Dùng thuốc y học cổ truyền để điều trị sỏi thận đã được bắt đầu chú ý nghiên cứu từ cuối những năm 1970. Kim tiền thảo - Desmodium styracifolium (Osb.) Merr., họ Đậu (Fabaceae) - là loại dược liệu rất công hiệu để chữa các bệnh về sỏi tiết niệu. Ở Việt Nam cây Kim tiền thảo mọc hoang dại khắp các vùng đồi núi ở nước ta như Hòa Bình, Bắc Giang, Hà Nội, Lạng Sơn, Ninh Bình, Quảng Ngãi…được thu hái vào mùa hạ, mùa thu, có thể dùng tươi hay phơi khô. [9] Theo kinh nghiệm dân gian và y học cổ truyền, Kim tiền thảo là nguồn dược liệu quan trọng dùng để chữa các bệnh về thận, sỏi thận, sỏi túi mật, bàng quang, phù thũng, đái buốt, khó tiêu, thanh nhiệt, tiêu sạn, giải độc, tiêu viêm, trị các chứng nhiệt, ung nhọt, hoàng đản…Tại Việt Nam, Kim tiền thảo đã được nghiên cứu tính kháng khuẩn từ năm 1975, đưa vào Dược liệu Việt Nam từ năm 1978 và có trong Dược điển Việt Nam III xuất bản 2002. Một số công trình nghiên cứu cho thấy thành phần hóa học của Kim tiền thảo có chứa flavonoid, alkaloid, triterpenoid,… Thử nghiệm độc tính trên chuột nhắt có liều tương đương với 333 lần liều lâm sàng đã cho thấy Kim tiền thảo hầu như không có độc tính. Kết quả nghiên cứu lâm sàng cho thấy Kim tiền thảo có hiệu lực điều trị tốt đối với sỏi có gốc Calcium. [8] Xuất phát từ thực tế trên chúng em đã chọn đề tài “ Tổng quan về cây Kim tiền thảo Desmodium styracifolium (Osbeck) Merr.” để tìm hiểu mối quan hệ giữa thành phần hóa học của cây với công dụng dược tính đã được sử dụng làm ra các chế phẩm thông dụng trên thị trường hiện nay. Tổng quan được thực hiện với các mục tiêu cụ thể như sau: - Tổng quan về thực vật học - Tổng quan về thành phần hóa học - Tổng quan về tác dụng dược lý - Phương pháp chiết xuất - Kiểm nghiệm
TỔNG QUAN VỀ THỰC VẬT HỌC
Vị trí trong phân loại thực vật
Theo hệ thống phân loại của Bentham and Hooker’s, vị trí của Desmodium styracifolium (Osb.) Merr được xếp như sau:
Phân giới thực vật bậc cao
Ngành Thực vật có hoa (Magnoliophyta)
Phân lớp Hai lá mầm (Magnoliophyta)
Họ Đậu (Fabaceae) Chi Thóc lép (Desmodium)
Loài Desmodium styracifolium (Osb.) Merr.[17]
Dạng sống của cây có thể là thân gỗ lớn hoặc nhỏ, dây leo với thân quấn hoặc vòi cuốn, hoặc là cỏ sống một năm hay nhiều năm Hầu hết các thân non đều có lông.
Rễ: Có nốt rễ chứa vi khuẩn cộng sinh, có khả năng cố định nitơ trong không khí, có khi biến thành củ
Lá cây có thể mọc theo cách khác nhau, thường là lá kép hình lông chim với 1-2 lần phân nhánh, có thể là số chẵn hoặc lẻ Đôi khi, lá kép sẽ giảm xuống còn 3 lá chét hoặc thu hẹp thành vòi cuốn Trong một số trường hợp, cây có thể không có lá.
Cụm hoa thường là chùm ở ngọn cành hay nách lá
Hoa có cấu trúc đối xứng hai bên với cánh hoa lớn hình cờ, phủ lên hai cánh bên Tràng hoa hình ống, gồm 10 nhị, trong đó 9 nhị dính lại với nhau, còn một nhị tự do Noãn có hình dạng cong giống móng ngựa và chân ngắn.
Quả: Đậu nhưng đôi khi không mở mà phân đốt, đứt khúc thành từng đoạn có 1 hạt ở bên trong
Thế giới có 500 chi, 20.000 loài Phân bố ở toàn cầu
Việt Nam có 90 chi, trên 450 loài
Họ được phân loại thành 10 - 11 tông dựa trên các tiêu chí như dạng sống, hình dáng lá và mức độ dính của nhị, bao gồm các tông Sophoreae, Podalyrieae, Genisteae, Trifolieae, Loteae, Galegeae, Hedysareae, Vicieae, Phaseoleae và Dalbergieae Một số tông còn gộp chung với 3 họ khác là Mimosaceae.
Caesalpiniaceae và Fabaceae thành một họ Leguminosae có quan hệ với Hoa hồng qua họ Vang
Giá trị kinh tế: Nguồn cây làm rau quan trọng, cây làm thuốc, cây làm thức ăn gia súc, cây làm cảnh và cây cải tạo đất.[15]
Chi Thóc Lép hay còn là Chi Tràng (danh pháp khoa học: Desmodium)
Dạng sống: Thân cỏ, mọc bò Thân hình trụ, màu xanh hơi vàng, phủ đầy lông mịn màu vàng hoe
Lá của cây mọc so le, có dạng đơn hay kép với 1-3 lá chét, trong đó lá chét giữa lớn hơn hai lá bên Cuống lá dài từ 2-4 cm, hình trụ và phủ đầy lông trắng Hai lá kèm có hình mũi mác, dài 6-9 mm và rộng 2-3 mm, với nhiều gân dọc và lông trắng mịn Lá chét có phiến hình tròn hoặc hơi xoan, đường kính từ 2-4 cm, ít khi đạt 5 cm, mép nguyên, đỉnh tròn hoặc tù, và đáy hình tim Mặt trên của lá nhẵn, màu vàng hoặc lục xám, trong khi mặt dưới có lớp lông mịn màu trắng, với gân lá kiểu lông chim nổi rõ và 8-10 đôi gân phụ Cuống lá dài 1-2 mm và cũng phủ đầy lông trắng mịn Hai lá chét bên có phiến không đều nhau ở gốc, một bên lớn hơn bên còn lại.
Hoa có kích thước nhỏ, không đồng đều và lưỡng tính, với mẫu 5 Hai cuống hoa của xim hướng ra hai bên và xụ xuống trên quả Cánh hoa có 5 chiếc, màu tím hồng, nhẵn, nhiều gân dọc và không đồng nhất, tạo nên vẻ đẹp độc đáo.
Quả: Quả loại đậu xụ xuống, mang đài tồn tại ở gốc, dẹp, dài 1,5-2 cm, ngang 3-4 mm, nhiều lông trắng mịn, chia thành 2-6 đốt, hiếm khi 1.[3]
Tên Khoa học: Desmodium styracifolium (Osbeck) Merr
Tên tiếng Việt: Đậu vảy rồng; Mắt rồng; Mắt trâu; Kim tiền thảo; Đuôi chồn quả cong
Tên khác : Hedysarum styracifolium Osbeck; Uraria styracifolia (Osbeck) Wight &
Arn.; Hedysarum retroflexum L.; Desmodium retroflexum (L.) DC.; Uraria retroflexa (L.) Drake; Hedysarum capitatum Burm.f.; Desmodium capitatum
(Burm.f.) DC.; Meibomia capitata (Burm.f.) Kuntze.[15]
Tổng quan về thực vật
Dạng sống: Kim tiền thảo là dược liệu dạng thân thảo, sống lâu năm, thân bò sát dưới mặt đất, dài khoảng 1 m
Lá: Lá cây mọc so le gồm 1 – 3 chét, rộng 2 – 4 cm, chiều dài khoảng 2,5 – 4,5 cm
Chét giữa của lá có hình dạng giống mắt chim, trong khi các lá bên có hình bầu dục Mặt trên của lá có màu xanh lục, trong khi mặt dưới được phủ lông trắng bạc, tạo cảm giác mềm mại khi chạm vào.
Hoa: Hoa Kim tiền thảo mọc thành chùm, thường mọc ở nách lá Tràng hoa hình bướm, màu tía Hoa màu hồng, mỗi chùm có 2 – 3 hoa ( Xem hình 1.1.A)
Quả: Quả loại đậu, chiều dài khoảng 14 – 16 mm, bên trong có 4 – 5 hạt nhỏ (Xem hình 1.1.B)[7][13]
Hình 1.1 Hoa, lá và quả cây Kim Tiền Thảo
A Hoa Kim tiền thảo B Lá, quả Kim tiền thảo C Toàn cây Kim tiền thảo
Lá cây có cấu trúc đặc biệt với gân lồi ở mặt dưới, trong đó tế bào biểu bì của gân chính nhỏ hơn so với tế bào ở phiến lá Mặt trên của phiến lá nhẵn, trong khi mặt dưới có nhiều lông che chở và lông tiết Lông che chở đa bào dài với chân ngắn, trong khi lông đơn bào ngắn và cong hình móc câu Lông tiết đa bào có chân phình to và đầu thon nhỏ Mô mềm giậu và mô mềm hai bên phiến lá lấn sâu vào gân lá, cùng với lớp mô dày góc nằm sát biểu bì Đám mô cứng nhỏ hình tròn bao bọc bó libe-gỗ phụ, trong khi bó libe-gỗ chính hình cung với vòng mô cứng phát triển thành sợi.
Vi phẫu lá Kim tiền thảo có thân với tiết diện gần như tròn, biểu bì được cấu tạo từ các tế bào nhỏ mang lông che chở và lông tiết Mô dày phiến gồm 2-3 lớp tế bào, trong khi mô mềm vỏ đặc có các khoảng gian bào và thành hơi nhăn Gần vùng mô cứng thường chứa tinh thể calci oxalat hình khối lập phương Mô cứng hoá sợi tạo thành lớp phủ lên bó libe Bó libe và gỗ gồm hai loại libe: Libe I với tế bào nhỏ, thành mỏng, xếp lộn xộn và Libe II gần như liên tục với tế bào xếp đồng tâm, cùng với các bó gỗ II và gỗ I xen kẽ.
Tầng sinh libe của gỗ thể hiện sự liên tục, với mô mềm tuỷ rộng được cấu tạo từ các tế bào hình đa diện Trong mô này, có sự hiện diện của các tinh thể calci oxalat hình khối lăng trụ, tạo nên đặc điểm nổi bật cho cấu trúc gỗ Những tinh thể này nằm cạnh các phần được nhuộm màu xanh với thuốc nhuộm carmin-lục iod, góp phần làm nổi bật tính chất của gỗ.
F Tinh thể canxi oxalat hình lặng trụ
4 Tế bào nhu mô vỏ
10 Tinh thể canxi oxalat hình lăng trụ.
Bột Thân Kim tiền thảo có màu lục nhạt, mùi thơm và vị ngọt nhạt Qua kính hiển vi, có thể quan sát thấy lông che chở đa bào với chân ngắn 1-2 tế bào và phần trên dài, đầu nhọn Ngoài ra, còn có lông che chở đơn bào ngắn với đầu nhọn hoặc móc hình câu Lông tiết đa bào có chân phình to, gồm 2 hàng tế bào với chất tiết màu vàng, phần trên thuôn dài và đầu tù Mảnh biểu bì mang lông che chở và lỗ chân lông bị gãy có hình tròn, trong khi lỗ khí kiểu song bào thường nằm rời Mảnh biểu bì dưới lá chứa nhiều lông che chở, và mảnh biểu bì thân gồm tế bào dài, thành mỏng với vết sắc tố màu nâu, vàng rải rác.
7 nâu Thỉnh thoảng có tế bào mô cứng có vách dày Nhiều bó sợi bị tưa ra Mảnh mạch vạch, mạch xoắn, mạch điểm.[7]
Sinh thái và phân bố
Mọc hoang ở các vùng đồi núi trung du ở nước ta, độ cao dưới 600 m so với mực nước biển
Thích hợp với khí hậu nóng ẩm hoặc ấm mát, cây phát triển tốt trên đất ít chua, có độ ẩm và khả năng thoát nước tốt, nhưng vẫn chịu được điều kiện đất chua, nghèo và khô hạn Cây ưa sáng nhưng cũng có khả năng chịu bóng râm, sống lâu năm và có khả năng tái sinh mạnh mẽ từ hạt, chồi gốc, chồi thân và chồi cành.
Kim tiền thảo phân bố chủ yếu ở khu vực Đông Nam Á, mọc hoang ở vùng núi trung du có độ cao dưới 1000 m
Tại Việt Nam, loài này được tìm thấy ở vùng đồi núi như Hà Nội, Lào Cai, Yên Bái, Lạng Sơn, Ninh Bình,…[7]
1.3.3 Trồng trọt Điều kiện gây trồng:
Không trồng ở vùng giá rét, đất ngập úng, bí chặt, đất kiềm mặn hoặc dưới bóng che rậm rạp quanh năm
Có thể trồng bằng hom thân hoặc cành nhưng tốt nhất là bằng gieo hạt thẳng vì hạt giống sẵn và đỡ tốn công hơn
Vào tháng 4-5 khi quả chín vỏ có màu nâu thì thu hái phơi khô đập mạnh để tách vỏ, sàng sẩy kỹ loại hết tạp chất thu lấy hạt
Phơi khô hạt dưới ánh nắng nhẹ, sau đó cho vào túi ni lông buộc kín để bảo quản ở nơi khô ráo và thông thoáng Lưu ý chống kiến, vì hạt có mùi thơm hấp dẫn.
Gây trồng và chăm sóc:
Có thể trồng cây theo hàng dưới tán rừng thưa trong các vườn quả hoặc lấp đầy các khoảng trống, đặc biệt là khi cây chưa khép tán, nhằm kết hợp che phủ đất Phương pháp này rất hiệu quả ở những khu vực đất dốc.
8 trồng xen thành băng xanh ngang dốc giữa các băng cây chính để kết hợp hạn chế dòng chảy mặt, chống xói mòn và giữ đất
Thời vụ trồng thích hợp vào vụ xuân hay đầu mùa mưa khi đất đủ ẩm
Mật độ trồng lý tưởng cho cây là từ 10.000 đến 15.000 cây/ha, với khoảng cách 1 x 1m hoặc 0,8 x 0,8m Để chuẩn bị đất, cần thực hiện làm đất toàn diện bằng cách cuốc hoặc cày theo rạch sâu và rộng từ 5-10 cm Đối với những vùng đất kém, nên bón lót từ 1 đến 1,5 tấn phân hữu cơ vi sinh theo rạch cho mỗi hecta trước khi gieo hạt.
Ngâm hạt giống trong nước ấm từ 40-50 độ C trong 4-5 giờ, sau đó vớt ra để ráo nước Tiếp theo, trộn hạt với cát hoặc đất mịn khô và gieo thẳng theo rạch, lấp đất kín hạt với độ dày 2-3 cm Cuối cùng, phủ một lớp rơm rạ đã khử trùng lên rạch sau khi gieo, với tỷ lệ gieo 1 kg hạt cho 1 ha đất.
Theo dõi khi hạt nảy mầm thì dỡ bỏ vật che phủ, chú ý phòng trừ kiến tha hạt và sâu dế cắn mầm
Khi cây được 3-4 lá thì bắt đầu tỉa dặm cây, điều tiết mật độ ổn định Cây được 5-10 lá nhổ cỏ xới đất vun gốc cho cây
1.3.4 Thu hoạch và chế biến
Thu hái 1-2 lần mỗi năm vào vụ hè và vụ thu, cắt toàn bộ thân cành và lá trên mặt đất, chỉ để lại phần thân sát gốc dài 4-5 cm nhằm tái sinh chồi cho các vụ sau.
Sau khi thu hoạch, hãy phơi thật khô sản phẩm và cho vào bao tải hoặc bao ni lông Để đảm bảo chất lượng, hãy giữ sản phẩm ở nơi khô ráo và thoáng mát trước khi bán cho cơ sở thu mua dược liệu.
Bộ phận dùng
Toàn thân cây Kim tiền thảo đều có thể dùng làm thuốc.Thân, cành mang lá đã phơi khô của cây Kim tiền thảo.[16]
TỔNG QUAN VỀ THÀNH PHẦN HÓA HỌC
Flavonoid
Các công thức cấu tạo của Flavonoid có trong Kim tiền thảo (Xem hình 2.4)
Hình 2.4 Các công thức cấu tạo của Flavonoid
Năm 2010, Minh Giang Phan cùng các cộng sự đã tiến hành nghiên cứu về các hợp chất flavonoid có trong D styracifolium Nghiên cứu này tập trung vào hóa học của các bộ phận của D styracifolium có nguồn gốc từ Việt Nam, phát hiện ra các chất như 2-isoflavon và homoferreirin.
(1) và 5,7-dihydroxy-2’,3’,4’-trimethoxyisoflavanone (2), 2-isoflavones, panchovillin (3) và genistein (4), 6-flavonoid C-glucosides, isoorientin (5), isoschaftoside (6), schaftoside (7), isovitexin (8), isoorientin 3’-O-methyl ether
(12), orientin (13), 5-flavonoid O-glucosides, genistin (9), ambonin (10), quercetin 3-O-β-D-glucopyranoside (14), astragalin (15), genistein 7-O-β-D-apiofuranosyl- (1- 6)-O-β-D-glucopyranoside (16), và một amide, desmodilactone (11), đã được phân lập (Xem hình 2.5) [24]
Hình 2.5 Các hợp chất Flavonoid từ D Styracifolium
In 2007, Ming Zhao and colleagues conducted a study on isoflavanones and O-glycosides derived from D styracifolium, identifying several key compounds Compound 1 was characterized as 5,7-dihydroxy-2’,3’,4’-trimethoxy-isoflavanone, while Compound 2 was identified as 5,7-dihydroxy-2’-methoxy-3’,4’-methylenedioxy-isoflavanone Additionally, Compound 3 was found to be 5,7-dihydroxy-2’,3’,4’-trimethoxy-isoflavanone 7-O-β-glucopyranoside, and Compound 4 was 5,7-dihydroxy-2’-methoxy-3’,4’-methylenedioxy-isoflavanone 7-O-β-lucopyranoside Compound 5 was noted as 5,7-dihydroxy-2’,4’-dimethoxy-isoflavanone 7-O-β-glucopyranoside, while Compound 6 was characterized as 5,7,4’-trihydroxy-2’,3’-dimethoxy-isoflavanone 7-O-β-glucopyranoside Lastly, Compound 7 was identified as 3,5,7,4’-tetrahydroxy-coumaronochromone.
Hình 2.6 Cấu trúc hóa học của 1 – 7
Alkaloid
Hình 2.7 Công thức cấu tạo các alkaloid trong D Styracifolium
Terpenoids
Soyasaponin I và các triterpenoid khác có khả năng ức chế sự hình thành sỏi canxi oxalat ở thận Nghiên cứu trên chuột cống trắng cho thấy cao Kim tiền thảo không chỉ ngăn chặn sự phát triển của sỏi canxi oxalat mà còn làm tăng lượng nước tiểu bài tiết Điều này cho thấy Kim tiền thảo có thể giúp làm tan sỏi và duy trì mức canxi ổn định trong cơ thể, đồng thời pha loãng nước tiểu, từ đó ngăn ngừa sự gia tăng kích thước của viên sỏi.
Kim tiền thảo chứa các hợp chất lupenone và lupeol, có tác dụng chống viêm, chống co thắt và kháng khuẩn Những hoạt chất này giúp giảm phù nề niệu quản, tạo điều kiện cho viên sỏi di chuyển và được đào thải qua đường nước tiểu, từ đó giảm triệu chứng đau buốt khi tiểu và tình trạng tiểu nhiều lần.
Năm 1989, Tomoko Kubo và các cộng sự đã tiến hành nghiên cứu về các thành phần của D styracifolium, phát hiện ra hai saponin triterpenoid (1 và 2) được phân lập từ loài này Nghiên cứu chỉ ra rằng cấu trúc hóa học đặc trưng của chúng bao gồm Soyasaponin I và một saponin mới có tên 3-O-[α-L-rhamnopyranosyl-(1→2)-β-D-galactopyranosyl-(1].
→ 2) -β-D-glucuronopyranosyl] Soyasapogenol E, tương ứng, bằng phương pháp hóa học và quang phổ (Xem hình 2.9) [26]
1 -glc UA 2 gal 2 rha H 2 -glc UA 2 gal 2 rha
3 -H H 13 -glc UA Me 2 gal 2 rha
4 -glc UA Me 2 gal 2 rha H 14 -H
Hình 2.9 Công thức cấu tạo 2 saponin triterpenoid
TỔNG QUAN VỀ TÁC DỤNG DƯỢC LÝ
Tác dụng trị sỏi thận
Desmodium styracifolium (D styracifolium) được coi là một loại thảo dược Trung
Nghiên cứu của Jianfu Zhou và cộng sự vào năm 2018 đã chỉ ra rằng tổng số flavonoid của D styracifolium (TFDS) có khả năng làm giảm sự hình thành sỏi thận canxi oxalat (CaOx) ở chuột Sprague Dawley Kết quả cho thấy TFDS giảm đáng kể tinh thể CaOx trong mô thận và giảm bài tiết oxalate trong nước tiểu, cải thiện chức năng thận và giảm tổn thương tế bào biểu mô thận TFDS cũng giúp bảo vệ thận khỏi stress oxy hóa bằng cách giảm hàm lượng MDA và tăng cường hoạt động của các enzyme chống oxy hóa như CAT và GSH-Px Những phát hiện này cho thấy TFDS có tác dụng tích cực trong việc ức chế hình thành sỏi thận thông qua cơ chế chống oxy hóa, chống viêm và kiềm hóa nước tiểu, mở ra tiềm năng sử dụng TFDS như một liệu pháp mới trong điều trị sỏi thận.
Sỏi tiết niệu là một rối loạn phổ biến toàn cầu, đặc trưng bởi sự đa dạng sinh học trong đường tiết niệu với tỷ lệ lưu hành và tái phát cao Calcium oxalate (CaOx) là thành phần chính của sỏi tiết niệu, và nồng độ ure niệu cao là một trong những yếu tố rủi ro hàng đầu gây ra sỏi thận CaOx Ngoài ra, D styracifolium được sử dụng rộng rãi trong điều trị tình trạng này.
D styracifolium có tính thanh nhiệt và lợi tiểu, đã được sử dụng trong y học cổ truyền Trung Quốc để điều trị sỏi tiết niệu và các bệnh lý khác Nghiên cứu in vivo cho thấy dịch chiết D styracifolium ức chế sự hình thành sỏi CaOx bằng cách tăng bài tiết citrat trong nước tiểu và giảm lượng canxi niệu, đồng thời có tác dụng chống oxy hóa Tiếp xúc với các tinh thể oxalate ở tế bào thận tạo ra ROS, gây stress oxy hóa và tổn thương tế bào thận, làm nặng thêm sự lắng đọng của tinh thể CaOx Các đại phân tử như angiotensin II, TGF-β, MCP-1 và OPN đã được xác định là có vai trò trong quá trình này Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng liệu pháp chống oxy hóa có thể giảm thiểu tổn thương do oxalate và tinh thể CaOx ở thận, mở ra tiềm năng lớn cho việc ứng dụng các chất chống oxy hóa trong điều trị và ngăn ngừa sự hình thành sỏi thận.
Trong nghiên cứu này, cho thấy tác dụng các flavonoid của D styracifolium làm suy giảm sự hình thành Hydroxy-l-proline canxi oxalate gây ra sỏi tiết niệu ở chuột [21]
Tác dụng trên hệ tim mạch
Nghiên cứu về dược lý tim mạch của dịch chiết nước D styracifolium và Clematis chinensis (CCE) đã được thực hiện trên chuột cả in vivo và in vitro D styracifolium cho thấy hai cơ chế hạ huyết áp: đầu tiên là thông qua bão hòa thụ thể cholinergic, sau đó được tăng cường bởi sự phong tỏa của hạch tự trị và α-adrenoceptor Ngược lại, CCE chỉ tạo ra phản ứng hạ huyết áp thông qua hoạt động histaminergic Cả hai chiết xuất đều có khả năng thư giãn mạch máu đuôi xoắn ốc methoxamine Ngoài ra, CCE còn tạo ra hiệu ứng chronotropic âm tính và inotropic đối với tâm nhĩ bị cô lập.
D styracifolium là chronotropic dương mà không có tác dụng rõ ràng đối với lực co bóp [20]
Tác dụng ức chế alcohol dehydrogenase (ADH)
Alcohol dehydrogenase (ADH) là enzyme chịu trách nhiệm oxy hóa rượu bằng cách sử dụng nicotinamide adenin dinucleotid (NAD+), và trong cơ thể người, ADH cũng tham gia vào quá trình chuyển hóa methanol và ethylene glycol thành aldehyd và axit glycolic Sự hiện diện của formaldehyd và axit glycolic có thể gây hại cho sức khỏe con người Do đó, thuốc ức chế ADH có thể được sử dụng để điều trị ngộ độc methanol và ethylene glycol, cũng như ngăn chặn sự tích lũy acetaldehyd ở người nghiện rượu D styracifolium (Osb.) Merr được biết đến với khả năng thanh nhiệt và lợi tiểu tại Trung Quốc, đồng thời là một phương thuốc quan trọng trong điều trị sỏi thận và bệnh mạch máu não Nghiên cứu cho thấy chiết xuất ethyl acetate của D styracifolium có khả năng ức chế hoạt động của ADH.
Nghiên cứu của Liangliang Liu và cộng sự vào năm 2015 đã chỉ ra tác dụng ức chế của dịch chiết Kim tiền thảo (D styracifolium) đối với enzym alcohol dehydrogenase (ADH), enzym quan trọng trong chuyển hóa ethanol, methanol và ethylene glycol Phương pháp ly tâm siêu lọc kết hợp với HPLC – MS đã được sử dụng để xác định các chất ức chế ADH từ D styracifolium, với các điều kiện thí nghiệm được tối ưu hóa như nồng độ enzyme, thời gian ủ, pH và nhiệt độ Hai chất ức chế ADH đã được xác định dưới các điều kiện tối ưu, cho thấy phương pháp này có khả năng sàng lọc và phân tích ức chế ADH mà không cần tinh chế mẫu tự nhiên.
Trị đường mật viêm không do vi khuẩn
Tác giả Lý Gia Trân đã nghiên cứu 52 ca bệnh viêm đường mật không do vi khuẩn, có triệu chứng sốt nhẹ và đặc trưng Bệnh nhân được điều trị bằng Kim tiền thảo, uống 30g mỗi ngày, có thể chia thành nhiều lần trong ngày hoặc giảm xuống 20g hoặc 10g Liệu trình kéo dài 30 ngày và sau 2-3 tháng điều trị, tỷ lệ hiệu quả đạt 76,9%.
Công dụng trong y học cổ truyền
Vị ngọt, mặn, tính hơi hàn Quy vào các kinh can, đởm, thận, bàng quang
+ Thanh nhiệt, lợi thủy, tiêu sạn, giải độc, tiêu viêm
+ Lợi thủy, thông lâm, tiêu tích tụ
+ “Có thể dùng độc vị Kim tiền thảo sắc uống thay nước trà để tống sỏi ra”
+ Trị các chứng nhiệt lâm, thạch lâm, sỏi mật, phù thủng, hoàng đản, ung nhọt do nhiệt độc
+ Trị gan mật kết sỏi, sỏi thận, tiểu buốt, hoàng đản
Ngày dùng từ 15 g đến 30 g Dạng thuốc sắc, thường phối hợp với một số vị thuốc khác [4]
Một số bài thuốc và chế phẩm từ Kim tiền thảo
3.6.1 Một số bài thuốc từ kim tiền thảo
Để sử dụng bài thuốc từ thiên nhiên, bạn cần chuẩn bị các nguyên liệu sau: Kim tiền thảo 20 g, Rau má tươi 20 g, Nghệ vàng 8 g, Cỏ xước 20 g, Hoạt thạch, Vảy tê tê, Củ gấu đều 12 g, Mề gà 6 g, Hải tảo 8 g Hãy đun sôi 500 ml nước và sắc cho đến khi còn lại 200 ml Nước thuốc này nên được uống một lần lúc đói, hoặc bạn có thể chia thành 2 lần uống trong ngày để đạt hiệu quả tốt nhất.
Gom 40 g Kim tiền thảo, 20 g Mã đề, 20 g Tỳ giải, 12 g Trạch tả, 12 g Uất kim, 12 g Ngưu tất, 8 g Kê nội kim (màng trong mề con gà) thành một thang sắc nước uống Mỗi ngày dùng một thang
Dùng Kim tiền thảo 50 g (nếu dùng tươi thì 100 g) sắc uống Theo nhiều nghiên cứu thì sau 1 – 3 tháng thuốc, búi trĩ sẽ hết sưng và đau
Bài thuốc có tác dụng cho cả trĩ nội và trĩ ngoại
Chữa viêm thận, phù, viêm gan, viêm túi mật
Kim tiền thảo 40 g; Mộc thông, Ngưu tất mỗi vị 20 g; Dành dành, chút chít, mỗi vị
10 g Mang các vị thuốc trên sắc thành uống, dùng uống mỗi ngày một thang
Sử dụng kim tiền thảo tươi, rửa sạch và giã nát, sau đó đắp lên tuyến mang tai bị viêm do quai bị Chỉ sau 12 giờ, vùng da bị bệnh sẽ giảm sưng và hết đau.
Chữa bỏng Để điều trị các vết bỏng, dùng Kim tiền thảo tươi, rửa sạch, giã nát đắp trực tiếp lên vùng da tổn thương
Bài thuốc có tác dụng với bỏng độ 2 và độ 3
Chữa tiểu buốt kèm táo bón
Kim tiền thảo 30 g; Xa tiền tử 15 g; Ngưu tất 12 g; Ô dược 10 g; Thanh bì 10 g; Đào nhân 10 g
Dùng các dược liệu trên sắc thành thuốc uống, mỗi ngày một thang
Chữa tiểu ít, tiểu buốt, tiểu ra máu
Kim tiền thảo 30 g; Xa tiền tử 20g; Tỳ giải 20 g; Hoạt thạch 20 g; Đan sâm 9 g; Thục địa 10 g; Tục đoạn 9 g
Mang các vị thuốc trên đi sắc thành thuốc thuốc Mỗi ngày uống một thang [12]
Kim tiền thảo không nên sử dụng cho những người bị tỳ hư và tiêu chảy, vì loại thảo dược này có tính hàn và ảnh hưởng đến kinh can, có thể làm tình trạng bệnh trở nên nghiêm trọng hơn.
Kim tiền thảo không độc Cho dùng liều 20 g/kg liên tục trong tuần đối với chuột thí nghiệm không thấy có tác dụng phụ [11]
Một số chế phẩm từ Kim tiền thảo
- Công Ty Cổ Phần dược Hậu Giang
- Thành phần: Cao khô Kim tiền thảo 200mg, tương đương Kim tiền thảo khô 2,5g, tá dược vừa đủ 1 viên
- Công dụng: Hỗ trợ điều trị sỏi đường tiết niệu: sỏi thận, sỏi bàng quang, sỏi niệu quản và sỏi mật
- Công ty Cổ Phần dược phẩm OPC
- Thành phần:120mg cao khô Kim Tiền Thảo tá duợc vừa đủ 1 viên
- Công dụng: Hỗ trợ điều trị sỏi đường tiết niệu: sỏi thận, sỏi bàng quang, sỏi niệu quản và sỏi mật
Trà Kim tiền thảo Lava
- Thành phần: Kim tiền thảo 100%
+ Trị gan mật kết sỏi, sỏi thận, tiểu buốt
+ Tống sạn mật, làm giảm đau do mật co thắt + Ức chế hình thành sỏi ở thận
Viên Tán Sỏi Tống Thạch Hoàn
- Công ty Cổ Phần ONEPHARM
- Thành phần: Kim Tiền Thảo, Thạch Vĩ, Hải Kim Sa, Râu Ngô,…
- Công dụng: Hỗ trợ điều trị sỏi đường tiết niệu: sỏi thận, sỏi bàng quang, sỏi niệu quản và sỏi mật
- Công ty TNHH Đông Nam dược Minh Nhi
- Thành phần: 100% Cây kim Tiền Thảo
+ Trị gan mật kết sỏi, sỏi thận, sỏi niệu, tiểu buốt, tiểu dắt
+ Tống sạn mật, làm giảm đau do mật co thắt Ức chế hình thành sỏi thận
Bảng 3.1 Một số chế phẩm thông dụng
PHƯƠNG PHÁP CHIẾT XUẤT & PHÂN LẬP
Phương pháp chiết xuất
Bài báo cáo này sẽ trình bày một số phương pháp chiết xuất Kim tiền thảo từ các nghiên cứu gần đây, tập trung vào các hợp chất flavonoid đã biết và mới được phát hiện Mặc dù có nhiều thành phần hoạt chất và phương pháp chiết xuất khác nhau, nhưng không tồn tại một phương pháp chung để chiết flavonoid do sự khác biệt về độ tan của chúng trong nước và các dung môi hữu cơ.
Các dẫn chất flavon và flavonol có nhóm OH tự do ở vị trí 7 có khả năng tan trong dung dịch kiềm loãng, cho phép chiết xuất chúng Để chiết xuất flavonoid glycosid, cần loại bỏ các chất thân dầu bằng ether dầu hỏa trước khi sử dụng nước nóng hoặc methanol, ethanol, hoặc hỗn hợp CHCl3 và ethanol Phương pháp sắc ký cột được áp dụng để phân lập các flavonoid, với các pha tĩnh như cellulose, silicagel, và magnesol Một số hệ cột tiêu biểu bao gồm Sephadex LH.
4.1.1 Chiết xuất & phân lập bằng dung môi Methanol (MeOH)
Nguyên liệu sử dụng là 1kg Kim tiền thảo (toàn cây) được chiết hồi lưu bằng methanol (MeOH), thu được 50g cao MeOH sau khi cô và thu hồi dung môi Dịch chiết sau đó được lắc phân bố với n-butanol (n-BuOH) và nước (H2O), lắng tự nhiên để thu được cao n-BuOH Cao này được phân tách bằng kỹ thuật sắc ký cột Sephadex LH-20 với MeOH, cho ra hai phân đoạn triterpenoid (21,6g) và flavonoid (9,73g).
Phân đoạn triterpenoid được tiếp tục đem đi cô bằng sắc ký cột silicagel (CHCl3:MeOH:H2O =9:2:0,1 => 8:2:0,2 => 7:3:0,5) thu được 2 hợp chất 1 (870 mg) và 2 (57 mg) [26]
1 -glc UA 2 gal 2 rha H 2 -glc UA 2 gal 2 rha
Hình 4.10 Hợp chất chiết xuất và phân lập bằng Methanol
Hình 4.11 Sơ đồ chiết xuất Kim tiền thảo với Metanol
Chiết hồi lưu với MeOH
Lắc phân bố với n-BuOH-H2O Cao n-BuOH
Phân đoạn Triterpenoid (21,6 g) Phân đoạn flavonoid (9,73 g)
4.1.2 Chiết xuất toàn cây Kim tiền thảo bằng dung môi Ethanol (EtOH)
Toàn cây Kim tiền thảo phơi khô nghiền thành bột (25 kg) chiết hồi lưu bằng EtOH–
H2O (9.5:0.5), 2 lần mỗi lần 60 phút, thu được cao EtOH Hòa tan cao này trong nước nóng và tiếp tục lắc phân bố với n-hexane và EtOAc
Cao n-hexane được phân tách bằng kỹ thuật sắc ký cột với nhựa macroporous resin, sau đó sử dụng sắc ký cột silica gel với quy trình rửa giải gradient (petroleum ether–EtOAc, 9:1 → 8:2 → 7:3 → 6:4 → 5:5), tạo ra các phân đoạn H-1, H-2, H-3, H-4, H-5 Phân đoạn H-5 tiếp tục được xử lý bằng sắc ký cột silica gel với dung môi hexane–acetone (9:1 → 7:3), cho ra 128 phân đoạn khác, trong đó có kết tinh không màu ở phân đoạn 88-95 Kết tinh này được chia thành hai phần; phần đầu tiên được hòa tan trong MeOH và chạy sắc ký cột Sephadex LH-20 (MeOH), thu được hai hợp chất isoflavon mới là hợp chất 1 (15 mg) và hợp chất 2 (20 mg).
Hình 4.12 Hình chụp tia X cấu trúc hợp chất 1 và 2
Phần còn lại hòa tan trong EtOH chạy qua sắc ký cột nhồi macroporous resin dung môi MeOH-H2O (9:1) và cột silica gel dung môi dichloromethane–acetone (9:1
Phân đoạn E-3 được thu nhận từ quá trình tách chiết, tiếp tục được xử lý qua cột resin macroporous với dung môi MeOH-H2O (8:2) và Sephadex LH-20 bằng methanol, cho thấy sự giàu có của flavonoid Sau đó, phần này được chạy qua cột silica gel với hệ dung môi CH2Cl2–MeOH (8:2 →6:4), tạo ra 90 phân đoạn nhỏ Các phân đoạn từ 64-81, sau khi qua các hệ sắc ký cột RP-18 với dung môi MeOH–H2O (3:7 →4:6) và Sephadex LH-20 bằng methanol, đã thu được các hợp chất 3 (16 mg), 4 (12 mg), 5 (15 mg) và 6.
(100 mg) Bốn hợp chất này được xác định là các isoflavanon 7-O-glycosid mới (Xem hình 4.14) [23]
Hình 4.13 Cấu trúc các hợp chất mới được phân lập
Hình 4.14 Sơ đồ chiết xuất toàn cây Kim tiền thảo bằng Ethanol
Hợp chất 1 Hợp chất 2 Phân đoạn E-1 Phân đoạn E-2 Phân đoạn E-3
Hợp chất 3 Hợp chất 4 Hợp chất 5 Hợp chất 6
Hòa tan MeOH rồi chạy sắc ký
Hòa tan EtOH rồi chạy sắc ký
Lắc phân bố với n-hexan và EtOAc
Và đem đi sắc ký cột
Phân đoạn H1 Phân đoạn H2 Phân đoạn H3 Phân đoạn H4 Phân đoạn H5
Rửa giải MeOH–H 2 O Chiết hồi lưu với EtOH - H 2 O
4.1.3 Chiết xuất hạt Kim tiền thảo bằng dung môi Ethanol (EtOH)
Nguyên liệu hạt Kim tiền thảo được nghiền thành bột 15 kg và loại bỏ dầu béo bằng ether dầu hỏa qua ba lần chiết với dung môi EtOH 90%, thu được cao EtOH Sau đó, thực hiện lắc phân bố với CHCl3 và n-BuOH, thu được lần lượt 171 g và 664 g cao, trong khi phần dịch chiết nước còn lại chứa 831 g nguyên liệu Các thử nghiệm in vitro cho thấy dịch chiết n-BuOH có hiệu quả chống oxy hóa và gốc tự do đáng kể, nên được chọn để phân lập Dịch chiết n-BuOH được tách bằng kỹ thuật sắc ký cột ODS, tạo ra 20 phân đoạn Phân đoạn 16 tiếp tục được phân lập qua sắc ký cột silicagel, thu được 8 phân đoạn nhỏ, trong đó phân đoạn 16.8 được xử lý qua các hệ ODS, polyamide và Sephadex LH-20, dẫn đến việc thu được các hợp chất 1.
Sau khi thực hiện chạy sắc ký cột silica gel với tỉ lệ dung môi CHCl3–MeOH từ 1:9 đến 6:4, phân đoạn số 19 đã tạo ra 10 phân đoạn nhỏ từ 19-1 đến 19-10 Đặc biệt, phân đoạn 19-10 được tiếp tục chạy sắc ký cột Sephadex LH-20, thu được hợp chất 4 với khối lượng 5 mg Cấu trúc của hợp chất này đã được xác định thông qua việc áp dụng các kỹ thuật quang phổ (Xem hình 4.15) [19]
Hình 4.15 Cấu trúc các hợp chất phân lập từ hạt Kim tiền thảo
Hình 4.16 Sơ đồ chiết xuất hạt Kim tiền thảo bằng dung môi Ethanol
Chiết hồi lưu với EtOH
Lắc phân bố với n-BuOH + CHCl 3
Cao 1 (171 g) Dịch chiết n-BuOH (831 g) Cao 2 (664 g)
Hợp chất 1 Hợp chất 2 Hợp chất 3 Hợp chất 4
KIỂM NGHIỆM
Mô tả dược liệu
Dược liệu có hình dạng trụ, được cắt thành các đoạn dài từ 3 cm đến 5 cm và có đường kính khoảng 0,2 cm đến 0,3 cm Bề mặt của dược liệu được phủ bởi lớp lông mềm, ngắn và có màu vàng Chất liệu hơi giòn, khi bẻ có bề mặt lởm chởm và tỏa ra mùi thơm dễ chịu.
Bột có màu lục nhạt, mùi thơm và vị ngọt nhạt Qua kính hiển vi, có thể quan sát thấy lông che chở đa bào với chân rất ngắn, phần trên dài và đầu nhọn, cùng với lông che chở đơn bào ngắn có đầu nhọn hoặc móc hình câu Lông tiết đa bào chân phình to, gồm hai hàng tế bào với chất tiết màu vàng, phần trên thuôn dài và đầu tù Mảnh biểu bì mang lông che chở và lỗ chân lông bị gãy còn sót lại có hình tròn, trong khi lỗ khí kiểu song bào thường nằm rời Mảnh biểu bì dưới lá chứa nhiều lông che chở, còn mảnh biểu bì thân gồm các tế bào dài, thành mỏng và có vết sắc to màu nâu, vàng nâu.
5.2 Định tính Định tính dựa vào chuyên luận và phụ lục trong Dược Điển Việt Nam IV.
Lấy 2 g bột dược liệu, thêm 50 ml nước, đun nóng trong cách thủy trong 15 phút, thỉnh thoảng lắc nhẹ Để nguội, lọc qua giấy lọc, bốc hơi dịch lọc đến cắn Hòa tan cắn bằng 5 ml ethanol 96 % (TT) được dung dịch A Lấy 2 ml dung dịch A, thêm vào một ít bột magnesi (TT) và 3 giọt đến 5 giọt acid hydrocloric (TT), sẽ xuất hiện màu hồng đen đỏ
Tiến hành sắc ký lớp mỏng hoặc sắc ký giấy để phát hiện các chất dựa vào màu sắc của chúng dưới ánh sáng thường hoặc tử ngoại (365 nm), trước hoặc sau khi tác dụng với kiềm (ammoniac).
Bản mỏng: Sử dụng bản mỏng: tráng sẵn GF254 của hãng Merck
Cô đặc dịch chiết còn lại rồi dùng mao quản chấm lên bản mỏng silicagel (cỡ kính 2,5 x 10 cm)
Dung môi khai triển: ethyl acetat- acid formic- nước (80: 10: 10) ethylacetat acid formic nước (4:1:1) và ethylacetat acid acetic nước (20:3:4) Bản sắc ký sau khi khai
Để quan sát các vết chất, cần triển khai 28 mẫu, sau đó để bay hết dung môi và kiểm tra dưới ánh sáng thường cũng như bằng huỳnh quang dưới ánh sáng tử ngoại với bước sóng 254 nm (đối với bản mỏng silicagel 60 GF254) trước và sau khi tác dụng với hơi amoniac Ngoài ra, có thể hiện màu các vết chất bằng cách phun dung dịch kiềm hoặc dung dịch AlCl3 2% mới pha trong cồn cao độ.
Định lượng
Phần định lượng trong bài chủ yếu tập trung vào thành phần Flavonoid có trong dược liệu Kim tiền thảo.
5.3.1 Phương pháp cân Áp dụng cho dược liệu giàu flavonoid và dịch chiết ít tạp chất Các bước bao gồm: Loại tạp bằng HCl 0,5%
Lọc lấy quercetin, sấy cân [2]
5.3.2 Phương pháp đo phổ tử ngoại
Dựa vào độ hấp thu phân tử (ε) hoặc độ hấp thu E 1% 1cm ở một λmax và dung môi quy định cho từng loại flavonoid để định lượng [2]
Bằng phản ứng cyaniding, phản ứng kết hợp với muối diazoni, tạo phức màu với AlCl3, muối titan, chrom…[2]
5.4.4 Phương pháp sắc ký lỏng HPLC
Sắc ký HPLC được thực hiện trên cột Agilent 5 TC-C18 (4,6 × 250 mm, 5 mm) với phương pháp rửa giải kiểu gradient bằng pha động acetonitril và acid formic 0,1% (v/v), ở nhiệt độ cột 30°C và bước sóng phát hiện 272 nm Phương pháp này nhằm định lượng năm thành phần chính của Kim tiền thảo, bao gồm vicenin-1, schaftoside, isoschaftoside, vicenin-3 và isovitexin, để đánh giá chất lượng dược liệu.
Sắc ký HPLC-ESI/MS sử dụng máy sắc ký lỏng LC-2010 (Nhật Bản) với các tính năng như buồng khử khí chân không, bơm tứ phân, tiêm mẫu tự động và bộ phát hiện diod quang Quá trình phân tích được thực hiện trên cột Ultimate XB-C-18 có kích thước 250x4,6mm và kích thước hạt 5 mm, ở nhiệt độ 30 độ C.
29 với pha động là acetonitril và axit formic theo chương trình gradient định sẵn như sau:
Trong nghiên cứu, các tỷ lệ phần trăm B được ghi nhận trong các khoảng thời gian khác nhau: từ 0-8 phút là 10-12% B, 8-45 phút là 12-14% B, 45-55 phút là 14-15% B, 55-70 phút là 15-35% B, 70-80 phút là 35-50% B, và từ 80-90 phút là 50-55% B Phát hiện được thực hiện ở bước sóng 272nm, với tốc độ dòng 1ml/phút và thể tích tiêm mẫu là 10µl Phân tích HPLC-MS được thực hiện bằng cách kết nối máy đo khối phổ vào hệ thống qua bộ phận ion hóa ESI, và dữ liệu được thu thập bằng phần mềm Agilent Technologies Chem Station.
Sắc ký dấu vân tay có thể được áp dụng với điều kiện tương tự, yêu cầu chuẩn hóa các sắc ký đồ thông qua việc lựa chọn các peak phổ biến đặc trưng Trong nghiên cứu, 15 mẫu dịch chiết từ Kim tiền thảo thu hoạch tại các khu vực địa lý khác nhau khi phân tích bằng HPLC đã cho ra bản sắc ký với 35 peak.
20 peak được cho là phổ biến vì xuất hiện trong tất cả các mẫu (Hình 5.16) [18]
Hình 5.17 Sắc ký đồ HPLC dịch chiết Kim tiền thảo bước sóng 272nm
3 R1=-Glc(2-1)Xyl, R2=R4=H, R3=OH 13 R1=R2=OH, R3=H, R4=OH
Hình 5.18 Các cấu trúc hóa học tương ứng sắc ký đồ trong hình 5.17