PHẦN MỞ ĐẦU
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong những năm gần đây, tình hình an toàn giao thông ở Việt Nam đã diễn ra nhiều biến động phức tạp, khiến xã hội đặc biệt chú ý đến vấn đề tai nạn giao thông, đặc biệt là trong lĩnh vực giao thông đường bộ.
Theo thống kê của Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia, năm 2010, tai nạn giao thông đã làm chết 11.449 người và năm 2011, con số này là 11.395 người Trung bình mỗi ngày, cả nước ghi nhận từ 30 đến 33 trường hợp tử vong do tai nạn giao thông, tương đương với hơn 200 người mỗi tuần Đặc biệt, tai nạn do xe mô tô và xe gắn máy chiếm hơn 70% tổng số vụ tai nạn, dẫn đến hơn 20 người chết mỗi ngày liên quan đến phương tiện hai bánh.
Tai nạn giao thông thường xảy ra do nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chính là ý thức chấp hành pháp luật của người điều khiển phương tiện còn yếu kém Điều này đặc biệt liên quan đến công tác đào tạo lái xe, nhất là trong lĩnh vực đào tạo lái xe mô tô.
Mặc dù Đảng và Nhà nước đã triển khai nhiều chính sách nhằm giảm thiểu tai nạn giao thông, tình hình tai nạn giao thông tại nước ta vẫn chưa được cải thiện và kiểm soát hiệu quả.
Với mục tiêu giảm thiểu tai nạn giao thông, Việt Nam đã tích cực thực hiện Nghị quyết A64 của Liên Hợp Quốc về “Thập kỷ hành động vì an toàn giao thông đường bộ 2011-2020” Năm 2012 được Chính phủ Việt Nam chọn là năm an toàn giao thông quốc gia.
Yêu cầu của Đảng và Nhà nước nâng cao chất lượng đào tạo lái xe
Năm 2002, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 13/2002/NQ-CP nhằm kiềm chế gia tăng tai nạn giao thông và ùn tắc Trong nghị quyết này, Chính phủ yêu cầu Bộ Giao thông vận tải thường xuyên kiểm tra các cơ sở đào tạo lái xe và quy trình sát hạch cấp giấy phép lái xe, đồng thời kiên quyết thu hồi giấy phép của những cơ sở không đạt tiêu chuẩn.
Năm 2003, Ban bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị số 22-CT/TW vào ngày 24/02, nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác đảm bảo trật tự an toàn giao thông Chỉ thị nhấn mạnh việc chấn chỉnh và nâng cao chất lượng đào tạo, sát hạch, và cấp giấy phép lái xe cho người điều khiển phương tiện giao thông.
Vào năm 2003, Bộ Giao thông vận tải đã ban hành Văn bản số 1622/CV-BGTVT ngày 22 tháng 4, hướng dẫn tổ chức đào tạo, sát hạch và cấp giấy phép lái xe mô tô cho đồng bào dân tộc có trình độ văn hóa thấp Văn bản này chỉ rõ rằng các cơ sở đào tạo cần biên soạn tài liệu giảng dạy dựa trên giáo trình đã có, giảm bớt những nội dung không liên quan đến người điều khiển xe mô tô ở vùng sâu vùng xa Phương pháp đào tạo chủ yếu sử dụng hình ảnh và hỏi đáp, đồng thời nếu có điều kiện, nên sử dụng giáo viên biết tiếng dân tộc để giảng dạy.
Năm 2007, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 32/2007/NQ-CP nhằm kiềm chế tai nạn và ùn tắc giao thông Nghị quyết yêu cầu Bộ Giao thông vận tải phối hợp với Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội kiểm tra chất lượng đào tạo lái xe cơ giới đường bộ, đồng thời thu hồi Giấy phép của các cơ sở đào tạo không đạt tiêu chuẩn hoặc có hành vi tiêu cực, cắt giảm chương trình đào tạo lái xe.
Năm 2011, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 88/ NQ-CP ngày 24/8/2011
Chính phủ đã chỉ đạo tăng cường các giải pháp trọng tâm nhằm bảo đảm trật tự an toàn giao thông Theo đó, Bộ Giao thông Vận tải cần đẩy mạnh các biện pháp nâng cao chất lượng đào tạo và sát hạch lái xe, đồng thời tiếp tục hoàn thiện giáo trình đào tạo và quy trình sát hạch lái xe.
Một bộ phận người dân, trong đó có người dân tộc Khmer lái xe mô tô không có giấy phép
Tỉnh Bạc Liêu đã chứng kiến sự phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, đặc biệt là nhu cầu mua sắm xe mô tô của người dân vùng sâu, vùng xa và đồng bào dân tộc Khmer Xe mô tô trở thành phương tiện di chuyển thuận lợi cho địa hình nơi đây, dẫn đến nhu cầu tham gia giao thông ngày càng tăng Tuy nhiên, việc đào tạo lái xe mô tô chưa đáp ứng được yêu cầu, đặc biệt với người dân tộc Khmer có trình độ học vấn thấp và hạn chế trong việc tiếp thu lý thuyết Hệ quả là nhiều người không đạt yêu cầu sát hạch lái xe, nhưng vẫn cần điều khiển xe mô tô trong sinh hoạt hàng ngày, dẫn đến tình trạng không có giấy phép lái xe.
Để giảm tai nạn giao thông tại Bạc Liêu và khu vực lân cận, cần nâng cao chất lượng đào tạo lái xe cho người dân tộc Khmer Việc truyền đạt kiến thức nên dựa vào đặc điểm văn hóa và trình độ học vấn của họ, sử dụng hình ảnh trực quan và cụ thể để giúp họ dễ tiếp thu, hạn chế phương pháp chỉ nói suông mà không có minh họa.
Tại Bạc Liêu, các trung tâm đào tạo lái xe mô tô chủ yếu sử dụng máy chiếu để giảng dạy lý thuyết dựa trên tài liệu "Hỏi và đáp về Luật giao thông đường bộ" Tuy nhiên, 50% nội dung chỉ là chữ viết, thiếu hình ảnh minh họa, gây khó khăn cho người dân tộc Khmer trong việc hình dung và liên hệ với thực tế Để cải thiện tình hình này, cần thiết kế bộ phương tiện trực quan nhằm hỗ trợ người dân tộc Khmer trong việc tiếp thu kiến thức lái xe mô tô một cách dễ dàng và hiệu quả hơn.
Nghiên cứu thiết kế bộ phương tiện dạy học cho lý thuyết lái xe mô tô dành cho người dân tộc Khmer tại Bạc Liêu là một nhiệm vụ cấp bách, nhằm nâng cao chất lượng đào tạo lái xe cho nhóm đối tượng này.
Với nhiều năm kinh nghiệm trong ngành giao thông vận tải và tham gia kiểm tra, giám sát công tác đào tạo, sát hạch lái xe, tôi đã chọn đề tài "Thiết kế bộ phương tiện dạy học trong dạy lý thuyết lái xe mô tô cho người dân tộc Khmer tại Bạc Liêu" làm luận văn tốt nghiệp.
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Thiết kế bộ phương tiện dạy học trong dạy lý thuyết lái xe mô tô cho người dân tộc Khmer tại Bạc Liêu.
NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu cơ sơ lí luận về thiết kế phương tiện dạy học
Nghiên cứu thực tiễn về đào tạo lái xe mô tô tại tỉnh Bạc Liêu
Thiết kế bộ phương tiện dạy học trong dạy lý thuyết lái xe mô tô
Tổ chức thực nghiệm và đánh giá kết quả.
ĐỐI TƢỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU
4.1 Đối tƣợng nghiên cứu: Bộ phương tiện dạy học trong dạy lý thuyết lái xe mô tô
4.2 Khách thể nghiên cứu: Quá trình dạy học lái xe mô tô tại Bạc Liêu.
GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU
Sử dụng bộ phương tiện dạy học do người nghiên cứu thiết kế trong việc giảng dạy lý thuyết lái xe mô tô sẽ giúp học viên người dân tộc Khmer đạt kết quả học tập cao hơn so với phương pháp dạy học truyền thống không sử dụng bộ công cụ này.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để đạt tới mục tiêu nghiên cứu, người nghiên cứu sử dụng các phương pháp:
Phương pháp nghiên cứu lý luận là công cụ quan trọng giúp người nghiên cứu phân tích và rút ra những ứng dụng hợp lý nhất để thiết kế bộ phương tiện dạy học hiệu quả cao, phù hợp với điều kiện thực tiễn tại Bạc Liêu.
Phương pháp nghiên cứu thực tiễn được áp dụng để khảo sát và trắc nghiệm thực tế, nhằm đánh giá tình hình dạy lý thuyết lái xe mô tô và quá trình học tập của học viên người dân tộc Khmer tại tỉnh Bạc Liêu.
Người nghiên cứu áp dụng phương pháp thực nghiệm nhằm kiểm tra hiệu quả của bộ phương tiện dạy học đã được thiết kế.
Phương pháp thống kê toán học là công cụ quan trọng giúp người nghiên cứu tính toán kết quả thực nghiệm và kiểm nghiệm giả thuyết nghiên cứu.
GIỚI HẠN ĐỀ TÀI
Do thời gian và quy mô nghiên cứu hạn chế, bài nghiên cứu chỉ tập trung vào việc giảng dạy lý thuyết lái xe mô tô hạng A1 cho học viên là người dân tộc Khmer tại Bạc Liêu.
Tài liệu “Hỏi và đáp về Luật giao thông đường bộ” được xuất bản bởi Nxb Giao thông vận tải vào năm 2011, nhằm mục đích hỗ trợ sát hạch và cấp giấy phép lái xe mô tô hai bánh.
Bộ phương tiện được thiết kế theo hai hình thức: Phim hoạt hình flash và tranh.
NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
Việc áp dụng đề tài này trong đào tạo lái xe mô tô cho người dân tộc Khmer sẽ giúp giảm đáng kể số lượng người Khmer lái xe mô tô không có giấy phép Đồng thời, đề tài cũng có thể được nghiên cứu tiếp để mở rộng áp dụng cho cả người Khmer và người Kinh không biết chữ, từ đó nâng cao ý thức chấp hành luật giao thông.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, kết quả nghiên cứu được trình bày trong 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lí luận về vấn đề nghiên cứu
- Chương 2: Cơ sở thực tiễn về đào tạo lái xe mô tô tại Bạc Liêu
CƠ SỞ LÝ LUẬN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
TỔNG QUAN VỀ DẠY HỌC TRỰC QUAN
Nói đến vai trò quan trọng của dạy học trực quan, tục ngữ Trung hoa có câu:
“ Điều tôi nghe tôi quên, điều tôi nhìn tôi nhớ, điều tôi làm tôi hiểu”
J A.Komensky (1592 – 1670) nhà sư phạm vĩ đại ở thế kỷ XVII, người Cộng hòa Séc, ông là một trong những người đi đầu đưa ra yêu cầu phải đảm bảo tính trực quan trong dạy học Khi đề cập đến phương pháp giảng dạy các khoa học, ông khuyên các giáo viên rút ra “ quy luật vàng” như sau: “Trong khả năng có thể phải đặt vật trước các giác quan Mọi vật có thể thấy được thì đưa đến thị giác, mọi vật có thể nghe được thì đưa đến trước thính giác Các mùi vị phải được đưa đến trước khứu giác và vị giác, và các vật có thể sờ được thì phải đưa đến trước xúc giác Nếu một vật có thể tạo một ấn tượng cùng một lúc trên các giác quan khác nhau, nó phải được đưa cho tiếp xúc với các giác quan ấy” Theo quy tắc này của ông, quá trình dạy học cần tận dụng tất cả các giác quan của học sinh Cách dạy này, theo ông, sẽ giúp cho học sinh dễ dàng nắm tri thức Có thể nói rằng, việc đưa ra “quy luật vàng” của Komensky đánh dấu một bước phát triển quan trọng trong việc xây dựng lý luận dạy học lúc bấy giờ
J.J.Rousseau ( 1712 – 1778), sinh ra ở Geneva Thụy Sĩ, ông là nhà triết học, nhà giáo dục học nổi tiếng, ông kịch liệt phê phán nhà trường đương thời lạm dụng lời nói Ông đã lớn tiếng rằng: “ Đồ vật, đồ vật – hãy đưa ra đồ vật Tôi không ngừng nhắc đi nhắc lại rằng, chúng ta lạm dụng quá mức lời nói Bằng cách giảng ba hoa, chúng ta chỉ đào tạo nên con người ba hoa”
J.H.Pestalozzi (1746 – 1827), là nhà cải cách giáo dục người Thụy Sĩ, ông khẳng định rằng, nguyên tắc cao nhất của dạy học là đảm bảo tính trực quan Theo ông, tri giác cảm tính là nguồn gốc của nhận thức Do đó, ông chú ý phát triển óc quan sát, tính tò mò ham hiểu biết, năng lực tính toán , đo lường, năng khiếu ngôn ngữ của trẻ Ông cho rằng việc quan sát sự vật, hiện tượng và diễn tả nội dung quan sát đó bằng ngôn ngữ là nền tảng của sự phát triển trí tuệ Khi phát triển tư tưởng của Komensky và Rousseau về tính trực quan của dạy học, Pestalozzi nhìn thấy ở tính trực quan không chỉ có phương tiện nhận thức mà còn có con đường làm phát triển trí tuệ của học sinh
K.D Ushinskij (1824 – 1870), nhà sư phạm dân chủ người Nga, người sáng lập khoa học giáo dục Nga , ông đã xây dựng việc dạy học trực quan trên cơ sở tâm lý học Theo ông ,“ Đó là việc dạy học không dựa trên những biểu tượng và trừu tượng mà dựa trên những hình ảnh cụ thể do học sinh trực tiếp tri giác được: những hình ảnh này hoặc do học sinh tri giác ngay khi học dưới sự hướng dẫn của giáo viên hoặc do các em độc lập quan sát trước đó Giáo viên sẽ tìm ở các em những hình ảnh có sẳn mà dạy Tiến trình dạy học này đi từ cụ thể đến trừu tượng, từ biểu tượng đến tư tưởng là tiến trình hợp tự nhiên và dựa vào những quy luật tâm lý xác định, đến nổi không ai có thể phủ nhận sự cần thiết phải dạy học theo kiểu đó”
Vào năm 1905, trung tâm media đầu tiên ở Mỹ đã bắt đầu sưu tầm đồ dùng dạy học như mô hình và bản đồ Đầu thế kỷ XX, giáo dục tại Hoa Kỳ đã chuyển sang sử dụng hình ảnh, và vào thập niên 1920-1930, âm thanh cũng được đưa vào giảng dạy Nhiều loại phim ảnh, bao gồm phim kịch và phim khoa học, đã được áp dụng trong lớp học Đến đầu những năm 1940, trung tâm giáo dục theo chương trình đã được thành lập tại Mỹ Năm 1946, kế hoạch dạy học nghe nhìn được triển khai tại Đại học Indiana Trong Thế chiến thứ 2, nhiều phim huấn luyện đã được sử dụng trong giáo dục quân sự.
Từ đầu thập kỷ 40 đến thập kỷ 50, công nghệ trình bày thông tin như đèn chiếu và phim ảnh trở nên phổ biến trong giáo dục ở châu Âu và Mỹ Trong giai đoạn này, công nghệ máy tính vẫn còn mới mẻ với sự ra đời của máy tính cồng kềnh đầu tiên vào năm 1946, thuộc thế hệ máy tính chân không Đến thập kỷ 50, truyền hình bắt đầu có nhiều kênh phục vụ cho học tập, kết hợp khoa học nghe nhìn với lý thuyết học tập, đánh dấu sự ra đời của công nghệ dạy học hiện đại và máy dạy học Đồng thời, máy tính thế hệ 2 cũng được phát triển trong giai đoạn này.
Trong giai đoạn 1950 đến 1960, phương tiện truyền thông trong giáo dục đã trải qua nhiều thay đổi và phát triển mạnh mẽ, với việc sử dụng đa dạng các loại hình media Các chuyên gia về media trở nên quan trọng trong các trường học, họ chú trọng tìm kiếm và phát triển các dạng media mới, đồng thời xem xét bản chất của khoa học nghe nhìn và media Media đã trở thành một phần thiết yếu trong công nghệ dạy học.
Vào thập niên 70, sự xuất hiện của các chip thế hệ 4 đánh dấu một bước tiến lớn trong khoa học máy tính, dẫn đến sự phát triển quy mô lớn vào cuối thập kỷ Năm 1976, máy tính cá nhân đầu tiên của Apple ra đời, góp phần thúc đẩy nhanh chóng việc ứng dụng công nghệ máy tính vào giáo dục.
Giai đoạn 1980 đến 1990 chứng kiến sự bùng nổ của nhiều dạng thông tin mới, bao gồm hình ảnh tĩnh, động và hoạt hình, cùng với sự phổ biến của băng đĩa nhạc và video Công nghệ máy tính cũng phát triển mạnh mẽ trong thời gian này, với sự ra đời của nhiều phần mềm và công cụ như Word, Excel và cơ sở dữ liệu Đặc biệt, từ đầu thập kỷ 80, các phòng thực nghiệm máy tính và lớp học theo đĩa đã được thành lập, đánh dấu một bước tiến quan trọng trong lĩnh vực giáo dục và công nghệ.
Sau năm 1990, sự phát triển nhanh chóng của media kỹ thuật số đã dẫn đến việc tích hợp các công nghệ như máy tính, multimedia, đồ họa, hình ảnh, âm thanh CD và video vào đời sống Sự tiến bộ trong công nghệ thông tin và máy tính đã có ảnh hưởng sâu rộng đến lĩnh vực giáo dục.
Sự phát triển nhanh chóng của phần mềm dạy học, đặc biệt là phần mềm dạy học thông minh, đã tạo ra môi trường học tập tương tác đa phương tiện hiệu quả Internet đã trở thành công cụ hỗ trợ đắc lực cho việc đào tạo từ xa, mang lại nhiều cơ hội học tập cho người học.
* Trong đào tạo lái xe:
Theo nghiên cứu của Justin Morgan và các đồng sự (2008) trong tài liệu "Driver Opinions of Simulator-Based Commercial Driver Training", việc đào tạo lái xe dựa trên thiết bị mô phỏng cho thấy hiệu quả rõ rệt Học viên sẽ trải nghiệm lái xe trong môi trường an toàn thông qua các chương trình mô phỏng trên máy tính, giúp họ xử lý các tình huống thực tế giống như khi lái xe trên đường Phương pháp này không chỉ giảm chi phí đào tạo mà còn nâng cao tính an toàn cho người học.
Bồ Đào Nha: Nhóm tác giả J Miguel Leitão (1997) và các đồng sự đã tiến hành nghiên cứu "Đánh giá các phương pháp dạy lái xe bằng thiết bị mô phỏng" Nghiên cứu này chỉ ra rằng phương pháp đào tạo lái xe bằng mô phỏng có nhiều ưu điểm vượt trội so với phương pháp truyền thống, giúp người lái xe rèn luyện kỹ năng trong môi trường an toàn mà không phải đối mặt với những rủi ro như khi lái xe trên đường thực.
Từ năm 1988, Honda đã nghiên cứu và phát triển mô hình lái xe an toàn cho xe gắn máy, trở thành thiết bị đầu tiên trên thế giới Trước đó, chỉ có thiết bị mô phỏng dành cho ôtô, trong khi việc giảng dạy lái xe máy trong thực tế gặp nhiều khó khăn do thiếu người hướng dẫn Thiết bị mô phỏng này giúp người dùng trải nghiệm các tình huống lái xe khác nhau, từ đó nâng cao khả năng phán đoán tình huống nguy hiểm.
Vào năm 1989, thiết bị đầu tiên mang tên PlotType được giới thiệu, nhưng phải đến năm 1996, thiết bị sản xuất hàng loạt đầu tiên mới chính thức ra mắt do gặp phải vấn đề về kích thước và cảm giác tăng tốc không thực tế Kể từ đó, thiết bị này đã trở nên phổ biến tại nhiều trung tâm hướng dẫn lái xe ở Nhật Bản và một số quốc gia khác, bao gồm cả Việt Nam Ngoài thiết bị mô phỏng lái xe an toàn cỡ lớn, Honda còn phát triển thiết bị hướng dẫn lái xe an toàn đơn giản với giá thành thấp, nhằm phổ cập kiến thức an toàn giao thông và nâng cao khả năng phán đoán tình huống nguy hiểm Thiết bị này đã được đưa vào sử dụng từ năm 2005 và hiện có mặt tại các cửa hàng Honda trên toàn thế giới, góp phần nâng cao kỹ năng điều khiển và ý thức an toàn giao thông cho người lái xe tại nhiều cửa hàng Honda ở Việt Nam.
NHỮNG KHÁI NIỆM CÓ LIÊN QUAN
Trực quan ( visual): Theo Từ điển tiếng việt phổ thông, trực quan là nhận thức trực tiếp, không bằng suy luận của lý trí.[7]
Phương pháp dạy học trực quan
Trực quan trong dạy học là khái niệm thể hiện hoạt động nhận thức, nơi thông tin từ thế giới bên ngoài được tiếp nhận qua cảm giác Các phương tiện mà giáo viên và học sinh sử dụng trong quá trình này nhằm tạo ra biểu tượng và hình thành khái niệm cho học sinh thông qua tri giác trực tiếp, được gọi là phương tiện trực quan.
Phương pháp dạy học trực quan, theo Từ điển Tiếng Việt phổ thông, là việc sử dụng các vật cụ thể hoặc ngôn ngữ cử chỉ nhằm giúp học sinh hình dung rõ ràng hơn về nội dung bài học.
Theo Hà Thế Ngữ và Đặng Vũ Hoạt, phương pháp dạy học trực quan bao gồm hai phương pháp chính: quan sát và trình bày trực quan Hai phương pháp này có mối liên hệ chặt chẽ, vì khi học sinh tiếp cận các phương tiện trực quan, họ cần thực hiện quan sát một cách khoa học để hiểu rõ hơn nội dung học tập.
Phương pháp dạy học trực quan sử dụng các phương tiện trực quan và kỹ thuật để giúp người học cảm nhận và tri giác tài liệu mới, từ đó hình thành biểu tượng cụ thể và rèn luyện kỹ năng Phương pháp này bao gồm hoạt động quan sát của học sinh và trình bày trực quan của giáo viên, hai hoạt động này tương tác và hỗ trợ lẫn nhau, nâng cao hiệu quả nhận thức.
Theo George Cox, trưởng khoa Đồ họa tại Trường đại học Luân Đôn, thiết kế là cầu nối giữa sự sáng tạo và đổi mới Nó biến ý tưởng thành những giải pháp thực tiễn, thu hút người dùng và khách hàng Thiết kế có thể được hiểu như một cách triển khai sáng tạo nhằm phục vụ một mục đích cụ thể.
Thiết kế là tất cả những gì xung quanh chúng ta, bao gồm mọi thứ do con người tạo ra, dù là có ý thức hay vô thức Hầu hết các kết quả của thiết kế đều mang tính trực quan và có thể nhìn thấy.
CƠ SỞ TRIẾT HỌC CỦA NHẬN THỨC TRỰC QUAN
Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, lý luận xuất phát từ thực tiễn, mà thực tiễn không chỉ là cơ sở và động lực mà còn là mục đích và tiêu chuẩn kiểm tra nhận thức Thực tiễn giúp vật chất hóa lý luận, đưa lý luận vào đời sống thực tế.
Các nhà duy vật biện chứng cho rằng nhận thức là một quá trình biện chứng bao gồm hai giai đoạn chính: giai đoạn nhận thức cảm tính và giai đoạn nhận thức lý tính.
Lênin nhấn mạnh rằng quá trình nhận thức chân lý diễn ra theo một con đường biện chứng, bắt đầu từ trực quan sinh động, tiến tới tư duy trừu tượng, và cuối cùng là thực tiễn Điều này thể hiện mối liên hệ giữa nhận thức và thực tại khách quan.
1.3.1 Nhận thức cảm tính (trực quan sinh động) :
Nhận thức cảm tính là giai đoạn đầu của quá trình nhận thức, phản ánh bề ngoài của sự vật qua các giác quan Nó bao gồm ba hình thức chính: cảm giác, tri giác và biểu tượng.
Cảm giác là hình thức nhận thức cảm tính cơ bản nhất, phản ánh trực tiếp những đặc điểm và thuộc tính riêng lẻ của sự vật và hiện tượng.
Tri giác là hình ảnh cảm tính tương đối toàn vẹn về sự vật, được hình thành từ sự tổng hợp các thuộc tính khác nhau của sự vật thông qua các cảm giác.
Biểu tượng là hình thức cao nhất của nhận thức cảm tính, phản ánh hình ảnh của sự vật được hồi tưởng và tái hiện một cách khái quát Nó đóng vai trò quan trọng trong việc kết nối giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính.
1.3.2 Nhận thức lý tính (tƣ duy trừu tƣợng)
Nhận thức lý tính là giai đoạn cao hơn trong quá trình nhận thức, cho phép con người phản ánh gián tiếp và khái quát các sự vật, hiện tượng dựa trên thông tin từ nhận thức cảm tính Hình thức biểu hiện của nhận thức lý tính bao gồm khái niệm, phán đoán và suy luận.
Khái niệm là hình thức tư duy trừu tượng, phản ánh bản chất và những yếu tố chung của sự vật, hiện tượng Nó được diễn đạt qua ngôn ngữ bằng các từ ngữ cụ thể.
Phán đoán là một hình thức tư duy, liên kết các khái niệm để khẳng định hoặc phủ định đặc điểm, thuộc tính của đối tượng Nó được diễn đạt bằng ngôn ngữ thông qua các câu hoặc mệnh đề.
Suy luận là một hình thức tư duy trừu tượng, diễn ra qua quá trình logic tuân theo quy luật nhất định Nó cho phép rút ra phán đoán mới từ một hoặc nhiều phán đoán đã có, mang lại tri thức mới về thực tế Kết quả của suy luận phụ thuộc vào tính chính xác của các phán đoán tiền đề và việc tuân thủ các quy tắc của quá trình này.
Suy luận đóng vai trò quan trọng trong nhận thức, giúp chúng ta hiểu rõ những sự kiện đã xảy ra, đang diễn ra và dự đoán tương lai Bên cạnh đó, trực giác cũng giúp phát hiện tri thức mới một cách nhanh chóng và chính xác.
1.3.3 Sự thống nhất giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính
Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là hai giai đoạn trong quá trình nhận thức, đại diện cho hai trình độ khác nhau Mặc dù chúng có sự khác biệt về vị trí và phạm vi phản ánh, nhưng chúng lại có mối liên hệ chặt chẽ và tác động qua lại lẫn nhau.
Nhận thức cảm tính đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành nhận thức lý tính, cung cấp những dữ liệu cảm xúc cần thiết Thiếu nhận thức cảm tính, quá trình nhận thức lý tính sẽ không thể diễn ra.
Nhận thức lý tính là bước phát triển quan trọng từ nhận thức cảm tính, thể hiện sự tiến bộ vượt bậc trong quá trình nhận thức Khi nhận thức lý tính được hình thành, nó sẽ tác động tích cực trở lại nhận thức cảm tính, giúp nâng cao độ nhạy bén và chính xác trong việc phản ánh thực tế.
CƠ SỞ SINH LÝ CỦA NHẬN THỨC TRỰC QUAN
Quá trình nhận thức thế giới khách quan diễn ra thông qua các giác quan của con người, với sự khác biệt trong mức độ lưu giữ thông tin từ các kênh cảm nhận Các nhà nghiên cứu đã thống kê vấn đề này trong bảng dưới đây [14].
Bảng 1.1 : Tỷ lệ lưu giữ thông tin của các giác quan
Sự tác động của các giác quan Tỷ lệ % lưu giữ lại
Kết hợp đồng thời cả nghe và nhìn 50 %
Kết hợp đồng thời cả nghe, nhìn và thực hiện 70 %
Kết hợp cả nghe, nhìn, thực hiện và hỗ trợ máy móc 90 %
Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ lưu giữ thông tin của các giác quan khác nhau, và khi kết hợp nhiều giác quan cùng lúc, khả năng ghi nhớ thông tin sẽ được nâng cao.
Xét ở góc độ thu nhận thông tin, tỷ lệ thu nhận thông tin của các giác quan cũng có sự khác nhau, được thể hiện qua bảng dưới đây:
Bảng 1.2 : Tỷ lệ thu nhận thông tin của các giác quan
Các giác quan Tỷ lệ
Thông tin thu nhận được qua: Thị giác 42 %
Thông tin thu nhận được qua: Thính giác 33 %
Thông tin thu nhận được qua : Xúc giác 22 %
Thông tin thu nhận được qua: Vị giác 12 %
Thông tin thu nhận được qua: Khứu giác 07 %
Nghiên cứu của các nhà tâm sinh lý học cho thấy khả năng tri giác thông tin của các giác quan con người không đồng nhất trong cùng một khoảng thời gian Để đánh giá khả năng này, khái niệm “Năng lực dẫn thông” đã được đưa ra, và các số liệu thống kê về năng lực dẫn thông của các giác quan được tổng hợp.
Bảng 1.3 : Năng lực dẫn thông của các giác quan
Giác quan Khả năng dẫn thông Đơn vị dẫn thông
Ngoài các nghiên cứu đã đề cập, các nhà sư phạm còn công bố kết quả nghiên cứu về khả năng lưu giữ thông tin trong trí nhớ theo đơn vị thời gian và các giác quan.
Bảng 1.4 : Tỷ lệ lưu giữ lại trong trí nhớ trên đơn vị thời gian
Phương tiện trực quan Tỷ lệ ghi nhớ sau 3 giờ Tỷ lệ ghi nhớ sau 3 ngày
Lời nói với hình ảnh 80 % 70 %
Lời nói, hình ảnh, hành động 90% 80%
PHƯƠNG TIỆN DẠY HỌC
1.5.1 Khái niệm phương tiện dạy học
Theo từ điển tiếng việt: “Phương tiện là cái dùng để làm một việc gì, để đạt một mục đích nào đó”
Trong tiếng Anh, từ "phương tiện" (media) có nguồn gốc từ tiếng Latin "medium", mang nghĩa "ở giữa" hoặc "trung gian" Hiện nay, từ này thường được sử dụng để chỉ phương tiện truyền thông.
Phương tiện dạy học được định nghĩa bởi TS Nguyễn Văn Tuấn là toàn bộ các yếu tố hỗ trợ trong quá trình dạy học nhằm đạt được mục tiêu giáo dục Trong nghĩa hẹp, phương tiện dạy học bao gồm những đối tượng chứa đựng nội dung giảng dạy, được sử dụng trực tiếp để chuyển biến nội dung và hướng tới mục tiêu dạy học.
Phương tiện dạy học, theo Bùi Thị Mùi, là tập hợp các đối tượng vật chất mà giáo viên sử dụng để điều khiển hoạt động nhận thức của học sinh Đối với học sinh, những phương tiện này không chỉ là nguồn tri thức phong phú, đa dạng và sinh động, mà còn là công cụ giúp các em tiếp thu kiến thức và rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo.
Phương tiện dạy học, theo Nguyễn Ngọc Quang, là tất cả các thiết bị kỹ thuật từ đơn giản đến phức tạp, được sử dụng trong quá trình giảng dạy nhằm hỗ trợ hiệu quả cho việc truyền đạt và tiếp thu kiến thức, kỹ năng và kỹ xảo.
Phương tiện dạy học, theo ThS Chu Vĩnh Quyên, được định nghĩa là tập hợp các đối tượng vật chất mà người dạy sử dụng để tổ chức và điều khiển hoạt động nhận thức của người học Những phương tiện này không chỉ hỗ trợ quá trình dạy học mà còn là công cụ giúp người học tiếp cận kiến thức một cách hiệu quả.
Phương tiện trực quan là các công cụ dạy học như vật thật, mô hình, tranh vẽ và sơ đồ, giúp giáo viên và học sinh truyền đạt và tiếp nhận tri thức Những phương tiện này hỗ trợ quá trình học tập bằng cách cung cấp trải nghiệm trực tiếp qua các giác quan, từ đó rèn luyện kỹ năng cho học sinh.
Dựa vào tác động của tài liệu trực quan đến các giác quan, các phương tiện trực quan được phân loại thành ba loại chính: phương tiện trực quan nghe, phương tiện trực quan nhìn và phương tiện trực quan nghe nhìn.
Dựa vào nguồn gốc, người ta xếp phương tiện trực quan thành hai nhóm cơ bản:
Nhóm phương tiện trực quan nhân tạo bao gồm mô hình, hình vẽ, sơ đồ nguyên lý, đồ thị, sơ đồ khối và sơ đồ lắp ráp Những công cụ này được sử dụng để phác họa bản chất và cấu tạo chính của các vật phẩm kỹ thuật cũng như quy trình sản xuất công nghiệp Chúng giúp phản ánh mối liên hệ giữa các hiện tượng vật lý, kỹ thuật và các thao tác thực hành trong lĩnh vực kỹ thuật.
Nhóm phương tiện trực quan tự nhiên bao gồm các vật thật và sản phẩm kỹ thuật, giúp giới thiệu cấu tạo và quá trình hoạt động của máy móc, thiết bị.
Các thao tác mẫu của giáo viên đóng vai trò quan trọng như một phương tiện trực quan, giúp giới thiệu rõ ràng các hành động và kỹ thuật cần thiết.
1.5.2 Một số loại phương tiện dạy học
Thiết bị dạy học bao gồm các máy móc, dụng cụ và phụ tùng cần thiết cho hoạt động giảng dạy và học tập, chủ yếu tập trung vào "phần cứng" của phương tiện dạy học Phần cứng này đóng vai trò quan trọng trong việc truyền đạt thông tin, bao gồm các mô hình tĩnh và động, máy chiếu, máy tính, camera, máy thu hình và máy ghi âm Ngoài ra, thiết bị dạy học còn bao gồm các công cụ và nguyên vật liệu phục vụ cho việc thực hành, thí nghiệm và thực tập sản xuất.
Học liệu là các tài liệu in ấn hoặc không in ấn được thiết kế cho mục đích dạy học, chủ yếu liên quan đến "phần mềm" của phương tiện giảng dạy Học liệu bao gồm nhiều loại như chương trình đào tạo, giáo trình, sách báo, sổ tay, tài liệu hướng dẫn, bảng biểu, tranh ảnh, băng đĩa và phần mềm máy tính Tùy theo tính chất và hình thức, học liệu có thể là tài liệu tự học, tài liệu phát tay hoặc phần mềm dạy học.
Mô hình là sự mô phỏng, có thể là thực thể hoặc khái niệm, nhằm thể hiện các thuộc tính và mối quan hệ đặc trưng của một đối tượng cụ thể, được gọi là nguyên hình Mục đích của việc xây dựng mô hình là để nhận thức, quan sát thay thế cho nguyên hình, hoặc phục vụ cho nghiên cứu về nguyên hình đó.
Mô hình thường được chia ra hai loại : Mô hình vật chất (mô hình cảm tính) và mô hình lý thuyết (mô hình lôgic)
Phương pháp mô hình hóa gồm các bước:
* Nghiên cứu đối tượng gốc để xây dựng mô hình thay thế;
* Nghiên cứu trên mô hình để thu nhận kết quả;
* Gán kết quả thu được trên mô hình cho đối tượng gốc (hợp thức hóa mô hình)
Mô phỏng là thực nghiệm quan sát được và điều khiển được trên mô hình của đối tượng khảo sát Trong mô phỏng người ta sử dụng mô hình
Phương pháp dạy học mô phỏng, sử dụng máy tính và các phương tiện nghe nhìn, giúp học viên quan sát và tương tác với những đối tượng mà thực tế khó có thể tiếp cận Điều này bao gồm các tình huống như đối tượng quá lớn, quá nhỏ, quá xa, hoặc trong điều kiện nguy hiểm Nhờ vào những ưu điểm này, nghiên cứu đã áp dụng mô phỏng để thiết kế các phương tiện dạy học phù hợp, mang lại trải nghiệm học tập hiệu quả hơn cho học viên.
1.5.3 Chức năng của phương tiện dạy học
Theo Tiến sĩ Nguyễn Văn Tuấn, trong quá trình dạy học, phương tiện dạy học đóng vai trò quan trọng với ba chức năng chính: chức năng trực quan giúp người học hình dung kiến thức, chức năng điều khiển hỗ trợ việc tổ chức và quản lý hoạt động học tập, và chức năng luyện tập, thí nghiệm giúp củng cố kiến thức qua thực hành.
CƠ SỞ THỰC TIỄN VỀ ĐÀO TẠO LÁI XE MÔ TÔ TẠI BẠC LIÊU
GIỚI THIỆU TỔNG QUAN VỀ TỈNH BẠC LIÊU VÀ NGƯỜI KHMER TẠI BẠC LIÊU
2.1.1 Tình hình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Bạc Liêu
Bạc Liêu là một tỉnh ven biển thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long, miền Nam Việt Nam Tỉnh này giáp với Hậu Giang ở phía bắc, Sóc Trăng ở đông bắc, Kiên Giang ở tây bắc, Cà Mau ở tây và tây nam, và có 56 km bờ biển tiếp giáp với biển Đông Thành phố Bạc Liêu là tỉnh lỵ, nằm cách Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 280 km.
Bạc Liêu có diện tích tự nhiên 2.520,6 km² và dân số 856.250 người (theo điều tra dân số ngày 01/04/2009), với mật độ dân số đạt 339 người/km² Trong số 63 tỉnh, thành phố, Bạc Liêu xếp thứ 40 về diện tích và thứ 48 về dân số Khu vực này có ba dân tộc sinh sống, trong đó người Kinh chiếm đa số với gần 90%, tiếp theo là người Khmer (7,9%) và người Hoa (3,1%) Các dân tộc khác trên địa bàn Bạc Liêu đều có số lượng rất ít, dưới 100 người.
Toàn tỉnh có 06 huyện, 01 thành phố
2.1.1.1 Về phát triển kinh tế
Tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh đạt mức cao, bình quân gần 11,51% mỗi năm, với giá trị tăng trưởng 5 năm đạt 35.583 tỷ đồng, tương đương 7.116 tỷ đồng mỗi năm Thu nhập bình quân đầu người khoảng 1.047 USD, trong đó khu vực thành thị đạt 1.130 USD, còn khu vực nông thôn là 1.000 USD, gần với chỉ tiêu 1.100 USD Cơ cấu các ngành kinh tế của tỉnh đang dần được định hình, khẳng định thế mạnh và xu hướng phát triển ngày càng rõ nét.
Tổng vốn đầu tư xã hội trên địa bàn tăng từ 2.339 tỷ đồng năm 2005 lên 4.750 tỷ đồng năm 2010, với mức tăng bình quân 14,85%/năm, đạt 29,5% giá trị tổng sản phẩm (chỉ tiêu 32%) Giá trị hàng hóa xuất khẩu cũng tăng từ 151 triệu USD năm 2006 lên 250 triệu USD năm 2010, mặc dù chưa đạt chỉ tiêu 360 triệu USD, với mức tăng bình quân 10,6%/năm.
2005 lên 210 triệu USD năm 2010 (chỉ tiêu 330 triệu USD), tăng bình quân 13%/năm
2.1.1.2 Về phát triển văn hoá - xã hội
Giáo dục và đào tạo, cùng với khoa học và công nghệ, đã có những tiến bộ đáng kể Quy mô và chất lượng giáo dục ở các cấp học, giáo dục thường xuyên, giáo dục chuyên nghiệp và dạy nghề ngày càng ổn định và phát triển Công tác phổ biến kiến thức về khoa học và công nghệ được chú trọng, với nhiều đề tài nghiên cứu được đầu tư theo nhu cầu thực tiễn của tỉnh Tỷ lệ ứng dụng các đề tài nghiên cứu vào sản xuất và đời sống cũng tăng lên Năm 2011, tỷ lệ phòng học đạt chuẩn nhà cấp 3 trở lên đạt 50%, trong khi tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia chỉ đạt 18% Tỷ lệ sinh viên đại học và cao đẳng trên 10.000 dân năm 2011 là 110 sinh viên, nằm trong chỉ tiêu từ 100 - 110 sinh viên/vạn dân.
Chương trình xây dựng các công trình văn hóa công cộng đã được triển khai tích cực, với 12 thiết chế văn hóa cơ sở được xây dựng và 06 thiết chế đã hoàn thành đưa vào sử dụng Tính đến năm 2011, tỷ lệ xã, phường có thiết chế văn hóa đạt 25,56%, trong khi chỉ tiêu đề ra là 80% Ngoài ra, một số công trình di tích lịch sử và văn hóa cũng đã được đầu tư tôn tạo và xây dựng, góp phần phát huy giá trị văn hóa địa phương.
2.1.1.3 Về giao thông đường bộ tỉnh Bạc Liêu
* Theo số liệu thống kê của Sở Giao thông vận tải tỉnh Bạc Liêu, hệ thống đường bộ tỉnh Bạc Liêu có tổng chiều dài 1.531,34 km
-Đường Quốc lộ có 03 tuyến với tổng chiều dài : 140 km
-Đường tỉnh có 13 tuyến với tổng chiều dài là: 334,2 km
-Thành phố Bạc Liêu có 21 tuyến với tổng chiều dài: 61,82 km
-Đường huyện, đường xã có 57 tuyến, tổng chiều dài: 975,1 km
-Đường vành đai gồm 3 đoạn với tổng chiều dài là: 20,22 km
Ngoài ra còn có khoảng 1.500 km đường giao thông nông thôn
Theo thống kê của Phòng Cảnh sát giao thông tỉnh Bạc Liêu, tổng số xe mô tô đăng ký tại địa phương này hiện là 259.829 xe, với tỷ lệ trung bình là 3,3 người trên mỗi xe mô tô.
2.1.2 Những đặc điểm cơ bản về người dân tộc Khmer
Người Khmer đã xuất hiện tại Việt Nam từ khi Chân Lạp chiếm Phù Nam cho đến thế kỷ XV, di cư từ nhiều vùng đất ở Campuchia theo sông Cửu Long để tránh sự diệt vong dưới sự cai trị của các vua chúa và chiến tranh xâm lược của Xiêm La Hiện nay, cộng đồng Khmer chủ yếu sinh sống tại các vùng đất cao, tập trung chủ yếu ở các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Khmer tại Việt Nam có dân số 1.260.640 người, phân bố ở 63 tỉnh, thành phố Họ chủ yếu cư trú tại các tỉnh Sóc Trăng (397.014 người, chiếm 30,7% dân số tỉnh), Trà Vinh (317.203 người, chiếm 31,6%), Kiên Giang (210.899 người, chiếm 12,5%), cùng với An Giang, Bạc Liêu, Cà Mau và một số tỉnh thành khác Người Khmer có ngôn ngữ và chữ viết riêng, nhưng chia sẻ nền văn hóa và lịch sử chung trong việc xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam Họ sống xen kẽ với đồng bào Kinh và Hoa trong các phum, sóc.
Người Khmer từ lâu đã nổi tiếng với kỹ thuật canh tác nông nghiệp, đặc biệt là trồng lúa nước và các loại cây như đậu, ngô, khoai, rau, và các loại trái cây như nhãn, cam, bưởi Ngoài ra, họ còn có nghề đánh cá, dệt chiếu, đan lát và làm đồ gốm Kỹ năng đan mây tre của người Khmer tạo ra nhiều sản phẩm hữu ích như giỏ xách, dụng cụ đánh bắt cá và thảm chiếu Các sản phẩm dệt vải, lụa, chăn, khăn tắm và khăn đội đầu do phụ nữ Khmer sản xuất rất được thị trường ưa chuộng Nghề nhuộm, làm thợ mộc, thợ nề và thợ bạc cũng phát triển mạnh mẽ trong cộng đồng Khmer, cùng với việc sản xuất các sản phẩm như ô trầu, hộp thuốc và đồ trang sức.
Văn hóa sản xuất của dân tộc Khmer chủ yếu xoay quanh nghề canh tác nông nghiệp lúa nước, kết hợp với các nghề phụ như chăn nuôi, trồng màu và các nghề thủ công, nhằm phục vụ đời sống của cư dân nông nghiệp.
Người Khmer sống tập trung thành các phum, sóc với khoảng vài chục gia đình thường là họ hàng Mỗi sóc có ít nhất một ngôi chùa, trước đây thường tọa lạc trên giồng cao, nhưng hiện nay đã chuyển về gần các trục quốc lộ, sông và kênh rạch do áp lực kinh tế và dân số Nhà ở của người Khmer trước đây là nhà sàn hoặc nhà trệt đơn giản, nhưng ngày nay chủ yếu là nhà nền đất Nhà ở được chia thành hai dạng: nhà nghèo nhỏ với mái lá đơn sơ và nhà lớn của tầng lớp trung phú nông với kiến trúc bốn mái Cách bố trí nhà phản ánh quan niệm của người Khmer về việc thờ cúng, với bàn thờ tổ tiên được đặt ở giữa nhà Kiến trúc chùa Khmer nổi bật với sự lộng lẫy, khác biệt hoàn toàn với nhà ở của người dân Chùa không chỉ là nơi thờ Phật mà còn là trung tâm văn hóa và giáo dục của người Khmer, nơi mà nam giới thường trải qua thời kỳ tu hành để được xã hội kính trọng.
2.1.2.1 Phương tiện giao thông của người Khmer
Người Khmer, cư dân sống ở đồng bằng sông nước, đã sử dụng xe kéo trâu, bò để vận chuyển nông sản từ lâu Những cỗ xe gỗ với bánh xe bọc sắt giúp họ nhanh chóng đưa phân bón ra đồng và mang nông lâm sản về nhà Với hệ thống sông ngòi phong phú, vận chuyển đường thủy cũng rất phát triển Hiện nay, người Khmer đã tiếp cận các phương tiện hiện đại như ôtô và xe gắn máy, tạo nên sự giao lưu kinh tế và văn hóa giữa các phum, sróc và thành phố Kinh Xe mô tô và xe gắn máy trở thành phương tiện di chuyển chủ yếu trong sinh hoạt hàng ngày của người dân Khmer.
2.1.2.2 Địa bàn cư trú của người dân tộc Khmer tại Bạc Liêu
Tại Bạc Liêu, tổng số người Khmer sinh sống trên địa bàn là 66.176 người, được phân bố ở khắp các huyện, thành phố Trong đó:
- Thành phố Bạc Liêu là: 16.403 người (khu vực ngoại ô thành phố)
THỰC TRẠNG VỀ ĐÀO TẠO LÁI XE MÔ TÔ TẠI BẠC LIÊU
Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu có 05 cơ sở đào tạo lái xe mô tô Trong đó, 04 cơ sở Công lập và 01 cơ sở Tư thục :
Cơ sở công lập , bao gồm:
-Trường Cao đẳng nghề Bạc Liêu;
-Trung tâm dạy nghề huyện Đông Hải;
-Trung tâm dạy nghề huyện Phước Long;
-Trung tâm dạy nghề huyện Hồng Dân
Cơ sở Tư thục : Trung tâm dạy nghề tư thục Bạc Liêu
2.2.1 Thực trạng về công tác đào tạo lái xe mô tô Để nghiên cứu thực trạng về đào tạo lái xe mô tô tại Bạc Liêu, người nghiên cứu sử dụng công cụ nghiên cứu là chọn mẫu Người nghiên cứu đã soạn thảo bộ công cụ điều tra gồm 02 mẫu Mẫu 1 dành cho giáo viên dạy lý thuyết lái xe mô tô tại các cơ sở đào tạo trong tỉnh Bạc Liêu Mẫu 2 dành cho học viên học lái xe mô tô là người dân tộc Khmer Nhằm điều tra thực trạng dạy lý thuyết lái xe mô tô tại Bạc Liêu và học viên người dân tộc Khmer học lái xe mô tô
Dành cho giáo viên dạy lý thuyết lái xe mô tô, gồm 10 câu hỏi:
Mục tiêu của câu hỏi này là để khám phá cách các sở đào tạo lái xe mô tô tại Bạc Liêu được trang bị các phương tiện dạy học.
Câu 2: Tìm hiểu giáo viên tại các cơ sở đào tạo, đang sử dụng phương tiện dạy học nào để dạy lý thuyết lái xe mô tô
Câu 3: Tìm hiểu về nội dung dạy lý thuyết lái xe mô tô hiện nay tại các cơ sở đào tạo trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu
Câu 4: Nhằm đánh giá tình hình học viên người dân tộc Khmer tham gia học lái xe mô tô tại các cơ sở đào tạo
Câu 5: Nhằm tìm hiểu lứa tuổi của học viên người dân tộc Khmer tham gia học lái xe mô tô
Câu 6: Nhằm tìm hiểu trình độ học vấn của học viên người dân tộc Khmer tham gia học lái xe mô tô
Câu 7: Nhằm tìm hiểu khả năng sử dụng Tiếng Việt của học viên người dân tộc Khmer học lái xe mô tô
Câu 8: Nhằm tìm hiểu giữa hai môn lý thuyết và thực hành lái xe mô tô, học viên người dân tộc Khmer học tốt môn nào hơn
Mục tiêu của nghiên cứu là xác định nội dung lý thuyết lái xe mô tô mà học viên người dân tộc Khmer gặp khó khăn nhất, từ đó thiết kế phương tiện dạy học phù hợp Đồng thời, nghiên cứu cũng nhằm tìm hiểu nhu cầu sử dụng phương tiện dạy học của giáo viên dạy lý thuyết lái xe mô tô tại các cơ sở đào tạo ở Bạc Liêu.
Mức độ sử dụng xe mô tô của người dân tộc Khmer tại các khu dân cư đang ngày càng tăng, phản ánh nhu cầu di chuyển và phát triển kinh tế của cộng đồng Việc tìm hiểu thói quen và tần suất sử dụng xe mô tô sẽ giúp xác định những yếu tố ảnh hưởng đến việc lái xe an toàn trong cộng đồng này.
Câu 2: Nhằm tìm hiểu thực trạng người Khmer lái xe mô tô tham gia giao thông, không có giấy phép lái xe (GPLX)
Câu 3: Tìm hiểu người Khmer có nhận thức được hành vi vi phạm pháp luật khi lái xe tham gia giao thông mà không có GPLX
Người dân tộc Khmer tham gia học lái xe mô tô nhằm mục đích nâng cao kỹ năng di chuyển và tạo cơ hội kiếm sống Nhu cầu chạy xe mô tô chở khách, hay còn gọi là xe ôm, ngày càng tăng cao trong cộng đồng Khmer, giúp họ gia tăng thu nhập và cải thiện đời sống.
Nhu cầu lái xe mô tô trong hoạt động hàng ngày của người Khmer rất cao, phản ánh thói quen di chuyển và sinh hoạt của họ Đồng thời, khả năng học lái xe mô tô của người dân tộc Khmer cũng đáng chú ý, cho thấy sự quan tâm và nỗ lực trong việc nâng cao kỹ năng giao thông.
Câu 8: Tìm hiểu trong hai môn lý thuyết và thực hành lái xe mô tô, người dân tộc Khmer gặp khó khăn nhất ở môn nào
Câu 9: Tìm hiểu trong nội dung dạy lý thuyết lái xe mô tô, người dân tộc Khmer tiếp thu khó khăn nhất ở những nội dung nào
Câu 10: Tìm hiểu về nhu cầu sử dụng phương tiện dạy học, khi học lý thuyết lái xe mô của người dân tộc Khmer
Nghiên cứu đã khảo sát dữ liệu về đào tạo lái xe mô tô tại các cơ sở ở Bạc Liêu và số liệu sát hạch từ Sở GTVT tỉnh Trong những năm qua, các cơ sở đào tạo tại Bạc Liêu đã đào tạo một số lượng lớn lái xe mô tô, góp phần nâng cao trật tự an toàn giao thông và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Trong thời gian 5 năm từ 2007 đến 2011, nghiên cứu đã thống kê số liệu đào tạo lái xe mô tô để đánh giá sơ bộ về công tác đào tạo này, đặc biệt là đối với người dân tộc Khmer.
2.2.1.1 Kết quả đào tạo lái xe mô tô nói chung trong toàn tỉnh từ năm 2007-2011
Bảng 2.1: Kết quả đào tạo lái xe mô tô từ 2007 - 2011 ĐVT: người
Stt Năm Số lƣợng đào tạo
Trong 5 năm qua, tại tỉnh Bạc Liêu, tỷ lệ học viên thi đạt trong đào tạo lái xe mô tô đạt trung bình 66,5%, trong khi tỷ lệ thi không đạt là 33,5% Cụ thể, tỷ lệ không đạt lý thuyết trung bình là 30% và tỷ lệ không đạt thực hành trung bình là 3,5%.
2.2.1.2 Kết quả đào tạo lái xe mô tô cho người dân tộc Khmer từ năm 2007 đến
Bảng 2.2: Kết quả đào tạo lái xe mô tô cho người Khmer từ 2007 - 2011 ĐVT: người
Stt Năm Số lƣợng đào tạo
Tổng 5.240 2.581 2.371 342 Đối với học viên người dân tộc Khmer học lái xe mô, thường học chung với người Kinh, số lượng tham gia các lớp học không được ổn định Có những lớp rất đông người Khmer, chiếm 30% đến 40%, nhưng cũng có lớp rất ít, số lượng người Khmer không đáng kể
Trong 05 năm qua, người Khmer tham gia học lái xe mô tô chiếm 5,8% tổng số học viên Tỷ lệ thi đạt trung bình là 49,2%, trong khi tỷ lệ thi không đạt là 50,8% Cụ thể, tỷ lệ không đạt lý thuyết là 45,6% và không đạt thực hành là 5,2%.
2.2.1.3 Về phương tiện dạy học trong đào tạo lái xe mô tô tại các cơ sở đào tạo tại Bạc Liêu
Sau khi tiến hành trưng cầu ý kiến từ 23 giáo viên dạy lái xe mô tô tại 5 cơ sở đào tạo ở tỉnh Bạc Liêu, chúng tôi đã thu thập được những thông tin quý giá từ bảng hỏi (Mẫu 1) Kết quả cụ thể sẽ được trình bày chi tiết trong bài viết này.
Các phương tiện dạy học môn lý thuyết lái xe mô tô được trang bị tại các cơ sở đào tạo:
Bảng 2.3: Phương tiện dạy học được trang bị tại các cơ sở đào tạo
Phương tiện dạy học Số giáo viên trả lời có loại
PTDH tại cơ sở đào tạo
Máy chiếu và các thiết bị trình chiếu
Theo bảng kết quả, 100% các cơ sở đào tạo lý thuyết lái xe mô đều trang bị máy chiếu và các thiết bị trình chiếu Tiếp theo, 56% người được hỏi cho biết có bảng viết, trong khi chỉ 34% xác nhận có tranh hỗ trợ Các phương tiện dạy học khác như phim, mô hình, và mô phỏng hầu như không được trang bị, với tỷ lệ người trả lời chỉ chiếm vài %.
Giáo viên sử dụng các phương tiện dạy học trong môn lý thuyết lái xe mô tô
Bảng 2.4: Phương tiện dạy học được giáo viên sử dụng
Phương tiện dạy học Số giáo viên sử dụng Tỷ lệ %
Máy chiếu và các thiết bị trình chiếu
Kết hợp máy chiếu và bảng viết
Kết hợp máy chiếu, bảng viết, tranh
Theo kết quả điều tra, 100% giáo viên sử dụng máy chiếu và thiết bị trình chiếu trong giảng dạy lý thuyết lái xe mô tô, trong đó 43% giáo viên kết hợp máy chiếu với bảng viết Tuy nhiên, chỉ có 8,5% giáo viên áp dụng nhiều phương tiện như máy chiếu, bảng viết và tranh trong quá trình dạy học.
Phương tiện dạy học chủ yếu được sử dụng trong môn lý thuyết lái xe mô tô tại các cơ sở đào tạo lái xe ở Bạc Liêu là máy chiếu và các thiết bị trình chiếu.
2.2.1.4 Nội dung dạy môn lý thuyết lái xe mô tô