Lý do lựa chọn đề tài
Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường phát triển mạnh mẽ, người tiêu dùng ngày càng có nhiều lựa chọn về hàng hóa và dịch vụ Tuy nhiên, việc các thương nhân ưu tiên lợi nhuận dẫn đến tình trạng hàng giả, hàng kém chất lượng gia tăng, cùng với sự biến động giá cả không ổn định Người tiêu dùng thường thiếu thông tin về nguồn gốc, nhãn hiệu, giá cả, bảo hành và các cảnh báo liên quan đến sức khỏe Điều này khiến họ băn khoăn trong việc lựa chọn sản phẩm chất lượng, ảnh hưởng đến nhu cầu cuộc sống và sức khỏe của gia đình.
Mặc dù Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 đã được ban hành và có hiệu lực, quyền lợi của người tiêu dùng vẫn thường xuyên bị xâm phạm, đặc biệt là trong việc cung cấp thông tin về hàng hóa và dịch vụ Nguyên nhân chủ yếu bao gồm việc các thương nhân vi phạm pháp luật bằng cách cung cấp hàng hóa, dịch vụ kém chất lượng, làm giả hàng hóa để thu lợi, và không cung cấp đầy đủ thông tin cho người tiêu dùng trước khi giao dịch Hơn nữa, việc thực thi pháp luật của cơ quan nhà nước chưa nghiêm túc, cùng với công tác kiểm tra và giám sát hàng hóa, dịch vụ còn nhiều bất cập.
Trong nền kinh tế thị trường, người tiêu dùng đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và là động lực cho sự phát triển của thương nhân Tuy nhiên, do thiếu thông tin về hàng hóa và dịch vụ, người tiêu dùng thường rơi vào thế yếu trong quan hệ mua - bán, cần được bảo vệ quyền lợi Việc cung cấp thông tin cho người tiêu dùng bị xâm phạm nghiêm trọng, vì vậy cần có biện pháp bảo vệ kịp thời và hiệu quả Nhà nước cần ban hành cơ chế, chính sách và chế tài giám sát để cân bằng lợi ích trong mối quan hệ tiêu dùng, đảm bảo quyền lợi của người tiêu dùng, giúp họ an tâm trong việc mua sắm và sử dụng dịch vụ.
Xuất phát từ thực tế về việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, tác giả quyết định chọn đề tài “Trách nhiệm của thương nhân trong việc cung cấp thông tin cho người tiêu dùng” cho luận văn tốt nghiệp thạc sĩ Luật kinh tế, nhằm thúc đẩy việc thực thi hiệu quả các quy định pháp luật liên quan.
Tình hình nghiên cứu đề tài
Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thông qua việc cung cấp thông tin từ các thương nhân đang thu hút sự chú ý và nghiên cứu của nhiều tác giả.
Đề tài của Trịnh Văn Hưng (2017) tập trung vào trách nhiệm bảo vệ người tiêu dùng của các tổ chức và cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ theo quy định của pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại Việt Nam Luận văn thạc sĩ Luật chuyên ngành Luật kinh tế này phân tích các quy định pháp lý hiện hành và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong bối cảnh kinh tế thị trường.
Viện Đại học Mở Hà Nội đã nêu rõ trách nhiệm của tổ chức và cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ trong việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Bài viết cũng phân tích thực trạng bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại Việt Nam và đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện công tác này, góp phần nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các doanh nghiệp trong việc đảm bảo quyền lợi cho khách hàng.
Đề tài thạc sĩ của Mai Văn Phương (2018) tại Đại học Luật - Đại học Huế tập trung vào trách nhiệm của thương nhân trong kinh doanh hàng hóa đối với người tiêu dùng theo pháp luật Việt Nam Tác giả phân tích các vấn đề lý luận và pháp luật liên quan đến trách nhiệm này, đồng thời đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành Qua đó, tác giả đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện việc thực thi trách nhiệm của thương nhân trong lĩnh vực hàng hóa và dịch vụ đối với người tiêu dùng.
Đinh Thành Trung (2019) trong luận văn thạc sĩ Luật Kinh tế tại Học viện Khoa học xã hội đã nghiên cứu về việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực an toàn thực phẩm theo pháp luật Việt Nam hiện nay, đặc biệt tại Thành phố Hồ Chí Minh Tác giả đã khái quát những vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và phân tích thực trạng pháp luật cùng thực tiễn thi hành tại địa phương Qua đó, tác giả đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện việc thực thi pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực an toàn thực phẩm.
Đề tài của Võ Thị Hạnh (2018) nghiên cứu về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong quảng cáo thương mại theo pháp luật Việt Nam, thuộc luận văn thạc sĩ luật học chuyên ngành Luật Kinh tế tại Trường Đại học Luật Hà Nội Tác giả phân tích lý luận pháp luật liên quan đến bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hoạt động quảng cáo thương mại, đồng thời đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật tại Việt Nam Qua đó, tác giả đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện việc thực thi pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực quảng cáo thương mại.
- Đề tài của Tống Phước Long (2018): Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong giao dịch thương mại điện tử ; luận văn thạc sĩ luật học, chuyên ngành Luật
Luật kinh tế của Trường Đại học Luật – Đại học Huế trình bày lý luận về pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong giao dịch thương mại điện tử Bài viết phân tích thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật tại Việt Nam, đồng thời đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện việc thực thi pháp luật liên quan đến quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực thương mại điện tử.
Đề tài của Đinh Ngọc Dũng (2018) nghiên cứu pháp luật về khuyến mại tại Thành phố Đà Nẵng, trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ luật học chuyên ngành Luật Kinh tế của Trường Đại học Luật – Đại học Huế Tác giả trình bày cơ sở lý luận và pháp luật liên quan đến khuyến mại, đồng thời phân tích thực trạng pháp luật và thực tiễn khuyến mại tại Đà Nẵng Qua đó, tác giả đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện pháp luật về khuyến mại trong khu vực này.
Ngoài ra, có nhiều bài viết và tin tức nổi bật trên các phương tiện thông tin đại chúng, như bài "Siết kiểm tra xuất xứ, nhãn hàng hóa nhập khẩu" đăng ngày 21/5/2019 trên tapchitaichinh.vn, bài "Đẩy mạnh hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng" đăng trên báo pháp luật ngày 22/12/2019, và bài "Bàn về quy định mới về nhãn hàng hóa" được đăng tải ngày 26/7/2017.
Chủ thể kinh doanh có trách nhiệm cung cấp thông tin đầy đủ và chính xác về hàng hóa, dịch vụ cho người tiêu dùng, như đã nêu trong bài viết trên Hanoimoi.vn vào ngày 11/8/2015 Đồng thời, tổ chức và cá nhân kinh doanh cũng cần tuân thủ các quy định về bảo hành theo Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, được đề cập trong bài viết đăng tải ngày 11/3/2015 Việc thực hiện đúng trách nhiệm này không chỉ bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng mà còn nâng cao uy tín của doanh nghiệp.
Bộ công thương Việt nam) ……
Nghiên cứu cho thấy có nhiều công trình về quyền lợi người tiêu dùng, đặc biệt trong các lĩnh vực như an toàn thực phẩm, khuyến mại, xuất xứ và nhãn hiệu hàng hóa Tuy nhiên, vấn đề trách nhiệm của thương nhân trong việc cung cấp thông tin cho người tiêu dùng vẫn chưa được nghiên cứu sâu Tác giả hy vọng thông qua đề tài này, sẽ đề xuất nhiều giải pháp quan trọng nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong việc nhận thông tin một cách đầy đủ và chính xác.
Mục tiêu nghiên cứu
Dựa trên nghiên cứu lý luận và thực tiễn về trách nhiệm cung cấp thông tin cho người tiêu dùng của các thương nhân, tác giả kỳ vọng đề tài này sẽ đạt được những mục tiêu quan trọng.
Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng là một yếu tố thiết yếu trong cơ chế thị trường định hướng XHCN, đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước Việc đảm bảo quyền lợi này không chỉ giúp nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân mà còn thúc đẩy sự công bằng và bền vững trong nền kinh tế.
Vai trò của người tiêu dùng trong việc nắm bắt thông tin về hàng hóa và dịch vụ, cũng như thông tin giao dịch từ thương nhân, là rất quan trọng và cần được bảo vệ mọi lúc, mọi nơi Bài viết sẽ chỉ ra thực trạng về trách nhiệm cung cấp thông tin liên quan đến hàng hóa và dịch vụ, đồng thời nêu lên sự chồng chéo và mâu thuẫn giữa quy định pháp luật và thực tiễn, ảnh hưởng đến quyền lợi của người tiêu dùng Từ đó, tác giả sẽ đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về quyền lợi người tiêu dùng, đảm bảo quyền lợi của họ được bảo vệ tốt hơn.
Câu hỏi nghiên cứu
Theo quy định của pháp luật, thương nhân có trách nhiệm cung cấp đầy đủ thông tin cho người tiêu dùng, đảm bảo tính minh bạch và chính xác Điều này bao gồm việc thông báo rõ ràng về sản phẩm, dịch vụ, giá cả và các điều kiện giao dịch Người tiêu dùng cũng được bảo vệ quyền lợi khi thương nhân không thực hiện đúng nghĩa vụ thông tin, giúp họ đưa ra quyết định mua sắm thông minh và an toàn.
Câu 2: Thực trạng về trách nhiệm của thương nhân trong việc cung cấp thông tin cho người tiêu dùng hiện nay ra sao?
Pháp luật hiện hành còn nhiều bất cập trong việc quy định trách nhiệm của thương nhân đối với việc cung cấp thông tin cho người tiêu dùng Để hoàn thiện pháp luật, cần thiết phải bổ sung các quy định cụ thể hơn về nghĩa vụ thông tin, bảo đảm rằng thương nhân phải cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác và kịp thời Ngoài ra, cần tăng cường các biện pháp chế tài đối với hành vi vi phạm, nhằm bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng và tạo ra môi trường kinh doanh minh bạch hơn Việc cải thiện khung pháp lý này không chỉ giúp nâng cao ý thức trách nhiệm của thương nhân mà còn góp phần xây dựng niềm tin của người tiêu dùng vào thị trường.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích luật viết giúp làm rõ các khái niệm và quy định pháp luật hiện hành liên quan đến thương nhân, người tiêu dùng và trách nhiệm cung cấp thông tin cho người tiêu dùng Qua đó, phương pháp này chỉ ra những bất cập trong pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, đặc biệt trong việc cung cấp thông tin đầy đủ và chính xác.
Phương pháp phân tích, tổng hợp và so sánh được áp dụng để nghiên cứu các quy phạm pháp luật liên quan đến trách nhiệm của thương nhân trong việc cung cấp thông tin cho người tiêu dùng Bài viết sẽ phân tích các quy định pháp lý hiện hành và so sánh chúng với thực tiễn áp dụng, nhằm làm rõ vai trò của thương nhân trong việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và nâng cao tính minh bạch trong giao dịch thương mại.
Các phương pháp nghiên cứu khác bao gồm việc phân tích lý luận từ sách, báo và bài viết, cùng với việc thu thập dữ liệu thống kê và báo cáo từ các cơ quan liên quan đến bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Qua những nghiên cứu này, chúng ta có thể đánh giá thực trạng, nhận diện các bất cập và đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Nghiên cứu về trách nhiệm cung cấp thông tin cho người tiêu dùng của các thương nhân nhằm làm rõ những quy định chưa hợp lý trong Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (2010) và Luật thương mại (2005) Việc thực thi pháp luật yếu kém đã xâm phạm quyền lợi của người tiêu dùng Do đó, cần đề xuất các giải pháp cải thiện hiệu quả thực thi pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, nhằm đảm bảo quyền lợi cho họ và không để họ trở thành bên yếu thế trong quan hệ mua bán hàng hóa và sử dụng dịch vụ.
Đề tài này có ý nghĩa thực tiễn quan trọng, có thể trở thành tài liệu hữu ích cho các nhà nghiên cứu, tổ chức, cá nhân kinh doanh và thương nhân Nó cũng phục vụ cho mọi người quan tâm đến lĩnh vực bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, đặc biệt trong việc yêu cầu thông tin từ các thương nhân.
Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung luận văn được kết cấu thành 02 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp luật về trách nhiệm của thương nhân trong việc cung cấp thông tin cho người tiêu dùng
Trong chương này, tác giả trình bày tổng quan về thương nhân và đặc điểm của người tiêu dùng, đồng thời khái quát trách nhiệm của thương nhân trong việc cung cấp thông tin cho người tiêu dùng Tác giả cũng đề cập đến các hình thức cung cấp thông tin và quá trình phát triển pháp luật Việt Nam liên quan đến trách nhiệm này trước năm 2010 và từ năm 2010 đến nay Cụ thể, tác giả nêu rõ quy định pháp luật về trách nhiệm cung cấp thông tin liên quan đến giao dịch hàng hóa, dịch vụ, bao gồm thông tin về nội dung giao dịch, hợp đồng mẫu, điều kiện giao dịch, hóa đơn và chứng từ Bên cạnh đó, trách nhiệm cung cấp thông tin về hàng hóa, dịch vụ như nguồn gốc, xuất xứ, nhãn mác, giá cả, khả năng ảnh hưởng, linh kiện thay thế, hướng dẫn sử dụng, và các điều kiện bảo hành cũng được nêu rõ.
Chương 2: Thực trạng, bất cập và hướng hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của thương nhân trong việc cung cấp thông tin cho người tiêu dùng
Chương này phân tích trách nhiệm của thương nhân trong việc cung cấp thông tin liên quan đến giao dịch, bao gồm nội dung giao dịch, hợp đồng mẫu, điều kiện giao dịch chung, và thông tin về hóa đơn, chứng từ Ngoài ra, tác giả cũng đề cập đến trách nhiệm cung cấp thông tin về hàng hóa, dịch vụ như nguồn gốc, xuất xứ, nhãn hiệu, giá cả, ảnh hưởng của hàng hóa, khả năng cung ứng linh kiện thay thế, hướng dẫn sử dụng, và các điều kiện bảo hành Bên cạnh đó, tác giả chỉ ra những bất cập trong quy định pháp luật về trách nhiệm này và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật liên quan đến nghĩa vụ của thương nhân trong việc cung cấp thông tin cho người tiêu dùng.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA THƯƠNG NHÂN TRONG VIỆC CUNG CẤP THÔNG TIN CHO NGƯỜI TIÊU DÙNG
Cơ sở lý luận về trách nhiệm của thương nhân trong việc cung cấp thông tin
1.1.1 Khái quát về thương nhân
Thương nhân là khái niệm quan trọng trong lĩnh vực thương mại và là chủ thể chính của Luật thương mại Mỗi quốc gia, bao gồm Việt Nam, có cách định nghĩa riêng về thương nhân, phản ánh sự đa dạng trong pháp luật thương mại toàn cầu.
Theo Bộ luật thương mại Pháp 1807, thương nhân được định nghĩa là những người thực hiện các hành vi thương mại và coi đó là nghề nghiệp thường xuyên Luật không yêu cầu đăng ký kinh doanh, mà chỉ quy định về loại hành vi thương mại mà cá nhân hoặc tổ chức phải thực hiện để được công nhận là thương nhân Để được coi là thương nhân, cá nhân hoặc tổ chức cần thực hiện các hành vi thương mại một cách thường xuyên và lâu dài, mang tính chất nghề nghiệp, tức là hoạt động kinh doanh ổn định, lâu dài và có lợi nhuận, tạo ra nguồn thu nhập chính.
1 Điều 1, Luật thương mại Pháp năm 1907
2 Lê Thị Phương Thảo (2017), Chế định thương nhân ỏ Việt nam, luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội, Tr 12
Bộ Luật thương mại Đức là một trong những bộ luật thương mại tiêu biểu đại diện cho hệ thống pháp luật La Mã - Đức, quy định về thương nhân với sự phức tạp hơn Thương nhân được định nghĩa là những người hành nghề kinh doanh nhằm mục đích thu lợi nhuận, trừ những doanh nghiệp không yêu cầu thiết lập cơ sở hoạt động kinh doanh Doanh nghiệp chưa có cơ sở hoạt động vẫn được coi là thương mại nếu đã đăng ký trong danh bạ thương mại Việc xóa tên hãng cũ có thể xảy ra theo đơn đề nghị của doanh nghiệp nếu không có cơ sở theo quy định Các quy định đối với thương nhân cũng áp dụng cho các công ty thương mại, yêu cầu hoạt động kinh doanh đạt một mức độ tổ chức nhất định Luật thương mại không áp dụng cho những người kinh doanh nhỏ lẻ, nhưng họ có thể tự nguyện đăng ký làm thương nhân Đối với các công ty đối vốn và hợp tác xã, việc áp dụng hình thức pháp lý thương gia là bắt buộc.
Luật thương mại của các quốc gia theo hệ thống pháp luật La Mã - Đức xác định công ty thương mại là các thương nhân theo hình thức Điều này có nghĩa là bất kỳ thực thể nào có cơ sở hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp được đăng ký tên trong danh bạ thương mại, hoặc những người kinh doanh nhỏ lẻ đăng ký tên đều được coi là thương nhân.
3 Khoản 2, Điều 1, Bộ luật thương mại Đức năm 1897
4 Điều 5, Bộ luật thương mại Đức năm 1897
5 Khoản 1, Điều 6, Bộ luật thương mại Đức năm 1897 danh bạ thương mại sẽ đều được coi là thương nhân và được điều chỉnh bởi pháp luật thương mại
• Theo pháp luật Hoa Kỳ - khái niệm “thương nhân” được định nghĩa trong
Bộ luật Thương mại Hoa Kỳ năm 1990 quy định ba loại hình thương nhân chính: cá nhân kinh doanh, công ty đối nhân và công ty đối vốn Theo luật, thương nhân là nhóm người thực hiện các hoạt động kinh doanh hàng hóa một cách thường xuyên và lâu dài Đáng chú ý, bộ luật này không điều chỉnh các loại hàng hóa bất động sản và dịch vụ, mà chỉ tập trung vào hàng hóa động sản.
Pháp luật Việt Nam đã quy định về thương nhân từ những văn bản pháp luật thương mại đầu tiên, cụ thể là Luật Thương mại 1997 và Luật Thương mại 2005 Theo Luật Thương mại 1997, thương nhân được định nghĩa là cá nhân, pháp nhân, tổ hợp tác, hoặc hộ gia đình có đăng ký hoạt động thương mại một cách độc lập và thường xuyên Sau khi sửa đổi, Luật Thương mại 2005 đã cập nhật và định nghĩa lại khái niệm thương nhân.
Thương nhân được định nghĩa trong Luật thương mại Việt Nam là tổ chức kinh tế hợp pháp hoặc cá nhân hoạt động thương mại độc lập và thường xuyên, có đăng ký kinh doanh Điều này cho thấy rằng tư cách thương nhân chủ yếu dựa vào các yêu cầu hình thức như việc thành lập hợp pháp và đăng ký kinh doanh, mà không xem xét đến các hoạt động thương mại thực tế của chủ thể.
Các quốc gia trên thế giới hiện nay định nghĩa thương nhân theo nhiều cách khác nhau, mỗi cách mang lại những ưu điểm và nhược điểm riêng Định nghĩa thương nhân theo bản chất có thể giúp làm rõ vai trò và trách nhiệm của họ trong nền kinh tế.
6 Lê Thị Phương Thảo (2017), Chế định thương nhân ỏ Việt nam, luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội, Tr 14
7 Khoản 6, Điều 5, Luật thương mại năm 1997
Theo Điều 6 của Luật Thương mại năm 2005, các quốc gia cần xác định rõ căn cứ để nhận biết hành vi thương mại trong số nhiều loại hành vi mà thương nhân thực hiện trong đời sống kinh tế xã hội Đối với những quốc gia xác định tư cách thương nhân thông qua việc đăng ký hoạt động với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, việc nhận diện tổ chức nào là thương nhân trở thành một vấn đề tương đối phức tạp.
Thương nhân đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường hiện nay, và có nhiều phương pháp phân loại thương nhân khác nhau tùy thuộc vào mục đích phân loại.
Theo tư cách pháp lý, thương nhân được phân loại thành hai nhóm: thương nhân có tư cách pháp nhân và thương nhân không có tư cách pháp nhân.
* Thương nhân có tư cách pháp nhân gồm:
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là loại hình doanh nghiệp do một tổ chức hoặc cá nhân làm chủ sở hữu Doanh nghiệp này có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.
- Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên là doanh nghiệp có từ
02 đến 50 thành viên là tổ chức, cá nhân; có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp 10
- Công ty cổ phần: là doanh nghiệp; có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp 11
Công ty hợp danh là một loại hình doanh nghiệp, yêu cầu có tối thiểu hai thành viên cùng sở hữu và kinh doanh dưới một tên chung, được gọi là thành viên hợp danh Ngoài các thành viên hợp danh, công ty còn có thể có các thành viên khác tham gia.
9 Khoản 1, 2, Điều 74, Luật doanh nghiệp năm 2020
10 Khoản 1, 2, Điều 46, Luật doanh nghiệp năm 2020
Theo Khoản 1, 2, Điều 111 của Luật Doanh Nghiệp năm 2020, việc thêm thành viên góp vốn vào công ty hợp danh sẽ được thực hiện Công ty hợp danh sẽ có tư cách pháp nhân kể từ thời điểm nhận Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.
Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể, có tư cách pháp nhân, được thành lập bởi ít nhất 07 thành viên tự nguyện Các thành viên hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau trong hoạt động sản xuất và kinh doanh nhằm tạo việc làm và đáp ứng nhu cầu chung Hợp tác xã hoạt động dựa trên nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong quản lý.
Quy định của pháp luật về trách nhiệm của thương nhân trong việc cung cấp thông tin cho người tiêu dùng
Trong quá trình sản xuất và kinh doanh nhằm thu hút khách hàng và tăng lợi nhuận, thương nhân thiết lập nhiều mối quan hệ và phát sinh nhiều trách nhiệm khác nhau, bao gồm trách nhiệm cung cấp thông tin và tài liệu liên quan đến giao dịch, cũng như bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ Trách nhiệm đối với người tiêu dùng được quy định trong Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 và các văn bản pháp luật khác Tuy nhiên, luật này chỉ nêu rõ trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh mà không định nghĩa khái niệm về trách nhiệm đó Trách nhiệm của thương nhân chủ yếu thể hiện qua việc cung cấp thông tin liên quan đến giao dịch và thông tin về hàng hóa, dịch vụ.
1.2.1 Trách nhiệm cung cấp thông tin liên quan đến giao dịch
Theo Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010, trong quá trình giao kết hợp đồng, tổ chức và cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có trách nhiệm cung cấp đầy đủ thông tin cho người tiêu dùng Những thông tin này bao gồm nội dung giao dịch, hợp đồng mẫu, điều kiện giao dịch chung, cũng như hóa đơn, chứng từ và tài liệu liên quan đến giao dịch.
1.2.1.1 Trách nhiệm cung cấp thông tin về nội dung giao dịch
Trong quá trình giao dịch mua bán hàng hóa và sử dụng dịch vụ, người tiêu dùng có quyền được thông tin đầy đủ về sản phẩm và dịch vụ từ các tổ chức, cá nhân kinh doanh Quyền này đảm bảo rằng người tiêu dùng có thể đưa ra quyết định mua sắm thông minh và an toàn.
63 Khoản 2, Điều 41, Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010
Điều 30, khoản 1, điểm 64 của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 quy định về quyền của người tiêu dùng trong giao dịch hàng hóa và dịch vụ Quy định này không chỉ bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng mà còn đặt trách nhiệm lên các tổ chức và cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ.
Nội dung giao dịch bao gồm các điều khoản mà các bên đã thỏa thuận, xác định quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch Để người tiêu dùng nắm rõ các nội dung đã thỏa thuận, tổ chức và cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ phải tuân thủ đúng quy định về hình thức giao dịch đã ký kết theo Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Theo quy định pháp luật dân sự năm 2010, hợp đồng giao kết với người tiêu dùng phải tuân thủ các quy định cụ thể Trong trường hợp có sự hiểu khác nhau về nội dung hợp đồng, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền giải quyết tranh chấp sẽ giải thích theo hướng có lợi cho người tiêu dùng.
Giao dịch có thể được thực hiện qua lời nói, văn bản hoặc hành vi cụ thể Khi ký kết hợp đồng bằng văn bản, ngôn ngữ phải rõ ràng và dễ hiểu Đối với hợp đồng điện tử, tổ chức, cá nhân kinh doanh cần tạo điều kiện cho người tiêu dùng xem xét toàn bộ hợp đồng trước khi ký kết Người tiêu dùng cũng cần được thông báo về các điều khoản không có hiệu lực, bao gồm việc loại trừ trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh đối với người tiêu dùng theo quy định pháp luật, hạn chế quyền khiếu nại, khởi kiện, cũng như quyền thay đổi giá tại thời điểm giao hàng Tổ chức, cá nhân kinh doanh cũng có quyền giải thích hợp đồng nếu các điều khoản được hiểu khác nhau.
65 Khoản 2, Điều 8, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010
Theo Điều 14 và Điều 15 của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010, tổ chức và cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có quyền chuyển giao quyền và nghĩa vụ cho bên thứ ba mà không cần sự đồng ý của người tiêu dùng.
1.2.1.2 Trách nhiệm cung cấp thông tin về hợp đồng mẫu và điều kiện giao dịch chung
Theo Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010, tổ chức và cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ phải thông báo đầy đủ và chính xác cho người tiêu dùng về hợp đồng theo mẫu và điều kiện giao dịch chung trước khi thực hiện giao dịch Hợp đồng theo mẫu là tài liệu do thương nhân soạn thảo cho người tiêu dùng, trong khi điều kiện giao dịch chung là các quy định bán hàng, cung ứng dịch vụ do thương nhân công bố Cả hợp đồng theo mẫu và điều kiện giao dịch chung cần được lập thành văn bản, sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt, với nội dung rõ ràng, dễ hiểu, cỡ chữ tối thiểu 12 và có sự tương phản giữa nền giấy và màu mực.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, thương nhân thường sử dụng hợp đồng mẫu và điều kiện giao dịch chung để giảm chi phí và đảm bảo an toàn pháp lý Tuy nhiên, điều này tạo ra sự mất cân bằng trong quan hệ giao dịch, gây bất lợi cho người tiêu dùng, vì họ khó có thể thương lượng các điều khoản trong hợp đồng Do đó, cần có sự kiểm soát từ cơ quan có thẩm quyền để quản lý việc đăng ký và thực hiện hợp đồng mẫu, nhằm bảo vệ quyền lợi cho người tiêu dùng.
67 Điều 16, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010
68 Khoản 6, Điều 12, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010
69 Điều 7, Nghị định 99/2011/NĐ-CP hướng dẫn chi tiêt Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010
Theo Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010, hình thức hợp đồng giao kết với người tiêu dùng được điều chỉnh bởi Bộ luật dân sự năm 2015, cho phép hai bên tự do thương lượng và ký kết hợp đồng Tuy nhiên, hợp đồng theo mẫu thường do một bên soạn thảo sẵn, với các điều khoản có lợi cho bên đó, dẫn đến người tiêu dùng thường rơi vào thế yếu khi không có cơ hội thương lượng Do đó, cần có sự can thiệp của pháp luật để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng trong các giao dịch liên quan đến hợp đồng theo mẫu và điều kiện giao dịch chung.
Theo quy định của Thủ tướng Chính phủ, có 09 danh mục hàng hóa và dịch vụ thiết yếu cần phải đăng ký hợp đồng theo mẫu và điều kiện giao dịch chung Trước khi áp dụng các hợp đồng này, tổ chức và cá nhân kinh doanh phải thực hiện việc đăng ký theo quy định Hợp đồng theo mẫu và điều kiện giao dịch chung chỉ được sử dụng cho người tiêu dùng khi việc đăng ký đã hoàn tất theo quy định.
Hợp đồng theo mẫu cần được công khai để bên được đề nghị có thể nắm rõ nội dung của hợp đồng Đối với điều kiện giao dịch chung, việc này cũng rất quan trọng để đảm bảo sự minh bạch và công bằng trong giao dịch.
70 Điều 14,Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010
71 Quyết định số 02/2012/QĐ-TTg ban hành danh mục hàng hóa, dịch vụ thiết yếu phải đăng ký hợp đồng theo mẫu và điều kiện giao dịch chung
Theo Điều 8 và Điều 14 của Nghị định số 99/2011/NĐ-CP, các điều kiện giao dịch chung được công bố bởi bên thương nhân sẽ được áp dụng cho người tiêu dùng khi họ chấp nhận giao kết hợp đồng Những điều kiện này chỉ có hiệu lực nếu đã được công khai cho bên giao dịch biết hoặc phải biết Đồng thời, các điều kiện giao dịch chung cần đảm bảo sự bình đẳng giữa các bên Nếu có quy định nào trong điều kiện giao dịch chung miễn trách nhiệm của bên đưa ra, tăng trách nhiệm hoặc loại bỏ quyền lợi hợp pháp của bên kia, thì quy định đó sẽ không có hiệu lực, trừ khi có thỏa thuận khác.
Trước khi áp dụng Hợp đồng mẫu và Điều kiện giao dịch chung, việc đăng ký là bắt buộc để đảm bảo quyền lợi cho người sử dụng dịch vụ Đặc biệt, các ngành nghề cần đăng ký thường là những lĩnh vực thiết yếu, được nhiều người tiêu dùng quan tâm Qua việc chấp thuận đăng ký, nhà nước có thể kiểm soát giá dịch vụ và điều chỉnh hành vi của các đơn vị cung cấp, từ đó giảm thiểu rủi ro cho người sử dụng.