù hợp với thời gian và địa điểm cụ thể Phương pháp tổ chức sản xuất và các biện pháp kỹ thuật cũng phải linh hoạt thay đổi để đáp ứng yêu cầu của từng công trình xây dựng.

Thời gian xây dựng công trình kéo dài và chi phí sản xuất lớn dẫn đến những tác động đáng kể, bao gồm việc vốn đầu tư của chủ đầu tư và vốn sản xuất của tổ chức xây dựng thường bị động tại công trình trong thời gian dài Điều này cũng khiến các tổ chức xây dựng dễ gặp phải rủi ro ngẫu nhiên do thời tiết và thời gian, đồng thời chịu ảnh hưởng từ sự biến động giá cả.

Quá trình sản xuất trong xây dựng mang tính tổng hợp và có cấu trúc phức tạp, với nhiều công việc xen kẽ và ảnh hưởng lẫn nhau Việc nhiều đơn vị tham gia vào xây dựng một công trình dẫn đến sự phức tạp trong tổ chức quản lý trên công trường Do đó, công tác điều độ thi công và sự phối hợp chặt chẽ giữa các đơn vị tham gia là rất quan trọng để đảm bảo tính ổn định và hiệu quả trong quá trình xây dựng.

- Sản xuất xây dựng nói chung thực hiện ở ngoài trời nên chịu ảnh hưởng nhiều của điều kiện thiên nhiên tới các hoạt động lao động

Ngành Xây dựng thường sản xuất sản phẩm theo phương pháp đơn chiếc và thi công dựa trên đơn đặt hàng của chủ đầu tư, dẫn đến nhiều tác động tiêu cực đến quá trình sản xuất Sự phụ thuộc vào kết quả đấu thầu khiến sản xuất xây dựng trở nên bị động và rủi ro cao Hơn nữa, việc thống nhất hóa và điển hình hóa các mẫu sản phẩm cùng công nghệ chế tạo gặp nhiều khó khăn, đồng thời không thể xác định giá cả thống nhất cho mỗi đơn vị sản phẩm cuối cùng.

Ở Việt Nam, những đặc điểm xuất phát từ hoàn cảnh kinh tế xã hội đã ảnh hưởng đáng kể đến việc tổ chức sản xuất trong ngành Xây dựng.

- Lực lượng xây dựng nước ta rất đông đảo, song cũng phân tán mỏng manh, thiếu công nhân lành nghề;

- Trình độ trang bị máy móc thiết bị tiên tiến cũng rất hạn chế

- Trình độ tổ chức thi công và quản lý xây dựng kém.

Bản chất và vai trò của đấu thầu

Bản chất của đấu thầu

Đấu thầu là quá trình cạnh tranh giữa các nhà thầu nhằm đáp ứng các yêu cầu về chất lượng, tiến độ và chi phí xây dựng do bên mời thầu đưa ra Theo Nghị định 85/2009/NĐ-CP, đấu thầu giúp lựa chọn nhà thầu phù hợp nhất, đảm bảo sự công bằng và minh bạch trong quá trình này Mục tiêu chính của đấu thầu là tối ưu hóa hiệu quả kinh tế cho dự án đầu tư.

Theo đó, trong quá trình đấu thầu có sự tham dự của 3 chủ thể có liên quan đến dự án (gói thầu):

- Chủ đầu tư là bên mời thầu để thực hiện có hiệu quả dự án đầu tư của mình

- Các nhà thầu là các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế có khả năng thực hiện nhiệm vụ của dự án đầu tư

Việc đấu thầu phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản sau đây:

- Cạnh tranh với những điều kiện ngang nhau

Vai trò của đấu thầu

Đấu thầu là một phương thức phổ biến trong nền kinh tế thị trường, mang lại nhiều lợi ích cho chủ đầu tư, nhà thầu và nền kinh tế quốc dân Chủ đầu tư có thể tìm được nhà thầu phù hợp nhất với yêu cầu dự án về chất lượng, tiến độ và chi phí, từ đó nâng cao hiệu quả vốn đầu tư và giảm thiểu thất thoát Để đảm bảo hiệu quả đấu thầu, chủ đầu tư cần hiểu rõ quy chế và có đội ngũ chuyên môn chất lượng Đối với nhà thầu, đấu thầu khuyến khích tính chủ động, sáng tạo và nâng cao khả năng cạnh tranh, đồng thời tích lũy kinh nghiệm và xác định chiến lược phát triển Đối với Nhà nước, đấu thầu cung cấp thông tin cần thiết để đánh giá thực lực của các bên liên quan, đồng thời giúp quản lý hoạt động xây dựng một cách công khai và minh bạch, góp phần tạo ra một thị trường xây dựng cạnh tranh lành mạnh.

Phân biệt đấu thầu và đấu giá

Đấu giá là quy trình mua bán thông qua việc đưa ra món hàng và giá, với mục tiêu bán cho người trả giá cao nhất Đây là phương pháp xác định giá trị cho các món hàng có giá chưa rõ hoặc thường xuyên thay đổi Trong một số trường hợp, có thể có giá sàn; nếu không đạt được, món hàng sẽ không được bán, nhưng người bán vẫn phải trả phí cho đơn vị tổ chức đấu giá Đấu giá áp dụng cho nhiều loại mặt hàng như đồ cổ, tác phẩm nghệ thuật, bất động sản, và các sản phẩm thương mại Khác với đấu thầu, nơi nhà đầu tư chọn nhà thầu đáp ứng yêu cầu, đấu giá cho phép người mua tổ chức để các nhà bán cạnh tranh, nhằm đạt được hàng hóa và dịch vụ với chất lượng tốt nhất và chi phí thấp nhất.

Một số vấn đề lý luận về đấu thầu trong lĩnh vực xây dựng

Một số thuật ngữ cơ bản thường dùng trong lĩnh vực đấu thầu xây dựng

Công tác đấu thầu đã được áp dụng tại Việt Nam trong thời gian gần đây, với sự ra đời của Quy chế Đấu thầu theo Nghị định 43/CP và 93/CP Đây là lần đầu tiên quy định này được ban hành, đánh dấu bước tiến quan trọng trong quản lý đấu thầu.

1996 Quy chế đấu thầu lần 2 ra đời vào năm 1999 với Nghị định 88/CP, được bổ sung bằng Nghị định 14/CP năm 2000 và Nghị định 66/CP năm 2003

Luật Đấu thầu, được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua vào ngày 29/11/2005 và có hiệu lực từ 01/4/2006, bao gồm 06 chương với 77 điều Trong quá trình thực hiện, Luật này đã được bổ sung và chỉnh sửa qua nhiều văn bản khác nhau Đặc biệt, trong lĩnh vực xây dựng cơ bản, Chính phủ đã ban hành Nghị định 85/2009/NĐ-CP ngày 15/10/2009 và Luật số 38/2009/QH12 để sửa đổi, bổ sung một số điều liên quan đến đầu tư xây dựng cơ bản, thay thế Nghị định số 58/2008/NĐ-CP ngày 05/05/2008 Những văn bản này hướng dẫn thi hành Luật Đấu thầu và quy định việc lựa chọn nhà thầu xây dựng theo Luật Xây dựng.

Chủ đầu tư xây dựng công trình là cá nhân hoặc tổ chức sở hữu vốn, hoặc được ủy quyền quản lý và sử dụng vốn để thực hiện đầu tư xây dựng.

Nhà thầu trong lĩnh vực xây dựng là tổ chức hoặc cá nhân có đủ năng lực và chuyên môn để thực hiện các hoạt động xây dựng, đồng thời tham gia vào các hợp đồng liên quan đến lĩnh vực này.

Tổng thầu xây dựng là nhà thầu trực tiếp ký hợp đồng với chủ đầu tư để thực hiện toàn bộ hoặc một phần công việc trong dự án xây dựng Các hình thức tổng thầu bao gồm: tổng thầu thiết kế, tổng thầu thi công, tổng thầu thiết kế và thi công, tổng thầu thiết kế kèm cung cấp thiết bị công nghệ, và tổng thầu lập dự án đầu tư, thiết kế, cung cấp thiết bị công nghệ và thi công công trình.

Nhà thầu chính, theo Luật Xây dựng, là nhà thầu ký hợp đồng trực tiếp với chủ đầu tư để thực hiện phần việc chính trong dự án xây dựng Trong khi đó, theo Luật Đấu thầu, nhà thầu chính là người tham gia đấu thầu, đứng tên dự thầu và ký kết hợp đồng nếu được chọn Sự khác biệt giữa hai luật này nằm ở mức độ ràng buộc: Luật Xây dựng yêu cầu nhà thầu phải thực hiện phần việc chính, trong khi Luật Đấu thầu không bắt buộc nhà thầu ký kết phải thực hiện phần việc đó.

Nhà thầu phụ, theo Luật Xây dựng, là nhà thầu ký hợp đồng với nhà thầu chính hoặc tổng thầu để thực hiện một phần công việc Trong khi đó, theo Luật Đấu thầu, nhà thầu phụ cũng là bên thực hiện một phần công việc của gói thầu dựa trên thỏa thuận hoặc hợp đồng với nhà thầu chính Cả hai luật đều có những điểm tương đồng trong việc định nghĩa nhà thầu phụ, nhấn mạnh vai trò của họ trong việc thực hiện các nhiệm vụ được ký kết với nhà thầu chính.

Liên danh tham gia dự thầu là hình thức mà các nhà thầu hợp tác với nhau để tạo thành một đơn vị duy nhất tham gia thầu Năng lực của liên danh này được hình thành từ sự kết hợp tổng hợp của tất cả các nhà thầu độc lập, giúp tăng cường sức mạnh về tài chính, nhân lực và kỹ thuật, đáp ứng tốt hơn các yêu cầu của chủ đầu tư.

Hồ sơ yêu cầu là tài liệu cần thiết cho các hình thức chỉ định thầu, chào hàng cạnh tranh và mua sắm trực tiếp, giúp xác định các yêu cầu cho gói thầu Nó cung cấp cơ sở pháp lý để nhà thầu chuẩn bị hồ sơ đề xuất và cho phép bên mời thầu đánh giá các hồ sơ nhằm lựa chọn nhà thầu phù hợp Đồng thời, hồ sơ yêu cầu cũng là căn cứ để thương thảo, hoàn thiện và ký kết hợp đồng Chủ đầu tư có trách nhiệm quyết định nội dung của hồ sơ yêu cầu.

Hồ sơ đề xuất là tập hợp các tài liệu mà nhà thầu chuẩn bị và nộp cho bên mời thầu, nhằm đáp ứng yêu cầu trong hồ sơ yêu cầu.

Kết quả lựa chọn nhà thầu là kết quả của quá trình đấu thầu, bao gồm cả hình thức đấu thầu rộng rãi và đấu thầu hạn chế, hoặc là kết quả từ các hình thức lựa chọn khác.

Vi phạm pháp luật về đấu thầu là hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ các quy định của pháp luật về đấu thầu

Tham gia đấu thầu là việc nhà thầu tham gia các cuộc đấu thầu rộng rãi hoặc hạn chế

Gói thầu lựa chọn tổng thầu xây dựng bao gồm các hình thức như lựa chọn tổng thầu cho gói thầu thiết kế (E), thi công (C), thiết kế và thi công (EC), thiết kế, cung cấp thiết bị, vật tư và xây lắp (EPC), cũng như lập dự án, thiết kế, cung cấp thiết bị, vật tư và xây dựng theo hình thức chìa khóa trao tay.

Các hình thức lựa chọn nhà thầu

Đấu thầu rộng rãi là hình thức lựa chọn mang lại sự cạnh tranh cao nhất, từ đó đạt hiệu quả tốt nhất Bên mời thầu cần thông báo mời thầu ít nhất 10 ngày trên báo và trang web đấu thầu của Nhà nước, đồng thời phải cung cấp đủ thời gian cho nhà thầu chuẩn bị hồ sơ dự thầu (HSDT) theo yêu cầu của hồ sơ mời thầu (HSMT), tối thiểu là 15 ngày cho đấu thầu trong nước và 30 ngày cho đấu thầu quốc tế Tất cả nhà thầu đủ tư cách theo quy định tại Điều 7 và Điều 8 của Luật đều có quyền tham gia Hình thức này không giới hạn số lượng nhà thầu tham gia, và HSMT không được nêu điều kiện nào nhằm hạn chế sự tham gia hoặc tạo lợi thế cho một số nhà thầu nhất định.

Hình thức đấu thầu hạn chế được áp dụng cho các gói thầu có tính đặc thù, thường do yêu cầu của nhà tài trợ hoặc chỉ một số nhà thầu đủ khả năng đáp ứng yêu cầu kỹ thuật cao Để đảm bảo tính cạnh tranh, cần mời tối thiểu 5 nhà thầu tham gia Nếu số lượng nhà thầu thực tế ít hơn 5, chủ đầu tư phải trình bày với cơ quan có thẩm quyền để xem xét và quyết định Hồ sơ mời thầu (HSMT) trong đấu thầu hạn chế cũng phải đảm bảo tính cạnh tranh tương tự như HSMT trong đấu thầu rộng rãi.

Chỉ định thầu là hình thức lựa chọn nhà thầu có đủ năng lực và kinh nghiệm theo quy định của Chính phủ Bên mời thầu cần đưa ra các yêu cầu cho gói thầu, tương tự như hồ sơ mời thầu (HSMT), để nhà thầu chuẩn bị đề xuất như hồ sơ dự thầu (HSDT) Sau đó, bên mời thầu sẽ đánh giá đề xuất của nhà thầu dựa trên các yêu cầu đã đặt ra Nếu đề xuất đạt yêu cầu, kết quả chỉ định thầu sẽ được phê duyệt và nhà thầu sẽ được mời tham gia thương thảo hợp đồng Ngoài ra, dự toán cho gói thầu cũng cần được duyệt để làm cơ sở cho quyết định chỉ định thầu.

Hình thức này chỉ được áp dụng trong những trường hợp đặc biệt như sự cố bất khả kháng, bí mật quốc gia, hoặc các tình huống cấp bách liên quan đến lợi ích quốc gia và an ninh, an toàn năng lượng Ngoài ra, nó cũng áp dụng cho các gói thầu có giá trị nhỏ và những yêu cầu đảm bảo tính tương thích của thiết bị, công nghệ.

Việc thực hiện chỉ định thầu diễn ra qua các bước tương tự như một cuộc đấu thầu, mặc dù không cần thời gian để đánh giá và so sánh các hồ sơ dự thầu (HSDT) Tuy nhiên, vẫn cần phải đánh giá hồ sơ đề xuất của nhà thầu và tiến hành thương thảo để hoàn thiện hợp đồng, đảm bảo trách nhiệm của cả hai bên.

Hình thức mua sắm này được thực hiện dựa trên hợp đồng đấu thầu đã ký trong vòng 6 tháng, khi có nhu cầu mua sắm sản phẩm tương tự Đơn giá không được vượt quá mức đã ký trong hợp đồng trước đó Ngoài ra, hình thức này cũng áp dụng cho các gói thầu tương tự thuộc cùng một dự án hoặc các dự án khác.

Chào hàng cạnh tranh trong mua sắm hàng hóa

Hình thức đấu thầu này được áp dụng cho các gói thầu có giá trị dưới 2 tỷ đồng, nhằm mua sắm hàng hóa thông dụng, sẵn có trên thị trường với các đặc tính kỹ thuật tiêu chuẩn hóa và chất lượng tương đương Khi thực hiện hình thức này, việc so sánh giá giữa các báo giá là đủ, tuy nhiên yêu cầu tối thiểu là phải có ít nhất 3 báo giá từ 3 nhà thầu khác nhau.

Hình thức này được áp dụng khi nhà thầu có đủ năng lực và kinh nghiệm để thực hiện gói thầu trong dự án mà họ quản lý và sử dụng.

Để đảm bảo tính hợp lệ trong quá trình thực hiện dự án, cần có dự toán được phê duyệt theo quy định Đồng thời, đơn vị tư vấn giám sát việc thực hiện giá thầu phải hoàn toàn độc lập với chủ đầu tư về cả tổ chức lẫn tài chính.

Lựa chọn nhà thầu trong trường hợp đặc biệt

Hình thức này được áp dụng cho các gói thầu đặc biệt mà không thể sử dụng các hình thức khác Chủ đầu tư cần xây dựng phương án lựa chọn nhà thầu nhằm đảm bảo tính cạnh tranh và hiệu quả kinh tế, sau đó trình Thủ tướng Chính phủ xem xét và quyết định.

Tùy thuộc vào đặc thù của từng gói thầu, người có thẩm quyền sẽ phê duyệt KHĐT của Dự án hoặc KHĐT cho một số gói thầu trước đó, nhằm tạo cơ sở pháp lý cho chủ đầu tư thực hiện Theo Điều 60, người có thẩm quyền phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định cho phép áp dụng hình thức lựa chọn nhà thầu trong KHĐT.

Phương thức đấu thầu

Luật Đấu thầu và Nghị định 85/NĐ-CP ngày 15 tháng 10 năm 2009 hướng dẫn thi hành Luật Đấu thầu quy định các phương thức đấu thầu và lựa chọn nhà thầu xây dựng theo Luật Xây dựng.

- Phương thức một túi hồ sơ:

Theo phương thức này, tất cả hồ sơ dự thầu (HSDT) nộp đúng hạn sẽ được mở công khai trong buổi mở thầu, bao gồm các nội dung cơ bản và giá dự thầu Phương thức này được áp dụng cho các gói thầu mua sắm hàng hóa, xây lắp, và gói thầu EPC, sử dụng hình thức đấu thầu rộng rãi và hạn chế.

- Phương thức hai túi hồ sơ:

Trong phương thức mở thầu đầu tiên, chỉ công khai các nội dung kỹ thuật của hồ sơ dự thầu (HSDT) nộp đúng hạn, sau đó mở hồ sơ tài chính của những HSDT đạt yêu cầu kỹ thuật Phương thức này được áp dụng cho việc lựa chọn dịch vụ tư vấn thông qua hình thức đấu thầu rộng rãi và hạn chế Đối với gói thầu tư vấn có yêu cầu kỹ thuật cao, chỉ đề xuất tài chính của nhà thầu có điểm kỹ thuật cao nhất sẽ được mở để xem xét.

- Phương thức đấu thầu 2 giai đoạn:

Phương thức này áp dụng cho các gói thầu mua sắm hàng hóa, xây lắp và gói thầu EPC có kỹ thuật, công nghệ mới, phức tạp và đa dạng Trong giai đoạn 1, nhà thầu nộp đề xuất kỹ thuật và phương án tài chính (không có giá) để thảo luận với bên mời thầu Giai đoạn 2 yêu cầu các nhà thầu nộp hồ sơ dự thầu chính thức kèm theo giá dự thầu và thực hiện biện pháp bảo đảm dự thầu.

Phương pháp đánh giá HSDT

Việc đánh giá hồ sơ dự thầu (HSDT) phải dựa trên yêu cầu của hồ sơ mời thầu (HSMT) và tiêu chí đánh giá (TCĐG) được nêu trong HSMT, không được phép bỏ sót, bổ sung hay thay đổi TCĐG trong quá trình đánh giá TCĐG HSDT bao gồm các tiêu chí về năng lực và kinh nghiệm (trong trường hợp không áp dụng sơ tuyển), tiêu chí kỹ thuật, tiêu chí tổng hợp (đối với gói thầu dịch vụ tư vấn), và các nội dung đánh giá chi phí trên cùng một mặt bằng (đối với gói thầu mua sắm hàng hóa, xây lắp, gói thầu EPC) Đối với đấu thầu tuyển chọn tư vấn, có hai phương án đánh giá khác nhau.

Đánh giá kỹ thuật và tài chính sử dụng thang điểm 100 hoặc 1000, trong đó yêu cầu tối thiểu về kỹ thuật không được thấp hơn 70% tổng điểm Tỷ trọng điểm cho kinh nghiệm tư vấn chiếm 10-20%, giải pháp và phương pháp luận 30-40%, và nhân sự 50-60% trong tổng số điểm kỹ thuật Trong thang điểm tổng hợp, tỷ trọng kỹ thuật tối thiểu là 70% và tài chính không vượt quá 30%.

Mức yêu cầu tối thiểu về kỹ thuật trong đấu thầu được đặt ở mức không dưới 80% Các nhà thầu có điểm kỹ thuật cao nhất, vượt qua yêu cầu này, sẽ được xem xét hồ sơ đề xuất tài chính Điều này áp dụng cho cả đấu thầu mua sắm hàng hóa và xây lắp.

- Việc đánh giá về mặt kỹ thuật:

Sử dụng thang điểm 100 hoặc 1000, hoặc tiêu chí Đạt (Đ) và Không đạt (KĐ) để đánh giá hồ sơ dự thầu Những hồ sơ đạt yêu cầu về kỹ thuật sẽ tiếp tục được xem xét về mặt tài chính dựa trên giá đánh giá, nhằm so sánh và xếp hạng.

Khi áp dụng thang điểm, cần xác định mức yêu cầu tối thiểu, không được thấp hơn 70% tổng số điểm kỹ thuật Đối với các yêu cầu kỹ thuật cao, mức điểm tối thiểu phải đạt 80%.

Khi áp dụng tiêu chí Đ/KĐ cho các gói thầu phức tạp, cần xây dựng tiêu chí đánh giá chi tiết cho từng tiêu chí đánh giá tổng quát Trong khi tiêu chí đánh giá tổng quát chỉ có hai mức là “Đ” hoặc “KĐ”, tiêu chí đánh giá chi tiết có thể sử dụng ba mức đánh giá: “Đ”, “KĐ” hoặc “Chấp nhận được”.

- Đánh giá về tài chính để so sánh, xếp hạng nhà thầu:

Chỉ những HSDT vượt qua đánh giá về mặt kỹ thuật mới được xem xét đánh giá về tài chính để so sánh, xếp hạng

Việc xác định giá đánh giá để so sánh và xếp hạng hồ sơ dự thầu (HSDT) sau khi đã vượt qua bước đánh giá kỹ thuật và sửa lỗi là một vấn đề phức tạp Giá đánh giá thường được xác định dựa trên các tiêu chí cụ thể nhằm đảm bảo tính công bằng và minh bạch trong quá trình lựa chọn nhà thầu.

Giá đánh giá được xác định bằng giá dự thầu sau khi đã sửa lỗi và sai lệch, cộng hoặc trừ với giá trị Δ, phản ánh sự khác biệt giữa các Hồ sơ dự thầu (HSDT) về công suất, tiêu hao năng lượng, phụ tùng thay thế, chi phí vận hành bảo dưỡng, tiến độ và điều kiện thanh toán Quá trình xác định giá đánh giá bắt đầu từ giá dự thầu, tiếp theo là sửa lỗi, bao gồm cả lỗi số học, và sau đó là sửa sai lệch Các HSDT không vi phạm lỗi số học (10%) và sai lệch (10%) sẽ được tiếp tục xem xét để xác định giá đánh giá phục vụ cho việc so sánh và xếp hạng.

Các mốc thời gian chính trong đấu thầu xây dựng

- Thời gian sơ tuyển: tối đa là 30 ngày (đối với đấu thầu trong nước) và tối đa 45 ngày (đối với đấu thầu quốc tế)

- Thông báo mời thầu: tối thiểu 10 ngày trước khi phát hành HSMT

- Thời gian dành cho nhà thầu chuẩn bị HSDT Đối với đấu thầu quốc tế : tối thiểu là 30 ngày Đối với đấu thầu trong nước: tối thiểu 15 ngày

- Mở thầu: tiến hành ngay sau thời điểm đóng thầu

- Thời gian đánh giá HSDT: Đối với gói thầu đấu thầu quốc tế: tối đa 60 ngày Đối với gói thầu đấu thầu trong nước: tối đa 45 ngày

Tối đa là 20 ngày cho việc thẩm định từng nội dung KHĐT, HSMT, kết quả lựa chọn nhà thầu

Thời gian tối đa để thẩm định nội dung kế hoạch đấu thầu và kết quả lựa chọn nhà thầu là 30 ngày, áp dụng cho các dự án và gói thầu do Thủ tướng Chính phủ quyết định.

Quy trình đấu thầu xây dựng

Chuẩn bị đấu thầu

Giai đoạn đầu tiên trong quy trình đấu thầu xây dựng bao gồm các bước quan trọng như lập kế hoạch đấu thầu, sơ tuyển nhà thầu, lập hồ sơ mời thầu và thông báo mời thầu Đây là những công việc cần thiết để đảm bảo quy trình đấu thầu diễn ra hiệu quả và minh bạch.

Kế hoạch đấu thầu, do bên mời thầu lập, cần phải được phê duyệt bởi cơ quan có thẩm quyền trước khi tổ chức đấu thầu Nội dung kế hoạch này phải nêu rõ các thông tin cần thiết để đảm bảo tính minh bạch và hiệu quả trong quá trình đấu thầu.

- Số lượng gói thầu của dự án theo một cách phân chia hợp lý;

- Giá gói thầu và nguồn tài chính;

- Hình thức lựa chọn nhà thầu và phương thức đấu thầu áp dụng đối với từng gói thầu của dự án;

- Thời gian tổ chức đấu thầu;

- Loại hợp đồng cho từng gói thầu

Sơ đồ 1.1: Quy trình đấu thầu xây dựng tổng quát

Mở thầu và xét thầu Chuẩn bị đấu thầu

Thẩm định và phê duyệt kết quả đấu thầu

Thương thảo và hoàn thiện hợp đồng

Sơ tuyển nhà thầu là một bước quan trọng trong quy trình đấu thầu, áp dụng cho các gói thầu xây dựng lớn và phức tạp Mục tiêu của sơ tuyển là đảm bảo chỉ những nhà thầu có đủ năng lực và kinh nghiệm được tham gia, theo quy định của nhà nước Quy trình này dựa trên các yêu cầu cụ thể của gói thầu và được đánh giá dựa trên ba yếu tố chính: kinh nghiệm và kết quả thực hiện các hợp đồng tương tự, năng lực kỹ thuật (bao gồm máy móc, thiết bị và nhân lực), và khả năng tài chính của nhà thầu.

Sơ tuyển là bước quan trọng giúp bên mời thầu tạo ra danh sách ngắn các nhà thầu đủ điều kiện tham gia giai đoạn đấu thầu chính thức Nội dung sơ tuyển bao gồm việc đánh giá năng lực và kinh nghiệm của các nhà thầu để đảm bảo lựa chọn những ứng viên phù hợp nhất.

- Lập hồ sơ sơ tuyển gồm có: thư mời sơ tuyển; chỉ dẫn sơ tuyển; tiêu chuẩn đánh giá; các phụ lục cần thiết kèm theo;

- Thông báo mời sơ tuyển;

- Nhận và quản lý hồ sơ sơ tuyển;

- Đánh giá hồ sơ sơ tuyển;

- Duyệt và thông báo kết quả sơ tuyển

Lập hồ sơ mời thầu là bước quan trọng trong chuẩn bị đấu thầu, do bên mời thầu hoặc tổ chức tư vấn thực hiện Hồ sơ cần nêu rõ nội dung gói thầu, yêu cầu về thời gian, tiến độ, chất lượng, thiết kế kỹ thuật, và các tiêu chuẩn áp dụng Một phần thiết yếu là điều kiện tiên quyết để loại bỏ hồ sơ dự thầu, trong đó nêu rõ tiêu chí vi phạm của nhà thầu Số lượng điều kiện này có thể thay đổi tùy vào từng dự án, nhưng cần tránh tiêu chí không cơ bản để không loại bỏ oan các nhà thầu chất lượng.

Thông báo mời thầu là một bước quan trọng trong giai đoạn chuẩn bị đấu thầu, theo quy định của pháp luật Thông báo này cần được đăng trên tờ báo chuyên về đấu thầu và trên trang web của nhà nước, cũng như trên các phương tiện thông tin đại chúng để đảm bảo nhiều nhà thầu được biết đến Đối với đấu thầu quốc tế, bên mời thầu phải công bố thông báo trên ít nhất một tờ báo tiếng Anh phổ biến tại Việt Nam.

Tổ chức đấu thầu

Tổ chức đấu thầu là giai đoạn quan trọng thứ hai trong quy trình đấu thầu, bao gồm việc phát hành hồ sơ mời thầu, thành lập tổ chuyên gia xét thầu và quản lý hồ sơ đấu thầu một cách hiệu quả.

Việc thu nhận và quản lý hồ sơ dự thầu của các nhà thầu cần tuân thủ nghiêm ngặt các yêu cầu về bí mật và an toàn, vì đây là tài sản quý giá và bí mật thương mại của họ trong quá trình cạnh tranh Các nhà thầu đầu tư nhiều chi phí để xây dựng hồ sơ dự thầu, do đó, việc đảm bảo tính bảo mật sẽ tạo điều kiện cho họ cạnh tranh một cách công bằng và hiệu quả hơn.

Mở thầu và xét thầu

Sau khi đóng thầu, giai đoạn tiếp theo là mở thầu và xét thầu, diễn ra công khai theo thời gian và địa điểm đã công bố trong hồ sơ mời thầu Quá trình mở thầu phải tuân thủ trình tự quy định và lập biên bản mở thầu, ghi lại đầy đủ diễn biến buổi mở thầu Biên bản này cần được xác nhận bởi các đại diện tham dự thông qua chữ ký của họ.

Xét thầu được thực hiện bởi bên mời thầu thông qua tổ chuyên gia tư vấn đã được thành lập, dựa trên các tiêu chuẩn đánh giá đã được phê duyệt Các tiêu chuẩn này phải được nêu rõ trong hồ sơ mời thầu trước khi mở thầu Quy trình xét thầu thường diễn ra theo các bước cụ thể để đảm bảo tính minh bạch và công bằng.

Đánh giá sơ bộ là bước quan trọng để xác minh tính hợp lệ của hồ sơ dự thầu, giúp loại bỏ những hồ sơ không đủ điều kiện, chẳng hạn như hồ sơ thiếu bảo đảm dự thầu hoặc không đáp ứng các điều kiện tiên quyết.

- Đánh giá chi tiết về mặt kỹ thuật để chọn danh sách ngắn Đánh giá chi tiết về mặt kỹ thuật được thực hiện một trong hai phương pháp

1) Đánh giá tiêu chí “đạt” hay “ không đạt” hoặc;

2) Phương pháp chấm điểm Tiêu chí được dùng để chấm điểm đánh giá năng lực kinh tế, kỹ thuật và kinh nghiệm của nhà thầu đối với việc thực hiện gói thầu bao gồm: biện pháp thi công, kinh nghiệm nhà thầu, bố trí nhân sự chủ chốt Thang điểm được sử dụng trong chấm điểm là

100 hoặc 1000 điểm Nhà thầu đạt điểm kỹ thuật tối thiểu từ 70% số điểm trở lên hoặc phải

“ đạt” tất cả các tiêu chí mới được đưa vào danh sách ngắn các nhà thầu được tham gia giai đoạn tiếp theo

Đánh giá tài chính chi tiết là bước quan trọng để xếp hạng các nhà thầu Phương pháp áp dụng trong giai đoạn này là so sánh chi phí giữa các nhà thầu trên cùng một tiêu chí Các nhà thầu được đưa vào danh sách ngắn sau khi hoàn tất đánh giá kỹ thuật sẽ tiếp tục được xem xét dựa trên tiêu chí tài chính.

Chi phí trên cùng một mặt bằng là yếu tố quan trọng trong việc xếp hạng các nhà thầu Bên mời thầu sẽ đánh giá và sắp xếp các nhà thầu dựa trên chi phí này, trong đó nhà thầu có chi phí thấp nhất sẽ được xếp hạng cao nhất Nhà thầu có chi phí thấp nhất sẽ được đề nghị trúng thầu, và giá chào thầu của nhà thầu này, sau khi đã sửa lỗi số học và hiệu chỉnh các sai lệch, sẽ được gọi là giá trúng thầu.

Dựa trên kết quả đánh giá hồ sơ dự thầu, tổ chuyên gia đấu thầu sẽ tổng hợp và báo cáo bằng văn bản để các cơ quan có thẩm quyền thẩm định và phê duyệt Báo cáo đấu thầu cần trình bày rõ ràng các nội dung quan trọng.

- Mô tả nội dung gói thầu và cơ sở pháp lý để tổ chức đấu thầu;

- Toàn bộ quá trình đấu thầu

- Kết quả đánh giá xếp hạng các hồ sơ dự thầu

- Kiến nghị trúng thầu (nêu rõ tên nhà thầu, giá trúng thầu và loại hợp đồng cũng như thời gian thực hiện hợp đồng).

Thẩm định và phê duyệt kết quả đấu thầu

Để đảm bảo tính hợp lệ trong quyết định trúng thầu, bên mời thầu cần báo cáo kết quả đấu thầu lên cấp có thẩm quyền để thẩm định Căn cứ vào ý kiến của các cơ quan chức năng, cơ quan hoặc cấp phê duyệt sẽ tiến hành xem xét và phê duyệt kết quả đấu thầu.

Nội dung thẩm định kết quả đấu thầu gồm các vấn đề sau:

Kiểm tra các căn cứ pháp lý của gói thầu là rất quan trọng, bao gồm Quyết định đầu tư, kế hoạch đấu thầu đã được phê duyệt, các quyết định phê duyệt hồ sơ mời thầu, tiêu chuẩn đánh giá, quyết định thành lập tổ chuyên gia đấu thầu và các văn bản liên quan khác.

Kiểm tra quy trình đấu thầu đã thực hiện là bước quan trọng, bao gồm việc xem xét thời gian phát hành hồ sơ mời thầu, thời gian dành cho nhà thầu chuẩn bị hồ sơ dự thầu, thời gian mở thầu và thời gian đánh giá hồ sơ dự thầu.

Kiểm tra kết quả đánh giá hồ sơ dự thầu của Tổ chuyên gia là rất quan trọng Cần xem xét các ý kiến bảo lưu trong quá trình đánh giá để đảm bảo tính phù hợp và chính xác của các đánh giá so với tiêu chuẩn đã được phê duyệt.

Trong quá trình phê duyệt kết quả đấu thầu, người có thẩm quyền sẽ dựa trên báo cáo đấu thầu của bên mời thầu và báo cáo thẩm định kết quả đấu thầu của cơ quan thẩm định Các nội dung cần làm rõ bao gồm tên nhà thầu trúng thầu, giá trúng thầu và loại hợp đồng Những thông tin này là căn cứ pháp lý quan trọng để bên mời thầu tiếp tục thực hiện các bước còn lại trong quy trình đấu thầu.

Công bố kết quả đấu thầu

Sau khi phê duyệt kết quả đấu thầu, bên mời thầu thông báo kết quả bằng văn bản đến tất cả các nhà thầu tham gia, kể cả khi không có nhà thầu nào trúng Đối với nhà thầu trúng thầu, bên mời thầu cần gửi kèm theo các yêu cầu cần thiết theo quy định để thương thảo hợp đồng Đối với các nhà thầu không trúng, bên mời thầu sẽ hoàn trả bảo lãnh dự thầu trong thời gian quy định kể từ ngày công bố kết quả.

1.5.6 Thương thảo và hoàn thiện hợp đồng Đây là công việc nhằm tiếp tục giải quyết các tồn đọng, chưa đầy đủ, chưa hoàn chỉnh trong quá trình đấu thầu Tất cả các sai lệch, sai sót khi nhà thầu xây dựng HSDT sẽ được đem ra trao đổi để đi đến thống nhất Quá trình thương thảo cũng đề cập đến các sáng kiến, các đề xuất của nhà thầu trúng thầu để đi đến thống nhất Yêu cầu của giai đoạn này là giá trị hợp đồng sau khi hoàn thiện không vượt quá giá trúng thầu được duyệt

Nếu thương thảo với nhà thầu trúng thầu không đạt được thỏa thuận, bên mời thầu sẽ trình người có thẩm quyền xem xét để mời nhà thầu xếp hạng thứ hai hoàn thiện hợp đồng.

Ký hợp đồng

Công việc cuối cùng giữa bên mời thầu và nhà thầu trúng thầu là để chính thức hoá trách nhiệm và nghĩa vụ của các bên trong quá trình thực hiện gói thầu Để đảm bảo ký kết hợp đồng đúng thủ tục, bên mời thầu yêu cầu nhà thầu nộp bảo lãnh thực hiện hợp đồng trước khi tiến hành ký kết.

Lý thuyết rủi ro

Môi trường sống hiện nay chứa đựng nhiều rủi ro, xuất hiện bất ngờ trong mọi lĩnh vực Rủi ro có thể được chia thành hai loại: rủi ro nội tại từ máy móc, nguyên vật liệu, nhân sự và tài chính, và rủi ro ngoại tại từ các yếu tố như chính trị, pháp luật, xã hội và thiên nhiên Tùy thuộc vào cách tiếp cận, chúng ta có thể định nghĩa rủi ro theo nhiều cách khác nhau.

Theo quan điểm truyền thống, rủi ro được định nghĩa là những thiệt hại, mất mát, hoặc nguy hiểm liên quan đến các yếu tố khó khăn và không chắc chắn có thể xảy ra đối với con người.

Theo quan điểm trung hòa, rủi ro được xem là sự bất trắc có thể đo lường, như Frank Knight đã chỉ ra, hoặc như Allan Willett mô tả, rủi ro liên quan đến những biến cố không mong đợi Trong cuốn “Risk management and insurance”, C Arthur William, Jr và Micheal L Smith giải thích rằng rủi ro là sự biến động tiềm ẩn của kết quả, có thể xuất hiện trong hầu hết các hoạt động của con người Sự hiện diện của rủi ro tạo ra sự bất định, khiến người ta không thể dự đoán chính xác kết quả Nguy cơ rủi ro phát sinh khi một hành động dẫn đến khả năng được hoặc mất không thể đoán trước.

Trường phái trung hòa rủi ro cho rằng rủi ro là điều có thể đo lường và kiểm soát Mặc dù rủi ro có thể gây ra tổn thất và nguy hiểm, nhưng nó cũng mở ra cơ hội và thời cơ Bằng cách nghiên cứu và nhận diện rủi ro một cách tích cực, chúng ta có thể phát triển các biện pháp phòng ngừa, giảm thiểu tác động tiêu cực và tối ưu hóa những cơ hội tích cực từ rủi ro.

Theo trường phái tiêu cực, rủi ro được hiểu là sự không may mắn, tổn thất, mất mát hoặc nguy hiểm Từ điển Tiếng Việt của Trung tâm từ điển học Hà Nội (1995) định nghĩa rủi ro là "điều không lành, không tốt, bất ngờ xảy đến", trong khi từ điển Oxford mô tả rủi ro là "khả năng gặp nguy hiểm hoặc bị đau đớn, thiệt hại" Trong lĩnh vực kinh doanh, tác giả Hồ Diệu cho rằng rủi ro là "sự tổn thất về tài sản hoặc sự giảm sút lợi nhuận thực tế so với lợi nhuận dự kiến".

Trong luận văn này, tác giả áp dụng định nghĩa rủi ro theo quan niệm truyền thống, trong đó rủi ro được hiểu là những thiệt hại, mất mát, nguy hiểm hoặc các yếu tố liên quan đến nguy hiểm, khó khăn hoặc điều không chắc chắn có thể xảy ra cho con người.

Hiện nay, chưa có khái niệm thống nhất về quản trị rủi ro, với nhiều trường phái nghiên cứu đưa ra những định nghĩa khác nhau, thậm chí mâu thuẫn Một số tác giả cho rằng quản trị rủi ro chỉ đơn thuần là mua bảo hiểm cho những rủi ro có thể phân tán Ngược lại, một trường phái mới nhấn mạnh rằng cần quản trị toàn diện mọi loại rủi ro trong tổ chức Nhiều tác giả, bao gồm cả Kloman, đồng ý rằng quản trị rủi ro là quá trình tiếp cận rủi ro một cách khoa học, hệ thống nhằm nhận dạng, kiểm soát, phòng ngừa và giảm thiểu tổn thất cũng như ảnh hưởng bất lợi từ rủi ro.

Rủi ro trong đấu thầu xây dựng

Rủi ro đối với bên mời thầu

Những rủi ro của chủ đầu tư trong hoạt động đấu thầu bao gồm các rủi ro tiêu biểu như sau:

- Rủi ro về mặt thủ tục hồ sơ, pháp lý:

HSMT thường gặp nhiều thiếu sót và không rõ ràng, ảnh hưởng đến quá trình lập HSDT của nhà thầu Các vấn đề thường gặp bao gồm bản vẽ thiếu sót, khối lượng không chính xác và thiếu hạng mục Những thiếu sót này gây ra rủi ro và khó khăn cho nhà thầu trong việc hiểu rõ HSMT, dẫn đến việc lập dự toán và xác định giá thầu không chính xác.

+ Rủi ro do thiếu kinh nghiệm hay năng lực của đội ngũ chuyên viên đấu thầu

Thiếu kinh nghiệm và năng lực của đội ngũ chuyên viên đấu thầu có thể dẫn đến nhiều rủi ro, như hồ sơ mời thầu không đầy đủ, thẩm định và đánh giá hồ sơ dự thầu không chính xác, ràng buộc hợp đồng lỏng lẻo, và phản ứng chậm với các tình huống phát sinh.

Rủi ro trong quy trình đấu thầu có thể phát sinh khi đơn vị tư vấn không tham vấn đầy đủ, dẫn đến việc chủ đầu tư, có thể là Hiệu trưởng hoặc Viện trưởng, không nắm rõ quy trình đấu thầu Theo khoản 9, điều 4 Luật Đấu thầu, chủ đầu tư là người quản lý dự án, nhưng nhiều người trong số họ không có kiến thức chuyên sâu về xây dựng cơ bản (XDCB) và quy trình đấu thầu Điều này tạo ra nguy cơ khi chủ đầu tư chọn đơn vị tư vấn kém năng lực, không đủ khả năng để tư vấn toàn diện và hiệu quả cho quá trình đấu thầu.

+ Rủi ro do thuê đơn vị tư vấn yếu năng lực

Rủi ro trong lĩnh vực xây dựng thường xuất phát từ việc chủ đầu tư không có kiến thức chuyên môn về xây dựng hoặc mặc dù là doanh nghiệp trong ngành nhưng lại phụ thuộc hoàn toàn vào đơn vị tư vấn cho các khâu thiết kế, lập dự toán và tổ chức đấu thầu Nếu chủ đầu tư chọn phải đơn vị tư vấn thiếu năng lực, điều này có thể dẫn đến những rủi ro đáng kể cho dự án và ảnh hưởng tiêu cực đến kết quả đầu tư.

+ Rửi ro do tiêu cực, để lộ thông tin về gói thầu

Thông tin về gói thầu cần được bảo mật tuyệt đối để tránh rủi ro tiêu cực, như việc lộ thông tin nhạy cảm có thể dẫn đến lợi thế cho một nhà thầu cụ thể Chủ đầu tư phải đối mặt với nguy cơ khi thông tin bị tiết lộ, điều này có thể ảnh hưởng đến khả năng lựa chọn nhà thầu đủ năng lực do sự cạnh tranh không lành mạnh.

+ Rủi ro do chưa tìm hiểu kỹ năng lực của nhà thầu

Trong hồ sơ mời thầu (HSMT), chủ đầu tư quy định rõ yêu cầu về năng lực của nhà thầu, bao gồm năng lực tài chính và chuyên môn Việc không tìm hiểu kỹ lưỡng năng lực của nhà thầu có thể dẫn đến nhiều rủi ro trong quá trình thi công, như chậm tiến độ, chất lượng công trình không đảm bảo và phát sinh nhiều chi phí không mong muốn.

- Rủi ro về mặt kinh tế - kỹ thuật:

Rủi ro khi đưa khối lượng trong HSMT chưa chính xác là vấn đề nghiêm trọng đối với các dự án có vốn nhà nước Khi phát hành HSMT, nhà đầu tư cần cung cấp khối lượng kèm theo bản vẽ thiết kế đã được thẩm tra Nếu khối lượng đưa ra thiếu so với thực tế, nhà đầu tư sẽ gặp khó khăn trong việc xác định khối lượng phát sinh, ảnh hưởng đến quá trình thanh quyết toán Ngược lại, nếu khối lượng đưa ra dư thừa, nhà thầu sẽ hưởng lợi từ sự chênh lệch này.

+ Rủi ro do lập dự toán có đơn giá không phù hợp với đơn giá trên thị trường

Chủ đầu tư và nhà thầu đều chú trọng đến vấn đề giá, nhưng từ những góc nhìn khác nhau Đối với chủ đầu tư, quá trình hình thành giá kéo dài và cần sự hỗ trợ từ tư vấn để đưa ra các mức giá ước toán, giá khái toán, giá khởi điểm đấu thầu, giá chọn thầu, giá ký kết hợp đồng và giá quyết toán Để tính toán các mức giá này, chủ đầu tư và tư vấn phải xác định định mức tiêu hao nguyên vật liệu, nhân công và máy móc, từ đó áp giá vào từng hạng mục để xác định mức vốn đầu tư tối thiểu cho dự án, được coi là giá trần Các giá dự thầu của nhà thầu cần phải thấp hơn mức giá này Việc áp giá không chính xác hoặc không đúng thời điểm có thể gây khó khăn cho chủ đầu tư trong việc đánh giá dự thầu của các nhà thầu.

Rủi ro do giá cả nguyên vật liệu xây dựng tăng cao là một yếu tố khách quan, dẫn đến chi phí xây dựng tăng và ảnh hưởng đến lợi nhuận của chủ đầu tư Dù có thể dự báo mức tăng giá tương lai để áp dụng các biện pháp phòng ngừa, nhưng đôi khi giá nguyên vật liệu tăng vượt mức dự báo, gây ra tác động lớn đến nhiều vấn đề khác như chậm tiến độ xây dựng, áp lực trả lãi vay ngân hàng, và việc giải trình với các cơ quan cấp trên trong các dự án vốn nhà nước.

+ Rủi ro do các sai sót trong hồ sơ thiết kế gây khó khăn cho bên dự thầu

Khi chủ đầu tư chỉ cung cấp bộ bản vẽ thiết kế đã được thẩm tra mà không kèm theo khối lượng, nhà thầu sẽ phải dựa vào các bản vẽ này để tính toán khối lượng và lập dự toán giá thầu Những sai sót trong hồ sơ thiết kế, như kích thước hình học không chính xác hay thiếu bản vẽ chi tiết, sẽ gây khó khăn cho nhà thầu trong việc hoàn thiện hồ sơ dự thầu.

- Rủi ro về mặt tài chính: là những rủi ro liên quan đến tài chính, tiêu biểu các loại rủi ro sau:

+ Rủi ro do nhà thầu yếu năng lực tài chính khi thực hiện gói thầu

Nhà thầu có năng lực tài chính yếu thường gặp phải tình trạng chậm tiến độ trong thực hiện dự án, dẫn đến thi công cầm chừng hoặc bỏ lỡ các hạng mục Khi rủi ro xảy ra, chủ đầu tư có thể giải quyết bằng cách thanh toán cho các phần việc đã hoàn thành và tổ chức đấu thầu lại cho những phần việc còn lại, điều này có thể phát sinh thêm nhiều chi phí cho chủ đầu tư.

+ Rủi do do bản thân đơn vị gặp khó khăn về tài chính

Chậm giải ngân vốn từ ngân sách nhà nước hoặc kết quả kinh doanh kém của doanh nghiệp gây ra tình trạng chậm thanh toán cho các hạng mục đã hoàn thành, dẫn đến việc nhà thầu thi công không hiệu quả và cầm chừng.

Rủi ro từ việc lựa chọn hợp đồng không phù hợp hoặc các ràng buộc hợp đồng không chặt chẽ có thể gây thiệt hại cho chủ đầu tư Trong lĩnh vực xây dựng cơ bản (XDCB), các hình thức hợp đồng như hợp đồng trọn gói, hợp đồng chìa khóa trao tay, hợp đồng có điều chỉnh giá, hợp đồng theo thời gian và hợp đồng theo tỷ lệ phần trăm cần được xem xét kỹ lưỡng để giảm thiểu rủi ro.

+ Rủi ro do giá trị thanh toán có sự chênh lệch so với ban đầu ký kết

Quản lý kém của chủ đầu tư có thể dẫn đến phát sinh nhiều loại chi phí không mong muốn, đặc biệt khi thiết kế khảo sát ban đầu không chính xác, gây ra sự chênh lệch lớn so với hợp đồng ký kết Đối với dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước, chủ đầu tư sẽ phải tốn thời gian giải trình với các cơ quan cấp trên, trong khi đó, các doanh nghiệp khác sẽ phải đối mặt với chi phí xây dựng tăng thêm.

Trong giai đoạn thi công sau khi ký kết hợp đồng, chủ đầu tư thường phải đối mặt với nhiều rủi ro từ phía nhà thầu Những rủi ro này có thể bao gồm việc chậm tiến độ, chất lượng công trình không đạt yêu cầu, hoặc phát sinh chi phí ngoài dự kiến Việc nhận diện và quản lý các rủi ro này là rất quan trọng để đảm bảo dự án được thực hiện đúng tiến độ và đạt chất lượng mong muốn.

+ Rủi ro do sử dụng vật liệu kém chất lượng; chất lượng xây dựng kém; công trình xuống cấp nhanh

Rủi ro đối với bên dự thầu

Những rủi ro mà nhà thầu có thể gặp phải tương tự như những rủi ro của chủ đầu tư, bao gồm thiếu kinh nghiệm của đội ngũ chuyên viên đấu thầu, hồ sơ dự thầu (HSDT) có nhiều thiếu sót, biến động giá cả nguyên vật liệu, sự can thiệp của nhiều cấp công quyền, và các phát sinh ngoài hợp đồng Bên cạnh đó, nhà thầu còn phải đối mặt với những rủi ro mang tính đặc trưng riêng, ảnh hưởng đến quá trình thực hiện dự án.

+ Rủi ro do thiếu thông tin về gói thầu

Thiếu thông tin về gói thầu xảy ra khi hồ sơ mời thầu (HSMT) của chủ đầu tư có những thiếu sót, dẫn đến việc nhà thầu không thể tìm hiểu chính xác, từ đó ảnh hưởng đến việc lập hồ sơ dự thầu (HSDT) Các thiếu sót này có thể bao gồm bản vẽ không rõ kích thước và tiêu chuẩn kỹ thuật chưa được làm rõ Trong trường hợp này, nhà thầu có quyền yêu cầu chủ đầu tư cung cấp thêm thông tin, và chủ đầu tư phải trả lời trong thời gian quy định Rủi ro gia tăng khi chủ đầu tư chậm phản hồi, khiến HSDT không thể hoàn thiện đúng hạn và chính xác.

+ Rủi ro trong việc phân chia trách nhiệm với nhà thầu liên doanh khi lập HSDT

Nhà thầu có khả năng hợp tác với các nhà thầu khác để thành lập liên doanh và tham gia đấu thầu chung Tuy nhiên, rủi ro có thể phát sinh nếu các bên không thống nhất trong việc phân chia công việc hoặc thiếu thông tin liên lạc về các vấn đề kinh tế, kỹ thuật và tài chính trong quá trình lập hồ sơ dự thầu.

+ Rủi ro khi chủ đầu tư yếu năng lực tài chính khi thực hiện gói thầu

Chủ đầu tư có năng lực tài chính yếu khi thực hiện gói thầu thường thể hiện qua việc chậm thanh quyết toán các hạng mục đã hoàn thành và chậm ứng vốn cho nhà thầu Sự chậm trễ trong thanh toán này sẽ gây khó khăn cho nhà thầu trong việc thực hiện các hạng mục tiếp theo, đồng thời ảnh hưởng đến khả năng chi trả cho các khoản khác như lương cho người lao động, chi phí thuê máy móc, thanh toán hóa đơn nguyên vật liệu và trả lãi vay ngân hàng.

+ Rủi ro do nhà thầu phụ yếu năng lực tài chính và năng lực chuyên môn

Trong quá trình thực hiện gói thầu, nhà thầu có quyền thuê các nhà thầu phụ để hỗ trợ một số phần việc Tuy nhiên, rủi ro có thể xảy ra nếu nhà thầu phụ không đủ năng lực tài chính hoặc chuyên môn, dẫn đến việc thi công không đúng kế hoạch Điều này sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến kết quả chung của gói thầu mà nhà thầu chính đang thực hiện.

Rủi ro do thiếu kinh nghiệm chuyên môn của đội ngũ thi công trong lĩnh vực xây dựng cơ bản là một yếu tố nội bộ quan trọng Khi đội ngũ chuyên viên không đủ năng lực, sẽ dẫn đến việc tiêu tốn nguyên vật liệu, chậm tiến độ, chất lượng công trình không đảm bảo và gia tăng tai nạn lao động.

+ Rủi ro do vướng các hạ tầng kỹ thuật khác

Trong quá trình thực hiện gói thầu, rủi ro liên quan đến việc vướng các hạ tầng kỹ thuật có thể xảy ra do khảo sát hiện trường ban đầu không chính xác và thiếu tài liệu cần thiết Điều này dẫn đến việc phải điều chỉnh thiết kế ban đầu hoặc đưa ra các phương án kỹ thuật khác, gây tốn thời gian và phát sinh chi phí không mong muốn.

Tóm lại, bài viết tổng quan về các rủi ro mà chủ đầu tư và nhà thầu phải đối mặt Ở chương 2, tác giả sẽ phân tích thực trạng hoạt động đấu thầu tại Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, đồng thời xem xét các rủi ro thông qua dữ liệu từ các phiếu khảo sát.

Trong chương 1, tác giả phân tích các thuật ngữ liên quan đến hoạt động đấu thầu xây dựng và trình bày quy trình đấu thầu nhằm lựa chọn nhà thầu phù hợp.

Bài viết này tổng hợp những rủi ro chính trong quy trình đấu thầu, bao gồm các yếu tố như tính pháp lý, tính khoa học, tính khả thi, hiệu quả kinh tế, tính cạnh tranh và tính công khai minh bạch trong quá trình lựa chọn nhà thầu xây dựng công trình.

Trong quá trình đấu thầu và thực hiện hợp đồng gói thầu, chủ đầu tư và nhà thầu thường gặp phải một số rủi ro phổ biến Những rủi ro này có thể ảnh hưởng đến tiến độ, chất lượng và chi phí của dự án Việc nhận diện và quản lý các rủi ro này là rất quan trọng để đảm bảo thành công của dự án.

Thực trạng đấu thầu xây dựng các công trình xây dựng có vốn ngân sách nhà nước những năm 2005 – 2009

Định hướng phát triển hoạt động đấu thầu trong tương lai tại Việt Nam

Ngày đăng: 13/12/2021, 16:07

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Sơ đồ 1.1: Quy trình đấu thầu xây dựng tổng quát - Tài liệu luận văn Một Số Giải Pháp Hạn Chế Rủi Ro Trong Hoạt Động Đấu Thầu
Sơ đồ 1.1 Quy trình đấu thầu xây dựng tổng quát (Trang 26)
Bảng 2.1: Vốn nhà nước đầu tư cho lĩnh vực XDCB qua các năm - Tài liệu luận văn Một Số Giải Pháp Hạn Chế Rủi Ro Trong Hoạt Động Đấu Thầu
Bảng 2.1 Vốn nhà nước đầu tư cho lĩnh vực XDCB qua các năm (Trang 44)
Bảng 2.2: Cơ cấu vốn nhà nước đầu tư cho lĩnh vực XDCB qua các năm - Tài liệu luận văn Một Số Giải Pháp Hạn Chế Rủi Ro Trong Hoạt Động Đấu Thầu
Bảng 2.2 Cơ cấu vốn nhà nước đầu tư cho lĩnh vực XDCB qua các năm (Trang 44)
Bảng 2.4: Mức chênh lệch giữa giá gói thầu và giá trúng thầu - Tài liệu luận văn Một Số Giải Pháp Hạn Chế Rủi Ro Trong Hoạt Động Đấu Thầu
Bảng 2.4 Mức chênh lệch giữa giá gói thầu và giá trúng thầu (Trang 46)
Bảng 2.5: Mức chênh lệch giữa giá gói thầu và giá trúng thầu - Tài liệu luận văn Một Số Giải Pháp Hạn Chế Rủi Ro Trong Hoạt Động Đấu Thầu
Bảng 2.5 Mức chênh lệch giữa giá gói thầu và giá trúng thầu (Trang 47)
Bảng 2.7: Tỷ lệ tiết kiệm của các gói thầu sử dụng vốn liên doanh, cổ phần, hợp - Tài liệu luận văn Một Số Giải Pháp Hạn Chế Rủi Ro Trong Hoạt Động Đấu Thầu
Bảng 2.7 Tỷ lệ tiết kiệm của các gói thầu sử dụng vốn liên doanh, cổ phần, hợp (Trang 49)
Bảng câu hỏi được gửi đi trực tiếp, bằng đường bưu điện, gửi email, nhờ các đồng  nghiệp gửi dùm và phỏng vấn trực tiếp - Tài liệu luận văn Một Số Giải Pháp Hạn Chế Rủi Ro Trong Hoạt Động Đấu Thầu
Bảng c âu hỏi được gửi đi trực tiếp, bằng đường bưu điện, gửi email, nhờ các đồng nghiệp gửi dùm và phỏng vấn trực tiếp (Trang 62)
BẢNG PHÂN TÍCH ĐƠN GIÁ DỰ THẦU - Tài liệu luận văn Một Số Giải Pháp Hạn Chế Rủi Ro Trong Hoạt Động Đấu Thầu
BẢNG PHÂN TÍCH ĐƠN GIÁ DỰ THẦU (Trang 95)
BẢNG PHÂN TÍCH ĐƠN GIÁ DỰ THẦU Đối với các công tác cung cấp lắp đặt thiết bị thứ i - Tài liệu luận văn Một Số Giải Pháp Hạn Chế Rủi Ro Trong Hoạt Động Đấu Thầu
i với các công tác cung cấp lắp đặt thiết bị thứ i (Trang 97)
BẢNG TÍNH GIÁ VẬT LIỆU, THIẾT BỊ TRONG ĐƠN GIÁ DỰ THẦU - Tài liệu luận văn Một Số Giải Pháp Hạn Chế Rủi Ro Trong Hoạt Động Đấu Thầu
BẢNG TÍNH GIÁ VẬT LIỆU, THIẾT BỊ TRONG ĐƠN GIÁ DỰ THẦU (Trang 97)

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w