TỔNG QUAN
Đại cương về bệnh lao
1.1.1 Khái niệm về bệnh lao
Lao là bệnh truyền nhiễm do vi khuẩn Mycobacterium tuberculosis gây ra, có thể ảnh hưởng đến mọi bộ phận của cơ thể Trong đó, lao phổi là dạng phổ biến nhất, chiếm từ 80 đến 85% tổng số ca bệnh và là nguồn lây nhiễm chính cho những người xung quanh.
1.1.2 Dịch tễ học bệnh lao
1.1.2.1 Tình hình bệnh lao trên thế giới
Theo báo cáo của WHO về bệnh lao toàn cầu năm 2019 [25]:
Năm 2018, thế giới ghi nhận khoảng 10 triệu trường hợp lao mới, trong đó 57% là nam giới và 32% là phụ nữ Có 1,1 triệu trẻ em mắc bệnh lao, với 205.000 trẻ em tử vong do bệnh này, bao gồm cả trẻ nhiễm HIV Bệnh lao ở trẻ em và thanh thiếu niên thường bị bỏ qua và khó chẩn đoán 30 quốc gia có gánh nặng bệnh lao cao chiếm 87% số ca mắc mới, trong đó tám quốc gia hàng đầu như Ấn Độ, Trung Quốc, Indonesia, Philippines, Pakistan, Nigeria, Bangladesh và Nam Phi chiếm 67% tổng số ca bệnh mới.
Theo báo cáo, số ca mắc HIV trong các trường hợp lao mới đạt 860.000, chiếm 8,6% Khu vực châu Phi ghi nhận tỷ lệ mắc lao ở những người sống với HIV cao nhất, lên tới 87%, tăng 60% so với năm 2017 Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) khuyến cáo rằng bệnh nhân lao có HIV dương tính cần được tiếp cận với liệu pháp điều trị kháng virus (ART) Trong tổng số 477.461 ca lao được báo cáo ở những người dương tính với HIV, có 86% đang được điều trị bằng thuốc kháng virus.
Năm 2018, bệnh lao đã gây ra khoảng 1,2 triệu trường hợp tử vong, giảm 27% so với 1,7 triệu ca tử vong vào năm 2000 Trong số này, có thêm 251.000 ca tử vong ở những người dương tính với HIV, giảm 60% so với 620.000 ca vào năm trước.
Hơn 95% ca tử vong do bệnh lao xảy ra ở các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình, với khoảng 0,4 triệu ca tử vong liên quan đến những người sống chung với HIV Bệnh lao là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở những người nhiễm HIV.
Bệnh lao vẫn là một trong mười nguyên nhân hàng đầu gây tử vong toàn cầu vào năm 2018, vượt qua cả HIV và sốt rét Mục tiêu chấm dứt dịch bệnh lao vào năm 2030 là một phần quan trọng trong các mục tiêu y tế của Mục tiêu phát triển bền vững Tình hình bệnh lao ở Việt Nam cần được chú ý và giải quyết để đạt được mục tiêu này.
Bệnh lao ở Việt Nam thuộc loại trung bình cao trong khu vực Tây Thái Bình Dương, nơi có tỷ lệ lưu hành lao trung bình toàn cầu Việt Nam đã bắt đầu các hoạt động chống lao từ năm 1957 với sự ra đời của Viện Chống Lao Trung ương, hiện là Bệnh viện Phổi Trung ương Chương trình Chống lao Quốc gia được thành lập vào năm 1986, và từ năm 1992, chiến lược DOTS (Điều trị trực tiếp có giám sát, liệu trình ngắn hạn) đã được áp dụng Đến năm 2000, chương trình đã đạt được độ bao phủ toàn bộ về địa lý Chương trình chống lao quốc gia được tổ chức thành 4 tuyến: Trung ương, tỉnh, huyện, xã, giúp quản lý bệnh lao hiệu quả hơn và tạo điều kiện thuận lợi cho người dân trong việc khám và điều trị.
Năm 2019, Việt Nam ghi nhận 103.819 ca bệnh lao, trong đó có 58.956 ca lao phổi có bằng chứng vi khuẩn, chiếm 56,86% Số bệnh nhân lao phổi có bằng chứng vi khuẩn mới phát hiện tăng 2.800 ca so với năm 2018, tương đương 5,64% Mặc dù số bệnh nhân lao phổi tái phát và điều trị lại giảm 520 và 181 ca, nhưng số ca lao phổi không có bằng chứng vi khuẩn cũng giảm 441 ca, tương đương 1,8% Tỷ lệ phát hiện bệnh lao trên 100.000 dân năm 2019 tăng nhẹ, đạt 108,19 so với 107,51/100.000 dân năm 2018.
Tỷ lệ điều trị khỏi bệnh nhân lao có bằng chứng vi khuẩn học mới và tái phát đạt 86,6%, thấp hơn chỉ tiêu 90% của CTCLQG, mặc dù đã đạt yêu cầu của WHO Tỷ lệ âm hóa đờm sau 2-3 tháng điều trị trong năm 2018 là 87,4%, cho thấy hoạt động điều trị được duy trì tốt Tuy nhiên, với mục tiêu tỷ lệ điều trị khỏi trên 90%, 35/63 tỉnh vẫn cần cải thiện để đạt được chỉ tiêu này.
Việt Nam đã có những nỗ lực đáng kể trong công tác chống lao, với sự đóng góp từ các tỉnh, thành và các tuyến trên cả nước Tuy nhiên, theo WHO, Việt Nam vẫn đang phải đối mặt với gánh nặng bệnh lao cao, đứng thứ 16 trong 30 quốc gia có tỷ lệ bệnh nhân lao cao nhất thế giới, và xếp thứ 13 trong số 30 quốc gia có tỷ lệ bệnh lao kháng đa thuốc cao nhất toàn cầu.
1.1.3 Đặc điểm sinh học của vi khuẩn lao
Vi khuẩn lao do Robert Koch tìm ra năm 1882, vì vậy còn được gọi là
Bacilie de Koch (viết tắt là BK) Với thành công này, ông đã nhận được giải thưởng
Nobel về vi sinh vật học và y học năm 1905 [3], [5], [8], [15]
Trực khuẩn lao, thuộc họ Mycobacteriae trong bộ Actinomycetes, có hình dạng thân mảnh với hai đầu nhọn, dài từ 3 đến 5 micromet và không có lụng, nha bào hay vỏ Loại vi khuẩn này có khả năng kháng cồn và acid Khi áp dụng kỹ thuật nhuộm Ziehl-Neelsen, khuẩn lạc của trực khuẩn lao sẽ có màu kem hoặc vàng đỏ do sự hiện diện của sắc tố porphyrin và carotenoid, đồng thời có dạng xù xì giống như hình súp lơ.
Vi khuẩn lao là vi khuẩn hiếu khí, cần oxy để phát triển, thường tập trung ở phổi Số lượng vi khuẩn lao cao nhất thường xuất hiện trong các hang lao có phế quản thông, với một hang lao đường kính 2cm có thể chứa tới 10^8 vi khuẩn lao.
Trong điều kiện bình thường, vi khuẩn lao sinh sản chậm, trung bình khoảng 20-24 giờ/lần, nhưng có thể tồn tại lâu dài trong tổn thương mà không chết Khi gặp điều kiện thuận lợi, chúng sẽ phát triển trở lại Vi khuẩn lao thường sinh sản bằng cách phân đôi tế bào hoặc qua hình thức bào tử.
Khả năng gây bệnh phụ thuộc vào số lượng BK Độc tính của BK là ở khả năng sinh sản, nhân lên trong tổ chức tế bào (đại thực bào)
Vi khuẩn lao có khả năng tồn tại lâu dài trong môi trường bên ngoài, với thời gian sống lên đến 3-4 tháng trong điều kiện tự nhiên và nhiều năm trong phòng thí nghiệm Dưới ánh nắng mặt trời, vi khuẩn sẽ chết sau 1,5 giờ, trong khi khi tiếp xúc với tia cực tím, chúng chỉ sống được 2-3 phút Ở nhiệt độ 42 độ C, vi khuẩn ngừng phát triển và sẽ chết sau 10 phút ở 80 độ C Đặc biệt, đờm của bệnh nhân lao trong môi trường tối, ẩm ướt có thể giữ vi khuẩn tồn tại và duy trì độc lực trong 3 tháng.
Trực khuẩn lao kháng thuốc đang gia tăng, đòi hỏi việc tuân thủ nghiêm ngặt phác đồ điều trị và sử dụng phối hợp nhiều loại thuốc chống lao để đạt hiệu quả cao trong việc kiểm soát bệnh.
Điều trị lao
1.2.1 Nguyên tắc điều trị Điều trị bệnh lao bao gồm các nguyên tắc sau [6], [15], [19]:
Phối hợp các thuốc chống lao:
Mỗi loại thuốc chống lao có tác dụng khác nhau đối với vi khuẩn lao, bao gồm khả năng diệt khuẩn, kìm khuẩn và ảnh hưởng đến môi trường sống của vi khuẩn Do đó, việc phối hợp các loại thuốc chống lao là cần thiết để đạt hiệu quả điều trị tốt nhất.
- Với lao còn nhậy cảm với thuốc: phối hợp ít nhất 3 loại thuốc chống lao trong giai đoạn tấn công và ít nhất 2 loại trong giai đoạn duy trì
Phải dùng thuốc đúng liều:
Các thuốc chống lao hoạt động theo cơ chế hợp đồng, với mỗi loại thuốc có nồng độ tác dụng riêng Việc sử dụng liều thấp có thể dẫn đến hiệu quả kém và nguy cơ hình thành các chủng vi khuẩn kháng thuốc, trong khi liều cao lại có thể gây ra tai biến Đặc biệt, ở trẻ em mắc lao, liều thuốc cần được điều chỉnh hàng tháng dựa trên cân nặng của trẻ.
Phải dùng thuốc đều đặn:
- Các thuốc chống lao phải được uống cùng một lần vào thời gian nhất định trong ngày và xa bữa ăn để đạt hấp thu thuốc tối đa
Đối với bệnh lao đa kháng, phác đồ điều trị thường áp dụng là dùng thuốc 6 ngày trong tuần, chủ yếu vào buổi sáng Một số loại thuốc như Cs, Pto, Eto, và PAS có thể được chia liều thành hai lần trong ngày (sáng và chiều) để giảm thiểu tác dụng phụ Nếu bệnh nhân gặp khó khăn trong việc dung nạp thuốc, có thể giảm liều trong hai tuần đầu Đối với thuốc tiêm, nếu xảy ra tác dụng không mong muốn, liều lượng có thể được điều chỉnh xuống còn 3 lần/tuần hoặc ngừng sử dụng tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của triệu chứng.
Phải dùng thuốc đủ thời gian và theo 2 giai đoạn tấn công và duy trì:
Giai đoạn tấn công kéo dài từ 2 đến 3 tháng nhằm tiêu diệt nhanh chóng số lượng lớn vi khuẩn trong các vùng tổn thương, ngăn chặn sự phát triển của vi khuẩn lao kháng thuốc Tiếp theo, giai đoạn duy trì kéo dài từ 4 đến 6 tháng để tiêu diệt triệt để vi khuẩn lao còn sót lại, giúp ngăn ngừa nguy cơ tái phát bệnh.
Đối với bệnh lao đa kháng, phác đồ điều trị chuẩn ngắn hạn kéo dài từ 9 đến 11 tháng, bao gồm giai đoạn tấn công từ 4 đến 6 tháng Ngoài ra, phác đồ điều trị chuẩn dài hạn có thời gian kéo dài lên đến 20 tháng với giai đoạn tấn công tương ứng.
Thời gian sử dụng thuốc có thể thay đổi tùy thuộc vào phác đồ cá nhân, kết quả kháng sinh đồ, đáp ứng điều trị, tiền sử điều trị và khả năng dung nạp thuốc của bệnh nhân.
1.2.2 Phác đồ điều trị lao
Theo hướng dẫn của Chương trình chống lao quốc gia năm 2018, điều trị lao hàng 1 bao gồm các phác đồ sau [6]:
- Giai đoạn tấn công kéo dài 2 tháng, gồm 4 loại thuốc dùng hàng ngày
- Giai đoạn duy trì kéo dài 4 tháng, gồm 3 loại thuốc là R, H và E dùng hàng ngày
Chỉ định: Trường hợp bệnh lao người lớn không có bằng chứng kháng thuốc 1.2.2.2 Phác đồ A2: 2RHZE/4RH
- Giai đoạn tấn công kéo dài 2 tháng, gồm 4 loại thuốc dùng hàng ngày
- Giai đoạn duy trì kéo dài 4 tháng, gồm 2 loại thuốc là R và H dùng hàng ngày
Chỉ định: Trường hợp bệnh lao trẻ em không có bằng chứng kháng thuốc
- Giai đoạn tấn công kéo dài 2 tháng, gồm 4 loại thuốc H, R, Z, E dùng hàng ngày
- Giai đoạn duy trì kéo dài 10 tháng, gồm 3 loại thuốc là R, H, E dùng hàng ngày
Chỉ định điều trị lao màng não, lao xương khớp và lao hạch ở người lớn bao gồm việc sử dụng corticosteroid với liều giảm dần trong 6-8 tuần đầu và thay thế ethambutol bằng streptomycin trong giai đoạn tấn công.
- Giai đoạn tấn công kéo dài 2 tháng, gồm 4 loại thuốc H, R, Z, E dùng hàng ngày
- Giai đoạn duy trì kéo dài 10 tháng, gồm 2 loại thuốc là R, H dùng hàng ngày
Chỉ định điều trị lao màng não, lao xương khớp và lao hạch ở trẻ em bao gồm việc sử dụng corticosteroid với liều giảm dần trong 6-8 tuần đầu Trong giai đoạn tấn công, nên thay thế ethambutol bằng streptomycin để đạt hiệu quả điều trị tốt nhất.
1.2.2.5 Điều trị lao ở phụ nữ có thai hoặc cho con bú
Đối với phác đồ điều trị 2RHZE/4RHE, cần lưu ý rằng những đối tượng này không nên sử dụng streptomycin do khả năng gây độc cho tai của thai nhi Ngoài ra, nếu có sử dụng INH, nên bổ sung vitamin B6 với liều 25mg mỗi ngày.
1.2.2.6 Trường hợp người bệnh lao có bệnh lý gan
Nếu người bệnh có tổn thương gan nặng từ trước:
Khi cần điều trị bệnh lao trong trường hợp viêm gan cấp tính, viêm gan không ổn định hoặc tiến triển (men gan cao gấp 3 lần mức ban đầu), cần cân nhắc các lựa chọn phù hợp với mức độ tiến triển Mức độ tiến triển nặng hơn sẽ yêu cầu phác đồ điều trị với ít thuốc độc hại cho gan hơn.
- Giảm còn 2 thuốc (thay vì 3 thuốc độc với gan): 9HRE hoặc 2HRSE/6RH hoặc 6-9RZE
- Chỉ sử dụng 1 thuốc độc với gan: 2HES/10HE
- Không sử dụng thuốc độc với gan: 18-24 SE FQs
Trường hợp người bệnh được xác định có tổn thương gan do thuốc chống lao:
Ngừng sử dụng thuốc chống lao có khả năng gây độc cho gan và cân nhắc sử dụng thuốc FQs nếu điều trị lao là cần thiết Bên cạnh đó, cần thực hiện điều trị hỗ trợ chức năng gan cho đến khi men gan trở về mức bình thường và tình trạng vàng da được cải thiện Việc theo dõi lâm sàng và men gan là rất quan trọng trong quá trình điều trị.
- Nếu không đáp ứng hoặc có biểu hiện viêm gan do thuốc, chuyển đến cơ sở chuyên khoa để điều trị
1.2.2.7 Người bệnh lao có suy thận
Phác đồ 2RHZ/4RH có thể được áp dụng để điều trị lao cho bệnh nhân suy thận Các thuốc đầu tay như rifampicin, isoniazid, pyrazinamid cùng với ethionamide và prothionamide đều được chuyển hóa qua gan, cho phép sử dụng an toàn với liều bình thường ở bệnh nhân suy thận Tuy nhiên, cần điều chỉnh phác đồ và liều lượng trong trường hợp suy thận nặng.
Đối với bệnh nhân suy thận nặng đang chạy thận nhân tạo, việc điều chỉnh liều thuốc chống lao cần dựa trên độ thanh thải creatinin Isoniazid có thể gây ra bệnh não ở những bệnh nhân này, đặc biệt trong thời gian chạy thận, do đó cần bổ sung pyridoxine để ngăn ngừa bệnh thần kinh ngoại vi.
Trong trường hợp bệnh lao nặng với nguy cơ cao và đe dọa tính mạng, việc lựa chọn giữa lợi ích và nguy cơ là rất quan trọng Bệnh nhân có thể được chỉ định sử dụng streptomycin và ethambutol, trong đó liều điều trị sẽ được tính dựa trên độ thanh thải creatinin của từng cá nhân.
1.2.3 Các thuốc chống lao hàng 1
Tác dụng và cơ chế tác dụng
Isoniazid là một loại thuốc chống lao có khả năng kìm khuẩn hoặc diệt khuẩn tùy thuộc vào nồng độ thuốc và độ nhạy cảm của vi khuẩn Thuốc này có tính đặc hiệu cao, chỉ tác động đến Mycobacterium tuberculosis và một số Mycobacterium không điển hình như M bovis và các chủng M kansasii.
Một số nghiên cứu về sử dụng thuốc trong điều trị bệnh lao ở Việt Nam
Nghiên cứu về bệnh lao tại Việt Nam đã cung cấp cái nhìn tổng quan về tình hình bệnh và quá trình điều trị Đặng Thị Tuyết Mai (2009) đã khảo sát 108 bệnh nhân lao/HIV(+) tại Bệnh viện lao và bệnh phổi Nam Định từ tháng 01 đến tháng 12-2008, cho thấy 99,07% bệnh nhân nằm trong độ tuổi 20-49 Bệnh nhân thường mắc kèm các bệnh nhiễm trùng cơ hội, trong đó tiêu chảy kéo dài chiếm tỷ lệ cao nhất (30,56%) Đáng chú ý, tỷ lệ bệnh nhân gặp tác dụng không mong muốn do thuốc chống lao lên tới 45,37%.
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Hạnh (2009) tại phòng khám lao – trung tâm y tế dự phòng Hà Nội cho thấy 96 bệnh nhân điều trị ngoại trú chủ yếu là nam giới (80,21%) Trong số đó, lao phổi chiếm tỷ lệ cao nhất với 72,91% Mặc dù có 11,46% bệnh nhân gặp tác dụng không mong muốn từ thuốc chống lao, chủ yếu do streptomycin gây ra, nhưng mức độ không nghiêm trọng Tỷ lệ khỏi bệnh và ổn định đạt 96,88%.
Nghiên cứu của Bùi Thị Thu Hà (2010) trên 105 bệnh nhân lao phổi cho thấy tỷ lệ lao phổi AFB(+) đạt 57,14% Sau 2 tháng điều trị tấn công, các triệu chứng lâm sàng giảm nhanh, chỉ còn ho khan 11,42% và ho có đờm 6,67% Sau 8 tháng điều trị, hầu hết các triệu chứng lâm sàng gần như biến mất Tất cả bệnh nhân đều được điều trị bằng 5 loại thuốc chống lao S, H, R, Z, E, tuy nhiên tỷ lệ bệnh nhân gặp phải tác dụng phụ (ADR) do thuốc chống lao là 30,47%.
Hoàng Thị Toán (2013) đã nghiên cứu 103 bệnh nhân lao phổi mới tại Bệnh viện lao và bệnh phổi Thái Nguyên từ tháng 2 đến tháng 8 năm 2011, với tỷ lệ nam giới chiếm 77,6% và nữ giới 22,33% Đối tượng nghiên cứu chủ yếu trong độ tuổi từ 44-54, chiếm 52,42%, và tỷ lệ mắc AFB (+) là 69,90% Tất cả bệnh nhân đều sử dụng 5 loại thuốc chống lao S, R, H, Z, E và áp dụng phác đồ I với liều 2S(E)RH/6HE Đáng chú ý, liều dùng thuốc chống lao cho bệnh nhân chủ yếu nằm trong khoảng liều tối ưu (>95%).
Tỷ lệ AFB (-) sau 2 tháng điều trị là 92,24% Tỷ lệ ADR là 16,51%, chủ yếu gặp trong tháng đầu tiên điều trị với biểu hiện nhẹ 76,46%, nặng 23,54% [16]
Nguyễn Văn Quốc Bảo (2015) đã phân tích tình hình sử dụng thuốc chống lao tại khoa Lao bệnh viện trung ương Huế và cho thấy phác đồ 1A được áp dụng nhiều nhất với tỷ lệ 84,85% Có sự chuyển biến trong việc sử dụng phác đồ điều trị từ phác đồ 8 tháng 2S(E)RHZ/6HE (40,30%) sang phác đồ mới 6 tháng 2RHZE/4RH (44,55%) Các loại thuốc rifampicin, isoniazid và pyrazinamid được sử dụng với tỷ lệ cao lần lượt là 98,48%; 97,27%; 98,18%, trong khi streptomycin và ethambutol có tỷ lệ sử dụng thấp hơn, chỉ đạt 53,64% và 65,45% Dạng bào chế viên phối hợp RHZ 625mg, mang tên biệt dược Turbezid, được sử dụng nhiều nhất với tỷ lệ 46,06% Việc sử dụng thuốc chống lao tại đây tuân thủ các nguyên tắc điều trị.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
2.1.1 Đối tượng, địa điểm, thời gian nghiên cứu
Nghiên cứu này tập trung vào bệnh nhân sử dụng thuốc chống lao hàng 1, những người đã được điều trị nội trú đủ thời gian tấn công 2 tháng tại khoa Lao và Lao ngoài phổi, bệnh viện Phổi Lạng Sơn trong khoảng thời gian từ tháng 5 đến tháng 8 năm 2020.
- Địa điểm nghiên cứu: Khoa Lao và Lao ngoài phổi, Bệnh viện Phổi Lạng Sơn
- Thời gian nghiên cứu: Thời gian lấy mẫu: từ ngày 01/5/2020 đến ngày 31/8/2020 tính theo ngày có chẩn đoán điều trị
Bệnh nhân điều trị nội trú với phác đồ thuốc chống lao hàng 1 trong giai đoạn tấn công kéo dài 2 tháng sẽ được chỉ định khi có vi khuẩn lao trong bệnh phẩm như đờm, dịch màng phổi, dịch màng bụng hoặc dịch phế quản Nếu xét nghiệm bệnh phẩm AFB cho kết quả âm tính nhưng xét nghiệm Gene Xperts dương tính hoặc có tổn thương điển hình trên X-quang phổi, bệnh nhân sẽ được chẩn đoán mắc lao và bắt đầu điều trị bằng thuốc chống lao hàng 1.
+ Bỏ điều trị (bệnh nhân không tiếp tục điều trị tại bệnh viện)
+ Chuyển khoa khác trong quá trình điều trị; chuyển bệnh viện, chuyển tuyến + Điều trị lao kháng thuốc
+ Tử vong được xác định là không liên quan đến bệnh lao.
Phương pháp nghiên cứu
Mô tả cắt ngang tiến cứu trên bệnh nhân điều trị
Mẫu nghiên cứu sẽ không sử dụng công thức tính cỡ mẫu; thay vào đó, tất cả bệnh nhân đáp ứng tiêu chuẩn đã nêu trong thời gian nghiên cứu sẽ được đưa vào nghiên cứu.
Kỹ thuật, công cụ thu thập: Sau khi xác định được đối tượng nghiên cứu đạt tiêu chuẩn lựa chọn:
- Thu thập thông tin trên hồ sơ bệnh án của các bệnh nhân này (Phụ lục 1)
- Phỏng vấn bệnh nhân (Phụ lục 2)
Trong thời gian 02 tháng điều trị tại khoa, bệnh nhân đã được theo dõi và thu thập thông tin từ hồ sơ bệnh án cũng như phỏng vấn trực tiếp Những bệnh nhân không đáp ứng tiêu chuẩn loại trừ đã được loại bỏ khỏi nghiên cứu Đến cuối 02 tháng điều trị, từ ngày 01/5/2020 đến ngày 31/8/2020, cỡ mẫu sẽ được xác định dựa trên chẩn đoán và điều trị của bệnh nhân.
Mô tả cụ thể quá trình thu thập:
- Xây dựng biểu mẫu theo dõi tình trạng bệnh, lâm sàng và cận lâm sàng của bệnh nhân và bản phỏng vấn bệnh nhân (thời gian liên tục 2 tháng)
- Lấy mẫu đạt tiêu chuẩn (tiêu chuẩn lựa chọn)
- Thời điểm T0 (trước khi sử dụng thuốc): Thu thập thông tin bệnh nhân trên HSBA:
+ Nơi cư trú, tuổi, giới tính, cân nặng, nghề nghiệp
+ Triệu chứng lâm sàng và vị trí tổn thương
+ Tiền sử, bệnh mắc kèm
+ Chỉ số xét nghiệm chức năng gan, thận: ALAT, ASAT, ure, acid uric, creatinin
- Thời điểm T1, T2, T3 (sau khi sử dụng thuốc chống lao 07 ngày, 30 ngày và 60 ngày):
Thu thập thông tin trên hồ sơ bệnh án (HSBA) là rất quan trọng, bao gồm phác đồ điều trị, thuốc điều trị với nồng độ, liều dùng và thời gian sử dụng cụ thể Cần chú ý đến tác dụng phụ (ADR) của thuốc chống lao và cách xử trí phù hợp Ngoài ra, theo dõi các chỉ số xét nghiệm chức năng gan và thận như ALAT, ASAT, ure, acid uric, và creatinin là cần thiết, đặc biệt đối với bệnh nhân có bệnh gan mãn tính hoặc tiền sử bệnh gan.
Vào tháng 3, chúng tôi đã thu thập kết quả xét nghiệm bệnh phẩm của bệnh nhân AFB (+) và kết quả X-quang của bệnh nhân lao phổi AFB (+) cũng như AFB (-) để đánh giá hiệu quả điều trị sau 02 tháng.
Sau khi bác sĩ điều trị thông báo về việc bệnh nhân gặp phải phản ứng có hại do thuốc (ADR) trong quá trình sử dụng thuốc chống lao, dược sĩ sẽ tiến hành phỏng vấn bệnh nhân Cuộc phỏng vấn này tập trung vào tình trạng lâm sàng của bệnh nhân khi xuất hiện ADR, cách thức xử trí ADR và tình trạng sức khỏe của bệnh nhân sau khi đã được xử trí.
2.2.4.1 Đặc điểm nhóm bệnh nhân nghiên cứu
- Thể lao và vị trí tổn thương
- Triệu chứng lâm sàng chủ yếu
- Đặc điểm bệnh nhân tại thời điểm trước khi điều trị
2.2.4.2 Đặc điểm sử dụng thuốc chống lao
- Các thuốc chống lao dùng trong điều trị
- Phác đồ điều trị và tính phù hợp của phác đồ được chỉ định
- Liều dùng và tính phù hợp của liều được chỉ định
- Tác dụng không mong muốn và xử trí ADR của thuốc chống lao
+ Triệu chứng lâm sàng của bệnh nhân
+ Hình ảnh film Xquang phổi
+ Kết quả xét nghiệm AFB trên bệnh nhân mắc lao phổi AFB (+)
Phác đồ điều trị bệnh lao, liều lượng thuốc chống lao, tác dụng phụ không mong muốn của các loại thuốc này và kết quả điều trị được xây dựng dựa trên “Hướng dẫn chẩn đoán, điều trị và dự phòng bệnh lao” của Bộ Y Tế.
Phác đồ điều trị và liều lượng thuốc:
Bảng 2.1 Phác đồ điều trị
A1 2RHZE/4RHE Bệnh lao người lớn không có bằng chứng kháng thuốc
A2 2RHZE/4RH Bệnh lao trẻ em không có bằng chứng kháng thuốc
B1 2RHZE/10RHE Lao màng não, lao xương khớp và lao hạch người lớn Giai đoạn tấn công điều trị lao màng não dùng streptomycin (thay cho E)
B2 2RHZE/10RH Lao màng não, lao xương khớp và lao hạch trẻ em Giai đoạn tấn công điều trị lao màng não dùng streptomycin (thay cho E)
2RHZ/4RH Điều trị lao cho bệnh nhân suy thận
2RHZE/4RHE Phụ nữ có thai
Bảng 2.2 Liều lượng các thuốc chống lao theo cân nặng
Tên thuốc Liều lượng hàng ngày (*) cho người lớn (mg) Liều lượng hàng ngày cho trẻ em (**) (mg)
Isoniazid 5 (4-6) Tối đa 300mg 10 (10–15) Tối đa 300mg
(*) Liều lượng tính theo mg/kg cân nặng
(**) Trẻ em có cân nặng từ 25kg trở lên dùng thuốc theo cân nặng của người lớn
Bảng 2.3 Số lượng viên, lọ thuốc đơn lẻ, thuốc hỗn hợp liều cố định dùng hàng ngày giai đoạn tấn công cho người lớn theo cân nặng
Tên thuốc Cân nặng của người bệnh (kg)
HRZ (viên) (75mg+150mg+400mg) 2 3 4 5
Bảng 2.4 Liều lượng thuốc lao cho trẻ em – Thuốc lao thân thiện
Khoảng cân nặng Số lượng viên
Trẻ em ≥ 25kg Dùng thuốc theo khoảng cân nặng như người lớn
Tác dụng không mong muốn của thuốc chống lao và hướng xử trí:
- Phân loại mức độ tác dụng không mong muốn của thuốc chống lao (WHO):
+ Mức độ 1: Thoảng qua hoặc khó chịu nhẹ (>E > H Cân nhắc điều trị aspirin hoặc thuốc kháng viêm không steroid
Ngứa, phát ban ngoài da (mức độ nhẹ: 1-2)
>H
- Ngừng thuốc nghi ngờ, cần kiểm tra thị lực
- Triệu chứng ban đầu sẽ hết nếu dừng điều trị thuốc nghi ngờ
Giảm thị lực vĩnh viễn có thể xảy ra nếu tiếp tục điều trị khi có tác dụng phụ không mong muốn (ADR) Khi gặp ADR trên da với mức độ từ H đến E, cần dừng ngay tất cả các loại thuốc cho đến khi phản ứng hết Việc nhận diện thuốc gây ra phản ứng vừa và nặng (phản ứng quá mẫn) có thể thực hiện bằng cách sử dụng test kích thích để xác định mức độ ADR.
ADR có thể xảy ra trong quá trình thay đổi liều thuốc, và nếu thuốc gây ADR không thể tiếp tục sử dụng, điều trị giải mẫn cảm là cần thiết Để hỗ trợ quá trình này, có thể kết hợp các loại thuốc chống dị ứng như corticoid và kháng histamine.
Trước và trong quá trình điều trị, bệnh nhân được kiểm tra chức năng gan và thận Các xét nghiệm được thực hiện tại khoa Cận lâm sàng của Bệnh viện Phổi Lạng Sơn, với các chỉ số được đánh giá dựa trên tiêu chuẩn bình thường của labo để so sánh với các chỉ số sinh hóa của người khỏe mạnh và bệnh lý.
Bảng 2.6 Chỉ số sinh hóa cần theo dõi
Các chỉ tiêu sinh hóa Giới hạn bình thường
Người bệnh có tổn thương gan:
Người bệnh có tổn thương gan nặng trước đó và được xác định có tổn thương gan do thuốc chống lao cần được theo dõi chức năng gan trước và trong quá trình điều trị.
- Người bệnh lao có bệnh gan mạn tính:
Nếu chức năng gan ổn định, bệnh nhân có thể tiếp tục điều trị mà không cần xét nghiệm thêm, trừ khi xuất hiện triệu chứng nhiễm độc gan như chán ăn, mệt mỏi, buồn nôn, nôn, đau bụng, đau hạ sườn phải, hoặc vàng da, vàng mắt.
KẾT QUẢ
Khảo sát đặc điểm nhóm bệnh nhân nghiên cứu
Trong nghiên cứu diễn ra từ ngày 01/5/2020 đến ngày 31/8/2020 tại bệnh viện Phổi Lạng Sơn, chúng tôi đã thu thập dữ liệu từ 267 bệnh nhân điều trị lao hàng 1 tại khoa Lao và khoa Lao ngoài phổi Kết quả cho thấy có 130 bệnh nhân đạt tiêu chuẩn thu nhận và loại.
137 bệnh nhân theo tiêu chuẩn loại trừ theo sơ đồ sau:
3.1.1 Phân bố bệnh nhân trên địa bàn tỉnh
Hình 3.1.Phân bố bệnh nhân trên địa bàn tỉnh
Chi Lăng Đình Lập Hữu Lũng Lạng Sơn Lộc Bình Tràng Định
Thu thập 267 bệnh án và bệnh nhân
Loại trừ 167 bệnh án và bệnh nhân theo tiêu chuẩn loại trừ:
+ Bỏ điều trị:7 + Chuyển nơi khác điều trị: 131 + Điều trị lao kháng thuốc: 25 + Tử vong: 4
Nghiên cứu 130 bệnh án và bệnh nhân
Trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn, có 11 huyện/thành phố, số lượng bệnh nhân lao tập trung tại các huyện: Lộc Bình, Văn Quan và Hữu Lũng
3.1.2 Đặc điểm bệnh nhân theo tuổi và giới
Phân bố bệnh nhân mắc lao theo nhóm tuổi và giới được thể hiện trong bảng 3.1:
Bảng 3.1 Số lượng và tỷ lệ bệnh nhân lao theo tuổi và giới tính
Nhóm tuổi/Giới Số lượng BN Tỷ lệ %
Độ tuổi trung bình của bệnh nhân điều trị bệnh lao tại bệnh viện là 52,8 ± 13,4, với nhóm tuổi từ 36 đến 60 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất, đạt 53,8%.
- Bệnh nhân nam chiếm tỷ lệ 73,1% cao hơn hẳn với bệnh nhân nữ 26,9%
Tỷ lệ bệnh nhân nam/nữ = 2,7
3.1.3 Đặc điểm bệnh nhân về cân nặng
Cân nặng của bệnh nhân có ảnh hưởng trực tiếp đến việc xác định liều lượng thuốc chống lao Việc phân bố cân nặng của bệnh nhân cần được xem xét kỹ lưỡng để đảm bảo hiệu quả điều trị tối ưu.
Hình 3.2 Phân bố bệnh nhân theo nhóm cân nặng
Cân nặng trung bình của bệnh nhân là 49,2 ± 7,7 kg Đa số bệnh nhân có cân nặng trong khoảng 40 – 54 kg với tỷ lệ 71,5%, ít gặp nhất là nhóm bệnh nhân
3.1.4 Đặc điểm bệnh nhân theo nghề nghiệp
Nghề nghiệp cũng là một trong các yếu tố liên quan đến tỷ lệ mắc lao, phân bố nghề nghiệp ở bệnh nhân lao thể hiện ở bảng 3.2:
Bảng 3.2 Số lượng và tỷ lệ bệnh nhân theo nghề nghiệp
Nghề nghiệp Số lượng BN Tỷ lệ %
Tỷ lệ bệnh nhân mắc lao chủ yếu tập trung ở nhóm nông dân, đạt 64,6% Trong khi đó, số bệnh nhân thuộc các ngành nghề khác rất ít, với tỷ lệ cán bộ và người hưu trí mắc lao tương đương nhau, khoảng 16%.
3.1.5 Đặc điểm bệnh nhân theo thể lao và vị trí tổn thương
Lao phổi là thể lao phổ biến nhất trong nhóm bệnh nhân được nghiên cứu, với sự phân bố tổn thương được trình bày chi tiết trong bảng 3.3.
Bảng 3.3 Phân bố bệnh nhân lao theo vị trí tổn thương
Thể lao Số lượng BN Tỷ lệ % Lao phổi
Lao phổi có 83 BN (63,8%), trong đó: 46,1% BN AFB (+), 17,7% BN AFB (-) Lao ngoài phổi có 47 BN (36,2%), trong đó hay gặp nhất là lao màng phổi với 28 BN (21,5%), 10 BN lao hạch (7,7%)
3.1.6 Triệu chứng lâm sàng chủ yếu
Triệu chứng lâm sàng thường gặp trên bệnh nhân được thể hiện trong bảng 3.4:
Bảng 3.4 Các triệu chứng thường gặp của bệnh nhân điều trị lao
Triệu chứng thường gặp Số BN Triệu chứng thường gặp Số BN
Sốt nhẹ về chiều 64 Đau ngực 79
Chán ăn, mệt mỏi 81 Đau bụng 3
Gầy sút cân 87 Có hạch 10
Ho, khạc đờm 102 Đau đầu, co giật, buồn nôn 01
Ho ra máu 10 Đau cột sống 01
Khó thở 46 Hạn chế đi lại 04
Bệnh nhân lao thường gặp các triệu chứng như ho và khạc đờm (102 bệnh nhân), chán ăn và mệt mỏi (81 bệnh nhân), khó thở (46 bệnh nhân) Thông thường, mỗi bệnh nhân sẽ có từ 3 đến 4 triệu chứng khi đi khám và được phát hiện mắc bệnh lao.
Có 01 bệnh nhân lao màng não nên có triệu chứng đau đầu, co giật từng cơn, nôn và buồn nôn Có 01 bệnh nhân lao cột sống và 03 bệnh nhân lao xương khớp nên hạn chế vận động, di chuyển hạn chế
Trong các bệnh nhân vào viện điều trị, có 10 trường hợp ho ra máu nhẹ khi vào viện khám
3.1.7 Đặc điểm bệnh nhân theo tiền sử
Trong nhóm bệnh nhân điều trị lao, có các bệnh nhân có tiền sử điều trị của các bệnh nhân lao được thể hiện trên hình 3.3:
Hình 3.3 Phân bố bệnh nhân theo tiền sử điều trị
Phần lớn bệnh nhân mắc lao mới chiếm tỷ lệ 85,38%, có 14,62% trường hợp bệnh nhân lao tái phát
Trong số 130 bệnh nhân được khảo sát, có 24 bệnh nhân có tiền sử liên quan đến bệnh tật, bao gồm cả trường hợp bản thân hoặc gia đình có người mắc lao Kết quả chi tiết được trình bày trong bảng 3.5.
Bảng 3.5 Đặc điểm bệnh nhân theo tiền sử
Tiền sử Số BN Tỷ lệ %
Gia đình có người bị lao 5 3,8 Đã điều trị lao 19 14,6
Nghiện rượu + nghiện thuốc lá/thuốc lào 64 49,2
Phần lớn bệnh nhân có tiền sử nghiện rượu và nghiện thuốc lá/thuốc lào: 23
Trong số 49,2% bệnh nhân, có 19 bệnh nhân (14,6%) đã có tiền sử điều trị lao, 5 bệnh nhân (3,8%) có tiền sử gia đình có người mắc lao, và không có bệnh nhân nào có tiền sử nghiện ma túy.
3.1.8 Phân bố bệnh nhân theo bệnh mắc kèm
Phân bố bệnh nhân theo bệnh mắc kèm được thể hiện ở bảng 3.6:
Bảng 3.6 Đặc điểm bệnh nhân theo bệnh mắc kèm
Bệnh mắc kèm Số BN Tỷ lệ %
Bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính (CODP) 7 5,4 Đái tháo đường típ 2 6 4,6
Tăng huyết áp+Đái tháo đường típ 2 5 3,8
Tăng huyết áp+Bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính 2 1,5
Rối loạn chuyển hóa lipid 1 0,8
Suy tim do hở van 3 lá 1 0,8
Không có bệnh mắc kèm 73 57,7
Tỷ lệ bệnh nhân không mắc bệnh kèm theo chiếm 57,7%, trong khi có 15 bệnh nhân bị tăng huyết áp đơn thuần và 15 bệnh nhân suy nhược cơ thể, mỗi nhóm chiếm 11,5% Ngoài ra, có 7 bệnh nhân điều trị COPD, tương đương 5,4%.
3.1.9 Đặc điểm bệnh nhân tại thời điểm trước khi điều trị
Tại thời điểm ban đầu vào viện (T0), bệnh nhân có các thông số cận lâm sàng như sau:
Bảng 3.7 Xét nghiệm chỉ số men gan cơ bản Đối tượng bệnh nhân Số BN Tỷ lệ (%)
Chỉ số men gan bình thường và không có tiền sử gan 12 9,2
Chỉ số men gan cao hơn bình thường và không có tiền sử gan, không có triệu chứng tổn thương gan
Có triệu chứng tổn thương gan 0 -
BN > 35 tuổi Chỉ số men gan không bình thường 13 10
Có tiền sử bệnh gan -
Trong 130 bệnh nhân, có 3,9% bệnh nhân
35 có chỉ số men gan không bình thường
Bảng 3.8 Xét nghiệm chỉ số creatinin và acid uric Xét nghiệm Số lượng BN Tỷ lệ %
Trong 130 bệnh nhân, có 13 bệnh nhân (10%) tăng chỉ số creatinin máu và 24 bệnh nhân (18,5%) bệnh nhân có acid uric máu tăng cao hơn giới hạn bình thường.
Phân tích đặc điểm sử dụng thuốc chống lao ở giai đoạn điều trị tấn công tại
Sau khi khảo sát 130 bệnh nhân lao tại khoa Lao và Lao ngoài phổi, bệnh viện Phổi Lạng Sơn, chúng tôi đã phân tích đặc điểm sử dụng thuốc chống lao và thu được những kết quả đáng chú ý.
3.2.1 Các thuốc chống lao dùng trong điều trị
Việc chỉ định các thuốc chống lao cho bệnh nhân được thể hiện cụ thể ở bảng 3.9:
Bảng 3.9 Tỷ lệ dùng các dạng chế phẩm thuốc chống lao
Tên thuốc Hàm lượng Số lượng BN Tỷ lệ %
Trong nghiên cứu với 130 bệnh nhân, đã sử dụng cả thuốc đơn chất và thuốc kết hợp để điều trị Cụ thể, tỷ lệ sử dụng thuốc đơn chất bao gồm ethambutol (99,2%), isoniazid (16,2%), pyrazinamid (16,2%) và streptomycin (0,8%).
Combination medications come in two forms: Turbezid, which contains three active ingredients (rifampicin, isoniazid, pyrazinamide), and Turbe, which includes two active ingredients (rifampicin and isoniazid) These medications are utilized with respective usage rates of 99.2% and 16.2%.
3.2.2 Phác đồ điều trị và tính phù hợp của phác đồ được chỉ định
Phác đồ điều trị được sử dụng điều trị bệnh nhân thể hiện ở bảng 3.10:
Bảng 3.10 Phác đồ điều trị cho bệnh nhân
Trong nghiên cứu, không có bệnh nhân nhi, và phác đồ điều trị được áp dụng bao gồm A1, B1 và phác đồ dành cho bệnh nhân suy thận Phác đồ A1 chiếm tỷ lệ cao nhất với 86,9%, tiếp theo là phác đồ B1 với 11,5% và phác đồ cho bệnh nhân suy thận chỉ chiếm 1,6%.
Tỷ lệ bệnh nhân theo phác đồ điều trị và tính phù hợp các phác đồ được thể hiện ở bảng 3.11:
Bảng 3.11 Phác đồ điều trị và tính phù hợp của phác đồ được lựa chọn
Phác đồ điều trị Số lượng BN Tỷ lệ %
Phác đồ cho BN suy thận 2RHZ/4RH 02 1,6
Phác đồ sử dụng cho
Phù hợp với hướng dẫn
Không phù hợp với hướng dẫn
Số lượng BN ( Tỷ lệ %)
Lao phổi AFB (+) suy thận 2RHZ/4
Theo bảng thống kê, tỷ lệ bệnh nhân được điều trị đúng theo phác đồ A1, B1 và suy thận lần lượt đạt 86,9%, 10,8% và 0,8% Trong số đó, có một bệnh nhân mắc lao màng não và một bệnh nhân lao phổi AFB (+) có tình trạng suy thận, nhưng việc điều trị chưa phù hợp với hướng dẫn, chiếm tỷ lệ 0,8%.
3.2.3 Liều dùng và tính phù hợp của các thuốc chống lao
Theo hướng dẫn của WHO và CTCLQG, liều lượng thuốc chống lao được xác định dựa trên trọng lượng cơ thể Bảng 3.12 trình bày sự so sánh giữa liều điều trị trung bình thực tế và liều lượng quy định.
Bảng 3.12 Liều lượng trung bình các thuốc chống lao được sử dụng theo cân nặng giai đoạn tấn công
Loại thuốc Liều lượng (*) theo hướng dẫn
Liều chỉ định của bác sỹ Mức liều Số lượng BN
(*) Liều lượng tính theo mg/kg cân nặng
Theo bảng thống kê, liều lượng của các thuốc chống lao cơ bản đều nằm trong khoảng điều trị hiệu quả Cụ thể, các thuốc rifampicin, isoniazid và pyrazinamid có tỷ lệ đạt yêu cầu cao nhất lần lượt là 99,2%, 98,5% và 98,4% Trong khi đó, thuốc ethambutol có tỷ lệ thấp nhất với 82,9%.
Các thuốc trên có liều thuốc điều trị thấp hơn liều khuyến cáo theo tỷ lệ lần lượt là ethambutol (3,1%), pyrazinalid (1,6%), isoniazid và rifampicin với tỷ lệ 0,8%
Có 2 thuốc liều điều trị cao hơn mức liều khuyến cáo: ethambutol là 14,0% và isoniazid là 5,4%
Việc tuân thủ liều lượng thuốc chống lao theo hướng dẫn là cực kỳ quan trọng để đảm bảo hiệu quả điều trị và ngăn ngừa kháng thuốc Bảng 3.13 trình bày tính phù hợp của liều dùng thuốc chống lao theo từng nhóm cân nặng.
Bảng 3.13 Liều lượng thuốc chống lao được sử dụng theo viên/lọ thuốc đơn lẻ, thuốc hỗn hợp liều cố định dùng hàng ngày
Liều chỉ định của bác sỹ
Mức cân nặng (Số lượng BN- Tỷ lệ% )
Trong 130 bệnh nhân, tỷ lệ sử dụng liều lượng phù hợp với các độ tuổi theo hướng dẫn đạt được tỷ lệ khá cao, trong đó:
- Thuốc có liều trong khoảng liều quy định đối với các thuốc streptomycin (100%), isoniazid (100%), RH (100%), còn các thuốc ethambutol (95,1%), RHZ (96,1%), pyrazinamid (50%)
- Thuốc có liều thấp hơn khoảng liều quy định: ethambutol (3,9%), pyrazinamid (50%), RHZ (3,9%)
- Thuốc liều cao hơn khoảng liều quy định: ethambutol (0,8%)
3.2.4 Tác dụng không mong muốn và xử trí ADR của thuốc chống lao
3.2.4.1 Thời gian xuất hiện tác dụng không mong muốn
Theo bảng 3.14 đã thống kê các thời gian xuất hiện ADR khi sử dụng thuốc chống lao:
Bảng 3.14 Thời gian xuất hiện ADR
Thời gian Số lượng BN N Tỷ lệ %
Khoảng 16,9% bệnh nhân trải qua các biểu hiện tác dụng phụ không mong muốn (ADR) do thuốc chống lao Thời gian xuất hiện ADR thường xảy ra nhiều nhất trong khoảng 15-30 ngày sau khi bắt đầu điều trị, chiếm 36,4%.
3.2.4.2 Biểu hiện ADR trên lâm sàng
Biểu hiện trên lâm sàng ADR của các thuốc chống lao được thể hiện theo bảng 3.15:
Bảng 3.15 Biểu hiện ADR trên lâm sàng
Biểu hiện Số lượng BN Tỷ lệ %
Ngứa, phát ban ngoài da 9 40,9
Vàng da, viêm gan 5 22,8 Đau khớp 7 31,8
Trong số 22 trường hợp xuất hiện tác dụng không mong muốn do thuốc chống lao, có 21 ca cần can thiệp Tác dụng phụ thường gặp nhất là ngứa và phát ban, chiếm 45,4%, trong đó 40,9% bệnh nhân phải tạm ngưng thuốc Tiếp theo, triệu chứng sưng đau các khớp do thuốc Z chiếm tỷ lệ 31,8% Các tác dụng phụ nghiêm trọng hơn như viêm gan và vàng da ít gặp hơn, với tỷ lệ tương ứng là 22,8%.
Sau khi điều trị bằng thuốc chống lao, 22 bệnh nhân đã gặp phải các phản ứng có hại không mong muốn (ADR) với sự xuất hiện và mức độ khác nhau Bảng 3.16 trình bày mức độ ADR trên lâm sàng cùng với các hướng xử trí phù hợp từ bác sĩ.
Bảng 3.16 Mức độ ADR trên bệnh nhân và cách xử trí
Loại ADR và cách xử trí Vị trí ADR Số BN Tỷ lệ (%)
Loại nhẹ: Tiếp tục dùng thuốc
Ngứa, phát ban ngoài da 1 4,5
Loại nặng: Tạm ngừng thuốc, dò liều và giữ nguyên phác đồ
Vàng da, viêm gan 4 18,2 Đau khớp, sưng khớp 5 22,7
ADR trên da mức độ vừa và nặng 7 31,8
Loại nặng: Giữ nguyên phác đồ, đổi sang thuốc đơn liều, do dị ứng tá dược
ADR trên da mức độ vừa và nặng 1 4,5
Loại nặng: Thay đổi phác đồ điều trị
Giảm liều thuốc do BN ít dung nạp
Có bệnh phối hợp gout Đau khớp, sưng khớp 1 4,5
ADR trên da mức độ vừa và nặng 1 4,5
Sau khi xử trí các phản ứng có hại do thuốc (ADR), có 01 bệnh nhân (4,5%) xuất hiện triệu chứng ngứa và phát ban ngoài da, được điều trị bằng thuốc kháng histamin và tiếp tục sử dụng thuốc chống lao Trong số 22 bệnh nhân, 16 bệnh nhân (72,7%) giữ nguyên phác đồ điều trị sau khi tạm ngừng thuốc để xử lý ADR Một bệnh nhân (4,5%) gặp phải dị ứng với tá dược trong thuốc phối hợp (RHZ) nhưng vẫn duy trì phác đồ sau khi giải dị ứng và chuyển sang sử dụng thuốc đơn chất Cuối cùng, có 04 bệnh nhân (18,2%) đã thay đổi phác đồ điều trị.
Người bệnh lao có tổn thương gan do thuốc chống lao:
Hầu hết các thuốc chống lao đường uống đều được chuyển hoá qua gan, vì vậy tại thời điểm T0, bệnh nhân cần được xét nghiệm chỉ số men gan cơ bản để theo dõi trong quá trình điều trị (Bảng 3.7) Trong suốt quá trình sử dụng thuốc, việc theo dõi chỉ số men gan của bệnh nhân là rất quan trọng, như được thể hiện trong bảng sau.
Bảng 3.17 Theo dõi chỉ số men gan cơ bản trên bệnh nhân trước khi điều trị
Xét nghiệm Lúc vào viện Trước khi điều trị
SL BN Tỷ lệ (%) SL BN Tỷ lệ (%)
Trước khi bắt đầu điều trị bằng thuốc chống lao, 19 bệnh nhân cần theo dõi chỉ số men gan Tất cả bệnh nhân này được chỉ định sử dụng thuốc hỗ trợ chức năng gan để đưa men gan về mức bình thường và khắc phục các triệu chứng tổn thương gan Sau khi tình trạng gan ổn định, quá trình điều trị bằng thuốc chống lao mới được tiến hành.
Bảng 3.18 Đối tượng bệnh nhân theo dõi chức năng gan Đối tượng bệnh nhân Thời điểm T0
Chỉ số men gan bình thường và không có tiền sử gan 12 14 14 16
Chỉ số men gan cao hơn bình thường và không có tiền sử gan, không có triệu chứng tổn thương gan
Có triệu chứng tổn thương gan - - - -
BN > 35 tuổi Chỉ số men gan không bình thường 14 10 6 2
Có tiền sử bệnh gan - - - -
Có 17 bệnh nhân 35 tuổi: có 13 bệnh nhân có chỉ số men gan không bình thường và không có tiền sử bệnh gan Theo bảng 3.17, các bệnh nhân này đã được điều trị thuốc hỗ trợ gan trước khi điều trị thuốc chống lao
Bảng 3.19 Theo dõi chỉ số men gan cơ bản trong quá trình điều trị
Bình thường 77 (59,2) 98 (75,4) 102 (78,5) 115 (88,5) Tăng < 2 lần 39 (30,0) 23 (17,7) 23(17,7) 14 (10,8) Tăng < 3 lần 6 (4,6) 5 (3,8) 3 (2,3) 1 (0,8)
Bình thường 54 (41,5) 82 (63,1) 88 (67,7) 109 (83,8) Tăng < 2 lần 57 (43,8) 42 (32,3) 37 (28,5) 19 (14,6) Tăng < 3 lần 12 (9,2) 1 (0,8) 3 (2,3) 2 (1,5)