GI Ớ I THI Ệ U
Lý do th ự c hi ện đề tài
Sự phát triển toàn cầu hóa và tự do hóa tài chính, thương mại trong những năm qua đã tạo áp lực lớn cho thị trường tài chính, đặc biệt là các ngân hàng Tình hình kinh tế trong nước biến động liên tục làm gia tăng sự cạnh tranh giữa các ngân hàng Do đó, việc nâng cao hiệu quả kinh doanh để tăng cường cạnh tranh trở thành vấn đề được quan tâm hàng đầu.
Mặc dù có tiềm năng lớn, hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng thương mại Việt Nam vẫn chưa đạt yêu cầu Các mục tiêu đề ra thường không được hoàn thành như mong đợi, và gần đây, nhiều yếu kém đã xuất hiện trong hoạt động của họ.
NHTM hoạt động chưa thật sự hiệu quả
Việc nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng thương mại (NHTM) tại Việt Nam hiện nay là vô cùng quan trọng và thiết thực Nghiên cứu này sẽ hỗ trợ các nhà quản trị ngân hàng và nhà đầu tư trong việc đưa ra quyết định và hoàn thiện khung chính sách hợp lý cho hoạt động của các NHTM.
Nam thời kỳ hội nhập
Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã chỉ ra hiệu quả kinh doanh của ngân hàng, trong khi ở Việt Nam, các nghiên cứu gần đây tập trung vào việc đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của các Ngân hàng thương mại (NHTM) Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu chỉ dừng lại ở việc đánh giá chung về hiệu quả kinh doanh, mà chưa có nhiều đề tài phân tích cụ thể theo quy mô tổng tài sản ngân hàng Điều này dẫn đến việc cần thiết phải xem xét mức độ tác động của các yếu tố này đến hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng có quy mô tổng tài sản lớn và nhỏ.
Để đáp ứng những yêu cầu lý luận và thực tiễn, tôi đề xuất nghiên cứu đề tài luận văn "Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh tại các ngân hàng thương mại Việt Nam" Mục tiêu của nghiên cứu là đánh giá và xác định các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng, từ đó đưa ra những kiến nghị và chính sách quản trị phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam.
M ụ c tiêu nghiên c ứ u
Mục tiêu tổng quát: nhận diện và đánh giá tác động của các yếu tốảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh tại các NH TMCP Việt Nam
- Xác định các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng thương mại
- Đo lường mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến hiệu quả kinh doanh của NHTM
- Đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh tại các ngân hàng thương mại tại Việt Nam trong tương lai.
Câu h ỏ i nghiên c ứ u
- Những yếu tố nào ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh tại các NHTM Việt Nam?
- Mức độ tác động của từng nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh tại các NHTM Việt Nam?
- Làm thế nào để nâng cao hiệu quả kinh doanh tại các NHTM Việt Nam?
Đố i t ƣợ ng và ph ạ m vi nghiên c ứ u
1.4.1 Đối tƣợng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của để tài là các nhân tố ảnh hưởng hiệu quả kinh doanh của các NHTM bao gồm các đặc điểm về quy mô của ngân hàng TMCP, tỷ lệ vốn của ngân hàng, chất lượng của tài sản, sựđa dạng hóa hoạt động, phần vốn huy động của ngân hàng, tỷ lệ chi phí hoạt động bên cạnh đó là các yếu tố vĩ mô là tốc độtăng trưởng GDP và yếu tố lạm phát
Phạm vi không gian: 27 Ngân hàng thương mại Việt Nam Trong đó có 04
Hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện có 4 ngân hàng thương mại cổ phần nhà nước (Vietcombank, Agribank, BIDV, Vietinbank) và 23 ngân hàng thương mại tư nhân Trong bối cảnh tái cấu trúc, hoạt động mua bán, sáp nhập ngân hàng diễn ra sôi động, dẫn đến sự giảm mạnh số lượng ngân hàng so với trước đây Tác giả đã lựa chọn 27 ngân hàng thương mại có dữ liệu đầy đủ nhất từ danh sách hiện có, nhằm đảm bảo tính công bằng và thống nhất cho bảng dữ liệu.
Phạm vi thời gian: nghiên cứu dữ liệu theo năm giai đoạn 2010-2017
Phạm vi nội dung: Đánh giá các yếu tốảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh trong 27 NHTM Việt Nam trong khoảng thời gian 2010 – 2017.
Phương pháp nghiên cứ u
1.5.1 Phương pháp thu thập dữ liệu Đề tài sử dụng dữ liệu bảng và nguồn dữ liệu được thu thập từ báo cáo tài hính đã được kiểm toán của 27 ngân hàng trong khoảng thời gian khảo sát từ năm
1.5.2 Phương pháp xử lý dữ liệu
Nghiên cứu định tính sử dụng phương pháp thống kê để mô tả các yếu tố nghiên cứu và thực trạng kinh doanh tại các ngân hàng thương mại Việt Nam Bài viết so sánh và phân tích với các nghiên cứu trước đó nhằm xác định các biến độc lập và kiểm soát ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng thương mại.
Nghiên cứu định lượng sử dụng mô hình Fix Effects và Random Effects, sau đó áp dụng kiểm định Hausman để xác định mô hình tối ưu Các phương pháp kiểm định được thực hiện bao gồm kiểm tra tương quan, đa cộng tuyến, phương sai sai số thay đổi, tương quan phần dư đơn vị chéo và tương quan chuỗi giữa các phần dư Cuối cùng, các khuyết tật được khắc phục bằng mô hình FGLS.
K ế t c ấ u c ủ a lu ận văn
Đề tài nghiên cứu bao gồm 05 chương:
Chương 2: Cơ sở lý thuyết
Chương 3: Thực trạng kinh doanh tại các ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn 2010 – 2017
Chương 4: Phương pháp, dữ liệu và kết quả nghiên cứu
Chương 5: Kết luận và hàm ý chính sách.
TỔ NG QUAN V Ề CÁC Y Ế U T Ố ẢNH HƯỞNG ĐẾ N HI Ệ U
Hi ệ u qu ả kinh doanh c ủa ngân hàng thương mạ i
Hiệu quả kinh doanh là chỉ tiêu quan trọng phản ánh khả năng quản lý tài chính của doanh nghiệp trong việc tối ưu hóa nguồn lực để tăng lợi nhuận và đạt kết quả kinh doanh tốt nhất Điều này không chỉ giúp doanh nghiệp nâng cao lợi nhuận mà còn cải thiện khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Hiệu quả kinh doanh của ngân hàng thương mại được xác định qua khả năng sử dụng vốn, lượng vốn cần thiết để tạo ra lợi nhuận, tình hình sức khỏe và ổn định của ngân hàng, cùng với lợi nhuận trên mỗi cổ phần Những chỉ số này phản ánh khả năng sinh lời từ các nguồn vốn của ngân hàng.
Theo giáo trình "Quản trị ngân hàng thương mại" của Nguyễn Văn Tiến (2015), ngân hàng tạo ra lợi nhuận bằng cách vay mượn và bán các khoản nợ dựa trên các tiêu chí như thanh khoản, rủi ro, mệnh giá, kì hạn và lãi suất, sau đó cho vay lại theo các tiêu chí khác Quá trình này cho phép ngân hàng vay ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn, nhờ vào khả năng cấp tín dụng dài hơn thời hạn tiền gửi Chức năng chuyển hóa kì hạn này tương tự như quy trình sản xuất trong doanh nghiệp; nếu ngân hàng sử dụng tài sản có hiệu quả, tạo ra thu nhập cao và cung cấp dịch vụ với chi phí thấp, sẽ mang lại lợi nhuận, ngược lại sẽ dẫn đến thua lỗ.
Hiệu quả kinh doanh của ngân hàng có mối liên hệ chặt chẽ với khả năng chấp nhận rủi ro Các nghiên cứu chỉ ra rằng những ngân hàng có lợi nhuận cao thường ít tham gia vào các hoạt động rủi ro, do không bị áp lực phải tạo lợi nhuận bằng mọi giá Điều này dẫn đến việc các ngân hàng này ưu tiên chọn lọc khách hàng có khả năng tài chính tốt hơn và rủi ro thấp hơn.
Các ch ỉ tiêu đánh giá hiệ u qu ả kinh doanh c ủ a ngân hàng
Hiệu quả kinh doanh của ngân hàng là một chủ đề quan trọng được nghiên cứu rộng rãi, đặc biệt sau khủng hoảng tài chính gần đây, cho thấy vai trò thiết yếu của ngân hàng trong nền kinh tế Athanasoglou, Brissimis và Delis (2005) nhấn mạnh rằng sự ổn định của hệ thống tài chính phụ thuộc vào lợi nhuận của ngành ngân hàng, đặc biệt trong thời kỳ khó khăn Các bên liên quan như viện nghiên cứu và nhà đầu tư rất quan tâm đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng thương mại Các chỉ số phổ biến để đo lường hiệu quả này bao gồm lợi nhuận trên tài sản (ROA) và lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) Theo Adefeya và cộng sự (2015), ROA phản ánh khả năng tạo ra lợi nhuận từ tài sản của ngân hàng, trong khi ROE cho thấy lợi nhuận của cổ đông trên vốn chủ sở hữu Tỷ lệ ROA cao hơn cho thấy ngân hàng có cấu trúc vốn chủ sở hữu tốt hơn, trong khi ROE thấp có thể chỉ ra cấu trúc nợ chưa hợp lý Do đó, ROA được coi là chỉ số phổ biến nhất để đánh giá lợi nhuận ngân hàng, với công thức tính là tỷ số thu nhập ròng trên tổng tài sản.
Tổng tài sản của ngân hàng được hình thành từ vốn vay và vốn chủ sở hữu, trong đó ROA (Return on Assets) là chỉ số quan trọng phản ánh khả năng sinh lời từ vốn đầu tư Chỉ số ROA cao cho thấy ngân hàng có khả năng tạo ra nhiều lợi nhuận hơn với chi phí đầu tư thấp hơn, thể hiện hiệu quả trong việc chuyển đổi vốn thành lợi nhuận.
Chỉ số ROE (Return on Equity) là tỷ số thu nhập ròng trên vốn chủ sở hữu, đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá khả năng sinh lợi trên mỗi đồng vốn đầu tư Công thức tính ROE giúp nhà đầu tư hiểu rõ hơn về hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Chỉ số ROE là thước đo quan trọng để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của ngân hàng; tỷ lệ cao cho thấy ngân hàng đang sử dụng vốn một cách hiệu quả Ngoài ra, ROE cao cũng tạo sức hút lớn đối với các nhà đầu tư.
Hassan và Bashir (2003) cho rằng tỷ suất lợi nhuận trên tài sản (ROA) được các cơ quan quản lý ưa chuộng Theo Athanasoglou và cộng sự (2008) cùng Alexiou và Sofoklis (2009), tỷ lệ thu nhập lãi thuần (NIM) là chỉ tiêu quan trọng đo lường hiệu quả kinh doanh của ngân hàng thương mại (NHTM) Tỷ lệ NIM phản ánh khả năng ngân hàng trong việc kiểm soát tài sản và duy trì nguồn vốn với chi phí thấp, với tỷ lệ NIM cao cho thấy ngân hàng hoạt động hiệu quả NIM đo lường chênh lệch giữa thu nhập từ lãi và chi phí lãi suất mà ngân hàng tạo ra, qua đó thể hiện khả năng kiểm soát lợi nhuận và nguồn vốn.
NIM = Thu nhập từ lãi – Chi phí trả lãi
Các y ế u t ố ảnh hưởng đế n hi ệ u qu ả kinh doanh c ủ a NHTM
Hiệu quả kinh doanh của ngân hàng chịu ảnh hưởng từ nhiều yếu tố khác nhau Nghiên cứu này sẽ tập trung vào một số nhân tố chính như quy mô của ngân hàng thương mại cổ phần, tỷ lệ vốn, chất lượng tài sản, sự đa dạng hóa hoạt động, phần vốn huy động và tỷ lệ chi phí hoạt động Ngoài ra, các yếu tố vĩ mô như tốc độ tăng trưởng GDP và lạm phát cũng sẽ được xem xét trong nội dung trình bày này.
2.3.1 Nhóm yếu tố bên ngoài
Tăng trưởng kinh tế quốc gia phản ánh sự gia tăng sản lượng trong một thời kỳ, đồng thời thể hiện sự phát triển của các lĩnh vực kinh tế - xã hội và thu nhập Tác động của GDP không chỉ ảnh hưởng đến nền kinh tế mà còn tác động đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng, thể hiện qua cả hai khía cạnh.
Hệ thống ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc gia tăng GDP, đồng thời sự gia tăng này cũng tác động đến hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng Trong nền kinh tế, có những chủ thể tạo ra thu nhập nhiều hơn chi tiêu và tích lũy, từ đó hình thành sự thặng dư Những chủ thể này thường tìm kiếm các kênh đầu tư an toàn, trong đó ngân hàng thương mại (NHTM) là một lựa chọn chính NHTM huy động thặng dư qua nhiều hình thức như nhận tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và phát hành giấy tờ có giá, giúp dòng tiền không bị rút ra khỏi lưu thông Qua đó, hệ thống NHTM tạo ra và luân chuyển dòng vốn liên tục Hiệu quả kinh doanh của ngân hàng cũng ảnh hưởng đến GDP khi ngân hàng tài trợ vốn cho doanh nghiệp mở rộng sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm và giảm chi phí Nếu doanh nghiệp sử dụng vốn hiệu quả, sẽ tạo ra thặng dư thu nhập, từ đó tác động tích cực trở lại hiệu quả kinh doanh của ngân hàng.
Theo Mankiw (2009), lạm phát là sự gia tăng mức giá chung của nền kinh tế theo thời gian, dẫn đến sự sụt giảm sức mua của đồng tiền Trong bối cảnh so sánh giữa các nền kinh tế, lạm phát thể hiện sự mất giá của đồng tiền này so với các đồng tiền khác Có nhiều loại lạm phát, bao gồm lạm phát vừa phải, lạm phát phi mã và siêu lạm phát.
Trong hệ thống ngân hàng, lạm phát là chỉ số quan trọng ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh và mức độ rủi ro Mối quan hệ giữa lạm phát và lợi nhuận có thể mang lại tác động tích cực hoặc tiêu cực đối với hoạt động kinh doanh (Perry, 1992).
Nếu tỷ lệ lạm phát diễn ra như dự kiến, ngân hàng có thể điều chỉnh lãi suất để gia tăng lợi nhuận khi chi phí tăng Ngược lại, nếu lạm phát không như mong đợi, ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc điều chỉnh lãi suất nhằm cân bằng chi phí và lợi nhuận Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra tác động tiêu cực giữa lạm phát và lợi nhuận của ngân hàng (Bourke, 1989; Molyneux và Thorton, 1992; Hassan và Bashir, 2003; Kosmidou, 2006).
2.3.2 Nhóm yếu tố bên trong
2.3.2.1 Quy mô ngân hàng (SIZE)
Trong lĩnh vực tài chính, tổng tài sản thường được sử dụng để đo lường quy mô của ngân hàng, với kích thước ngân hàng được tính bằng lôgarit tự nhiên của tổng tài sản (SIZE) Ngân hàng lớn hơn thường có lợi thế trong việc tiết kiệm chi phí nhờ khả năng mua sắm với khối lượng lớn và được chiết khấu cao Hiệu quả từ quy mô lớn không chỉ giúp ngân hàng tiết kiệm mà còn tạo sự tin tưởng và yên tâm cho khách hàng khi sử dụng dịch vụ Nghiên cứu cho thấy quy mô ngân hàng có tác động tích cực đến hiệu quả sinh lời của ngân hàng (Smirlock, 1985; Shingjergji và Hyseni, 2015; Phan Thị Hằng Nga, 2011).
2.3.2.2 Chất lƣợng tài sản (LTA, NPL) Được đo lường bằng tỷ lệdư nợ/tài sản (LTA), tỷ lệ nợ xấu (NPL) Tỷ lệ dư nợ/ tài sản (LTA) là một biện pháp đo lường nguồn thu nhập của ngân hàng và nó dự kiến sẽ ảnh hưởng tích cực đến lợi nhuận nếu ngân hàng không kiểm soát được mức độ rủi ro Tỷ lệ nợ xấu/dư nợ là biện pháp quan trọng đo lường chất lượng tài sản và phản ánh những thay đổi trong sức khỏe của danh mục cho vay của ngân hàng và ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu suất của các ngân hàng (Aydogan, 1990; Petria và cộng sự, 2015; Shingjergji và Hyseni , 2015)
2.3.2.3 Đa dạng hóa hoạt động (DIV)
Tỷ lệ thu nhập phi lãi suất (NII) là chỉ số quan trọng để đo lường cơ cấu thu nhập chi phí trong các doanh nghiệp Thu nhập phi lãi suất bao gồm các nguồn thu từ lệ phí, hoa hồng, thu nhập chia cổ tức, lãi/lỗ từ giao dịch, và các khoản thu nhập khác phát sinh từ hoạt động kinh doanh (Dietricha và Wanzenried, 2010; Alper và Anbar, 2011; Petria và cộng sự, 2015; Shingjergji và Hyseni, 2015).
2.3.2.4 Tỷ lệ vốn huy động (DLR)
Tiền gửi đóng vai trò là nguồn ngân quỹ chính và chi phí thấp nhất cho các ngân hàng, từ đó được chuyển đổi thành khoản vay với lãi suất cao hơn, tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng Điều này cho thấy tiền gửi có tác động tích cực đến lợi nhuận của các ngân hàng (Alper và Anbar, 2011; Trujillo-Ponce, 2013; Petria và cộng sự, 2015; Ngô Phương Khanh, 2013).
2.3.2.5 Tỷ lệ chi phí/doanh thu (TCR)
Hiệu quả quản lý chi phí hoạt động có ảnh hưởng đáng kể đến khả năng sinh lợi của ngân hàng Mối quan hệ giữa nợ xấu và chi phí hoạt động vẫn chưa rõ ràng, dẫn đến khả năng chi phí hoạt động tác động đến tỷ lệ nợ xấu có thể theo chiều hướng tích cực hoặc tiêu cực Nghiên cứu của Hughes và Moon (1995) chỉ ra rằng khi hiệu quả sử dụng chi phí thấp, tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng lại tăng, đồng thời lợi nhuận của ngân hàng cũng giảm.
T ổ ng quan các công trình nghiên c ứ u
Nghiên cứu các ngân hàng tại các quốc gia phát triển
Trujillo-Ponce (2013) đã nghiên cứu các nhân tố nội sinh và ngoại sinh tác động đến lợi nhuận của NHTM ở Tây Ban Nha trong giai đoạn từ 1990 đến 2009
Biến phụ thuộc trong nghiên cứu là ROA, được tính bằng tỷ số giữa lợi nhuận và tổng tài sản của ngân hàng Kết quả cho thấy ROA có mối quan hệ tích cực với tỷ lệ dự phòng rủi ro trên tổng dư nợ (LLP_TL), tỷ lệ lợi nhuận ngoài lãi trên tổng tài sản (NII_TA), tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản (EQ_ASS), logarit tự nhiên của tổng tài sản (LNTA), logarit tự nhiên của tổng sản phẩm trong nước (LNGDP), sự tăng trưởng của cung tiền (MSG) và tỷ lệ lạm phát hàng năm (INFL) Ngược lại, ROA bị ảnh hưởng tiêu cực bởi tỷ lệ chi phí ngoài lãi trên tổng tài sản (NIE_TA) Đáng chú ý, các yếu tố ngoại sinh như LNGDP, MSG và INFL có tác động đến ROA ít hơn so với các biến nội sinh.
Nghiên cứu của Petria và cộng sự (2015) đã phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của các ngân hàng trong EU27 từ năm 2004 đến 2011, chia thành hai nhóm chính: yếu tố ngân hàng (nội bộ) và yếu tố kinh tế vĩ mô (bên ngoài) Các chỉ số được sử dụng để đại diện cho lợi nhuận ngân hàng bao gồm lợi nhuận trên tài sản bình quân (ROAA) và lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu bình quân (ROAE) Kết quả cho thấy tín dụng, rủi ro thanh khoản, hiệu quả quản lý, sự tập trung thị trường và tăng trưởng kinh tế đều ảnh hưởng đến ROAA và ROAE Ngoài ra, nghiên cứu cũng chỉ ra rằng cạnh tranh có tác động tích cực đến lợi nhuận ngân hàng trong EU27.
Ngân hàng tại các quốc gia đang phát triển
Nghiên cứu của Alper và Anbar (2011) về các yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của hệ thống ngân hàng thương mại Thổ Nhĩ Kỳ trong giai đoạn 2002 – 2010 cho thấy rằng, biến phụ thuộc là ROA và ROE, trong khi các biến độc lập được phân loại thành biến đặc điểm ngân hàng và biến chỉ số kinh tế vĩ mô Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng quy mô ngân hàng và chỉ số thu nhập ngoài lãi vay có tác động tích cực đến ROA, trong khi cho vay khách hàng lại có tác động tiêu cực Đối với ROE, quy mô ngân hàng cũng có tác động tích cực, nhưng lãi suất thực lại ảnh hưởng ngược chiều.
Phạm Hữu Hồng Thái (2013) đã nghiên cứu tác động của nợ xấu đến khả năng sinh lợi của 34 ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam trong giai đoạn 2005-2010, với biến phụ thuộc là ROE Các biến độc lập bao gồm quy mô ngân hàng, tổng nợ/tổng vốn chủ sở hữu, nợ xấu/tổng cho vay khách hàng, dự phòng rủi ro cho vay, rủi ro tín dụng, hiệu quả quản trị tài sản và hiệu quả chi phí hoạt động Kết quả nghiên cứu cho thấy nợ xấu và hiệu quả chi phí hoạt động có tác động ngược chiều đến khả năng sinh lợi, trong khi quy mô ngân hàng, đòn bẩy tài chính và hiệu quả quản trị tài sản lại có tác động cùng chiều Dự phòng rủi ro tín dụng không cho thấy tác động rõ ràng đến khả năng sinh lợi của các ngân hàng này.
Nghiên cứu của Lê Anh Thi (2013) về các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại Việt Nam, dựa trên dữ liệu của 35 ngân hàng trong giai đoạn 2009 - 2012, đã xác định các yếu tố bên trong và bên ngoài như tỷ lệ lạm phát và tốc độ tăng trưởng kinh tế Bài nghiên cứu áp dụng ba phương pháp hồi quy: Pooled OLS, Fixed Effects Model (FEM) và Random Effect Model (RAM) để xác định mô hình phù hợp nhất Kết quả cho thấy quy mô ngân hàng, tỷ lệ lạm phát, tỷ lệ cho vay trên tổng tài sản và tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản có tác động ngược chiều đến hiệu quả hoạt động, trong khi tỷ lệ nợ phải trả trên tổng tài sản, tỷ lệ NIM và tốc độ tăng trưởng GDP lại có tác động cùng chiều.
Nghiên cứu của Võ Xuân Vinh và Đặng Bửu Kiếm (2016) về hiệu quả kinh doanh của 37 ngân hàng tại Việt Nam từ 2006 đến 2014 cho thấy rằng chi phí hoạt động, tính thanh khoản, mức độ cạnh tranh, thu nhập ngoài lãi, quy mô ngân hàng, mức độ phát triển thị trường chứng khoán và tỷ lệ lạm phát có mối tương quan dương với hiệu quả ngân hàng Điều này có nghĩa là ngân hàng có chi phí hoạt động cao, thu nhập ngoài lãi lớn, tính thanh khoản cao, năng lực cạnh tranh mạnh, cùng với lạm phát và thị trường chứng khoán phát triển sẽ cải thiện hiệu quả kinh doanh Ngược lại, quy mô hoạt động lớn, vốn chủ sở hữu cao, thuế thu nhập doanh nghiệp nhiều và tăng trưởng kinh tế cao lại có mối tương quan âm với hiệu quả kinh doanh, cho thấy rằng hiệu quả kinh doanh sẽ giảm khi các yếu tố này gia tăng.
Các nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng chủ yếu áp dụng phương pháp thống kê mô tả và nghiên cứu định lượng qua các chỉ số tài chính, tuy nhiên, chúng thường mang tính chất tổng quát cho toàn bộ hệ thống ngân hàng thương mại hoặc từng khối ngân hàng Rất ít nghiên cứu tập trung vào từng ngân hàng cụ thể, trong khi khả năng tài chính, năng lực quản trị và chất lượng dịch vụ của mỗi ngân hàng có thể tác động khác nhau đến hiệu quả kinh doanh Các nghiên cứu này sử dụng nhiều cách tiếp cận và phương pháp khác nhau, tạo nên sự đa dạng về các nhân tố tác động, đồng thời cung cấp tài liệu tham khảo giá trị cho các nghiên cứu tiếp theo.
THỰ C TR Ạ NG V Ề HI Ệ U QU Ả KINH DOANH T Ạ I H Ệ
Khái quát tình hình và ti ến trình tái cơ cấ u b ộ máy các ngân hàng thương mạ i Vi ệ t Nam
Trong quá trình tái cơ cấu ngân hàng, VNCB, GP Bank và Ocean Bank đã được NHNN mua lại với giá 0 đồng để tránh đổ vỡ hệ thống và duy trì sự ổn định Các ngân hàng này hiện đã hoạt động bình thường với thanh khoản tốt, đồng thời phải tái cơ cấu quản trị tín dụng dưới sự giám sát của NHNN Kết quả kinh doanh của ba ngân hàng đã cải thiện, với lỗ hoạt động giảm mạnh và chất lượng tài sản được nâng cao Từ 2011-2017, có 07 thương vụ M&A thành công, dẫn đến sự hình thành các ngân hàng lớn như SCB, SHB, PVcom Bank, và HDBank, giúp duy trì mức an toàn vốn ổn định Mặc dù tài sản không có chất lượng đảm bảo đã cải thiện, các ngân hàng vẫn chưa đạt được lợi nhuận cao Tái cơ cấu hệ thống ngân hàng đã bảo vệ hàng triệu người gửi tiền và phục hồi hàng nghìn doanh nghiệp, tuy nhiên, tỷ lệ an toàn vốn (CAR) vẫn chưa đạt tiêu chuẩn Basel II và dao động từ 6% đến 8.9% trong giai đoạn 2010-2017.
Thanh khoản ngân hàng đang gặp nhiều căng thẳng, với nhiều ngân hàng đối mặt với tình trạng mất thanh khoản kéo dài Nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ các cú sốc kinh tế vĩ mô bên ngoài và những yếu kém nội tại của nền kinh tế Việt Nam, như lạm phát cao, chính sách tài khóa và tiền tệ thắt chặt, cùng với thị trường bất động sản đóng băng Hơn nữa, sự xa rời các nguyên tắc cơ bản của kinh tế thị trường trong hoạt động quản lý của các ngân hàng thương mại đã tạo ra môi trường kinh doanh bất ổn và thiếu lành mạnh Tuy nhiên, thanh khoản của các ngân hàng thương mại đã được cải thiện, nợ xấu được xử lý hiệu quả và nguồn vốn huy động tăng trưởng Điều này tạo điều kiện cho hệ thống ngân hàng mở rộng tín dụng, giảm lãi suất, hỗ trợ sản xuất - kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô.
Các ngân hàng thương mại nhà nước đã hoàn thiện phương án cổ phần hóa và tái cơ cấu, bao gồm cả các công ty con, nhằm phù hợp với tình hình hoạt động của từng ngân hàng Họ tích cực xây dựng các kế hoạch tái cơ cấu và trình lên Ngân hàng Nhà nước phê duyệt, tập trung vào việc nâng cao chất lượng theo Đề án 254 Đồng thời, các ngân hàng cũng tìm kiếm giải pháp để xử lý những vấn đề còn tồn đọng, đảm bảo an toàn và phát triển bền vững cho hệ thống ngân hàng.
NHNN đã ban hành Quyết định số 931/QĐ, quy định rằng các vị trí quản lý và đại diện phần vốn tại NHTMNN phải đáp ứng đầy đủ tiêu chuẩn và điều kiện theo Luật Các TCTD Quyết định này ưu tiên những người đã có kinh nghiệm quản lý tại NHNN, từ cấp Vụ trưởng, Phó Vụ trưởng hoặc tương đương, nhằm đảm bảo đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ nghiệp vụ, ý thức nghề nghiệp và trách nhiệm cao trong công việc.
Theo thông tư số 02/2013/TT-NHNN, các quy định về phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro và an toàn vốn được áp dụng theo tiêu chuẩn Basel II Đây là một bước tiến quan trọng của Ngân hàng Nhà nước và hệ thống ngân hàng Việt Nam trong việc hướng tới việc áp dụng các chuẩn mực quốc tế về quản lý nợ và rủi ro.
Thông tư số 36/2014/TT-NHNN đã thay thế Thông tư số 13/2010/TT-NHNN, quy định các giới hạn và tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài Thông tư này bổ sung điều khoản về vốn điều lệ tối thiểu và phương án xử lý khi giá trị thực của vốn điều lệ giảm thấp hơn vốn pháp định Các quy định tập trung vào điều kiện cấp vốn tự có, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu cho chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tỷ lệ dự trữ thanh khoản, khả năng chi trả, và tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn Ngoài ra, thông tư cũng quy định về góp vốn, mua cổ phần giữa các công ty con và công ty liên kết, cũng như cấp tín dụng cho đầu tư và kinh doanh cổ phiếu, nhằm đảm bảo sự phát triển an toàn và bền vững cho hệ thống ngân hàng theo thông lệ quốc tế.
Th ự c tr ạ ng v ề hi ệ u qu ả kinh doanh các ngân hàng thương mạ i
Lợi nhuận sau thuế trung bình của các ngân hàng năm 2011 đạt mức 2,362 tỷ đồng và điều chỉnh giảm còn 2006 tỷ đồng kết thúc quý 4 năm 2012 Kể từ năm
Lợi nhuận của ngân hàng đã tăng trưởng mạnh mẽ từ 3,735 tỷ đồng vào năm 2017, nhờ vào sự gia tăng thu nhập ngoài lãi mặc dù tín dụng tăng chậm hơn Nhiều ngân hàng đã vượt mục tiêu lợi nhuận năm trong nửa đầu năm, cho thấy triển vọng tươi sáng cho ngành ngân hàng Tốc độ tăng lãi suất từ năm 2013 phản ánh sự phục hồi sau giai đoạn tái cơ cấu và nợ xấu Sự trở lại của tăng trưởng kinh tế cao đã tạo động lực tích cực cho lợi nhuận ngân hàng, với quy mô tín dụng tăng hơn gấp đôi, góp phần quan trọng vào sự phát triển của các ngân hàng thương mại.
Biểu đồ 3.1 Thu nhập và lợi nhuận của các ngân hàng TMCP giai đoạn 2010–
Nguồn: Báo cáo tài chính của các NHTM
Hoạt động dịch vụ đóng vai trò quan trọng trong việc gia tăng lợi nhuận của ngân hàng, đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế hiện đại và thị trường mở rộng Ngành ngân hàng bán lẻ đang phát triển mạnh mẽ, với sự chuyển hướng từ việc cấp vốn lớn cho một số doanh nghiệp lớn sang việc phân tích và tối ưu hóa mức độ sử dụng dịch vụ của từng khách hàng Điều này giúp ngân hàng xác định thị phần bán lẻ và gia tăng tỷ trọng thu nhập từ dịch vụ.
Giai đoạn 2013-2017 cho thấy các ngân hàng có lãi suất ấn tượng nhất thường là những thành viên bán lẻ mạnh mẽ hoặc đang chuyển dịch cơ cấu lợi nhuận sang lĩnh vực bán lẻ Sự tăng trưởng lợi nhuận của các ngân hàng được thúc đẩy bởi quy mô nền kinh tế, mở rộng thị trường và sự phát triển nhanh chóng của dịch vụ Điều này không chỉ giúp lợi nhuận tăng trưởng mạnh mẽ mà còn nâng cao tính bền vững, thay vì chỉ phụ thuộc vào tín dụng, vốn tiềm ẩn nhiều rủi ro nợ xấu như trước đây.
Chỉ số sinh lời của 27 ngân hàng thương mại niêm yết tại Việt Nam đã giảm mạnh từ năm 2009 do tình hình kinh tế khó khăn, hàng tồn kho gia tăng, và hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bị ngừng trệ Sự gia tăng đột biến của nợ xấu buộc các ngân hàng phải tăng cường trích lập dự phòng rủi ro, dẫn đến sự sụt giảm đáng kể trong lợi nhuận.
Lợi nhuận ròng Thu nhập từ lãi Thu nhập phi lãi
Biểu đồ 3.2 Tỷ suất sinh lời ROA, ROE của các NH TMCP giai đoạn 2010– 2017
Nguồn: Báo cáo tài chính của các NHTM
Lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA) của các ngân hàng thương mại giai đoạn
Từ năm 2011 đến 2017, tỷ suất sinh lời của các ngân hàng thương mại niêm yết liên tục giảm, chỉ đạt 0.63% vào cuối năm 2017 Trong số 27 ngân hàng, NHTMCP Xuất nhập khẩu (EIB) nổi bật với tỷ suất sinh lời ổn định, ROA trung bình đạt 1.78% Hai ngân hàng khác, BID và MBB, cũng có tỷ suất ROA ổn định là 1.63%, cho thấy hiệu quả sử dụng tài sản cao trong ngành Ngược lại, Vietcombank (VCB), một trong những ngân hàng lớn, có ROA trung bình thấp nhất là 1.25% Xu hướng ROE cũng giảm mạnh tương tự như ROA từ năm 2011 đến nay.
Năm 2015, ROE toàn ngành giảm mạnh từ 215.66% xuống còn 8.28%, phản ánh hiệu quả kinh doanh yếu kém Nguyên nhân của tình trạng này bao gồm tỷ lệ nợ xấu gia tăng, chi phí đầu tư xây dựng cơ bản tăng cao do các ngân hàng mở rộng quy mô sản xuất, và những khó khăn kinh tế chung Thêm vào đó, việc Nhà nước liên tục điều chỉnh trần lãi suất xuống mức thấp đã dẫn đến giảm sút doanh thu ngân hàng, cùng với các rủi ro về tỷ giá và lạm phát.
Tỷ lệ ROE và ROA trong ngành bất động sản đang gặp khó khăn, dẫn đến thanh khoản ngân hàng giảm thấp và tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro của các ngân hàng thương mại thấp hơn yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước Trong giai đoạn 2016-2017, sự gia tăng tỷ suất sinh lời ROE và ROA được thúc đẩy bởi chính sách tài khóa nới lỏng của Ngân hàng Nhà nước và quản lý chặt chẽ hơn từ phía chính phủ, đặc biệt là việc sát nhập các ngân hàng yếu kém vào những ngân hàng lớn, giúp hệ thống ngân hàng trở nên lành mạnh và hiệu quả hơn Năm nay, nhiều chính sách hỗ trợ từ chính phủ cho doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa, đã giúp nhiều doanh nghiệp có kết quả kinh doanh khả quan, dẫn đến sự tăng trưởng mạnh mẽ trong dư nợ tín dụng của ngân hàng và nâng cao chất lượng tín dụng.
Tỷ lệ thu nhập lãi cận biên (NIM) của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam trong giai đoạn 2010-2017 có sự phân chia rõ rệt thành hai giai đoạn, với NIM đạt mức 3.99% vào năm 2017.
Từ năm 2011, tỷ lệ NIM (Net Interest Margin) đã giảm mạnh, chỉ còn 2.96% vào cuối quý 4 năm 2013 Tuy nhiên, trong giai đoạn 2014-2017, NIM trung bình của các ngân hàng thương mại đã tăng lên 3.18% Theo đánh giá của S&P, tỷ lệ NIM dưới 3% được coi là thấp, trong khi tỷ lệ trên 5% được xem là quá cao Do đó, tỷ lệ trung bình NIM của các ngân hàng thương mại theo S&P vẫn được đánh giá là thấp.
Biểu đồ 3.3 Tỷ lệ thu nhập lãi ròng cận biên (NIM) các NH TMCP từ 2010– 2017
Nguồn: Báo cáo tài chính của các NHTM
NIM thấp và thu hẹp cho thấy lợi nhuận ngân hàng đang giảm sút, trong đó STB và ACB dẫn đầu với chỉ tiêu lần lượt 3.11% và 2.5%, khẳng định vị thế là những ngân hàng bán lẻ hàng đầu tại Việt Nam Ngày nay, hoạt động của ngân hàng không chỉ xoay quanh huy động và cho vay, mà còn hướng tới việc đa dạng hóa dịch vụ Trước sự phát triển của thương mại điện tử, cạnh tranh từ fintech và ngành bảo hiểm, các dịch vụ thanh toán và bancassurance ngày càng phát triển mạnh mẽ Trong giai đoạn 2013 - 2017, chỉ có 5 ngân hàng như Sacombank, VietBank và Vietcombank có tỷ trọng thu nhập ngoài lãi chiếm trên 25% tổng thu nhập kinh doanh.
Lãi từ hoạt động phi tín dụng của các ngân hàng niêm yết chủ yếu đến từ dịch vụ, kinh doanh ngoại hối và các hoạt động khác, với sự tăng trưởng đáng kể trong thu nhập ngoài lãi trong những năm qua Trong số 27 ngân hàng, lãi từ hoạt động khác đóng góp một tỷ lệ lớn, đặc biệt ở một số ngân hàng như VietBank, VPBank, MBBank, BIDV, Eximbank, VietinBank và Nam A Bank Phần lớn lãi từ hoạt động khác xuất phát từ việc thu hồi nợ xấu và nợ khó đòi đã được trích lập dự phòng Tuy nhiên, hoạt động dịch vụ vẫn là nguồn tạo ra giá trị và đóng góp lớn nhất cho thu nhập ngoài lãi của các ngân hàng.
Th ự c tr ạ ng c ủ a các y ế u t ố ảnh hưởng đế n hi ệ u qu ả kinh doanh c ủ a các ngân hàng thương mại giai đoạ n 2010-2017
3.3.1 Quy mô vốn ngân hàng
Việc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) điều chỉnh lãi suất cho vay ngắn hạn VND giảm đã thúc đẩy sự hưởng ứng từ nhiều ngân hàng thương mại, tạo điều kiện tích cực cho tăng trưởng tín dụng và kinh tế Tuy nhiên, điều này cũng đặt ra thách thức cho các ngân hàng thương mại khi phải đối mặt với áp lực lớn về nguồn vốn, do tỷ trọng tiền gửi từ khách hàng chiếm phần lớn trong tổng nguồn vốn huy động Ngoài ra, các kênh huy động khác như vay trên liên ngân hàng và phát hành giấy tờ có giá cũng chịu ảnh hưởng Khủng hoảng kinh tế đã tác động đáng kể đến hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam.
3.3.2 Hoạt động huy động vốn
Việc Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh giảm lãi suất cho vay ngắn hạn VND đã kích thích các ngân hàng thương mại, tạo điều kiện thuận lợi cho tăng trưởng tín dụng và kinh tế Tuy nhiên, động thái này cũng đặt ra thách thức cho các ngân hàng khi phải đối mặt với áp lực lớn về nguồn vốn, trong đó tỷ trọng tiền gửi từ khách hàng là yếu tố chủ yếu Bên cạnh đó, các kênh huy động khác như vay trên liên ngân hàng và phát hành giấy tờ có giá cũng đóng vai trò quan trọng Khủng hoảng kinh tế hiện nay đã ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam.
Biểu đồ 3.4 Tỷ lệ tiền gửi trên tài sản của các ngân hàng TMCP giai đoạn 2010– 2017
Nguồn: Báo cáo tài chính của các NHTM
Kể từ năm 2012, nhờ nỗ lực của chính phủ trong việc kiềm chế lạm phát và phát triển kinh tế, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã giữ lãi suất ổn định, giúp các ngân hàng tăng cường huy động vốn Điều này đã tạo ra những chuyển biến tích cực cho hệ thống ngân hàng, mặc dù hoạt động huy động vốn vẫn còn gặp khó khăn.
Tiền gửi và tài sản động vốn của ngân hàng hiện đang đối mặt với nhiều khó khăn và thiếu ổn định Cơ cấu huy động vốn đã có sự thay đổi đáng kể, với tỷ lệ tiền gửi của khách hàng giảm ở một số ngân hàng như VPBank và MBBank Việc phát hành chứng chỉ tiền gửi đang được đẩy mạnh nhờ vào tính linh hoạt và lãi suất hấp dẫn, mặc dù lãi suất vẫn còn hạn chế do quy định của NHNN về mức trần lãi suất Điều này khiến cho lãi suất huy động không phản ánh đúng thực tế thị trường, đồng thời tạo ra khó khăn cho các ngân hàng nhỏ trong việc cạnh tranh với ngân hàng lớn Huy động vốn qua công cụ nợ vẫn chưa cao do tính thanh khoản thấp và mối quan hệ không rõ ràng giữa ngân hàng và thị trường chứng khoán Hơn nữa, sự xâm nhập của các ngân hàng nước ngoài vào thị trường Việt Nam tạo ra thách thức lớn cho các ngân hàng trong nước, khiến cho việc huy động vốn trở nên khó khăn hơn.
Giai đoạn 2010-2014, tăng trưởng tín dụng ngân hàng vượt mức an toàn, gây ra rủi ro lớn trong quản lý tín dụng, với tỷ lệ cho vay tập trung vào lĩnh vực phi sản xuất dẫn đến rủi ro thanh khoản cao Hệ thống tài chính thiếu hụt nghiêm trọng về tính thanh khoản, tiềm ẩn nguy cơ đổ vỡ, trong khi tỷ lệ an toàn vốn giảm Mặc dù tín dụng chỉ tăng trưởng trung bình 12,8%/năm, thấp hơn so với 33,3%/năm giai đoạn 2006-2010, nhưng vẫn phù hợp với khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế Điều kiện tín dụng đã cải thiện, linh hoạt hơn, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, đồng thời cơ cấu tín dụng được điều chỉnh để tập trung vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh và các ngành ưu tiên của Chính phủ.
Biểu đồ 3.5 Dƣ nợ cho vay và nợ xấu của các ngân hàng TMCP giai đoạn
Nguồn: Báo cáo tài chính của các NHTM
Kể từ năm 2014, hoạt động tín dụng của các ngân hàng đã tăng trưởng mạnh mẽ, với dư nợ tín dụng chiếm khoảng 52.68%-59.79% tổng tài sản, dẫn đến thu nhập từ tín dụng vẫn là nguồn thu chính của các ngân hàng thương mại Mặc dù tốc độ tăng trưởng tín dụng có xu hướng giảm so với giai đoạn trước 2012, nhưng đã phục hồi vào năm 2015 Tuy nhiên, tỷ trọng cao của khoản cho vay cũng đặt ra nguy cơ rủi ro thanh khoản cho các ngân hàng.
Các ngân hàng thương mại (NHTM) đang nỗ lực giảm nợ xấu và ngăn ngừa phát sinh nợ xấu thông qua việc cấp hạn mức tín dụng dựa trên mức độ rủi ro của từng khách hàng vay Họ cũng thiết lập quy trình kiểm soát chất lượng tín dụng chặt chẽ Hiện tại, khoảng 80% tổng dư nợ của các NHTM tập trung vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh.
Tình hình dư nợ và tỷ lệ nợ xấu trong lĩnh vực tín dụng tại Việt Nam đang có diễn biến tích cực, đặc biệt là trong các lĩnh vực ưu tiên theo chỉ đạo của Chính phủ Ngân hàng đã kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro như bất động sản và chứng khoán, dẫn đến xu hướng tăng trưởng chậm lại Trong năm 2017, tín dụng cho lĩnh vực xuất khẩu tăng 12.55%, doanh nghiệp công nghệ cao tăng 20%, ngành công nghiệp ưu tiên tăng 20.42%, và doanh nghiệp nhỏ và vừa tăng 13.53% Đặc biệt, dư nợ tín dụng cho nông nghiệp và nông thôn tăng khoảng 24.5% Công tác tái cơ cấu và xử lý nợ xấu tại các ngân hàng niêm yết cũng đạt được kết quả tích cực nhờ vào khung pháp lý ngày càng hoàn thiện Mặc dù sức ép tăng trưởng tín dụng giảm, các ngân hàng vẫn đạt mục tiêu tăng trưởng từ 14-19%, góp phần hỗ trợ tăng trưởng kinh tế Ngân hàng Nhà nước đã yêu cầu các ngân hàng tập trung nguồn vốn cho các lĩnh vực kinh tế quan trọng nhằm chuyển dịch cơ cấu đầu tư và đổi mới mô hình tăng trưởng.
Kể từ năm 2011, nợ xấu (NPL) của các ngân hàng thương mại (NHTM) đã gia tăng đáng kể, dẫn đến nhiều vấn đề về rủi ro thanh khoản và làm chững lại kết quả hoạt động kinh doanh Một phần lớn nợ xấu được ẩn dưới dạng trái phiếu doanh nghiệp, đặc biệt là từ doanh nghiệp nhà nước, cùng với các nghiệp vụ ủy thác cấp tín dụng và nợ cấp cho các công ty con, liên kết mà ngân hàng kiểm soát, nhưng lại không được đánh giá và phân loại chính xác Để khắc phục bất ổn nội tại của NHTM, cần phải xử lý tận gốc vấn đề nợ xấu Đến cuối quý 4/2013, nợ xấu đã tăng nhanh, trở thành mối đe dọa đến an ninh hệ thống ngân hàng và ổn định tài chính quốc gia, buộc các ngân hàng phải chú trọng hơn vào quản lý chất lượng tài sản và từng bước xử lý nợ xấu, qua đó cơ cấu dư nợ đã điều chỉnh giảm nhẹ còn 47.11%.
Biểu đồ 3.6 Tình hình tốc độ tăng trưởng GDP giai đoạn 2010– 2017
Nguồn dữ liệu: Quỹ tiền tệ quốc tế IMF
Trong giai đoạn 2010 – 2017, GDP Việt Nam đạt mức tăng trưởng trên 5%, với xu hướng tăng trưởng tiếp tục Mặc dù gặp khó khăn lớn vào năm 2011 do lạm phát cao và biến động kinh tế toàn cầu, Việt Nam đã áp dụng các chính sách hiệu quả để phục hồi và phát triển kinh tế Từ 2012-2017, sự gia tăng GDP đã tác động tích cực đến hệ thống ngân hàng, giúp các doanh nghiệp mở rộng quy mô và cải thiện chất lượng, từ đó tăng lợi nhuận và giảm rủi ro tín dụng Thêm vào đó, sự phát triển của thị trường kinh tế đã thúc đẩy nhu cầu vốn từ các doanh nghiệp mới đối với các ngân hàng thương mại.
Biểu đồ 3.7 Tình hình lạm phát giai đoạn 2010– 2017
Nguồn dữ liệu: Quỹ tiền tệ quốc tế IMF
Trong giai đoạn 2010 – 2017, lạm phát cao đã tác động tiêu cực đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng, dẫn đến tình trạng mất thanh khoản và gia tăng nợ xấu Tuy nhiên, nhờ vào các chính sách kịp thời từ Ngân hàng Nhà nước và chính phủ, như tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại và thành lập VAMC, tình hình đã được cải thiện Lạm phát không chỉ ảnh hưởng đến nền kinh tế mà còn làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp, khiến khả năng thu nợ giảm Đối với ngân hàng, lạm phát dẫn đến lãi suất cho vay tăng, gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc tiếp cận vốn và làm tăng áp lực trả nợ, từ đó gia tăng nợ xấu và ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngân hàng.
Chương này khái quát tình hình và tiến trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng Việt Nam, đánh giá hiệu quả kinh doanh qua quy mô, huy động vốn, tín dụng, lợi nhuận và khả năng sinh lời Qua đó, nhận diện ưu điểm và hạn chế trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng, cùng với nguyên nhân của những hạn chế này Kết quả của chương sẽ là định hướng cho nội dung và kết quả nghiên cứu ở chương 4.
PHƯƠNG PHÁP, D Ữ LI Ệ U VÀ K Ế T QU Ả NGHIÊN C Ứ U
Phương pháp nghiên cứ u
Dữ liệu được thu thập sẽ được nhập vào file Excel, sau đó được chỉnh sửa và mã hóa Tiếp theo, quá trình làm sạch dữ liệu sẽ được thực hiện để phát hiện sai sót, ô trống và thông tin không chính xác, nhằm hoàn thiện ma trận dữ liệu Luận văn sử dụng phần mềm Stata 13 để tính toán và xử lý dữ liệu theo mô hình Mẫu dữ liệu bao gồm 27 ngân hàng thương mại lớn và nổi bật trong hệ thống ngân hàng Việt Nam, chủ yếu cung cấp số liệu cho nghiên cứu trong giai đoạn từ 2010 đến 2017.
Dữ liệu trong luận văn được thu thập từ các báo cáo tài chính đã được kiểm toán và báo cáo thường niên của các ngân hàng thương mại (NHTM) qua các năm Tác giả lựa chọn các ngân hàng có đầy đủ báo cáo tài chính, bao gồm bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ và thuyết minh báo cáo tài chính Thêm vào đó, dữ liệu cũng được lấy từ các nguồn như Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Nhà nước, Tổng cục Thống kê và Bộ Tài chính Để đảm bảo độ tin cậy và chính xác, dữ liệu được so sánh và đối chiếu với nhiều nguồn khác nhau.
Mô hình được dựa trên các nghiên cứu tham khảo trên thế giới như Phạm
Hữu Hồng Thái (2013), Petria và các cộng sự (2015), cùng Ali và các cộng sự (2011) đã xây dựng các biến độc lập dựa trên nền tảng các nghiên cứu trong nước và quốc tế.
Theo nghiên cứu của Trujillo-Ponce (2013), Petria và cộng sự (2015), Alper và Anbar (2011), cùng Võ Xuân Vinh và Đặng Bửu Kiếm (2016), biến độc lập được phân thành hai loại: biến đặc điểm ngân hàng cụ thể và biến chỉ số kinh tế vĩ mô Tác giả áp dụng phương pháp hồi quy dữ liệu bảng (Panels Data) để phân tích 27 ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn 2010.
Năm 2017, tác giả đã lựa chọn các mô hình FEM và REM để kiểm định các khuyết tật Tiếp theo, tác giả áp dụng mô hình hồi quy FGLS nhằm khắc phục các khuyết tật này và phân tích mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng thương mại.
Mô hình nghiên cứu thực nghiệm của đề tài cụ thểnhư sau: f (ROA, ROE, NIM)= β 0 + β 1 SIZE + β 2 LTA + β 3 NPL + β 4 DIV + β 5 DLR + β 6 TCR + β 7 GDP + β 8 CPI + u i
4.1.3 Đo lường biến nghiên cứu
4.1.3.1 Biến phụ thuộc Đo lường hiệu quả kinh doanh của các NHTM dựa trên các chỉ số cơ bản như: ROA, ROE (Alper và Anbar, 2011; Trujillo-Ponce, 2013; Petria và cộng sự,
NIM là chỉ số quan trọng để đo lường hiệu quả kinh doanh và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại, theo nghiên cứu của Dietricha và Wanzenried (2010).
Quy mô ngân hàng, thường được đo lường bằng tổng giá trị tài sản trên báo cáo tài chính, là yếu tố quan trọng trong đánh giá hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng thương mại Biến SIZE, được tính bằng lôgarit tự nhiên của tổng tài sản, được kỳ vọng sẽ có tác động tích cực đến hiệu suất hoạt động của ngân hàng (Smirlock, 1985; Shingjergji và Hyseni, 2015).
Chất lượng tài sản của ngân hàng được đo lường qua tỷ lệ dư nợ/tài sản (LTA) và tỷ lệ nợ xấu (NPL) Tỷ lệ LTA phản ánh nguồn thu nhập và có thể tác động tích cực đến lợi nhuận nếu ngân hàng kiểm soát rủi ro hiệu quả Ngược lại, tỷ lệ nợ xấu cho thấy chất lượng tài sản và ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng Để đánh giá sự đa dạng hóa hoạt động, tỷ lệ thu nhập phi lãi suất (NII) được sử dụng, bao gồm thu nhập từ phí, hoa hồng, cổ tức, lãi/lỗ từ giao dịch và các nguồn thu khác từ hoạt động kinh doanh.
Tỷ lệ vốn huy động (DLR) cho thấy rằng tiền gửi là nguồn ngân quỹ chính và có chi phí thấp nhất của các ngân hàng Các khoản tiền gửi này sau đó được chuyển thành khoản vay với lãi suất cao hơn, từ đó tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng Do đó, tiền gửi đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy lợi nhuận của các ngân hàng (Alper và Anbar, 2011; Trujillo-Ponce, 2013; Petria và cộng sự, 2015; Ngô Phương Khanh, 2013).
Tỷ lệ chi phí/doanh thu (TCR) phản ánh hiệu quả quản lý chi phí hoạt động và có ảnh hưởng đến khả năng sinh lợi của ngân hàng (Phạm Hữu Hồng Thái, 2013) Tuy nhiên, mối quan hệ giữa nợ xấu và chi phí hoạt động vẫn chưa được làm rõ Ảnh hưởng của chi phí hoạt động đến tỷ lệ nợ xấu có thể là cùng chiều hoặc ngược chiều Nghiên cứu của Hughes và Moon (1995) cho thấy, khi ngân hàng sử dụng chi phí một cách hiệu quả, tỷ lệ nợ xấu có xu hướng tăng và lợi nhuận của ngân hàng sẽ giảm.
Tỷ lệ tăng trưởng GDP thực tế được đo lường qua tỷ lệ tăng trưởng hàng năm, phản ánh tất cả các hoạt động kinh tế và điều chỉnh lạm phát Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và lợi nhuận trong lĩnh vực tài chính cho thấy rằng tăng trưởng GDP có ảnh hưởng tích cực đến lợi nhuận của ngân hàng, như đã được nghiên cứu bởi Demirguc-Kunt và Huizinga (1999) cũng như Bikker và Hu (2002).
Tỷ lệ lạm phát (INF) được định nghĩa là tỷ lệ phần trăm tăng trưởng của chỉ số giá tiêu dùng (CPI) cho tất cả hàng hóa và dịch vụ Mối quan hệ giữa lạm phát và lợi nhuận có thể ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến ngân hàng Khi tỷ lệ lạm phát diễn ra như dự kiến, ngân hàng có khả năng điều chỉnh lãi suất để gia tăng lợi nhuận trong bối cảnh chi phí tăng Ngược lại, nếu tỷ lệ lạm phát không đạt kỳ vọng, ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc điều chỉnh lãi suất để cân bằng chi phí và lợi nhuận Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng có mối quan hệ ngược chiều giữa lạm phát và lợi nhuận ngân hàng.
Bảng 4.1: Biến nghiên cứu và phương pháp đo lường
Biến Mô tả Đo lường Kỳ vọng Đo lường hiệu quả kinh doanh của NHTM
ROA Tỷ suất sinh lời trên tài sản Lợi nhuận ròng/tài sản
ROE Tỷ suất sinh lời trên VCSH Lợi nhuận ròng/VCSH