Phần mở đầu
Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954) dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một sự kiện lịch sử có ý nghĩa trọng đại Với tầm vóc và ý nghĩa lớn lao, cuộc kháng chiến này đã thu hút sự quan tâm của giới sử học trong và ngoài nước, đồng thời là đề tài nghiên cứu của nhiều sinh viên Đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu và bài viết trên các phương tiện truyền thông, đặc biệt là các tập hồi ký của những người tham gia chỉ đạo, lãnh đạo trực tiếp trên chiến trường Một số công trình tiêu biểu đã được thực hiện để ghi lại những giá trị lịch sử quan trọng này.
Cuốn sách "Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 1945 – 1954" của Viện lịch sử quân sự, xuất bản năm 1995, đã trình bày một cách toàn diện quá trình phát triển của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp Tác phẩm ghi lại từ thời điểm cuộc kháng chiến bùng nổ cho đến khi kết thúc thắng lợi, đồng thời tổng kết những bài học kinh nghiệm quý báu từ cuộc kháng chiến này.
Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn 1944 - 1975, do Viện lịch sử Quân sự Việt Nam biên soạn và xuất bản năm 2005, khắc họa quá trình hình thành và phát triển của Quân đội nhân dân Việt Nam Tác phẩm nêu bật những chiến công lừng lẫy trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, thể hiện sự trưởng thành từng bước của lực lượng vũ trang nhân dân trong cuộc đấu tranh giành độc lập và tự do cho Tổ quốc.
Cuốn sách "Ba m-ơi năm chiến tranh cách mạng, những trận đánh đi vào lịch sử" của Phạm Huy D-ơng và Phạm Bá Toàn, xuất bản năm 2005 bởi Nxb Công an nhân dân, đã tái hiện lại những trận đánh hào hùng của lực lượng vũ trang anh hùng trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
"Điện Biên Phủ - Điểm hẹn lịch sử" của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, xuất bản năm 2004 bởi Nxb Kim Đồng, đã tái hiện lại trận đánh Điện Biên Phủ, một sự kiện lịch sử quan trọng quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến.
- Tạp chí nghiên cứu lịch sử của Viện Khoa học xã hội và nhân văn với một số vấn đề liên quan đến đ-ờng lối quân sự của Đảng
Mặc dù đã có nhiều công trình đề cập đến vấn đề lãnh đạo đấu tranh vũ trang của Đảng, nhưng chưa có công trình chuyên khảo nào tập trung vào quá trình này Những tài liệu hiện có sẽ là nguồn tham khảo quý giá cho nghiên cứu của chúng tôi.
Trong bài viết này, chúng tôi phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn của đường lối đấu tranh vũ trang, đồng thời làm rõ quá trình lãnh đạo đấu tranh vũ trang của Đảng Qua đó, chúng tôi nhận thấy vai trò quan trọng và quyết định của đấu tranh vũ trang đối với thắng lợi của cuộc kháng chiến.
Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với lực lượng vũ trang là yếu tố quyết định trong cuộc kháng chiến chống Pháp Đảng đã tổ chức, chỉ đạo và phát huy sức mạnh của lực lượng vũ trang, tạo ra một lực lượng đồng bộ và hiệu quả trong việc kháng chiến Qua đó, sự lãnh đạo này không chỉ thể hiện vai trò then chốt trong việc xây dựng chiến lược và kế hoạch tác chiến mà còn góp phần nâng cao tinh thần chiến đấu của toàn quân và nhân dân.
- Góp phần nâng cao niềm tự hào về Đảng, về lực l-ợng vũ trang anh hùng cho các thế hệ mai sau
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của đ-ờng lối lãnh đạo đấu tranh vũ trang trong kháng chiến chống thực dân Pháp
Đảng Cộng sản Việt Nam đóng vai trò then chốt trong việc xây dựng lực lượng vũ trang và tổ chức đấu tranh vũ trang, góp phần quyết định vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và sự can thiệp của Mỹ Sự lãnh đạo của Đảng đã giúp đoàn kết các lực lượng cách mạng, phát huy sức mạnh toàn dân, từ đó tạo ra một sức mạnh tổng hợp, đánh bại kẻ thù xâm lược.
- Thấy đ-ợc vai trò quyết định của đấu tranh vũ trang đối với thắng lợi của cuộc kháng chiến.
ý nghĩa của khoá luận
Khóa luận này làm sáng tỏ nghệ thuật lãnh đạo đấu tranh vũ trang của Đảng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đồng thời cung cấp tài liệu tham khảo quý giá cho các nhà nghiên cứu lịch sử và là nguồn học tập hữu ích cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng.
Ph-ơng pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài này, chúng tôi áp dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, kết hợp giữa phương pháp lịch sử và lôgíc nhằm trình bày và lý giải các sự kiện lịch sử, cũng như các hình thức và phương pháp lãnh đạo trong cuộc đấu tranh vũ trang chống thực dân Pháp.
Để nghiên cứu đề tài này, chúng tôi áp dụng các phương pháp phân tích, thống kê và so sánh nhằm làm rõ sự trưởng thành từng bước trong quá trình lãnh đạo đấu tranh vũ trang của Đảng.
Bố cục của khoá luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo Nội dung chính của khoá luận đ-ợc trình bày trong hai ch-ơng
Ch-ơng 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đ-ờng lối đấu tranh vũ trang trong kháng chiến chống Pháp (1946-1954 )
Ch-ơng 2: Nghệ thuật lãnh đạo đấu tranh vũ trang của Đảng trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954).
cơ sở lý luận và thực tiễn của đ-ờng lối đấu tranh vũ trang trong thời kì kháng chiến chống thực dân pháp
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng quân đội và đấu tranh vũ trang
Quan điểm của C.Mác – Ph.Ăngghen:
C.Mác và Ph.Ăngghen những nhà sáng lập ra CNXHKH, trên cơ sở nghiên cứu về chiến tranh, quân đội, khoa học quân sự đã đ-a ra những luận điểm cơ bản làm cơ sở cho t- t-ởng và học thuyết quân sự vô sản Học thuyết quân sự của hai ông đã trang bị cho giai cấp vô sản những tri thức quân sự để tiến hành khởi nghĩa vũ trang, chiến tranh cách mạng và xây dựng quân đội
Lần đầu tiên trong lịch sử, các vấn đề cơ bản về chiến tranh, quân đội và khoa học quân sự được giải thích một cách duy vật C.Mác và Ph.Ăngghen đã làm rõ mối liên hệ giữa chiến tranh với kinh tế và chính trị, đồng thời nhấn mạnh vai trò của kỹ thuật, con người, quần chúng nhân dân, tướng lĩnh và yếu tố chính trị tinh thần trong bối cảnh chiến tranh.
Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về xây dựng lực lượng quân đội và đấu tranh vũ trang xuất phát từ tư tưởng cách mạng bạo lực Hai ông cho rằng bạo lực có thể mang tính tiến bộ trong xã hội nếu nó phục vụ cho mục đích cải cách xã hội và được giai cấp tiến bộ sử dụng để đối phó với các lực lượng phản động Mác nhấn mạnh rằng bạo lực cần thiết để trấn áp sự phản kháng và thúc đẩy sự phát triển của giai cấp cách mạng.
Bạo lực là yếu tố cần thiết cho sự chuyển giao từ xã hội cũ sang xã hội mới, trong đó giai cấp công nhân đóng vai trò quan trọng C.Mác và Ph.Ăngghen nhấn mạnh rằng Đảng cộng sản, đại diện cho giai cấp công nhân, cần hiểu rõ quy luật của cách mạng bạo lực, khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng để thực hiện nhiệm vụ lịch sử của mình.
C.Mác và Ph.Ăngghen nhấn mạnh rằng khởi nghĩa vũ trang là phương tiện chính để giai cấp vô sản giành chính quyền, đồng thời cho rằng phương thức và hình thức giành chính quyền cần phải dựa vào điều kiện chung của thời đại và hoàn cảnh cụ thể của từng quốc gia Việc phân tích điều kiện khách quan và so sánh lực lượng của thế giới tư bản thời bấy giờ là rất quan trọng để hiểu rõ hơn về chiến lược cách mạng.
Mác tuyên bố rằng cần phải thông báo với các chính phủ về việc họ nhận thức được rằng các chính phủ là lực lượng vũ trang chống lại tầng lớp vô sản Ông khẳng định rằng sẽ hành động chống lại các chính phủ này một cách hòa bình ở những nơi có thể, và sẽ sử dụng vũ khí khi cần thiết.
Trong xây dựng lực lượng quân đội, hai ông nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cung cấp vật chất và trang bị, cho rằng khả năng chiến đấu và hoàn thành nhiệm vụ phụ thuộc nhiều vào yếu tố này Tuy nhiên, họ cũng chỉ ra rằng việc chỉ dựa vào cung cấp vật chất để đánh giá khả năng chiến đấu là sai lầm Thực tế, khả năng này cần được xem xét trong mối liên hệ chặt chẽ với huấn luyện, hoàn thiện vũ khí, chiến thuật, và đặc biệt là trạng thái chính trị tinh thần của quân đội.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ ra rằng phương thức chiến tranh phụ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và tính chất của quan hệ sản xuất Đồng thời, họ cũng nhấn mạnh rằng nghệ thuật quân sự mang đặc điểm dân tộc, với Ph.Ăngghen nhấn mạnh rằng tính dân tộc, các truyền thống lịch sử, và trình độ khác nhau của nền văn minh tạo ra sự khác biệt và sản sinh ra những điểm mạnh, yếu tố đặc trưng của mỗi quân đội.
C.Mác- Ph.Ăngghen đã vạch ra mối liên hệ mật thiết giữa chính trị, chiến l-ợc với các ph-ơng thức và hình thức sử dụng lực l-ợng vũ trang Hai ông dự đoán rằng giai cấp vô sản cũng sẽ có những biểu hiện đặc biệt của nó trong quân sự và sẽ tạo ra ph-ơng pháp quân sự mới của nó C.Mác – Ph.Ăngghen đã chứng minh rằng vai trò quyết định trong chiến tranh là thuộc về quần chúng nhân dân, đồng thời cũng đánh giá cao vai trò của các t-ớng lĩnh lỗi lạc trong việc lãnh đạo quần chúng chiến đấu
Chiến tranh do quần chúng nhân dân tự vũ trang là một hình thức kháng chiến quan trọng, trong đó chiến tranh du kích đóng vai trò chủ yếu trong việc chống lại kẻ thù xâm lược Ph Ăngghen nhấn mạnh rằng để giành độc lập, một dân tộc không thể chỉ dựa vào các phương thức chiến tranh thông thường mà cần áp dụng khởi nghĩa và chiến tranh du kích Ông cho rằng chiến tranh du kích giúp tiêu hao sức mạnh của đối phương, kết hợp với chiến tranh chính quy sẽ nhanh chóng đánh bại kẻ thù Ưu điểm của chiến tranh du kích nằm ở khả năng thu hút đông đảo quần chúng và dễ dàng trang bị, cung cấp lương thực, cũng như khả năng linh hoạt trong mọi điều kiện và sự sáng tạo trong chiến thuật của nhân dân.
Nghiên cứu kinh nghiệm khởi nghĩa vũ trang cho thấy sự cần thiết phải chuẩn bị toàn diện, chú trọng công tác tổ chức, kỷ luật và truyền thống của lực lượng vũ trang Hành động khởi nghĩa cần phải kiên quyết và tấn công, vì "phòng ngự là cái chết của mọi cuộc khởi nghĩa vũ trang" Những người tham gia khởi nghĩa cần tấn công đối phương một cách bất ngờ khi quân đội của họ còn phân tán, đồng thời duy trì ưu thế tinh thần để đạt được thành công.
Giai cấp vô sản cần thiết phải xây dựng tổ chức quân sự riêng biệt để bảo vệ quyền lực và lợi ích của mình Ngay sau khi giành được chính quyền, việc vũ trang cho toàn thể giai cấp vô sản và nhân dân lao động là điều quan trọng Tổ chức quân sự này cần mang tính giai cấp rõ rệt, bao gồm hai bộ phận chính: các đội tự vệ vô sản tại các thành phố và đội tự vệ nông dân ở khu vực nông thôn, cùng với quân đội chính quy nhằm chống lại các mối đe dọa xâm lược.
Vào nửa cuối thế kỷ XIX, C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng cách mạng xã hội chủ nghĩa có thể thành công đồng thời ở tất cả các nước văn minh, nhưng họ chưa thể giải quyết toàn bộ vấn đề liên quan đến sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Thực tiễn lịch sử cũng không cho phép họ thực hiện điều này đầy đủ Những lý luận quân sự của họ đã được V.I Lênin tiếp tục phát triển và hoàn thiện trong bối cảnh lịch sử mới.
V.I Lênin đã kế thừa và phát triển tư tưởng quân sự của C Mác và Ph Ăngghen, làm phong phú thêm lý thuyết này trong bối cảnh của thời đại đế quốc chủ nghĩa.
V.I Lênin không chỉ là nhà lý luận quân sự mà còn là nhà thực tiễn quân sự, đóng góp quan trọng cho cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp công nhân và thắng lợi cách mạng xã hội chủ nghĩa Ông đã phát triển nguyên lý khởi nghĩa vũ trang và nhấn mạnh vai trò của các yếu tố kinh tế, chính trị, tinh thần trong chiến tranh, cũng như sự phụ thuộc của lực lượng vũ trang vào nền kinh tế và chế độ xã hội Đồng thời, Lênin đã sáng tạo ra học thuyết hoàn chỉnh về việc vũ trang bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đề xuất và lý giải tầm quan trọng của việc thành lập quân đội chính quy thường trực cho nhà nước xã hội chủ nghĩa.
T- t-ởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực l-ợng vũ trang và đấu
T- t-ởng quân sự Hồ Chí Minh là một bộ phận quan trọng trong t- t-ởng cách mạng của Ng-ời Đó là kết quả hoạt động t- duy và thực tiễn trong những điều kiện lịch sử nhất định, là sự tiếp thu vận dụng sáng tạo di sản t- t-ởng quân sự của dân tộc và tinh hoa quân sự nhân loại, đặc biệt là lý luận quân sự Mác – Lênin T- t-ởng quân sự Hồ Chí Minh đ-ợc hình thành và phát triển trong quá trình giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa đ-ờng lối cách mạng và ph-ơng pháp cách mạng Xuất phát t- đặc điểm nổi bật của cách mạng Việt Nam là cách mạng giải phóng dân tộc, gắn liền với khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng Đứng tr-ớc kẻ thù là thực dân đế quốc Ng-ời khẳng định: Không có con đ-ờng nào khác là phải sử dụng bạo lực cách mạng để giải phóng cho dân tộc Vì vậy khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng là con đ-ờng duy nhất đúng đắn để giành thắng lợi cho cách mạng Việt Nam
T- t-ởng quân sự Hồ Chí Minh có nội dung đa dạng và phong phú bao trùm nhiều lĩnh vực hoạt động quân sự và đấu tranh vũ trang Tr-ớc hết đó là quan điểm bạo lực cách mạng Theo Hồ Chí Minh đối với các dân tộc bị áp bức thì việc sử dụng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng để giành và giữ chính quyền là một tất yếu lịch sử Bởi vì, “Chế độ thực dân tự bản thân nó đã là một hành động bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu”[16.Tr96] ở Hồ Chí Minh bạo lực cách mạng là bạo lực cách mạng của quần chúng nhân dân trong đó đấu tranh vũ trang giữ vai trò quan trọng
Theo Hồ Chí Minh, cách mạng bạo lực không chỉ dựa vào lực lượng vũ trang mà còn cần có lực lượng chính trị của toàn dân Ông nhấn mạnh rằng đấu tranh vũ trang phải kết hợp chặt chẽ với đấu tranh chính trị, trong đó lực lượng chính trị là nền tảng để xây dựng lực lượng vũ trang.
Đấu tranh vũ trang là hình thức chủ yếu trong chiến tranh, nhằm đánh bại kẻ thù bằng quân sự và tiêu diệt đội quân xâm lược Chiến đấu cần diễn ra ở mọi nơi, kết hợp giữa chiến tranh du kích và chính quy, từ những cuộc tấn công nhỏ đến lớn để tiêu hao lực lượng địch Đồng thời, cần xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang làm nòng cốt, quyết định chiến trường Đấu tranh chính trị cũng đóng vai trò quan trọng, cần tập hợp và phát triển lực lượng chính trị, tổ chức quần chúng tham gia để phối hợp với hoạt động quân sự Việc kết hợp tấn công chính trị với quân sự sẽ làm suy yếu tinh thần địch và tạo điều kiện cho đấu tranh vũ trang phát triển.
Người khẳng định rằng quân sự là yếu tố then chốt trong kháng chiến, với thắng lợi quân sự góp phần vào thành công chính trị và ngược lại Đấu tranh ngoại giao cũng đóng vai trò chiến lược quan trọng, cần phải tuyên truyền rõ ràng về tính chất phi nghĩa của cuộc chiến xâm lược, đồng thời tranh thủ sự ủng hộ từ cộng đồng quốc tế Phương châm “vừa đánh vừa đàm”, trong đó đánh là chủ yếu, đàm là hỗ trợ, cần được thực hiện Để tiến hành đấu tranh chính trị và vũ trang, cần chú trọng xây dựng lực lượng chính trị của quần chúng, vì sự đồng lòng của nhân dân tạo thành sức mạnh bảo vệ Tổ quốc Theo tư tưởng của Người, lực lượng chính trị là nền tảng cho lực lượng vũ trang và là lực lượng trực tiếp đấu tranh cho dân sinh, dân chủ Người nhấn mạnh rằng để có đội quân vũ trang, trước hết phải có đội quân tuyên truyền và chính trị, cần xây dựng đội quân chính trị ngày càng đông đảo, với quần chúng giác ngộ chính trị tự nguyện cầm súng thì mới có thể giành chiến thắng.
Người chủ trương xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân bao gồm ba loại quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích Bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương hợp thành quân đội nhân dân Việt Nam, với sự phát triển từ các đội du kích, đội tự vệ đến bộ đội chủ lực Từ lực lượng Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, Vệ quốc đoàn đến quân đội nhân dân Việt Nam chính quy, hiện đại, tư tưởng về lực lượng vũ trang đã từng bước hoàn thiện Người đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng của bộ đội chủ lực, cho rằng lục quân là cần thiết cho mọi hình thức tác chiến, từ đánh chớp nhoáng đến lâu dài, cũng như trong cả thế công và thế thủ Trong lục quân, các lực lượng thường được chia thành bộ binh, kỵ binh, công binh và chí trọng binh.
Người đặc biệt chú trọng đến việc nâng cao ý thức chính trị và xây dựng bản chất cách mạng cho các lực lượng vũ trang nhân dân Ông nhấn mạnh rằng "Quân sự mà không có chính trị như cây không có gốc, vừa vô dụng lại có thể gây hại".
Trong xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, Hồ Chí Minh nhấn mạnh quan điểm "người trước, súng sau", cho thấy tầm quan trọng của con người trong việc cầm vũ khí Ông cho rằng con người là yếu tố quyết định, do đó cần chăm lo giáo dục, bồi dưỡng cán bộ và chiến sĩ có bản lĩnh chính trị, tri thức quân sự, trình độ văn hóa, sức khỏe và năng lực thực hiện nhiệm vụ vì nhân dân Mặc dù đánh giá cao vai trò của người cầm vũ khí, Hồ Chí Minh cũng không coi nhẹ vai trò của vũ khí và kỹ thuật Ông đã sớm lựa chọn cán bộ kỹ thuật để xây dựng ngành quân giới và chú trọng phát triển các binh chủng hiện đại như pháo binh, công binh, thông tin, phòng không không quân và hải quân.
Ng-ời luôn quan tâm đến đời sống vật chất của bộ đội, với tinh thần
"Thực túc binh cường" nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đảm bảo hậu cần vật chất kỹ thuật cho bộ đội và tiền tuyến, quyết định đến thắng lợi của cuộc kháng chiến Ngoài ra, việc xây dựng đội ngũ cán bộ quân sự cũng được coi là yếu tố then chốt, vì "cán bộ là cái gốc của mọi công việc" Một tướng giỏi sẽ làm cho đất nước mạnh mẽ, trong khi một tướng xoàng sẽ dẫn đến sự yếu kém của quốc gia.
Xuất phát từ quan điểm “Nhân dân là cha mẹ của bộ đội” và “Vũ trang quần chúng đi đôi với xây dựng quân đội nhân dân”, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chú trọng đến việc xây dựng lực lượng vũ trang, tạo ra một quân đội của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân Ông nhấn mạnh rằng việc chiến đấu và xây dựng phải song hành, với bản chất của lực lượng vũ trang phản ánh bản chất của giai cấp công nhân.
T- t-ởng xây dựng lực l-ợng vũ trang kiểu mới “Bộ đội cụ Hồ” là t- t-ởng độc đáo của Ng-ời, đã đ-a đến sự ra đời, lớn mạnh và chiến thắng vẻ vang của ba thứ quân trong các lực l-ợng vũ trang nhân dân anh hùng
Hồ Chí Minh là một nhà chiến lược quân sự thiên tài và là người thầy đã đào tạo các thế hệ cán bộ quân sự đầu tiên của Đảng Ông được coi là người cha thân yêu của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam Dưới ánh sáng tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh và đường lối quân sự của Đảng, quân đội ta đã phát triển mạnh mẽ, từng bước đáp ứng yêu cầu của cuộc chiến tranh vệ quốc.
Đ-ờng lối đấu tranh vũ trang dựa trên cơ sở phân tích so sánh lực l-ợng giữa ta và Pháp
Chiến tranh là một thử thách lớn, thể hiện sự đối đầu giữa ý chí của hai bên Một quốc gia nhỏ có thể chống lại cuộc xâm lược của một quốc gia lớn bằng sức mạnh tổng hợp, đặc biệt là ý chí kiên cường và chiến thuật hiệu quả, nhằm đánh bại ý chí xâm lược của đối phương Dựa trên phân tích lực lượng giữa ta và Pháp, Đảng ta đã quyết tâm phát động toàn dân kháng chiến Với tinh thần dám đánh và biết đánh, Đảng đã kêu gọi cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài và tự lực cánh sinh.
Ngay sau khi giành độc lập vào ngày 23/9/1945, nhân dân ta đã phải đối mặt với cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp Dù có thiện chí và nhân nhượng, những nỗ lực của chúng ta không thể làm giảm tham vọng của thực dân Chính quyền cách mạng còn non trẻ với tiềm lực kinh tế và quân sự yếu kém, nhưng khó khăn không làm nhụt ý chí bảo vệ độc lập và tự do - những giá trị quý báu mà bao thế hệ người Việt đã hy sinh để giành lấy Ý chí quyết tâm của nhân dân dựa trên việc nắm vững đối tượng tác chiến, đánh giá đúng đắn sức mạnh và điểm yếu của đối phương, cũng như so sánh lực lượng giữa ta và địch, từ đó quyết định nội dung và hình thức đấu tranh một cách chính xác và phù hợp.
B-ớc vào cuộc kháng chiến, Đảng ta phân tích và nhận định đúng tình hình so sánh lực l-ợng giữa ta và địch Chúng ta có những thuân lợi cơ bản, đó là điều kiên tiên quyết để Đảng phát động cuộc kháng chiến toàn dân chống Pháp
Nhân dân ta đã giành quyền làm chủ đất nước, bắt đầu hưởng những quyền lợi chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội chưa từng có trước đây Không khí hào hứng và phấn khởi lan tỏa từ Bắc chí Nam, với sự tin tưởng sâu sắc của toàn dân, thuộc mọi lứa tuổi, dân tộc, tầng lớp và tôn giáo vào sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh Mọi người tự nguyện hăng hái tham gia vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời bảo vệ thành quả cách mạng.
Trải qua m-ời sáu tháng vừa giữ chính quyền, vừa chuẩn bị kháng chiến, cách mạng n-ớc ta đã lớn lên về mọi mặt, v-ợt qua thế hiểm nghèo
“Ngàn cân treo sợi tóc”, Việt Nam sẵn sàng đối phó với âm mưu mở rộng chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp Hệ thống chính quyền cách mạng được củng cố, khối đoàn kết toàn dân được mở rộng và tăng cường Bên cạnh mặt trận Việt Minh, mặt trận Liên Việt được thành lập, bao gồm các tổ chức, đảng phái và cá nhân yêu nước chưa tham gia mặt trận Việt Minh.
Lực lượng vũ trang của chúng ta đã phát triển mạnh mẽ, trở thành nòng cốt cho cuộc chiến đấu Chỉ sau vài tháng từ ngày tổng khởi nghĩa thành công, mỗi tỉnh đã thành lập một chi đội vệ quốc quân Đến cuối năm 1945, tổng số bộ đội trên toàn quốc đã đạt được con số ấn tượng.
Đến cuối năm 1946, lực lượng vũ trang của ta đã tăng từ 5000 lên 80000 người, bao gồm 32 trung đoàn ở Bắc bộ, Trung bộ và 25 chi đội ở Nam bộ, cùng với gần 1 triệu chiến sỹ tự vệ và du kích trên khắp cả nước Đảng ta không ngừng củng cố uy tín trong lòng nhân dân Sau chiến tranh thế giới thứ 2, phong trào độc lập dân tộc, dân chủ, hòa bình và chủ nghĩa xã hội đang phát triển mạnh mẽ, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc đấu tranh cách mạng của chúng ta.
Bên cạnh những thuận lợi trên khi b-ớc vào cuộc kháng chiến chúng ta cũng vấp phải những khó khăn lớn
Cách mạng Việt Nam, đặc biệt là thắng lợi của cách mạng Tháng Tám và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đã đóng góp quan trọng vào cuộc tiến công của các lực lượng cách mạng và sự phát triển của thời đại Với vai trò tiên phong trong cuộc chiến chống đế quốc và tay sai tại khu vực chiến lược Đông Nam Á, Việt Nam luôn là mục tiêu tấn công quyết liệt của chủ nghĩa đế quốc.
N-ớc Việt Nam dân chủ cộng hoà mới ra đời ch-a đ-ợc sự công nhận về mặt pháp lý của các quốc gia trên thế giới Vì vậy n-ớc ta còn thiếu một tiếng nói đủ trọng l-ợng về mặt đối ngoại Hơn thế nữa, trong thế bị chủ nghĩa đế quốc bao vây bốn bề, chúng ta rất khó khăn trong việc liên hệ với bên ngoài Trong khi đó chính quyền mới thành lập, bộ máy hành chính từ Trung -ơng đến cơ sở còn đơn giản, thiếu kinh nghiệm quản lý
Lực lượng vũ trang Việt Nam, đặc biệt là quân thường trực, đang đối mặt với nhiều yếu kém và hạn chế Vũ khí trang bị không chỉ thiếu thốn mà còn lạc hậu, trong khi nhiều cán bộ chỉ huy chưa được huấn luyện đầy đủ và thiếu kinh nghiệm chiến đấu Các trang bị chủ yếu là giáo mác, đại đao, mã tấu, và một số súng trường kiểu cổ, với lượng đạn dược cũng rất hạn chế Theo thống kê tháng 3/1947, toàn quân chỉ có 26,018 súng trường và 1,522 súng máy, tức là trung bình mỗi ba người chỉ có một khẩu súng bộ binh Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định, quân đội ta mặc dù có tinh thần dũng cảm nhưng lại thiếu vũ khí, kinh nghiệm và cán bộ, thể hiện rõ sự non trẻ của lực lượng vũ trang trước khi bước vào cuộc kháng chiến toàn quốc.
Thực trạng kinh tế của đất nước đang rất đáng lo ngại, đặc biệt khi so với tiềm lực quân sự Với nền kinh tế nghèo nàn và lạc hậu, lại phải gánh chịu thiên tai và chiến tranh, tình hình càng trở nên tồi tệ hơn Nạn đói do thực dân Pháp và phát xít Nhật gây ra đã cướp đi sinh mạng của hai triệu người, và vẫn là mối đe dọa đối với nhân dân Ngoài ra, thiên tai như lũ lụt và hạn hán xảy ra liên tiếp, trong khi chính sách khai thác thuộc địa của Pháp khiến cho ngành công nghiệp phát triển chậm chạp Tình hình tài chính của đất nước cũng rất bi đát, với kho bạc chỉ còn hơn 1,2 triệu đồng, trong đó hơn một nửa là tiền rách nát không sử dụng được.
Pháp, với bản chất của chế độ t- bản, đã sử dụng việc bóc lột lao động trong nước và xâm l-ợc thuộc địa để duy trì sự tồn tại Sau chiến tranh, với yêu cầu khắc phục kinh tế và mục tiêu ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản, giới hiếu chiến Pháp đã có ý đồ xâm l-ợc Đông D-ơng ngay cả khi đang bị phát xít Đức chiếm đóng, xem đây chỉ là việc trở lại "miền đất của mình".
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, mặc dù Pháp gặp nhiều khó khăn, họ đã huy động lực lượng lớn để tái xâm lược Việt Nam, nhằm khôi phục chế độ thuộc địa Thực dân Pháp coi việc tái chiếm Việt Nam và Đông Dương như trở về lãnh thổ cũ, và xem cuộc chiến này chỉ là một cuộc “dạo mát quân sự” Tuy nhiên, thực tế cuộc chiến đã kéo dài chín năm, gây ra nhiều tổn thất về người và của.
Thực dân Pháp đã thống trị Đông Dương gần một thế kỷ và dù suy yếu sau chiến tranh thế giới thứ hai, họ vẫn giữ tiềm lực kinh tế và quân sự mạnh mẽ khi tái chiếm Việt Nam Với đội quân xâm lược thiện chiến, Pháp đã nhanh chóng cấu kết với các thế lực phong kiến và tư sản mại bản trong nước nhằm chống lại nhân dân, quyết tâm tiêu diệt lực lượng kháng chiến trong thời gian ngắn.
Các thế lực đế quốc, đặc biệt là Mỹ, đã tích cực hỗ trợ Pháp trở lại Đông Dương nhằm phục vụ lợi ích thực dân của mình Từ năm 1950, Mỹ không chỉ tham gia vào việc bàn bạc kế hoạch chiến lược cùng Pháp mà còn cung cấp một ngân sách tài chính lớn Trong giai đoạn nửa cuối cuộc chiến tranh từ 1950 đến 1954, Mỹ đã viện trợ cho Pháp gần 1200 tỷ Phrăng, góp phần quan trọng vào nỗ lực quân sự của Pháp tại Đông Dương.
350 máy bay, 390 tàu chiến, 1400 xe tăng, xe bọc thép, 16000 ô tô vận tải,
nghệ thuật lãnh đạo đấu tranh vũ trang của đảng trong cuộc kháng chiến chống thực dân pháp(1946 -1954)
Quan điểm chỉ đạo của đảng về đấu trang vũ trang trong kháng chiến chống pháp
2.1.1 kết hợp xây dựng lực l-ợng vũ trang và đấu tranh vũ trang:
Trong bối cảnh lực lượng chênh lệch quá lớn, Đảng ta đã xác định rằng con đường duy nhất để giành thắng lợi là dựa vào nhân dân, phát huy truyền thống yêu nước và chống ngoại xâm của dân tộc Để mobilize toàn dân tham gia kháng chiến, cần có lực lượng vũ trang làm nòng cốt.
Đảng đã đề ra đường lối xây dựng lực lượng vũ trang với nội dung cốt lõi là động viên và tổ chức toàn dân, xây dựng lực lượng chính trị rộng rãi của quần chúng, cùng với lực lượng vũ trang nhân dân bao gồm bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích, làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc Công cuộc xây dựng lực lượng vũ trang sẽ diễn ra song song với cuộc chiến đấu Nhiệm vụ tác chiến và nhiệm vụ xây dựng quân đội nhân dân cần được liên kết chặt chẽ và tiến hành đồng thời.
Quan điểm của Đảng ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã phát triển đến đỉnh cao, trở thành đường lối nghệ thuật động viên và tổ chức lực lượng cho cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện Quân và dân ta đã thực hiện đường lối này với tinh thần yêu nước mãnh liệt, trí thông minh và sức sáng tạo vô tận, nhằm chuyển hóa lực lượng từ nhỏ bé thành mạnh mẽ.
Dựa vào sức mạnh chính trị của quần chúng, chỉ sau hơn một năm từ cách mạng Tháng Tám, lực lượng vũ trang nhân dân đã phát triển vượt bậc Phong trào quân sự hóa toàn dân và tự vệ cứu quốc đã được xây dựng mạnh mẽ ở khắp các làng xã và đường phố, với nhiều tiểu đội và đại đội Mỗi huyện, tỉnh đều có các đơn vị tự vệ chiến đấu tập trung, tiền thân của bộ đội địa phương sau này Tháng 9/1945, Giải phóng quân Việt Nam được đổi tên thành Vệ quốc đoàn, trở thành quân đội quốc gia của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, và đến đầu năm 1949, đổi thành quân đội nhân dân Dân quân tự vệ được tuyển chọn từ các đoàn viên tích cực trong các hội cứu quốc của công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ, nhằm tổ chức các đơn vị tiểu đội, trung đội, đại đội trong phong trào luyện tập quân sự toàn dân.
Vào cuối năm 1946, với sự hỗ trợ mạnh mẽ từ toàn dân trong công cuộc chiến đấu và xây dựng đất nước, quân đội quốc gia Việt Nam đã phát triển lên 25 chi đội và 30 trung đoàn bộ binh, tạo thành một lực lượng quân sự đáng kể.
82000, cả n-ớc có gần 1 triệu dân quân tự vệ và du kích
B-ớc vào cuộc kháng chiến lực l-ợng vũ trang đã đ-ợc tăng c-ờng đáng kể Để tổ chức toàn dân đánh giặc, và thực hiện vũ trang toàn dân, tháng 2/1947, Bộ Quốc phòng ra Thông t- quy định mọi công dân từ 18 đến 45 tuổi vào dân quân Đồng thời kêu gọi thanh niên xung phong tòng quân giết giặc Vì vậy cùng với phong trào dân quân phát triển rộng lớn, phong trào xung phong tòng quân diễn ra sôi nổi ở khắp các địa ph-ơng Chỉ trong mùa hè
Năm 1947, lực lượng Vệ quốc quân đã đạt 125.000 người, với 35.000 tình nguyện viên nhập ngũ, bao gồm 57 trung đoàn và 19 tiểu đoàn độc lập trên toàn quốc Từ những "hạt giống bé nhỏ" của Giải phóng quân, lực lượng này đã "nảy nở thành cánh rừng to lớn Vệ quốc quân", đánh dấu một bước tiến quan trọng trong sự phát triển của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, lực lượng vũ trang cách mạng đã phát triển mạnh mẽ về số lượng vũ khí, từ hàng vạn khẩu súng cũ kỹ trước đây, đến 10.000 khẩu súng thu được từ địch và hàng trăm súng ba-dô-ca, súng cối mới sản xuất Sự tiến bộ này gắn liền với nỗ lực của ngành quân giới, nơi đã vượt qua nhiều khó khăn để tự lực chế tạo các loại vũ khí hiệu quả Ngoài các xưởng quân giới chính ở chiến khu Việt Bắc, các quân khu và tỉnh cũng có xưởng quân khí riêng, góp phần quan trọng vào việc cung cấp vật chất cho quân đội và nhân dân, nâng cao hiệu quả trong cuộc chiến tranh nhân dân chống địch.
Mặc dù các đơn vị vệ quốc quân do địa phương xây dựng chưa có kinh nghiệm chiến đấu, lực lượng dân quân tự vệ tuy đông đảo nhưng chất lượng còn thấp và trang bị chủ yếu bằng vũ khí thô sơ Trong bối cảnh đó, việc động viên toàn dân kháng chiến trở thành yêu cầu cấp thiết Đáp lại lời kêu gọi kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước đã đồng lòng đứng dậy với tinh thần "Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh" Truyền thống và sức mạnh dân tộc được khơi dậy, mặt trận dân tộc thống nhất phát triển nhanh chóng, thu hút hàng triệu hội viên vào các đoàn thể cứu quốc và nhiều đội du kích xuất hiện trên khắp cả nước.
Để xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân mạnh mẽ, cần có sự ủng hộ và tham gia của toàn dân, đồng thời gắn kết nhiệm vụ này với việc phát triển lực lượng chính trị Mọi hoạt động của lực lượng vũ trang phải liên kết chặt chẽ với phong trào cách mạng của quần chúng.
Trong quá trình chiến đấu gian khổ với kẻ thù, lực lượng vũ trang nhân dân đã không ngừng phát triển và tinh nhuệ, nhờ vào sự bảo vệ sinh mạng và tài sản của nhân dân Được xây dựng từ nhân dân và dựa vào sức mạnh của quần chúng, lực lượng này luôn phục vụ một cách tận tâm vì lợi ích của nhân dân.
Chủ trương kết hợp kháng chiến và kiến quốc đã giúp phát triển kinh tế, bồi dưỡng sức dân và củng cố lực lượng vũ trang cách mạng Trong bối cảnh chiến tranh, cải cách ruộng đất được thực hiện, mang lại ruộng đất cho nông dân, từ đó phát động lực lượng nông dân đông đảo và củng cố liên minh công nông Lực lượng vũ trang nhân dân phát triển nhanh chóng về số lượng và chất lượng, được cung cấp ngày càng tốt hơn, đủ sức mở ra những chiến dịch quy mô lớn và phát triển mạnh mẽ cả chiến tranh du kích lẫn chiến tranh chính quy.
Nhận thức rõ quy luật chiến tranh giải phóng ở nước ta là từ chiến tranh du kích tiến dần lên chiến tranh chính quy, đồng thời xác định vị trí và vai trò chiến lược của dân quân tự vệ cùng bộ đội địa phương Đảng, Nhà nước và nhân dân cần khẩn trương xây dựng bộ đội thường trực, đồng thời chú trọng tổ chức lực lượng vũ trang tại chỗ ở các thôn, xã, huyện, tỉnh làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc Dân quân tự vệ, từ tổ chức vũ trang quần chúng do mặt trận Việt Minh và các đoàn thể cứu quốc xây dựng, đã được thống nhất về tổ chức và chỉ huy từ tháng 3/1947, trở thành một bộ phận của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng địa phương Đây là bước phát triển mới trong việc hoàn thiện tổ chức ba thứ quân của lực lượng vũ trang nhân dân ta.
Vào tháng 8 năm 1948, theo chỉ thị "Xây dựng bộ đội địa phương và dân quân" của Ban thường vụ Trung ương Đảng, bộ đội địa phương chính thức được thành lập với quy mô phổ biến ở cấp đại đội hoặc tiểu đoàn Đến cuối năm 1949, sự phát triển của lực lượng này đã lan rộng từ Liên khu.
Đến năm 1950, lực lượng bộ đội địa phương đã phát triển lên tới 45.000 người, với mỗi huyện ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ có từ 1 đến 2 trung đội và mỗi tỉnh có từ 1 đến 2 đại đội Bộ đội địa phương chủ yếu là các chiến sĩ ưu tú, đóng vai trò nòng cốt trong việc phối hợp cùng dân quân tự vệ để đánh bại các cuộc tấn công của địch, làm tiêu hao sinh lực của đối phương Đây là lực lượng cơ động quan trọng của địa phương, đồng thời cũng là nguồn bổ sung cho việc xây dựng bộ đội chủ lực.
Quá trình lãnh đạo đấu tranh vũ trang của Đảng trong cuộc kháng chiến chông thực dân Pháp (1946 – 1954)
2.2.1 Thời kỳ 1946 - 1947: Đẩy mạnh chiến tranh du kích, đánh bại chiến l-ợc đánh nhanh thắng nhanh của thực dân Pháp
Trong bối cảnh cuộc kháng chiến tại Hà Nội và các đô thị khác, chúng ta đã thành công trong việc di chuyển các cơ quan lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và Mặt trận về các căn cứ kháng chiến, đặc biệt là ở trung ương Đến tháng 3 năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng các cơ quan lãnh đạo trung ương đã an toàn chuyển lên căn cứ Việt Bắc.
Căn cứ địa Việt Bắc là trung tâm chỉ đạo kháng chiến của cả nước, nơi thể hiện tinh thần kiên cường và bất khuất của nhân dân Việt Bắc Được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chăm sóc và giáo dục, đồng bào các dân tộc nơi đây mang trong mình lòng yêu nước sâu sắc, căm thù giặc và đoàn kết chặt chẽ trong cộng đồng, một lòng ủng hộ và tham gia kháng chiến.
Tướng Xalăng đã nhận thức rõ vị trí chiến lược của Việt Bắc và chỉ đạo quân Pháp ở Bắc Đông Dương chuẩn bị cho “Kế hoạch tiến công Việt Bắc” Ngay sau khi kế hoạch được phê duyệt, 14 tiểu đoàn Âu- Phi đã được triển khai đến miền Bắc Việt Nam Lực lượng tham gia cuộc tiến công bao gồm 5 trung đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn dù, 2 tiểu đoàn pháo binh, 2 tiểu đoàn công binh, 3 đại đội cơ giới, 2 phi đội với 40 máy bay, cùng 3 thuỷ đội xung kích, tổng cộng có khoảng 10.000 quân.
Kế hoạch tiến công của địch dự kiến chia làm 2 b-ớc
B-ớc 1: Mang mật danh Lê - a, mục tiêu đánh chiếm là khu tam giác Bắc Cạn - Chợ Đồn - Chợ Mới Mục đích của Pháp là hình thành 2 mũi nh- 2 gọng kìm bao vây toàn bộ khu căn cứ Việt Bắc
B-ớc 2: Mang mật danh “ Xanh – tuya”, tức “ siết chặt vành đai” Quân địch sẽ tập trung càn quét khu tam giác : Bắc Cạn - Chợ Chu - Chợ Mới, lấy vùng Chợ Chu làm trọng điểm
Cuộc hành quân diễn ra trên 8 tỉnh, tập trung vào khu vực tứ giác Tuyên Quang - Đài Thị - Bắc Cạn - Thái Nguyên Với chiến lược tấn công chớp nhoáng, Pháp huy động sức mạnh tối đa từ thủy, lục, không quân để càn quét từng khu vực, bao vây và tiêu diệt các mục tiêu chiến lược Mục tiêu bao gồm diệt và bắt giữ cơ quan đầu não của Việt Minh, tiêu diệt lực lượng chủ lực, phá hủy căn cứ địa Việt Bắc, và bịt kín biên giới Việt-Trung Cuộc truy lùng nhằm đánh tan tiềm lực kháng chiến của Việt Minh.
Pháp tin rằng kế hoạch này hoàn hảo và có khả năng chấm dứt chiến tranh Tác giả của "kế hoạch tiến công Việt Bắc", Xalăng, khẳng định rằng chỉ cần 3 tuần lễ để tiêu diệt đầu não của Việt Minh.
Trước khi Pháp tiến công, quân đội ta có 105.990 người nhưng trang bị thiếu thốn và không đồng nhất, với trình độ kỹ thuật và chiến thuật còn yếu kém Tình hình trang bị không cho phép ta tiến hành những trận đánh lớn để ngăn chặn địch Mặc dù yếu hơn địch về mọi mặt, tinh thần chiến đấu, khả năng chịu đựng gian khổ hy sinh và sự dũng cảm của bộ đội ta vẫn được phát huy mạnh mẽ.
Vào ngày 15/9/1947, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã ra chỉ thị nhằm chuẩn bị phá các cuộc tiến công lớn của địch, với chủ trương kiên quyết phát động du kích chiến và tập trung cho vận động chiến Khẩu hiệu "Đập tan cuộc tiến công mùa đông của giặc Pháp" được treo khắp nơi, trong khi các hoạt động phá hoại diễn ra khẩn trương Các tuyến đường bị cắt đứt, dân quân du kích được huy động để bảo vệ các căn cứ địa và kiểm soát những khu vực trọng yếu.
Vào ngày 8/10/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi bộ đội, dân quân du kích và toàn thể đồng bào cùng nhau nỗ lực tiêu diệt kẻ thù Người phân tích rằng kẻ địch có ý định hội quân tại Bắc Cạn nhằm tạo thành một vòng vây bao quanh Việt Bắc, từ đó chúng sẽ thu hẹp vòng vây, tấn công từ trên xuống và từ dưới lên để tiêu diệt cơ quan lãnh đạo của ta Người nhấn mạnh rằng kẻ thù mạnh ở hai gọng kìm, và nếu một trong hai gọng kìm bị gãy, vòng vây của chúng sẽ trở nên yếu ớt.
Vào ngày 15/10/1947, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã ra chỉ thị nhằm phá tan cuộc tiến công mùa đông của địch, nhấn mạnh rằng "địch yếu phải mạo hiểm" Cuộc tấn công của địch chỉ diễn ra mạnh mẽ trong giai đoạn đầu Nhiệm vụ của quân và dân ta là gây thiệt hại nặng nề cho địch, buộc chúng phải chuyển sang thế thủ, từ đó đánh bại kế hoạch "đánh nhanh thắng nhanh" của thực dân Pháp và ép chúng phải chuyển sang chiến lược đánh lâu dài với ta.
Chỉ thị nhằm phá tan cuộc tiến công của giặc Pháp tại Việt Bắc đã khẳng định tinh thần quyết chiến, quyết thắng dựa trên sự đoàn kết toàn dân và sự phối hợp chặt chẽ giữa quân và dân Thực hiện chỉ thị của Trung ương Đảng, Bộ tổng chỉ huy đã quyết định chiến dịch với mục tiêu đánh mạnh tại mặt trận sông Lô và đường số 4, phá hủy các tuyến vận tải tiếp tế của địch, tiến hành phục kích tại các con đường rừng và tấn công vào các căn cứ của địch, nhằm tiêu diệt lực lượng quân địch đang quấy rối.
Chiến dịch do Bộ tổng chỉ huy lãnh đạo với đồng chí Võ Nguyên Giáp làm chỉ huy trưởng, đã thành lập các ban chỉ huy tại mặt trận sông Lô, đường số 4 và đường số 3 Trung đoàn vệ quốc quân từ các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên cùng các đơn vị trực thuộc nhanh chóng được phân tán thành các đại đội độc lập, phối hợp với dân quân du kích để tấn công địch Các đơn vị bộ đội chủ lực đã chủ động đón đường và tấn công kẻ thù, trong khi dân quân du kích thực hiện các chiến thuật như đánh mìn, phục kích, bắn tỉa và cắm chông để chiến đấu chống lại địch ở khắp mọi nơi.
Ngày 7/10/1947, chiến dịch phản công của quân và dân ta tại Việt Bắc
Năm 1947, khi quân địch vừa nhảy dù xuống Bắc Cạn, lực lượng dân quân du kích và bộ đội ta ngay lập tức xuất phát từ rừng núi để tấn công Đoàn cảnh vệ Bắc Cạn cùng đại đội độc lập huyện Bạch Thông và các dân quân du kích từ Thanh Mai, Yên Định, Cao Hòa đã phối hợp lùng bắt những tên nhảy dù bị lạc, qua đó thu được toàn bộ kế hoạch tiến công của thực dân Pháp Cuộc tập kích lớn bằng quân đổ bộ đường không của thực dân Pháp đã thất bại hoàn toàn.
Trên mặt trận sông Lô, quân ta đã chủ động tập kích và tiêu diệt địch ngay khi chúng vừa đổ bộ lên bến Bình Ca Với chiến thuật “đặt gần bắn thẳng,” lực lượng ta đã thành công trong việc tiêu diệt và bắn chìm nhiều tàu chiến của giặc tại Khoan Bộ, Đoan.
Hùng, Khe Lau Cuộc hành quân của địch từ Tuyên Quang lên Chiêm Hoá bị bẻ gãy
PHÇN KÕT LUËN
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, với đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ, đã kết thúc thắng lợi vang dội toàn cầu Thành công này phản ánh đường lối cách mạng đúng đắn, khẳng định tính cách mạng, khoa học và sáng tạo trong phương thức tiến hành chiến tranh nhân dân Nghệ thuật quân sự của cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện đã chứng minh vai trò quyết định của đấu tranh vũ trang trong việc đạt được thắng lợi.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã kiên cường chiến đấu chống lại chủ nghĩa đế quốc, vượt qua những khó khăn khắc nghiệt với quyết tâm "Thà hy sinh tất cả chứ không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ" Lực lượng vũ trang đã đóng vai trò nòng cốt, giúp nhân dân ta từng bước làm thất bại mọi âm mưu và chính sách xâm lược của kẻ thù.
Với tinh thần yêu nước và ý chí kiên cường, toàn quân và toàn dân đã kết hợp kháng chiến với sản xuất, tự cấp tự túc, xây dựng lực lượng chính trị và ba thứ quân của lực lượng vũ trang Trong quá trình đấu tranh, các lực lượng vũ trang nhân dân không ngừng học hỏi, phát triển chiến tranh du kích, và đã từng bước trưởng thành và lớn mạnh.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ của nhân dân ta đã giành thắng lợi vĩ đại, đánh dấu lần đầu tiên một nước thuộc địa nhỏ yếu đánh bại một đế quốc hùng mạnh Trong cuộc kháng chiến toàn dân, các lực lượng vũ trang nhân dân đã nhanh chóng lớn mạnh và được tôi luyện thành sức mạnh kiên cường Đường lối cách mạng và quân sự đúng đắn của Đảng là yếu tố quyết định cho sự ra đời và chiến thắng của các lực lượng vũ trang Với sự nắm vững lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động một cuộc chiến tranh nhân dân toàn diện, kết hợp sức mạnh của toàn dân và lực lượng vũ trang cách mạng Chúng ta đã đánh bại kẻ thù với sức mạnh của thời đại và truyền thống lịch sử, đồng thời nhận được sự ủng hộ từ các nước XHCN và bạn bè quốc tế Điều này đã chứng minh rằng, một nước nhỏ vẫn có thể đánh bại một đế quốc lớn, khi quân đội ta, mặc dù ít về số lượng và trang bị, vẫn có thể chiến thắng những đội quân xâm lược hùng mạnh.
Mỗi bước trưởng thành và chiến công của quân đội ta luôn gắn liền với sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và sự ủng hộ của toàn dân Đảng đã đề ra đường lối đấu tranh vũ trang đúng đắn, phù hợp với từng điều kiện lịch sử cụ thể, kết hợp giữa chiến tranh du kích và chiến tranh chính quy, đồng thời hòa quyện đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị và ngoại giao Sự huy động toàn dân vào cuộc chiến chống kẻ thù chung của dân tộc, với quan điểm “mỗi người dân là một chiến sỹ, mỗi làng xóm là một pháo đài”, đã phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc trên trận tuyến chống quân thù.
Quân đội ta, sinh ra từ nhân dân và vì nhân dân mà chiến đấu, là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam Trong bối cảnh khói lửa của khởi nghĩa và chiến tranh, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, lực lượng vũ trang nhân dân đã nhanh chóng tham gia vào cuộc chiến chống lại các đội quân xâm lược của chủ nghĩa đế quốc, từng bước đánh bại các kế hoạch quân sự lớn của kẻ thù.
Các lực lượng vũ trang nhân dân đã phát triển mạnh mẽ từ những ngày đầu, từ trang bị thô sơ trở thành lực lượng hiện đại hơn Họ đã chuyển từ một quân đội chỉ có bộ binh sang nhiều binh chủng, tiến hành các hoạt động từ phân tán, du kích sang tác chiến chính quy Sự kết hợp chặt chẽ giữa chiến tranh chính quy và du kích, cùng với hoạt động phối hợp giữa các lực lượng vũ trang và phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng, đã giúp họ liên tục tấn công địch Qua đó, các chiến dịch quy mô từ nhỏ đến lớn đã được triển khai, dẫn đến việc đánh bại quân xâm lược.
Với đường lối đấu tranh vũ trang cách mạng đúng đắn của Đảng, quân đội ta đã cùng toàn dân chiến đấu và xây dựng trong suốt 9 năm, đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đặc biệt là chiến thắng Điện Biên Phủ, đã trở thành biểu tượng anh hùng của cuộc chiến tranh nhân dân, thể hiện sự trưởng thành trong nghệ thuật lãnh đạo chiến tranh nhân dân của Đảng và sự lớn mạnh của các lực lượng vũ trang.