1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Nghi lễ thờ bồ tát quán thế âm hiện nay (qua tìm hiểu một vài cơ sở thờ tự)

148 18 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 148
Dung lượng 14,26 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1 KHÁI QUÁT VÊ BỒ TÁT QUÁN THẾ Ả M (14)
    • 1.1. Khái lược lịch sử Phật giáo (14)
    • 1.2. Một số khái niệm (16)
      • 1.2.1. Một số khái niệm trong tín ngưỡng, tôn g iáo (16)
      • 1.2.2. Khái niệm nghi lễ (18)
      • 1.2.3. Khái niệm về Bồ tát Quán Thế Â m (20)
    • 1.3. Bồ tát Quán Thế Âm trong kinh điển, tên gọi và hành trạng (21)
      • 1.3.1. Bồ tát Quán Thế Âm trong kinh điển Phật g iáo (0)
      • 1.3.2. Bồ tát Quán Thế Âm với tên gọi (23)
      • 1.3.3. Hành trạng của Bồ tát Quán Thế Â m (26)
    • 1.4. Tín ngưỡng thờ Bồ tát Quán Thế Âm ở Việt N am (28)
  • CHƯƠNG 2: TÌM HIẾU NGHI LỄ THÒ BỔ TÁT QUAN THẾ ÂM HIỆN NAY Ở MỘT SỐ C ơ SỞ THỜ T ự (30)
    • 2.1. Nơi thờ phụng Bồ tát Quán Thế Â m (0)
      • 2.1.1. Chùa Hương (31)
      • 2.1.2. Chùa Bổ Đ à (35)
      • 2.1.3. Cơ sở thờ tự tư g ia (38)
    • 2.2. Chuẩn bị nghi lễ thờ phụng Bồ tát Quán Thế Â m (0)
      • 2.2.1. Đồ thờ, pháp khí, pháp cụ (0)
      • 2.2.2. Đồ dâng cúng (46)
    • 2.3. Nghi lễ thờ Bồ tát Quán Thế Â m (48)
      • 2.3.1. Nghi thức tán tụng đức Quán Thế Âm Bồ tát (49)
      • 2.3.2. Khóa tụng kinh Ngũ Bách Danh (54)
      • 2.3.3. Khóa tụng kinh Phổ M ôn (66)
      • 2.3.4. Khóa tụng Đại Bi Sám p h áp (67)
      • 2.3.5. Khóa tụng Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm K inh (0)
      • 2.3.6. Nghi thức tụng chú Bồ tát Quán Thế Â m (0)
      • 2.3.7. Thực hành nghi lễ hàng ngày (69)
  • CHƯƠNG 3:JBÓ TÁT QUÁN THÉ ÂM TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA,.XÃ HỘI VIỆT NAM (0)
    • 3.1. Bồ tát Quán Thế Âm trong một số lễ hội (72)
    • 3.2. Bồ tát Quán Thế Âm trong văn h ọ c (75)
    • 3.3. Bồ tát Quán Thế Âm trong nghệ thuật sân khấu (77)
    • 3.4. Bồ tát Quán Thế Âm trong nghệ thuật tạo hình (80)
    • 3.5. Bảo tồn và phát triển tín ngưỡng thờ Bồ tát Quán Thế Âm (0)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (89)

Nội dung

KHÁI QUÁT VÊ BỒ TÁT QUÁN THẾ Ả M

Khái lược lịch sử Phật giáo

Phật giáo, được sáng lập bởi Thích Ca Mâu Ni vào khoảng thế kỷ 5 trước Công nguyên ở Ấn Độ, đã trở thành một trong ba tôn giáo lớn nhất thế giới Giáo lý của Thích Ca Mâu Ni nhấn mạnh rằng thế giới tồn tại tự nhiên, không do ai tạo ra, và mọi vật đều vô thường, biến chuyển theo luật nhân quả Tứ diệu đế là giáo pháp trung tâm của đạo Phật, bao gồm bốn chân lý: cuộc sống là bể khổ trong vòng luân hồi sinh - lão - bệnh - tử; nguyên nhân của khổ là lòng tham, sự tức giận và ngu si; diệt khổ tức là chấm dứt những nguyên nhân ấy để đạt đến Niết bàn; và con đường giải thoát là tu theo Bát chính đạo, xa lánh cuộc sống trần tục.

Phật giáo trải qua bốn giai đoạn phát triển chính Giai đoạn đầu tiên, từ giữa thế kỷ VI đến giữa thế kỷ V trước Công nguyên, được gọi là giai đoạn nguyên thủy, nơi Đức Phật và các đệ tử của Ngài truyền bá giáo lý Giai đoạn thứ hai, bắt đầu từ khoảng thế kỷ IV trước Công nguyên, chứng kiến sự phân hóa thành nhiều trường phái qua các hội nghị về giáo pháp Giai đoạn thứ ba, từ thế kỷ I sau Công nguyên, đánh dấu sự xuất hiện của Phật giáo Đại thừa (Bắc Tông) tại Trung Quốc, Triều Tiên và Nhật Bản, với đặc điểm nổi bật là lòng từ bi và chủ trương tu hạnh bồ tát Cuối cùng, giai đoạn thứ tư, từ thế kỷ VII, là sự ra đời của Mật tông Phật giáo (Kim Cương thừa), được truyền bá qua Tây Tạng, Trung Quốc, Nhật Bản, Mông Cổ và Nga.

Phật giáo đã du nhập vào Việt Nam khoảng 2000 năm và trải qua nhiều thăng trầm cùng với lịch sử dân tộc Lịch sử Phật giáo tại Việt Nam được ghi chép rõ ràng trong tác phẩm "Việt Nam Phật giáo sử luận" của Nguyễn Lang, cho thấy vào thế kỷ I đến thế kỷ II sau Công nguyên, ngoài hai trung tâm Phật giáo lớn ở Trung Quốc là Lạc Dương và Bành Thành, một trung tâm thứ ba đã xuất hiện tại Luy Lâu, thuộc tỉnh Bắc Ninh ngày nay Có giả thuyết cho rằng Luy Lâu hình thành sớm hơn cả Lạc Dương và Bành Thành, đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành hai trung tâm này Điều này khẳng định rằng Luy Lâu được thành lập nhờ sự đóng góp của các tăng sĩ Ấn Độ, không phải do sự truyền bá từ Trung Quốc.

Một tài liệu khác là cuốn Lịch sử Phật giáo Việt Nam iập 1 của Lê Mạnh

Thời Hùng Vương, nhà sư Phật Quang xuất hiện ở Cửa Sót (nay thuộc huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh), được coi là nhà truyền giáo đầu tiên của Phật giáo Chử Đồng Tử, người phật tử đầu tiên, xuất hiện trong sự tích Chử Đồng Tử và Tiên Dung ở đầm Dạ Trạch Điều này gợi ý rằng Cửa Sót có thể là địa điểm đầu tiên mà Phật giáo du nhập vào Việt Nam.

Phật giáo Việt Nam bắt nguồn từ những dấu ấn quan trọng trong lịch sử Vào cuối thế kỷ II, tác phẩm chữ Hán đầu tiên mang tên Lý hoặc Luận được Mâu Tử viết tại Giao Chỉ, đánh dấu sự phát triển ban đầu của Phật giáo Đến khoảng thế kỷ III, thiền sư Khương Tăng Hội đã dịch nhiều kinh sách, trong đó có kinh Bát nhã ba la mật đa, giúp Phật giáo Việt Nam chuyển mình sang Phật giáo Đại thừa.

Thiền phái Tì ni đa lưu chi được thành lập vào thế kỷ VI, tiếp theo là Thiền phái Vô Neôn vào đầu thế kỷ IX, theo Thiền Nam tông Năm 1009, Nhà Lý ra đời, đánh dấu thời kỳ hưng thịnh của Phật giáo ở Việt Nam kéo dài khoảng 400 năm đến cuối triều đại nhà Trần Thế kỷ XIII chứng kiến sự ra đời của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, thiền phái lớn đầu tiên tại Việt Nam Tuy nhiên, sau sự sụp đổ của nhà Trần vào thế kỷ XIV, nhà Hậu Lê đã chú trọng vào Nho giáo, dẫn đến việc Lê Thánh Tông cấm xây dựng chùa mới vào năm 1464 Giữa thế kỷ XVII, trong bối cảnh Nam Bắc phân tranh, Phật giáo phục hưng với sự hoạt động của Thiền sư Chân Nguyên và Hương Hải ở Đàng Ngoài, cùng với môn phái của Thiền sư Liễu Quán ở Đàng Trong Đầu thế kỷ XIX, sau khi Gia Long đánh bại Tây Sơn, Phật giáo bị ảnh hưởng, nhưng các vua nhà Nguyễn như Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức đã quan tâm đến việc phục hưng đạo Phật Thời kỳ Pháp thuộc, phong trào chấn hưng Phật giáo nổi lên vào những thập niên đầu thế kỷ XX.

Bài viết này tóm tắt lịch sử Phật giáo và sự phát triển của Phật giáo tại Việt Nam, nhằm làm nền tảng cho việc nghiên cứu chủ đề chính của luận văn.

Một số khái niệm

1.2.1.M ột số khái niệm trong tín ngưỡng, tôn giáo

Tôn giáo là một thuật ngữ không thuần Việt, được du nhập từ nước ngoài vào cuối thế kỷ XIX Thuật ngữ này khó có thể diễn đạt đầy đủ ý nghĩa của nó qua các thời kỳ và nền văn hóa khác nhau, từ cổ đại đến hiện đại, từ phương Đông đến phương Tây.

Tôn giáo, từ tiếng Anh "religion," có nguồn gốc từ thuật ngữ Latin "legere," mang ý nghĩa là thu lượm thêm sức mạnh siêu nhiên.

Thuật ngữ tôn giáo có nguồn gốc từ phương Tây và đã trải qua nhiều biến đổi nội dung Khi khái niệm này trở nên phổ quát toàn cầu, nó gặp phải những khái niệm truyền thống không tương ứng của các nền văn minh khác Do đó, xuất hiện nhiều quan niệm và định nghĩa khác nhau về tôn giáo từ nhiều dân tộc và tác giả trên thế giới.

- Các nhà thần học cho rằng, “Tôn giáo là mối liên hệ giữa thần thánh và con người”.

- Khái niệm mang dấu hiệu đặc trưng của tồn eiáo: “Tôn siáo là niềm tin vào cái siêu nhiên”.

Một số nhà tâm lý học cho rằng tôn giáo là sự sáng tạo của cá nhân trong nỗi cô đơn Họ cho rằng tôn giáo phản ánh sự cô đơn, và nếu một người chưa từng trải qua cảm giác cô đơn, thì họ chưa bao giờ thực sự hiểu được tôn giáo.

Tôn giáo, theo C.Mác, được coi là tiếng thở dài của những người bị áp bức, phản ánh nỗi khổ đau và khát vọng tự do của họ Nó là trái tim của thế giới không có trái tim, thể hiện sự thiếu vắng tinh thần trong trật tự xã hội Tôn giáo mang bản chất xã hội sâu sắc, vừa là phương tiện xoa dịu nỗi đau, vừa là biểu hiện của những bất công trong cuộc sống.

Theo Ph Ăngghen, tôn giáo được định nghĩa là sự phản ánh sai lệch trong tâm trí con người về những lực lượng bên ngoài, những điều chi phối cuộc sống hàng ngày của họ.

Tôn giáo được định nghĩa trong Từ điển Bách khoa Việt Nam là hình thái ý thức xã hội phản ánh một cách hư ảo thế giới hiện thực, trong đó các sức mạnh trần gian được biểu hiện dưới hình thức sức mạnh siêu nhiên Đặc trưng nổi bật của tôn giáo là niềm tin vào cái siêu nhiên, bao gồm thần thánh, thế giới bên kia và sự bất tử của linh hồn.

- Đại từ điển Tiếng Việt khái quát Tôn giáo là “hình thái ý thức xã hội hình thành nhờ vào lòng tin và sùng bái thượng đế, thần linh ” [36 tr 1668]

Tín ngưỡng được cho là xuất phát từ nỗi sợ hãi của con người trong thời kỳ tiền sử, khi họ chưa thể lý giải những hiện tượng xung quanh Điều này dẫn đến việc hình thành niềm tin và sự ngưỡng vọng vào những yếu tố "siêu nhiên", hay còn gọi là "cái thiêng", đối lập với cái "trần tục" mà con người có thể cảm nhận và quan sát Tín ngưỡng cũng có thể được xem như một hình thức "tiên tôn aiáo", nơi có sự hòa nhập giữa thế giới thần linh và con người.

Tín ngưỡng ở Việt Nam, thường được gọi là tín ngưỡng truyền thống và tín ngưỡng dân gian, phản ánh sự đa dạng văn hóa của các dân tộc trên lãnh thổ Hệ thống tín ngưỡng này bao gồm nhiều thành tố như hồn linh giáo (animism), thờ cúng tổ tiên, đa thần giáo, phồn thực và ma thuật Để hiểu rõ về phức hợp tín ngưỡng này, cần có nhiều nghiên cứu để phân loại và đánh giá Theo đối tượng thờ cúng, có thể phân thành nhiên thần (hay thiên thần) và nhân thần; theo quy mô, tín ngưỡng có thể từ thờ thần trong gia đình đến làng xã và quốc gia; theo không gian, tín ngưỡng bao gồm thờ thần cai quản trên trời, dưới đất, nước và cõi người.

Cơ sở thờ tự là thuật ngữ được sử dụng phổ biến trong nghiên cứu và quản lý, đặc biệt được đề cập trong Mục 2, Điều 3, Chương I của Pháp lệnh số 21/2004/PL-UBTVQH11 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, ban hành ngày 18 tháng 6 năm 2004.

Cơ sở tín ngưỡng và cơ sở tôn giáo đóng vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh của cộng đồng Cơ sở tín ngưỡng bao gồm các địa điểm như đình, đền, miếu và nhà thờ họ, nơi thực hiện các hoạt động tín ngưỡng Trong khi đó, cơ sở tôn giáo là nơi thờ tự, tu hành và đào tạo người chuyên hoạt động tôn giáo, được Nhà nước công nhận Cả hai loại cơ sở này đều là trung tâm sinh hoạt tinh thần, thực hành các nghi lễ tôn giáo, nơi tôn thờ đối tượng thiêng liêng và là không gian cho các tín đồ tu tập và hành lễ.

Thuật ngữ "cơ sở thờ tự" thường được sử dụng để chỉ những ngôi chùa và nhà thờ có lịch sử lâu dài hoặc quy mô lớn như Chùa Hương và Nhà thờ Lớn Tuy nhiên, việc sử dụng thuật ngữ này có thể chưa phản ánh đúng tầm quan trọng của những địa điểm này Dù vậy, trong một số trường hợp, "cơ sở thờ tự" vẫn là lựa chọn phù hợp để mô tả các công trình tôn giáo.

1.2.2.1 Khái niệm chung về nghi lễ

Nghi lễ là biểu hiện của sự ứng xử và giao tiếp trong xã hội, tín ngưỡng và sinh hoạt tôn giáo, phản ánh đời sống tâm linh và văn hóa dân tộc Nghi lễ đã hình thành từ rất sớm, với các nhà nghiên cứu xác định rằng nó bắt đầu từ thời đại đồ đá mới cách đây khoảng 10.000 năm Các tài liệu như sách Chu Lễ, Công Dương truyện và Hán Thư cung cấp chi tiết về cách thực hiện nghi lễ, từ giao tế đến ứng xử và các nghi thức tôn giáo Điều này cho thấy nghi lễ có một lịch sử lâu dài và đa dạng, góp phần tạo nên nền văn hóa tín ngưỡng và tôn giáo đặc trưng của từng dân tộc.

Nghi lễ là thuật ngữ chỉ sự tổ chức và thể hiện các khuôn mẫu giao tiếp giữa con người với nhau và với các thần linh, đấng siêu nhiên Nó đóng vai trò quan trọng trong việc kết nối cộng đồng và thể hiện niềm tin văn hóa.

La tinh ritualis) gồm nhiều nghi thức (rituals) hành lễ hợp lại.

Nghi có nghĩa là uy nghi, dáng vẻ, cung cách Nghi cũng được hiểu là mẫu mực, là chuẩn mực.

Nghi lễ là sự thực hiện các phép tắc và khuôn mẫu truyền thống, thể hiện cách tổ chức giao tiếp xã hội qua các cử chỉ, ngôn ngữ và hành vi trong đời sống hàng ngày Nó bao gồm những hình thức như cúng bái, tế lễ và cầu nguyện, phản ánh các yếu tố văn hóa đặc trưng Tóm lại, nghi lễ được hiểu là những nghi thức quan trọng trong các hoạt động lễ hội.

Bồ tát Quán Thế Âm trong kinh điển, tên gọi và hành trạng

1.3.1 Bồ tát Quán Thế Ẵ m trong kỉnh điển P h ật giáo

Vào khoảng thế kỷ I, Tịnh độ tông của Đức Phật A Di Đà được hình thành tại Ấn Độ, với Bồ tát Quán Thế Âm và Bồ tát Đại Thế Chí là hai thị giả của Ngài Sau này, Bồ tát Quán Thế Âm được nhắc đến riêng biệt như một vị Bồ tát biểu trưng cho lòng từ bi vô hạn.

Bồ tát Quán Thế Âm được nhắc đến trong bộ kinh Pháp Hoa Tam Muội, một tác phẩm gồm 6 quyển, do Chi Cưorng Lương dịch vào năm Ngũ phụng thứ 2 (255) trong triều đại nhà Ngô, thời kỳ Tam quốc Sau đó, Trúc Pháp cũng có những đóng góp trong việc truyền bá giáo lý này.

Hộ dịch Chính Pháp Hoa Kinh Quán Thế Âm Phổ Môn Phẩm được thực hiện vào năm Thái Quang thứ 7 (286), trong khi Cưu Ma La Thập đã dịch Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm vào năm Hoàng Thỉ thứ 8 (406) dưới triều đại Diêu Tần.

Trong các kinh điển, Bồ tát Quán Thế Âm thường được nhắc đến là thị giả của Đức Phật A Di Đà, cùng với Bồ tát Đại Thế Chí hoặc Bồ tát Kim Cương trong các tác phẩm Mật giáo Những kinh điển nổi bật bao gồm A Di Đà kinh, Vô Lượng Thọ kinh, và Quán Vô Lượng Thọ I kinh, cùng với nhiều tác phẩm khác như Vô Lượng Thanh Tịnh Bình Bẳng Giác kinh và Đại Bảo Tích kinh Các kinh sách Mật tông cũng đề cập đến Bồ tát Quán Thế Âm, như Bất Khôns Quyên Sách Thần Biến Chân Ngồn kinh và Kim Cương Khủng Bố Tập Hội.

A Lợi Đa La Đà La Ni A Lỗ Lực kinh,

Các kinh điển kể tên Bồ tát Quán Thế Âm trong số các bồ tát nghe Đức Phật

Quán Kinh, Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh, Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, Pháp Hoa Kinh, Đại Pháp Cổ Kinh, Bồ Tát Hành Phương Tiện Cảnh Giới Thần Thông Biến Hóa Kinh, Đại Phương Quảng Tổng Trì Bảo Quang Minh Kinh, Độ Chư Phật Cảnh Giới Chí Quang Nghiêm Kinh, Phật Hoa Nghiêm Nhập Như Lai Đức Trí Bất Tư Nghi Cảnh Giới Kinh, Đại Phương Quảng Nhập Như Lai Trí Đức Bất Tư Nghi Kinh, Đại Bảo Tích Kinh, Mật Tích Kim Cương Lực Sĩ Hội, Ma Ha C Diếp Hội, Thiên Trụ Ý Thiên Tử Hội, và Di Lặc Kinh là những tác phẩm quan trọng trong kho tàng kinh điển Phật giáo, phản ánh sâu sắc tri thức và trí tuệ của Đức Phật.

Bồ Tát Sở Vấn hội và các kinh điển như Đại Bảo Tích, Bảo Kế Bồ Tát hội, cùng với Vãn Thù Sư Lợi Phật Độ Nghiêm Tịnh, Di Lặc Bồ Tát Sở Vấn Bản Nguyện, và Đại Thừa Bảo Vân thuyết pháp, bao gồm nhiều tác phẩm quan trọng như Đại Phương Tiện Phật Báo Ân, Đại Thừa Bàn Sinh Tâm Đại, Đại Thừa Mật Nghiêm, Đại Thừa Ly Văn Tự Phổ Quang Minh Tạng, và Đại Phương Quảng Sư Tử Hống Bồ Tát Quán Thế Âm luôn đồng hành cùng Bồ Tát Đại Thế Chí, với tên gọi mang ý nghĩa là Quán Thế, Quán Tự Tại, và Quang Thế Âm.

Các kinh điển ghi chép về cuộc đời, hạnh nguyện và công đức của Bồ tát Quán Thế Âm bao gồm: Pháp Hoa kinh - Phẩm Phổ Môn, Thủ Lăng Nghiêm kinh, Thiên Thủ Thiên Nhãn Đại Bi Tâm Đà La Ni kinh, Hoa Nghiêm kinh, Bi Hoa kinh, Đại Phương Đẳng Như Lai Tạng kinh và Đại Phương Quảng Như Lai Tạng kinh Ngoài ra, Bồ tát Quán Thế Âm còn được nhắc đến trong các bộ kinh và bài chú như Kinh Cứu Khổ Bạch Y Thần Chú, kinh Quan Ảm Tuyết Sơn Nhật Tụng, Bạch Y Quán Thế Âm Đại Sĩ Linh Cảm thần chú và chú Đại Bi.

1,3.2 B ồ tát Quán Thế Â m với tên g ọ i

Theo Từ điển Phật học của Ban biên dịch Đạo Uyển viết:

Bồ tát, viết tắt từ danh từ dịch âm Bồ đề Tát đóa trong tiếng Phạn (Sanskrit: bodhisattva, Pali: bodhisatta), có nghĩa là Giác hữu tình hay Đại sĩ Trong Phật giáo Đại thừa, bồ tát là những hành giả đã thực hành Lục độ Ba la mật đa và đạt được phật quả, không còn bị cuốn vào luân hồi Tuy nhiên, họ nguyện không nhập niết bàn cho đến khi tất cả chúng sinh đều giác ngộ, được coi là tiền thân của các vị phật tương lai Lòng từ bi và trí tuệ là hai yếu tố cơ bản của bồ tát, nhằm giải thoát cho chúng sinh.

Chư Bồ Tát hiện diện trong thế gian dưới nhiều hình thức khác nhau nhằm cứu độ chúng sinh Con đường tu học của Bồ Tát bắt đầu từ việc rèn luyện tâm Bồ Đề và thực hành hạnh nguyện Bồ Tát Hành trình tu học này được chia thành 10 giai đoạn quan trọng Trong số các Bồ Tát được tôn kính và thờ phụng, nổi bật có Quán Thế Âm, Văn Thù, Địa Tạng, Đại Thế Chí và Phổ Hiền.

Quán Thế Âm, hay Avalokitesvara theo tiếng Phạn, là một Bồ tát được tôn thờ rộng rãi và có vai trò quan trọng trong các nước Phật giáo Tên gọi này có nhiều cách lý giải khác nhau; theo cuốn Khái niệm về Bồ tát, thuật ngữ Avalokitesvara được hình thành từ hai từ gốc là avalokita và isvara Mặc dù khi tách rời, ý nghĩa của từng từ rõ ràng, nhưng khi kết hợp lại, ý nghĩa trở nên phức tạp và khó định nghĩa Do đó, có nhiều giải thích nổi bật về ý nghĩa của thuật ngữ này.

Vị chúa tể đang quan sát thế giới với cái nhìn từ ái, thể hiện sự hiện diện của người mà mọi người có thể thấy Người nghe âm thanh của cuộc đời, nơi âm thanh làm sáng tỏ thế giới xung quanh Một số người hiểu Isvara là một người nam quán chiếu mọi sự vật, trong khi ý kiến khác cho rằng Svara chính là âm thanh, tượng trưng cho vị Bồ tát lắng nghe mọi tiếng nói của nhân gian.

Quán Thế Âm theo tiếng Trung Quốc còn được gọi với các tên như: Quán

Quán Thế Âm, còn được biết đến với nhiều tên gọi như Tự Tại, Cửu Thế Bồ Tát, hay Đại Bi Thánh Già, là một trong những hình tượng quan trọng trong Phật giáo Người được tôn kính với khả năng cứu khổ, cứu nạn, và mang lại bình an cho chúng sinh Các tên gọi khác như Duh!-kharaksaka hay Padmapãni cũng thể hiện sự đa dạng trong cách thờ phụng và ý nghĩa của Ngài Quán Thế Âm không chỉ là biểu tượng của lòng từ bi mà còn là nguồn cảm hứng cho nhiều tín đồ trong hành trình tâm linh.

Bi Hoa kinh lý giải tên gọi Quán Thế Âm của Ngài, cho biết rằng Đức Phật Bảo Tạng đã thụ ký cho Ngài với ý nghĩa là “quán sát chúng sinh khổ đau trong thế gian” Ngài phát khởi lòng đại bi nhằm đoạn trừ khổ não và phiền não cho chúng sinh, mang lại an lạc cho họ.

Bát Nhã Tâm Kinh khu tán, quyển thượng, ngài Khuy Cơ giải thích rằng "quán" có nghĩa là trí tuệ, trong khi "tự tại" biểu thị sự tự do và quả giải thoát đã đạt được Qua việc hành Lục độ, người tu hành đạt được quả viên mãn nhờ vào trí tuệ quán chiếu, từ đó thành tựu mười thứ tự tại Mười tự tại bao gồm: 1) Thọ tự tại - kéo dài tuổi thọ theo ý muốn; 2) Tâm tự tại - không bị nhiễm từ sinh; 3) Tài tự tại - tài sản dư dật nhờ tu hạnh bố thí; 4) Nehiệp tự tại - làm việc thiện và khuyến khích người khác; 5) Sinh tự tại - thọ sinh theo mong muốn nhờ giữ giới; 6) Giải thoát tự tại - biến hóa theo ý muốn do nhẫn; 7) Nguyện tự tại - đạt được điều mong muốn nhờ tinh tiến.

8) Thần lực tự tại: Thần thông tối thắng, do định mà được 9) Trí tự tại: Biết tất cá các ngôn ngữ, lời nói 10) Pháp tự tại: Luôn khế kinh, khế lý, khế cơ, do tuệ mà được.

Tín ngưỡng thờ Bồ tát Quán Thế Âm ở Việt N am

Người Việt đã tiếp thu tư tưởng Phật giáo một cách tự nguyện, dẫn đến tín ngưỡng thờ Bồ tát Quán Thế Âm, hay còn gọi là Phật Bà Quan Âm, gắn bó sâu sắc với đời sống nhân dân Họ tin rằng Bồ tát Quán Thế Âm luôn lắng nghe và giúp đỡ họ vượt qua khó khăn trong cuộc sống Với lòng thành kính, người dân tin tưởng rằng nếu cầu nguyện chân thành, sẽ nhận được sự ứng đáp từ Ngài Tín ngưỡng này phát triển mạnh mẽ, thể hiện lòng biết ơn và sự thành kính qua các nghi lễ thờ phụng, như một mạch nguồn không ngừng chảy trong văn hóa dân gian.

Hàng năm, tín đồ Phật giáo tổ chức 3 lễ trọng để tưởng niệm Bồ tát Quán Thế Âm, bao gồm: Ngày 19/02 kỷ niệm ngày sinh của Bồ tát, Ngày 19/06 đánh dấu sự thành đạo của Ngài, và Ngày 19/09 là ngày Bồ tát xuất gia.

Người dân Việt Nam tôn kính Bồ tát Quán Thế Âm như một nữ thần, với nét mặt hiền từ và dịu dàng, giống như hình ảnh một người mẹ âu yếm chăm sóc con cái Quán Thế Âm được xem là biểu tượng của tình thương và sự che chở trong lòng cộng đồng.

Phật giáo khi vào Việt Nam đã kết hợp với tín ngưỡng thờ nữ thần bản địa, tạo ra hiện tượng thờ phụng các Phật Bà nổi bật trong hệ thống thờ cúng Các thần mây, thần mưa, thần sấm, thần chớp của tín ngưỡng cổ truyền đã hòa quyện với Phật giáo, hình thành nên những nữ thần nông nghiệp như Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, và Pháp Điện Hình tượng Bồ tát Quán Thế Âm đã chuyển từ nam sang nữ với nhiều biến thể đặc sắc như Phật Bà Quan Âm nghìn mắt nghìn tay và Quan Âm Tống Tử Những vị Phật Bà này không chỉ mang dấu ấn văn hóa riêng của Việt Nam mà còn đại diện cho dân tộc, bảo vệ chân lý và quyền lợi linh thiêng của người Việt.

Phật giáo đã được du nhập vào Việt Nam hơn 2000 năm, trải qua nhiều thăng trầm cùng với lịch sử dân tộc Điều này đã hình thành nên một nền Phật giáo Việt Nam, trở thành một phần không thể thiếu trong văn hóa Việt Nam cả trong quá khứ lẫn hiện tại.

Người Việt đã tiếp thu tư tưởng Phật giáo Đại Thừa một cách tự nguyện, dẫn đến việc Bồ tát Quán Thế Âm trở thành vị phật được tôn thờ nhiều nhất trong các điện thờ Phật giáo Hình ảnh Bồ tát Quán Thế Âm được ví như người mẹ thương con, không chỉ thể hiện tình mẫu tử mà còn phản ánh sự thấu hiểu và chăm sóc của Mẹ Quán Thế Âm dành cho thế gian.

Bồ tát Quán Thế Âm, theo quan niệm Phật giáo, có khả năng lắng nghe lời kêu cầu của tất cả chúng sinh trong cõi Ta bà Ngài thực hiện 12 đại nguyện và 32 ứng thân, cùng với 14 công năng diệu dụng để cứu độ những ai thành tâm niệm danh Ngài trong lúc cần giúp đỡ Hình ảnh của Bồ tát Quán Thế Âm được nhắc đến trong nhiều kinh điển Phật giáo, nổi bật là Pháp Hoa kinh - Phẩm Phổ Môn, Thủ Lăng Nghiêm kinh, Thiên Thủ Thiên Nhãn Đại Bi Tâm Đà La Ni kinh, Hoa Nghiêm kinh và Bi Hoa kinh.

Bồ tát Quán Thế Âm, hay còn gọi là Phật Bà Quan Âm, luôn thu hút sự quan tâm của nhiều người nhờ vào hạnh nguyện cao cả của Ngài Tín ngưỡng thờ Bồ tát Quán Thế Âm đã xuất hiện và phát triển từ sớm, mang tính đa dạng và phong phú, gắn liền chặt chẽ với đời sống văn hóa và tâm linh của người dân Việt Nam.

TÌM HIẾU NGHI LỄ THÒ BỔ TÁT QUAN THẾ ÂM HIỆN NAY Ở MỘT SỐ C ơ SỞ THỜ T ự

Nghi lễ thờ Bồ tát Quán Thế Â m

Bồ tát Quán Thế Âm không chỉ liên quan đến các nghi thức tụng niệm truyền thống mà còn có những nghi lễ hành trì đặc trưng, nổi bật là Nghi thức tán tụng Đức Quán Thế Âm và Khóa tụng kinh Ngũ Bách Danh Trong bài viết này, chúng tôi sẽ trình bày chi tiết về hai nghi lễ này, đồng thời khám phá ý nghĩa của khóa lễ và mô tả nghi thức nghi lễ trong khuôn khổ của luận văn.

2.3.1 N ghi thức tán tụng đức Quán Thế Â m Bồ tát

Nghi thức tán tụng được thực hiện trong các ngày lễ vía Bồ tát Quán Thế Âm tại các chùa và đạo tràng Quan Âm, cho phép tín đồ lễ bái vào mọi thời điểm trong ngày Trong những ngày lễ này, nhiều chùa tổ chức 4 thời kinh thay vì 2 như thường lệ Đặc biệt, đạo tràng Hương Tích đã áp dụng nghi thức này một cách rộng rãi trong các lễ hội kỷ niệm ngày vía Bồ tát Quán Thế Âm.

Trước khi bắt đầu khóa tụng tán tụng Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, người đánh chuông sẽ thỉnh 6 tiếng chuông Trong trường hợp đại lễ, sẽ có tiếng chuông trống bát nhã và nhạc khai đàn để thông báo rằng chính điện đã chuẩn bị xong nhang đèn Mọi người được mời giữ 6 căn thanh tịnh để tham gia lễ Phật và tụng kinh.

Trong buổi lễ, tất cả tín đồ cần chắp tay trước ngực và đọc ba lần câu "Nhất tâm kính lễ Thập phương Pháp giới, Thường trụ Tam bảo" Sau mỗi lần đọc, hãy đánh một tiếng chuông để thể hiện sự tôn kính.

Niêm hương, chủ lễ tay cầm ba nén hương đặt ngang trán, quv dọc bài Niêm hương, có ý nghĩa thành kính dâng hương thỉnh Phật:

Nguyện dâng lòng thành kính, gửi theo hương thơm ngát khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam Bảo Thề giữ vững đạo lý suốt đời, theo tự tính làm điều thiện, cùng với pháp giới chúng sinh Cầu xin Phật từ bi gia hộ cho tâm Bồ đề kiên cố, chí tu học vững bền, giúp xa rời biển khổ, thoát khỏi mê lầm, nhanh chóng trở về bờ giác ngộ.

Tín đồ cùng đọc 3 làn “Nam mô Hương cúng dàng Bồ tát Ma ha tát”, sau mỗi lần đọc là đánh 1 tiếng chuông.

Tán Phật là hành động tán thán công đức của Đức Phật, giúp tín đồ quy y và giải thoát khỏi ba nghiệp Trong buổi lễ, chủ lễ cắm hương vào bát hương, thể hiện lòng tôn kính đối với Đấng Pháp vương vô thượng Học thuyết của Ngài chỉ dẫn cho mọi người, giúp họ nhận thức được sự quan trọng của việc quy y và dứt sạch nghiệp Tín đồ cùng nhau xưng dương và tán thán, thể hiện lòng thành kính và quyết tâm vượt qua kiếp sống vô tận.

Trong lễ Phật, tín đồ đứng thẳng và đọc bài Quán tưởng để tập trung vào Phật pháp, đồng thời thể hiện ý nghĩa của việc đỉnh lễ Sau khi đọc ba lời vinh danh, mỗi lời sẽ được kèm theo một lần đỉnh lễ và tiếng chuông Tiếp theo, tín đồ đọc câu nguyện sám hối ba lần, mỗi lần cũng có một tiếng chuông vang lên.

Phật và chúng sinh đều mang tính chất rỗng lặng, thể hiện sự thanh tịnh trong Đạo Đạo cám thông không thể nghĩ bàn, như lưới đế châu ví von cho đạo tràng Mười phương Phật bảo tỏa sáng hào quang rực rỡ Trước bảo tọa, thân con hiện rõ, cúi đầu xin thệ nguyện quy y.

Chí tâm đỉnh lễ, con xin thành kính tri ân Nam mô Tận hư không biến pháp giới quá, hiện, vị lai Nguyện cầu mười phương chư Phật, tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng, luôn thường trụ Tam Bảo, ban phước lành cho chúng con.

Chí tâm đỉnh lễ, chúng con xin thành kính niệm Nam mô Sa bà Giáo chủ Bản sư Thích Ca Mâu Ni Phật, cùng với Di Lặc Tôn Phật trong tương lai, Đại trí Văn Thù Sư Lợi Bồ tát và Đại hạnh Phổ Hiền Bồ tát Chúng con cầu nguyện sự che chở của các Bồ tát, Hộ pháp và Linh sơn hội thượng chư Phật, Bồ tát.

Chí tâm đinh lễ Nam mô A Di Đà Phật, cầu nguyện cho sự cứu độ từ Tây phương Cực lạc thế giới Xin được tôn kính Đại từ Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát, đại Thế Chí Bồ Tát, cùng với Đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát và Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát.

Con nay khắp vì bốn ân ba cõi pháp giới chúng sinh, tất nguyện đoạn trừ tam chướng quy mệnh sám hối (1 lễ)

Trong buổi lễ Kỳ nguyện, các tín đồ thể hiện lòng thành kính bằng cách xưng danh và nêu rõ mục đích, đồng thời đọc bài sám hối Tán Phật để ngợi khen công đức của chư Phật Họ phát nguyện sám hối, cầu xin Quán Thế Âm Bồ Tát và các bậc Tam bảo Đệ tử chân thành sám hối về những nghiệp ác đã tạo ra do ba độc: Tham, sân, si, phát sinh từ thân, miệng, ý Họ cầu mong tiêu diệt mọi nghiệp chướng để đạt được an vui, đồng thời nguyện rộng độ chúng sinh mà không thoái lui.

Sám hối phát nguyện rồi, quy mệnh lễ Quán Thế Âm Bồ tát cùng khắp bậc Tam bảo (3 lễ)

Tán Hưcmg, ý nghĩa một lần nữa tỏ lòng thành kính đức Phật:

Hương xông đỉnh báu mang lại giới, định, tuệ hương, giúp giải thoát tri kiến quý giá Hương thơm ngào ngạt lan tỏa khắp muôn phương, thanh tịnh tâm hương, và đệ tử nguyện cúng dàng Đọc hai câu "Nam mô Hương cúng dàng Bồ tát Ma ha tát" và "Nam mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ tát" mỗi câu 3 lần, kèm theo tiếng chuông, để tăng cường sự tôn kính và thiền định.

Trong suốt khóa lễ, chuông được sử dụng để giữ nhịp lạy Phật cho các tín đồ Khi bắt đầu phần tụng kinh chính thức, tại nhà, người ta sẽ đánh ba tiếng chuông và gõ một hồi mõ Tại chùa, việc đánh chuông và gõ mõ cũng được thực hiện để khởi sự tụng kinh, nhằm nhắc nhở tín đồ trang nghiêm hơn Phần tụng kinh thường bắt đầu bằng chú Đại Bi và kết thúc bằng Bát Nhã Tâm kinh.

Chú Đại Bi, hay còn gọi là Thiên Thủ Thiên Nhãn vô ngại Đại bi tâm Đà La Ni, mang ý nghĩa phát tâm từ bi, và thường được kết hợp với Bát Nhã Tâm kinh, tượng trưng cho sự hòa quyện giữa từ bi và trí tuệ Trong các khóa tụng, bài chú này thường được đọc nhanh với nhịp điệu từ mõ Người tụng có thể tham khảo nguyên văn bài chú Đại Bi và kết hợp với việc tụng kinh Phổ Môn, lạy 12 danh hiệu của Quan Âm Như Lai, hoặc thực hiện 108 lạy sau mỗi câu "Nam Mô Vạn ức Tử Kim Thân Tầm Thinh cứu khổ Đại bi Linh cảm ứng Quán Thế Âm Bồ tát".

TÁT QUÁN THÉ ÂM TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA,.XÃ HỘI VIỆT NAM

Ngày đăng: 02/12/2021, 23:20

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Đào Duy Anh (2000), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Việt Nam văn hóa sử cương
Tác giả: Đào Duy Anh
Nhà XB: Nxb Văn hóa thông tin
Năm: 2000
2. Toan Ánh (1991), Nếp cũ hội hè đình đám , quyển thượng, Nxb Thành phố Hô Chí Minh, Tp Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nếp cũ hội hè đình đám
Tác giả: Toan Ánh
Nhà XB: Nxb Thành phố Hô Chí Minh
Năm: 1991
3. Ban tôn giáo Chính phủ (2003), Tập văn bản về tổ chức và đưòmg hướng hành đạo của các tôn giáo tại Việt Nam , Nxb Tôn giáo, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tập văn bản về tổ chức và đưòmg hướng hành đạo của các tôn giáo tại Việt Nam
Tác giả: Ban tôn giáo Chính phủ
Nhà XB: Nxb Tôn giáo
Năm: 2003
4. Ban tôn giáo Chính phủ (2003), Văn bản pháp luật về tín ngưcmg tôn giáo , Nxb Tôn giáo, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn bản pháp luật về tín ngưcmg tôn giáo
Tác giả: Ban tôn giáo Chính phủ
Nhà XB: Nxb Tôn giáo
Năm: 2003
5. Trân Lâm Biền (2003), Đồ thờ trong di tích của người Việt. Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đồ thờ trong di tích của người Việt
Tác giả: Trân Lâm Biền
Nhà XB: Nxb Văn hóa thông tin
Năm: 2003
6. Chu Quang Chứ (2001), Tượng cổ Việt Nam với truyền thống điêu khắc dán tộc. Nxb Mĩ thuật, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tượng cổ Việt Nam với truyền thống điêu khắc dán tộc
Tác giả: Chu Quang Chứ
Nhà XB: Nxb Mĩ thuật
Năm: 2001
7. Đoàn Trung Còn biên dịch (2005), Kinh Duy Ma Cật, Nxb Tôn giáo. Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kinh Duy Ma Cật
Tác giả: Đoàn Trung Còn biên dịch
Nhà XB: Nxb Tôn giáo. Hà Nội
Năm: 2005
8. Giác Dũng (2003), Phật Việt Nam - dân tộc Việt Nam, Nxb Tôn giáo, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phật Việt Nam - dân tộc Việt Nam
Tác giả: Giác Dũng
Nhà XB: Nxb Tôn giáo
Năm: 2003
9. Giao Trinh Diệu Hạnh, Truyền thuyết về Bồ tát Quản Thế Ả m , Nxb Văn hóa thôns tin, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Truyền thuyết về Bồ tát Quản Thế Ả m
Nhà XB: Nxb Văn hóa thôns tin
10. Trang Thanh Hiền (2005), Hình tượng Quan Ẩm Thiên Thủ Thiên Nhãn ờ Việt Nam , Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hình tượng Quan Ẩm Thiên Thủ Thiên Nhãn ờ Việt Nam
Tác giả: Trang Thanh Hiền
Nhà XB: Nxb Văn hóa thông tin
Năm: 2005
11. Nguyễn Duy Hinh (2007), Một số bài viết về tôn giảo học, Nxb Khoa học xã hôi, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số bài viết về tôn giảo học
Tác giả: Nguyễn Duy Hinh
Nhà XB: Nxb Khoa học xã hôi
Năm: 2007
12. Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam (biên soạn) (2002) , Từ điển bách khoa Việt Nam, tập 1, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ điển bách khoa Việt Nam
Nhà XB: Nxb Từ điển Bách khoa
13. HỘ1 đông Quôc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam (biên soạn) (2003) , Từ điển bách khoa Việt Nam, tập 3, Nxb Từ điền Bách khoa, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ điển bách khoa Việt Nam
Nhà XB: Nxb Từ điền Bách khoa
14. Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam (biên soạn) (2005), Từ điển bách khoa Việt Nam, tập 4, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ điển bách khoa Việt Nam
Tác giả: Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam (biên soạn)
Nhà XB: Nxb Từ điển Bách khoa
Năm: 2005
15. Nguyễn Lang (2000), Việt Nam Phật giảo sử luận, tập 1, Nxb Văn học, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Việt Nam Phật giảo sử luận
Tác giả: Nguyễn Lang
Nhà XB: Nxb Văn học
Năm: 2000
16. Nguyên Lang (2000), Việt Nam Phật giảo sử luận, tập 2, Nxb Văn học, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Việt Nam Phật giảo sử luận
Tác giả: Nguyên Lang
Nhà XB: Nxb Văn học
Năm: 2000
17. Nguyên Đức Lữ (2009), Quan điểm chính sách của Đáng và Nhà nước Việt Nam vẻ tôn giáo hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quan điểm chính sách của Đáng và Nhà nước Việt Nam vẻ tôn giáo hiện nay
Tác giả: Nguyên Đức Lữ
Nhà XB: Nxb Chính trị Quốc gia
Năm: 2009
18. Thích Chân Lý, đồng tác giả (2001), Chư kính nhật tụng. Nxb Tôn giáo. Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chư kính nhật tụng
Tác giả: Thích Chân Lý, đồng tác giả
Nhà XB: Nxb Tôn giáo. Hà Nội
Năm: 2001
19. Nguyễn Minh Ngọc, Nguyễn Mạnh Cường, Nguyễn Duy Hinh (2004), Bồ tát Quản Thê Am trong các chùa vừng đồng bằng sông Hồng, Nxb Khoa học xã hội. Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bồ tát Quản Thê Am trong các chùa vừng đồng bằng sông Hồng
Tác giả: Nguyễn Minh Ngọc, Nguyễn Mạnh Cường, Nguyễn Duy Hinh
Nhà XB: Nxb Khoa học xã hội. Hà Nội
Năm: 2004
20. Nhiều tác giả (1981), Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ X I X , Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ X I X
Tác giả: Nhiều tác giả
Nhà XB: Nxb Khoa học xã hội
Năm: 1981

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w