1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

ĐỀ CƯƠNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC XÁC ĐỊNH TỈ LỆ TRẦM CẢM VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN TRẦM CẢM Ở SINH VIÊN Y KHOA TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y KHOA PHẠM NGỌC THẠCH NĂM 2019

30 104 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Xác Định Tỷ Lệ Trầm Cảm Và Các Yếu Tố Liên Quan Đến Trầm Cảm Ở Sinh Viên Y Khoa
Tác giả Phan Thiên An, Thái Khánh Phát, Ngô Bội Dinh, Nguyễn Hoàng Lệ Quyên, Đoàn Nguyễn Trà Giang, Đỗ Hoàng Sang, Trần Linh Huy Hoàng, Vũ Thị Minh Thúy, Trần Tiểu Linh, Nguyễn Phương Minh Trang, Nguyễn Sỹ Luân, Trần Thanh Trúc, Đỗ Lê Ngọc, Nguyễn Thị Phương Vy
Trường học Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch
Chuyên ngành Quản Lý Y Tế - Kinh Tế Y Tế
Thể loại Đề Cương Nghiên Cứu Khoa Học
Năm xuất bản 2019
Định dạng
Số trang 30
Dung lượng 554,51 KB

Cấu trúc

  • I. ĐẶT VẤN ĐỀ:

  • II. TỒNG QUAN Y VĂN:

    • 1. SƠ LƯỢC VỀ TRẦM CẢM:

      • 1.1 Định nghĩa:

      • 1.2 Phân loại:

      • 1.3 Biểu hiện lâm sàng:

      • 1.4 Nguyên nhân trầm cảm:

      • 1.5 Cơ chế bệnh sinh:

    • 2. TẦM SOÁT SỚM TRẦM CẢM VÀ CÁC PHƯƠNG TIỆN TẦM SOÁT:

      • 2.1 Tiêu chuẩn chẩn đoán trầm cảm:

      • 2.2 Xác định mức độ trầm cảm:

      • 2.3 Vai trò tầm soát sớm trầm cảm:

      • 2.4 Các phương tiện tầm soát trầm cảm:

      • 2.5 Bộ câu hỏi đánh giá sức khỏe bệnh nhân- trầm cảm (PHQ- 9):

        • 2.5.1 Tổng quan về PHQ- 9:

        • 2.5.2 Ưu điểm của PHQ-9 và những bằng chứng khoa học khi ứng dụng PHQ-9 như một công cụ tầm soát trầm cảm:

    • 3. NHỮNG NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI:

      • 3.1 Systematic Review of Depression, Anxiety, and Other Indicators of Psychological Distress Among U.S. and Canadian Medical Students (16)

        • 3.1.1 Mục tiêu nghiên cứu:

        • 3.1.2 Đối tượng và số lượng:

        • 3.1.3 Phương pháp nghiên cứu:

        • 3.1.4 Các nhóm biến số chính:

        • 3.1.5 Kết quả chính và kết luận của tác giả:

        • 3.1.6 Nhận định tài liệu:

      • 3.2 Prevalence of Depression, Depressive Symptoms, and Suicidal Ideation Among Medical Students: A Systematic Review and Meta-Analysis (6)

        • 3.2.1 Mục tiêu nghiên cứu:

        • 3.2.2 Đối tượng nghiên cứu:

        • 3.2.3 Phương pháp nghiên cứu:

        • 3.2.4 Các nhóm biến số chính:

        • 3.2.5 Kết quả chính - Kết luận của tác giả:

        • 3.2.6 Nhận định:

      • 3.3 The four-domain structure model of a depression scale for medical students: A cross-sectional study in Haiphong, Vietnam (11)

        • 3.3.1 Mục tiêu nghiên cứu:

        • 3.3.2 Đối tượng nghiên cứu, số lượng:

        • 3.3.3 Thiết kế nghiên cứu:

        • Nghiên cứu mô tả cắt ngang.

        • 3.3.4 Biến số chính:

        • 3.3.5 Kết quả chính và kết luận của tác giả: Tỉ lệ trầm cảm: 39% (514/1319 sinh viên bị trầm cảm) trong đó nam cao hơn nữ (44,2% so với 36,9%, p = 0,015).

        • 3.3.6 Nhận định:

  • TÓM LẠI:

  • III. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU:

    • 1. Xác định tỉ lệ hiện mắc trầm cảm ở sinh viên y khoa khóa Y2015 trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2019.

    • 2. Xác định những yếu tố liên quan đến trầm cảm ở sinh viên y khoa khóa Y2015 trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2019.

  • IV. BIẾN SỐ NGHIÊN CỨU:

  • V. TÀI LIỆU THAM KHẢO:

Nội dung

Trầm cảm vấn đề sức khỏe tâm thần ngày trở nên phổ biến khắp giới Trong vòng hai thập kỷ qua, nghiên cứu Gánh nặng Bệnh tật Toàn cầu (GDB) xếp trầm cảm từ hạng lên hạng vấn đề sức khỏe gây ngày công lao động (YDLs) Theo cách tính nhà nghiên cứu, trầm cảm gây đến 16 triệu ngày làm việc, bệnh với tỷ suất mắc tử vong thuộc hàng cao giới bệnh tim thiếu máu cục gây triệu ngày làm việc (1) Từ số liệu cho thấy, trầm cảm trở thành gánh nặng cho ngân sách tồn cầu Bên cạnh đó, số ca mắc trầm cảm tăng 18.4% giai đoạn 2005-2015 (2) Trên giới, theo thống kê từ Tổ chức Y tế giới (WHO) có 300 triệu người mắc trầm cảm gần 800.000 người tự tử bệnh năm Điều đáng nói số ca mắc cao (chiếm đến 27%) thuộc khu vực Đông Nam Á, bao gồm Việt Nam (3) Tuy phổ biến đến không hẳn tất người có nhận thức đầy đủ vấn nạn Ở Việt Nam, 1/3 sinh viên có hiểu biết trầm cảm, số thấp so với quốc gia phát triển, đa số người cịn cho cá nhân có rối loạn tâm thần nguy hiểm cần cách ly khỏi cộng đồng (4), (5) Trầm cảm khơng giống cảm giác buồn bã thơng thường, khiến người bệnh hết hứng thú với sống, giảm khả tập trung, chán ăn, rối loạn giấc ngủ Ở mức độ tồi tệ hơn, trầm cảm ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động sống thường ngày, làm tổn hại đến mối quan hệ xã hội người bệnh, người mắc trầm cảm dễ tự ti có cảm giác thân khơng đáng giá với đỉnh điểm hành vi tự sát Trầm cảm ảnh hưởng đến tất người, chủng tộc lứa tuổi

TỒNG QUAN Y VĂN

SƠ LƯỢC VỀ TRẦM CẢM

Trầm cảm là hiện tượng ức chế hoạt động tâm thần, biểu hiện qua các triệu chứng như chán nản, mất hứng thú, giảm năng lượng, cảm giác tội lỗi và giấc ngủ rối loạn Đây có thể là cơn trầm cảm trong nhiều bệnh lý tâm thần, bao gồm rối loạn cảm xúc lưỡng cực và rối loạn trầm cảm Rối loạn trầm cảm (RLTC) là một vấn đề quan trọng trong tâm thần học, thường gặp trong thực hành của các bác sĩ chuyên khoa tâm thần và đa khoa.

Rối loạn trầm cảm bao gồm rối loạn trầm cảm chính (major depressive disorder;

Rối loạn trầm cảm lớn (MDD) và các dạng rối loạn trầm cảm khác như rối loạn mất điều chỉnh tâm trạng (DMDD) ở trẻ em, rối loạn trầm cảm dai dẳng (DD), rối loạn phiền muộn tiền kinh nguyệt, rối loạn trầm cảm do chất và rối loạn trầm cảm do các bệnh lý khác, đều có thể gây ra triệu chứng phụ không đáp ứng đủ tiêu chí của MDD hoặc DD.

Giai đoạn trầm cảm điển hình thường kéo dài ít nhất 2 tuần, bắt đầu bằng sự suy nhược và khí sắc giảm dần Sau đó, người bệnh sẽ xuất hiện đủ ba triệu chứng chính của trầm cảm.

Cảm xúc bị ức chế là triệu chứng chủ yếu, thể hiện qua sự buồn rầu với nhiều mức độ khác nhau, từ chán nản, thất vọng đến trạng thái buồn chán nặng nề và sâu sắc, có thể dẫn đến nguy cơ tự sát.

Tư duy bị ức chế là tình trạng mà bệnh nhân gặp khó khăn trong việc liên tưởng và trả lời câu hỏi, dẫn đến việc tư duy chìm đắm trong các chủ đề như trầm cảm, bi quan và tủi hổ Sự chậm chạp trong quá trình tư duy này có thể dần dần hình thành những hoang tưởng về việc bị buộc tội hoặc tự buộc tội, và trong những trường hợp nghiêm trọng, có thể dẫn đến ý định tự sát.

Bệnh nhân thường trải qua hoạt động bị ức chế, thể hiện qua việc ngồi hoặc nằm im lìm trong nhiều giờ, thường xuyên khom lưng và cúi đầu Họ có thể nằm ép ở giường hàng ngày, hàng tháng, và di chuyển một cách lờ đờ, quanh quẩn trong phòng.

Rối loạn tâm thần khác thường biểu hiện qua hoang tưởng và ảo giác gia tăng, với nội dung chủ yếu liên quan đến việc bị tội và tự buộc tội Người bệnh có thể nghe thấy những tiếng nói tố cáo tội lỗi của mình hoặc dự đoán hình phạt, kèm theo âm thanh khóc than Ngoài ra, khả năng chú ý của họ cũng bị giảm sút.

Rối loạn thần kinh thực vật có thể gây ra các triệu chứng như mạch chậm, giảm trương lực cơ, hồi hộp, đánh trống ngực và cảm giác nghẹn thở Ngoài ra, rối loạn tiêu hóa thường biểu hiện qua chán ăn, buồn nôn, táo bón, tiêu chảy và viêm loét dạ dày tá tràng Rối loạn tiết niệu có thể dẫn đến tình trạng tiểu khó, tiểu rắt và các vấn đề về tiểu tiện Cuối cùng, rối loạn nội tiết và sinh dục thường gặp ở phụ nữ với các triệu chứng như mất kinh và rối loạn kinh nguyệt, trong khi nam giới có thể gặp phải tình trạng liệt dương và cương dương.

Có nhiều nguyên nhân gây ra trầm cảm, có thể tập trung vào 4 nhóm nguyên nhân chính sau đây:

Sang chấn tâm lý, hay còn gọi là stress, là một nguyên nhân phổ biến dẫn đến trầm cảm Nó có thể phát sinh từ các yếu tố bên ngoài như mâu thuẫn trong gia đình, bạn bè, hay công việc, hoặc từ các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng bên trong cơ thể.

Bệnh lý thực thể ở não, bao gồm chấn thương sọ não, viêm não và u não, có thể gây ra những rối loạn và tổn thương cấu trúc não, làm giảm khả năng chịu đựng stress của cơ thể.

7 chỉ cần một stress nhỏ cũng có thể gây ra các rối loạn cảm xúc, đặc biệt là trầm cảm

Sử dụng các chất gây nghiện như heroin, amphetamin, rượu và thuốc lá có thể mang lại cảm giác hưng phấn và sảng khoái trong giai đoạn đầu Tuy nhiên, sau đó, người dùng thường rơi vào trạng thái trầm cảm, mệt mỏi và uể oải, dẫn đến sự giảm sút trong hoạt động tâm thần và cảm giác ức chế.

Trầm cảm nội sinh xảy ra khi đã loại trừ các nguyên nhân khác, thường liên quan đến rối loạn hoạt động của các chất dẫn truyền thần kinh như serotonin và noradrenalin Tình trạng này có thể dẫn đến trầm cảm nặng, với nguy cơ cao về ý tưởng và hành vi tự sát, cùng với các rối loạn loạn thần như hoang tưởng bị tội và ảo thanh chỉ dẫn tự sát Việc điều trị loại trầm cảm này rất khó khăn và có khả năng tái phát cao.

Các giả thuyết về sinh học:

Theo Kaplan & Sadock, có hai gen di truyền liên quan đến tính dễ tổn thương với rối loạn trầm cảm: gen MAOA, chịu trách nhiệm cho chức năng của monoamine oxydase, và gen vận chuyển serotonin (5HTT).

Nghiên cứu cho thấy rằng rối loạn trầm cảm liên quan đến sự thay đổi nồng độ của các chất dẫn truyền thần kinh như serotonin, noradrenalin và dopamin Cụ thể, nồng độ serotonin trong khe synap thần kinh ở vỏ não giảm xuống chỉ còn 30% so với mức bình thường, và nồng độ các sản phẩm chuyển hóa của serotonin trong máu và dịch não tủy cũng giảm Ngoài ra, mật độ thụ thể beta-adrenergic cũng giảm đáng kể ở những người mắc rối loạn trầm cảm Đối với dopamin, hoạt tính của nó giảm trong rối loạn trầm cảm và tăng lên trong trạng thái hưng cảm.

Giả thuyết về nội tiết:

Nghiên cứu về trục tuyến thượng thận cho thấy có sự liên quan giữa tăng tiết cortisol và rối loạn lo âu, với khoảng 50% bệnh nhân không giảm cortisol mặc dù đã tiêm Dexamethasone Ngoài ra, một báo cáo khác chỉ ra rằng nồng độ thyroxin tự do (FT4) ở trẻ vị thành niên mắc rối loạn lo âu thấp hơn so với trẻ bình thường, cho thấy nồng độ FT4 giảm trong khi chức năng tuyến giáp vẫn nằm trong giới hạn bình thường Những thay đổi giảm của hormone tuyến giáp có thể góp phần vào các biểu hiện lâm sàng của rối loạn lo âu.

Các giả thuyết về tâm lý- xã hội:

TẦM SOÁT SỚM TRẦM CẢM VÀ CÁC PHƯƠNG TIỆN TẦM SOÁT

Chẩn đoán rối loạn trầm cảm thật sự là một thách thức lớn, với tiêu chuẩn chẩn đoán chính được chấp thuận bởi Hội Tâm thần Hoa Kỳ (APA) và phổ biến toàn cầu là từ Cẩm nang chẩn đoán và thống kê các rối loạn tâm thần ấn bản thứ 5 (DSM-5) Các tiêu chuẩn này đã được dịch sang tiếng Việt và không có sự khác biệt so với phiên bản DSM-4.

Chẩn đoán bệnh nhân mắc trầm cảm khi thỏa tất cả các tiêu chuẩn A, B, C và D được liệt kê sau đây:

A Ít nhất 5 trong những triệu chứng sau, xuất hiện cùng lúc, kéo dài 2 tuần làm thay đổi so với hoạt động trước đó; ít nhất một trong các triệu chứng phải là: (1) khí sắc trầm cảm, (2) mất hứng thú hoặc mất vui

Ghi chú: các triệu chứng này không phải do một bệnh khác gây nên

Khí sắc trầm cảm thường xuất hiện suốt cả ngày và được bệnh nhân báo cáo hàng ngày, với những cảm xúc như buồn bã, trống rỗng hoặc tuyệt vọng.

9 quan quan sát của người khác (ví dụ: khóc) Chú ý: ở trẻ em và thành thiếu niên có thể biểu lộ việc dễ bực tức

Giảm sút rõ rệt về sự thích thú hoặc niềm vui trong hầu hết các hoạt động diễn ra suốt cả ngày, thường xuyên được nhận thấy bởi bệnh nhân hoặc qua sự quan sát của những người xung quanh.

Giảm cân đáng kể không chỉ do chế độ ăn kiêng hay tăng cân mà còn liên quan đến việc thay đổi trọng lượng cơ thể hơn 5% trong một tháng Ngoài ra, sự thay đổi cảm giác ngon miệng có thể xảy ra gần như hàng ngày Cần lưu ý rằng ở trẻ em, mức tăng cân có thể không đạt như dự đoán.

(4) Mất ngủ hay ngủ nhiều hầu như mỗi ngày

Kích động hay chậm chạp tâm thần vận động là hiện tượng thường xuyên xảy ra, được nhận diện bởi người khác chứ không chỉ là cảm giác chủ quan của bệnh nhân về sự bứt rứt hoặc chậm chạp trong cơ thể.

(6) Mệt mỏi hoặc mất năng lượng hầu như mỗi ngày

Cảm giác mất giá trị và tội lỗi quá mức, thậm chí có thể trở thành hoang tưởng, thường xuất hiện hàng ngày, không chỉ đơn thuần là sự tự trách móc hay cảm giác tội lỗi liên quan đến bệnh tật.

(8) Giảm khả năng suy nghĩ hoặc tập trung chú ý hoặc thiếu quyết đoán hầu như mỗi ngày (do bệnh nhân khai báo hoặc được quan sát bởi người khác)

Suy nghĩ về cái chết có thể xuất hiện nhiều lần, không chỉ đơn thuần là nỗi sợ hãi về cái chết, mà còn bao gồm những ý tưởng tự tử lặp lại Những suy nghĩ này có thể không kèm theo kế hoạch tự tử, nhưng cũng có thể dẫn đến việc hình thành các mưu toan hay kế hoạch tự tử cụ thể.

B Các triệu chứng này gây ra sự đau khổ đáng kể về mặt lâm sàng hoặc làm biến đổi hoạt động xã hội, nghềnghiệp hoặc trong các lĩnh vực quan trọng khác

C Các triệu chứng không phải do các tác động sinh lý trực tiếp của một chất hoặc do một bệnh khác gây nên

Chú ý: Tiêu chuẩn A-C đại diện cho một giai đoạn trầm cảm chủ yếu

Khi đối mặt với những mất mát lớn như mất người thân, phá sản, thiệt hại do thiên tai, bệnh nan y hoặc tàn tật, người ta thường trải qua cảm giác buồn bã dữ dội, trầm tư, khó ngủ, giảm cảm giác thèm ăn và sụt cân.

Theo tiêu chuẩn A, tình trạng này tương tự như một giai đoạn trầm cảm Tuy nhiên, các triệu chứng này và giai đoạn trầm cảm thực sự đều là phản ứng tự nhiên của con người trước những mất mát lớn Do đó, cần thực hiện các đánh giá lâm sàng dựa trên tiểu sử cá nhân và các đặc điểm văn hóa liên quan đến việc thể hiện sự buồn bã trước những mất mát.

D Các triệu chứng này không đáp ứng tiêu chuẩn chẩn đoán của rối loạn phân liệt cảm xúc, rối loạn tâm thần phân liệt, rối loạn ảo giác, hoặc những rối loạn đặc trưng hoặc không đặc trưng khác của hội chứng tâm thần phân liệt và những Rối loạn loạn thần khác Chưa bao giờ xuất hiện một giai đoạn hưng cảm hoặc hưng cảm nhẹ trước đó

Lưu ý rằng loại trừ này không áp dụng trong trường hợp tất cả các cơn hưng cảm hoặc hưng cảm nhẹ xuất phát từ việc lạm dụng chất kích thích hoặc do ảnh hưởng sinh lý của một bệnh lý khác.

2.2 Xác định mức độ trầm cảm:

Mức độ nặng nhẹ của trầm cảm được xác định dựa trên số lượng và mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng, cùng với ảnh hưởng của chúng đến các chức năng xã hội và nghề nghiệp.

Trầm cảm nhẹ được xác định khi người bệnh có rất ít triệu chứng, với cường độ đau buồn dễ quản lý Mặc dù triệu chứng hiện diện, nhưng chúng chỉ gây ra sự suy giảm nhẹ trong hoạt động xã hội hoặc nghề nghiệp.

NHỮNG NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

3.1 Systematic Review of Depression, Anxiety, and Other Indicators of

Psychological Distress Among U.S and Canadian Medical Students (16)

• Tổng hợp và mô tả tỉ lệ sinh viên y khoa tại Mỹ và Canada mắc các rối loạn trầm cảm, rối loạn lo âu từ các nghiên cứu

Nghiên cứu này nhằm xác định mối tương quan giữa các yếu tố cá nhân và yếu tố học đường có liên quan đến rối loạn trầm cảm và rối loạn lo âu Việc hiểu rõ mối liên hệ này sẽ giúp xác định những yếu tố nguy cơ và hỗ trợ phát triển các biện pháp can thiệp hiệu quả cho học sinh.

3.1.2 Đối tượng và số lượng:

Bài nghiên cứu tổng hợp dữ liệu từ 40 nghiên cứu trên nhóm đối tượng sinh viên y khoa tại Mỹ và Canada

• Thiết kế nghiên cứu: Tổng quan có hệ thống

Chiến lược tìm kiếm trong bài nghiên cứu này tập trung vào việc kết hợp từ khóa “sinh viên” với các từ khóa liên quan như “trầm cảm”, “rối loạn trầm cảm chủ yếu”, “suy kiệt cảm xúc”, “sức khỏe tâm thần” và “sức khỏe tâm lý” Nghiên cứu được thực hiện bằng cách sử dụng ngôn ngữ Tiếng Anh trên các thanh công cụ tìm kiếm, khai thác hai nguồn dữ liệu mạng chính là Medline và các nền tảng khác.

• Tiêu chuẩn nhận vào: các bài nghiên cứu được công bố trong vòng 25 năm trước thời điểm thực hiện nghiên cứu (từ tháng 1 năm 1980 đến tháng 5 năm

Nghiên cứu năm 2005 có tiêu đề phù hợp với đề tài nghiên cứu, chỉ chấp nhận các nghiên cứu tập trung vào nhóm đối tượng sinh viên y khoa và sử dụng các phương pháp thống kê chuẩn hóa.

• Tiêu chuẩn loại trừ: những nghiên cứu tiến hành ngoài khu vực Mỹ hoặc

Nghiên cứu tại Canada đã chỉ ra rằng khả năng mắc trầm cảm ở sinh viên có thể bị ảnh hưởng bởi những sự kiện biến cố quan trọng trong cuộc sống, chẳng hạn như sự mất mát người thân Tuy nhiên, những yếu tố này đã được loại trừ trong các đánh giá để có cái nhìn rõ ràng hơn về tình trạng tâm lý của sinh viên.

3.1.4 Các nhóm biến số chính:

• Biến số phụ thuộc: rối loạn trầm cảm, rối loạn lo âu

Các biến số độc lập như giới tính, tuổi tác, tình trạng hôn nhân, tính cạnh tranh trong môi trường học đường, sự quá tải kiến thức, sự hoài nghi bản thân, mâu thuẫn y đức, vấn đề tài chính, kết quả học tập và các biến cố trong cuộc sống đều có ảnh hưởng đáng kể đến sự phát triển và thành công cá nhân.

3.1.5 Kết quả chính và kết luận của tác giả:

• Tỉ lệ trầm cảm: Tỉ lệ trầm cảm qua 16 nghiên cứu mô tả cắt ngang thay đổi từ

Tỷ lệ trầm cảm ở sinh viên y khoa dao động từ 13% đến 26%, tùy thuộc vào bảng điểm chẩn đoán được sử dụng Các nghiên cứu dọc cho thấy tỷ lệ trầm cảm trong các năm học thay đổi từ 12% đến 28%, nhưng vẫn chưa có sự đồng thuận về giai đoạn nào là nhạy cảm nhất với tình trạng này.

• Các yếu tố liên quan đến trầm cảm:

Mặc dù nữ giới thường được cho là dễ mắc trầm cảm hơn nam giới trong quần thể dân số chung, nhưng các tài liệu về tỉ lệ trầm cảm ở sinh viên y khoa chưa thống nhất điều này Về độ tuổi, không có mối liên hệ có ý nghĩa giữa độ tuổi và tỉ lệ mắc trầm cảm Đặc biệt, hầu hết các nghiên cứu cho thấy tỉ lệ trầm cảm cao hơn ở nhóm chưa lập gia đình so với những người đã kết hôn hoặc đính hôn, và các nghiên cứu dọc cũng chỉ ra rằng sinh viên y khoa sau khi kết hôn có tỉ lệ và mức độ trầm cảm giảm đáng kể với ý nghĩa thống kê.

Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng áp lực học tập, bao gồm quá tải kiến thức, khó khăn tài chính, cạnh tranh cao, hoài nghi bản thân về sự phù hợp với ngành học, cũng như các vấn đề như mâu thuẫn y đức và mất mát bệnh nhân, đều làm gia tăng tỉ lệ trầm cảm ở sinh viên y khoa Những biến cố đau buồn trong cuộc sống, như gia đình mắc bệnh nặng hoặc người thân qua đời, cũng góp phần không nhỏ vào tình trạng này.

Nghiên cứu này tập trung vào việc thu thập dữ liệu từ các nguồn đáng tin cậy bằng các phương pháp phù hợp Tiêu chí tiếp nhận được trình bày rõ ràng và đánh giá tổng quát, đồng thời nêu bật những điểm chung và chỉ ra các điểm mâu thuẫn liên quan đến các yếu tố ảnh hưởng đến trầm cảm.

Nghiên cứu hiện tại chủ yếu được thực hiện tại Mỹ và Canada với quy mô nhỏ, chỉ khảo sát sinh viên trong một năm học, thiếu sự thống nhất về công cụ khảo sát, do đó không thể đưa ra kết luận đại diện cho toàn bộ sinh viên y khoa toàn cầu Bài báo công bố năm 2005 cũng không phản ánh đúng tỷ lệ trầm cảm hiện tại Hơn nữa, nghiên cứu chỉ ghi nhận và mô tả các vấn đề liên quan mà chưa làm rõ nguyên nhân và hậu quả của tình trạng trầm cảm ở sinh viên y khoa, đây là một hạn chế đáng kể.

3.2 Prevalence of Depression, Depressive Symptoms, and Suicidal Ideation

Among Medical Students: A Systematic Review and Meta-Analysis (6)

Xác định tỉ lệ sinh viên y khoa đang mắc trầm cảm thật sự, có triệu chứng của trầm cảm hoặc có ý định tự sát

195 nghiên cứu, bao gồm 167 nghiên cứu cắt ngang và 16 nghiên cứu dọc trên tổng số

129123 sinh viên y khoa ở 47 quốc gia được đưa vào phân tích

• Thiết kế nghiên cứu: Tổng quan hệ thống và phân tích gộp

Hai tác giả (M.A.R và D.A.M) đã tiến hành một chiến lược tìm kiếm hệ thống để xác định các nghiên cứu cắt ngang và cắt dọc liên quan đến tỷ lệ trầm cảm, triệu chứng trầm cảm hoặc ý định tự tử ở sinh viên y khoa, với thời gian nghiên cứu trước ngày 17 tháng 9 năm 2016 Họ đã sử dụng các cơ sở dữ liệu EMBASE, ERIC, MEDLINE, psycARTICLES và psycINFO để thực hiện tìm kiếm Tiêu chí lựa chọn các nghiên cứu bao gồm: (1) Dữ liệu phải báo cáo về sinh viên y khoa, (2) các nghiên cứu phải được công bố trên các tạp chí, và (3) phương pháp xác định tình trạng trầm cảm, triệu chứng trầm cảm hoặc ý tưởng tự tử phải hợp lý.

Ba tác giả (L.S.R., M.T và J.B.S.) đã thực hiện việc trích xuất dữ liệu độc lập từ các bài viết, sử dụng một hình thức chuẩn để đảm bảo tính nhất quán Các thông tin được thu thập bao gồm thiết kế nghiên cứu, vị trí địa lý, năm khảo sát, năm học, cỡ mẫu, độ tuổi trung bình của người tham gia, phương pháp chẩn đoán và sàng lọc, định nghĩa các kết quả (như tiêu chuẩn chẩn đoán và ngưỡng cắt của phương tiện tầm soát), cùng với tần suất mắc trầm cảm, triệu chứng trầm cảm hoặc ý định tự sát Những sinh viên đã được chẩn đoán và điều trị trầm cảm sẽ không được đưa vào nghiên cứu này.

Trong một phân tích gần đây về 20 nghiên cứu trong cùng một nhóm dân số, chỉ những nghiên cứu công bố gần nhất được xem xét Ba tác giả đã độc lập đánh giá nguy cơ sai lệch của các nghiên cứu không ngẫu nhiên bằng cách sử dụng phiên bản sửa đổi của thang điểm Newcastle - Ottawa Các nghiên cứu được phân loại thành hai nhóm: nguy cơ sai lệch thấp (>= 3 điểm) và nguy cơ sai lệch cao (< 3 điểm) Một tác giả thứ tư (D.A.M.) đã tham gia giải quyết những khác biệt thông qua thảo luận và phân xử.

3.2.4 Các nhóm biến số chính:

• Biến số độc lập: o Giới tính o Tuổi o Chuyên ngành: y học nói chung và các chuyên ngành khác o Lớp tiền lâm sàng hay lâm sàng o Môi trường đào tạo

• Biến số phụ thuộc: o Sinh viên y khoa mắc bệnh trầm cảm o Ý định tự sát

3.2.5 Kết quả chính - Kết luận của tác giả:

Theo dữ liệu từ 167 nghiên cứu cắt ngang với tổng số 116.628 người và 16 nghiên cứu dọc với 5.728 người từ 47 quốc gia, tần suất hiện mắc trầm cảm thật sự hoặc có triệu chứng trầm cảm đã được xác định, trong đó chỉ có 1 nghiên cứu tự báo cáo.

Tỷ lệ sinh viên y khoa mắc triệu chứng trầm cảm trong nghiên cứu này đạt 27,2%, cao hơn so với tỷ lệ trong dân số chung Điều này cho thấy cần thiết phải tiến hành các nghiên cứu sâu hơn để xác định các chiến lược ngăn ngừa và điều trị trầm cảm hiệu quả cho nhóm sinh viên này.

MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU

1 Xác định tỉ lệ hiện mắc trầm cảm ở sinh viên y khoa khóa Y2015 trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2019

2 Xác định những yếu tố liên quan đến trầm cảm ở sinh viên y khoa khóa Y2015 trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2019

BIẾN SỐ NGHIÊN CỨU

SỐ ĐỊNH NGHĨA BIẾN SỐ

CÁC GIÁ TRỊ VÀ ĐỊNH NGHĨA

Biến số về đặc điểm cá nhân

Tuổi Độ tuổi của đối tượng được khảo sát

Biến số định tính thứ tự

Lớn hơn 22 tuổi: sinh trước năm

Giới tính của đối tượng khảo sát

Tình trạng hôn nhân của bản thân

Tình trạng hôn nhân của đối tượng khảo sát

Biến số danh định Độc thân: chưa từng kết hôn hoặc đã đính hôn

Kết hôn: đã có vợ hoặc chồng hợp pháp

Ly hôn: sau khi kết thúc hôn nhân

Tổng thu nhập của các thành viên trong gia đình

Biến số định tính thứ tự

Giàu: trên 100 triệu/tháng Khá: trên 30 triệu/tháng Trung bình: trên 10 triệu/tháng Nghèo: dưới 10 triệu/tháng

Những người sống chung hiện tại

Sống chung với gia đình: sống cùng với người thân ruột thịt

Không sống chung với gia đình: sống một mình hoặc sống cùng với người

27 khác không phải ruột thịt

Nghề nghiệp hiện tại của cha mẹ

Trong ngành y: cha mẹ là nhân viên y tế

Ngoài ngành y: cha mẹ không phải là nhân viên y tế

Biến số liên quan đến môi trường y khoa

Xếp loại học lực của đối tượng nghiên cứu trong năm học 2017-

Biến số định tính thứ tự

Giỏi: trung bình môn ≥ 8.0 Khá: 7.0 ≤ trung bình môn < 8.0

Trung bình-Khá: 6.0 ≤ trung bình môn < 7.0

Trung bình: 5.0 ≤ trung bình môn <

Yếu: trung bình môn < 5.0 Lưu ban: Nợ hơn 27 đơn vị học phần

Cảm xúc khi đối mặt với nỗi đau và cái chết

Cảm xúc của đối tượng khảo sát khi đối mặt với nỗi đau và cái chết của người bệnh (tình huống không thể tránh khỏi trên lâm sàng)

Biến số danh định Ám ảnh: lúc nào cũng nghĩ về hình ảnh đó và sợ hãi khi phải đối diện với nó một lần nữa

Buồn bã: chỉ cảm thấy buồn ở thời điểm đó nhưng không sợ hãi khi phải đối diện với nó một lần nữa

Bình thường: không suy nghĩ gì nhiều về hình ảnh đó

Mức độ quan tâm và sức ảnh hưởng của nhiệm sở lên

Biến số định tính thứ tự Điểm 0: ít nghĩ về vấn đề nhiệm sở Điểm 1: thỉnh thoảng nghĩ về vấn đề nhiệm sở

Trong một cuộc khảo sát, 28% đối tượng cho biết họ thường xuyên nghĩ về nhiệm sở mà không cảm thấy lo lắng, trong khi 32% thường xuyên nghĩ về nhiệm sở và cảm thấy rất lo lắng Những kết quả này có thể cung cấp thông tin quý giá cho các ứng dụng lâm sàng, giúp hiểu rõ hơn về tâm lý làm việc của nhân viên.

Khả năng áp dụng lý thuyết vào thực hành lâm sàng của đối tượng khảo sát

Biến số định tính thứ tự được phân loại theo mức độ áp dụng lý thuyết vào thực hành lâm sàng Cụ thể, điểm 0 cho thấy lý thuyết gần như không áp dụng được, điểm 1 cho thấy có thể áp dụng một phần lý thuyết, trong khi điểm 2 cho thấy hầu hết lý thuyết có thể được áp dụng vào thực hành lâm sàng.

Ngày đăng: 05/12/2021, 23:48

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Ferrari AJ, Charlson FJ, Norman RE, Patten SB, Freedman G, Murray CJ, et al. Burden of depressive disorders by country, sex, age, and year: findings from the global burden of disease study 2010. PLoS Med. 2013;10(11):e1001547 Khác
2. Disease GBD, Injury I, Prevalence C. Global, regional, and national incidence, prevalence, and years lived with disability for 310 diseases and injuries, 1990-2015: a systematic analysis for the Global Burden of Disease Study 2015. Lancet.2016;388(10053):1545-602 Khác
3. Organization WH. Depression and other common mental disorders: global health estimates. Geneva, Switzerland: The WHO Document Production Services;2017 Khác
4. Akiko K, Trinh HN, Mitch J, Jazmine H, Mu P, Kai S, et al. Perceptions of mental and mental health services among college students in Vietnam and the United States. Asian Journal of Psychiatry. 2018;37:15-9 Khác
5. Nguyen Thai QC, Nguyen TH. Mental health literacy: knowledge of depression among undergraduate students in Hanoi, Vietnam. Int J Ment Health Syst.2018;12:19 Khác
6. Rotenstein LS, Ramos MA, Torre M, Segal JB, Peluso MJ, Guille C, et al. Prevalence of Depression, Depressive Symptoms, and Suicidal Ideation Among Medical Students: A Systematic Review and Meta-Analysis. JAMA Khác
8. Amy MF, Theodore C, Laura K, Daniel L. Rates of medication errors among depressed and burnt out residents: prospective cohort study. BMJ. 2008;2:15-20 Khác
9. Taylor C, Graham J, Potts H, Candy J, Richards M, Ramirez A. Impact of hospital consultants' poor mental health on patient care. Br J Psychiatry.2007;190:268-9 Khác
10. S. F, Nicola J, Taveeshi G, Thủy ĐB. Sức khỏe tâm thần và tâm lý xã hội của trẻ em và thanh niên tại một số tỉnh và thành phố ở Việt Nam. Unicef VN. 2017 Khác
11. Nguyen TTT, Nguyen NTM, Pham MV, Pham HV. The four-domain structure model of a depression scale for medical students: A cross-sectional study inHaiphong, Vietnam. PLoS Med. 2018;10 Khác
12. Gilbody S, Sheldon T, House A. Screening and case-finding instruments for depression: a meta-analysis. CMAJ. 2008;178(8):997-1003 Khác
13. Siu AL, Force USPST, Bibbins-Domingo K, Grossman DC, Baumann LC, Davidson KW, et al. Screening for Depression in Adults: US Preventive Services Task Force Recommendation Statement. JAMA. 2016;315(4):380-7 Khác
14. Kroenke K, Spitzer RL, Williams JB. The PHQ-9: validity of a brief depression severity measure. J Gen Intern Med. 2001;16(9):606-13 Khác
15. O'Connor E, Rossom RC, Henninger M, Groom HC, Burda BU, Henderson JT, et al. Screening for Depression in Adults: An Updated Systematic Evidence Review for the US Preventive Services Task Force. U.S. Preventive Services Task Force Evidence Syntheses, formerly Systematic Evidence Reviews. Rockville (MD)2016 Khác
16. Dyrbye LN, Thomas MR, Shanafelt TD. Systematic review of depression, anxiety, and other indicators of psychological distress among U.S. and Canadian medical students. Acad Med. 2006;81(4):354-73 Khác

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Bảng 1. Các bảng điểm tự lượng giá giúp tầm soát trầm cảm  ở nhóm đối tượng người - ĐỀ CƯƠNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC XÁC ĐỊNH TỈ LỆ TRẦM CẢM VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN TRẦM CẢM Ở SINH VIÊN Y KHOA TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y KHOA PHẠM NGỌC THẠCH NĂM 2019
Bảng 1. Các bảng điểm tự lượng giá giúp tầm soát trầm cảm ở nhóm đối tượng người (Trang 14)
Bảng 2. Độ nhạy, độ đặc hiệu và tỉ số khả dĩ của bảng điểm PHQ-9 trong tầm soát - ĐỀ CƯƠNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC XÁC ĐỊNH TỈ LỆ TRẦM CẢM VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN TRẦM CẢM Ở SINH VIÊN Y KHOA TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y KHOA PHẠM NGỌC THẠCH NĂM 2019
Bảng 2. Độ nhạy, độ đặc hiệu và tỉ số khả dĩ của bảng điểm PHQ-9 trong tầm soát (Trang 17)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w