Tổng quan về thị trường điều hòa không khí Việt Nam
Việt Nam, quốc gia nằm trong khu vực Đông Nam Á, có khí hậu nhiệt đới gió mùa và là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế như Liên Hiệp Quốc, ASEAN, WTO, AFTA, CPTPP, và EVFTA Đến tháng 4 năm 2019, dân số Việt Nam đạt 96 triệu người, đứng thứ 15 trong số các quốc gia đông dân nhất thế giới.
Từ năm 2006 đến nay, kinh tế Việt Nam đã có nhiều biến đổi tích cực, đặc biệt là sau thời kỳ khủng hoảng kinh tế 2007 – 2010 và đại dịch COVID-19 từ năm 2020 Sự gia nhập Tổ chức Thương mại Quốc tế (WTO) đã giúp Việt Nam nâng cao vị thế trên thị trường quốc tế, khẳng định tiềm năng phát triển kinh tế của đất nước.
Mậu dịch Tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định tự do thương mại xuyên Thái Bình
Dương CPTPP và Hiệp định tự do thương mại Việt Nam-Liên minh Châu Âu đã thúc đẩy sự phát triển kinh tế, dẫn đến tốc độ đô thị hóa gia tăng Đến năm 2019, 35% dân số Việt Nam đã sinh sống tại các khu vực thành thị, trong bối cảnh điều kiện khí hậu đang ngày càng nóng lên.
Nhu cầu sử dụng điều hòa không khí (ĐHKK) tại Việt Nam đang gia tăng mạnh mẽ Cụ thể, năm 2008, lượng tiêu thụ ĐHKK chỉ đạt khoảng 400.000 – 500.000 chiếc, nhưng đến năm 2019, con số này đã vọt lên từ 2.200.000 đến 2.300.000 chiếc Sự tăng trưởng này cho thấy tiềm năng lớn của thị trường ĐHKK trong nước.
Việt Nam là một trong những thị trường lớn nhất trong khối ASEAN, với tốc độ tăng trưởng cao Theo đánh giá của dự án K-CEP vào tháng 7 năm 2020, Việt Nam đang sử dụng hơn 18 triệu chiếc điều hòa không khí (ĐHKK), tiêu thụ từ 4 – 6% tổng sản lượng điện hàng năm Đặc biệt, trong mùa nóng, mức tiêu thụ điện năng của ĐHKK ở các hộ gia đình và tòa nhà thương mại có thể chiếm từ 30 – 60% tổng tiêu thụ điện năng.
Thị trường điều hòa không khí (ĐHKK) tại Việt Nam đang phát triển nhanh chóng, với tốc độ tăng trưởng trung bình từ 2012 đến 2019 đạt từ 15 đến 19% mỗi năm, vượt xa mức tăng trưởng toàn cầu chỉ từ 8 đến 9% hàng năm Tuy nhiên, năm 2020, ngành này đã chịu ảnh hưởng nặng nề từ đại dịch.
COVID-19 tốc độ tăng trưởng dự đoán giảm 8% nhưng vẫn là thị trường có tiềm năng lớn trong khối Đông Nam Á
Thị phần điều hòa không khí (ĐHKK) gia dụng tại Việt Nam đang chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ, với điều hòa cục bộ là sản phẩm tiêu thụ chủ yếu Theo số liệu từ 38 đại lý bán lẻ, điều hòa cục bộ gắn tường chiếm tới 90% tổng doanh số ĐHKK gia dụng bán ra, cho thấy sự ưa chuộng của người tiêu dùng đối với loại sản phẩm này.
Bảng 1.1 Thị trường máy ĐHKK của Việt Nam theo [2],[3],[4],[5]
Hình 1.1 Tốc độ tăng trưởng thị trường ĐHKK Việt Nam theo [2]
Dự đoán từ năm 2021, tình hình dịch bệnh sẽ được kiểm soát, GDP của Việt
Năm nay, thị trường điều hòa không khí (ĐHKK) gia dụng đã có sự phục hồi mạnh mẽ, với nhu cầu ngày càng tăng và sức mua của người tiêu dùng được cải thiện Trong đó, các sản phẩm ĐHKK có công suất 9.000BTU/h vẫn chiếm ưu thế lớn do kích thước phòng ở tại Việt Nam thường nhỏ, từ 12-15m² Ngoài ra, các máy có công suất 12.000BTU/h và 18.000BTU/h cũng đang được ưa chuộng.
1.2 Các chính sách thúc đẩy sử dụng tiết kiệm năng lƣợng và giảm phát thải khí nhà kính ở Việt Nam
Ngành điều hòa không khí (ĐHKK) tại Việt Nam đang phát triển nhanh chóng, gây áp lực lên ngành điện và tác động tiêu cực đến môi trường Đây là một trong những lĩnh vực tiêu thụ lớn các chất làm lạnh HCFCS và HFCs, đồng thời phát thải khí nhà kính (GHG) gián tiếp thông qua lượng điện năng tiêu thụ.
Giải quyết bài toán tiết kiệm và sử dụng năng lượng hiệu quả trong lĩnh vực điều hòa không khí (ĐHKK) là cần thiết để giảm phát thải khí nhà kính (GHG) và ứng phó với hiệu ứng nóng lên toàn cầu Chính phủ và Quốc hội Việt Nam đã thực hiện nhiều biện pháp hợp lý nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng trong lĩnh vực này.
- Thông qua luật Sử dụng năng lượng Tiết kiệm và Hiệu quả ngày 17/5/2010; -
Thực hiện chương trình dán nhãn năng lượng bắt buộc cho một số nhóm trang thiết bị tiêu thụ điện
- Năm 2011, Thủ tướng chính phủ thông qua quyết định QĐ51/2011/QĐ-TTg về
“Quy định danh mục phương tiện, thiết bị phải dán nhãn năng lượng, áp dụng mức năng lượng tối thiểu và lộ trình thực hiện”
Số ĐHKK bán ra(cái)
- Theo nghị định thư Montreal, Việt Nam cam kết giảm mức tiêu thụ HCFC từ năm 2013 và tiến tới loại bỏ hoàn toàn HCFC vào năm 2030
- Tiến hành điều chỉnh TCVN phù hợp với hiện trạng thị trường: TCVN
7830:2015 đã tăng mức MEPS lên mức 2 sao so với TCVN 7830:2012
- Ngày 4/9/2019 chính phủ thông qua nghị quyết phê duyệt Bản sủa đổi bổ sung
Kigali đã ký kết Nghị định thư Montreal về các chất làm suy giảm tầng ô-zôn, cam kết giảm 45% lượng sử dụng khí HFCs, tương đương với lượng CO2 vào năm tới.
Mối liên hệ giữa tiết kiệm năng lượng và lượng phát thải khí nhà kính rất quan trọng, đặc biệt trong bối cảnh sử dụng điều hòa không khí (ĐHKK) ngày càng tăng ĐHKK là thiết bị tiêu thụ điện lớn, chiếm từ 30 – 60% tổng lượng điện tiêu thụ của hộ gia đình trong mùa nóng Nếu xem xét trung bình cả năm, lượng điện tiêu thụ từ ĐHKK vẫn chiếm một tỷ lệ đáng kể, góp phần làm gia tăng lượng phát thải khí nhà kính Do đó, việc tiết kiệm năng lượng không chỉ giúp giảm chi phí điện mà còn góp phần bảo vệ môi trường.
Với tốc độ phát triển nhanh chóng hiện nay, lĩnh vực điều hòa không khí (ĐHKK) đang tiêu thụ từ 4-6% tổng lượng điện thương phẩm Sự gia tăng điện năng tiêu thụ kéo theo sự gia tăng phát thải khí nhà kính, do Việt Nam đã khai thác gần hết tiềm năng thủy điện mà chưa đủ khả năng phát triển các nguồn năng lượng thay thế khác Mối quan hệ giữa điện năng tiêu thụ và lượng phát thải khí nhà kính được thể hiện rõ qua một công thức cụ thể.
- ECO2 là lượng phát thải khí nhà kình , kgCO2
- E C là điện năng tiêu thụ, kWh
- β là hệ số phát thải, kgCO2/kWh
Việt Nam đang ngày càng phụ thuộc vào nhiệt điện, dẫn đến sự gia tăng đáng kể lượng phát thải khí nhà kính do việc đốt nhiều nhiên liệu hóa thạch Hệ số phát thải β đã tăng từ 0,63 kgCO2/kWh vào năm 2013 lên 0,9185 kgCO2/kWh vào năm 2017, cho thấy tác động tiêu cực của ngành điện năng đối với môi trường.
Tiêu thụ điện năng và phát thải khí nhà kính có mối quan hệ tỉ lệ tuyến tính, vì vậy việc tiết kiệm năng lượng không chỉ giúp giảm phát thải CO2 mà còn đảm bảo an ninh năng lượng.
1.4 Các phương pháp đánh giá hiệu quả năng lượng của ĐHKK
1.4.1 Phương pháp đánh giá trực tiếp: