Đối tƣợng và khách thể nghiên cứu
Chất lƣợng giáo dục thể chất cho học sinh THPT
Chương trình môn GDTC ở THPT, giáo viên, học sinh trường THPT Diên Hồng quận 10
Do hạn chế về khả năng, thời gian và phạm vi nghiên cứu, NNC chỉ thực hiện khảo sát thực trạng giáo dục thể chất của học sinh lớp 10 và lớp 11 tại trường THPT Diên Hồng, quận 10.
Chất lượng học môn Giáo dục thể chất (GDTC) tại trường THPT Diên Hồng hiện nay chưa đạt yêu cầu, với thể lực của học sinh chỉ ở mức trung bình và yếu Để cải thiện tình hình này, việc áp dụng các giải pháp hợp lý là cần thiết nhằm nâng cao chất lượng môn GDTC và phát triển thể lực của học sinh, đáp ứng các tiêu chuẩn sức khỏe.
6 Phương pháp nghiên cứu Để giải quyết các nhiệm vụ của đề tài, người nghiên cứu đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau :
6.1 Phương pháp nghiên cứu lý luận
Phương pháp này tập trung vào việc tổng hợp, chọn lọc và kế thừa các tài liệu, đồng thời hệ thống hóa các công trình nghiên cứu đã được công nhận liên quan đến đề tài Các tài liệu tham khảo bao gồm nhiều loại khác nhau.
- Các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và Nhà nước về công tác TDTT nói chung và TDTT trường học nói riêng
- Một số luận văn khoa học nghiên cứu các vấn đề liên quan đến TDTT
- Các sách giáo khoa, tài liệu giảng dạy lý luận và phương pháp TDTT
- Các sách chuyên môn có liên quan đến đề tài nghiên cứu về chất lƣợng giáo dục thể chất
- Một số tạp chí thông tin khoa học, tạp chí nghiên cứu giáo dục liên quan đến TDTT
- Tài liệu từ mạng internet
6.2 Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp điều tra được áp dụng là sử dụng phiếu điều tra để thu thập thông tin từ đối tượng khảo sát, nhằm mục đích tìm hiểu thực trạng giáo dục thể chất (GDTC) của học sinh tại trường THPT Diên Hồng.
Phương pháp quan sát được áp dụng bằng cách dự giờ các giáo viên bộ môn Thể dục, nhằm tìm hiểu thực trạng giảng dạy và học tập môn Giáo dục thể chất tại trường Diên Hồng Qua đó, chúng tôi đề xuất những giải pháp cần thiết nhất để cải thiện chất lượng giảng dạy và học tập bộ môn này.
- Phương pháp kiểm tra sư phạm: đánh giá sự phát triển các tố chất thể lực của học sinh trường THPT Diên Hồng
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm: tiến hành tổ chức dạy thực nghiệm để kiểm nghiệm giả thuyết khoa học đã đƣa ra
Phương pháp thống kê toán học được sử dụng để xử lý các số liệu thu thập từ phiếu khảo sát, cũng như phân tích kết quả trước và sau khi thực hiện các thí nghiệm sư phạm.
7 Cấu trúc của đề tài:
- Ngoài phần mở đầu và kết luận và kiến nghị, đề tài nghiên cứu bao gồm 3chương:
- Chương 1: Cơ Sở Lý luận Về Giáo Dục Thể Chất
- Chương 2: Thực Trạng Về Giáo Dục Thể Chất Của Học Sinh Trường
THPT Diên Hồng Quận 10, TP HCM
- Chương 3: Giải Pháp Nâng Cao Chất Lƣợng Giáo Dục Thể Chất Cho
Học Sinh Tại Trường THPT Diên Hồng Quận 10, TP HCM
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC THỂ CHẤT
1.1 TỔNG QUAN LỊCH SỬ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Thể dục thể thao (TDTT) đã xuất hiện cùng với sự phát triển của nhân loại từ 4000 năm trước Công nguyên, khi nhiều dân tộc cổ đại ở châu Á, châu Phi và Nam Mỹ đã thực hành các hoạt động như cưỡi ngựa, bắn cung, vật, bơi thuyền, ném đá và phóng lao Qua thời gian, những hoạt động này đã được nâng cao từ hình thức trò chơi đơn giản thành các môn thể thao thi đấu chính thức.
- 1873: Thuật ngữ GDTC xuất hiện ở Nhật Bản họ nhận thức đƣợc sự cần thiết cho sức khỏe thể chất và tập thể dục cho thƣ giãn
Năm 1876, Park Younghyo, một nhà khoa học tại Hàn Quốc, đã chứng minh tầm quan trọng của việc rèn luyện sức khỏe trong cuộc sống, từ đó thuật ngữ Giáo dục Thể chất (GDTC) bắt đầu được công nhận.
- 1879: Khái niệm đầu tiên của ngành GDTC tại Hàn Quốc đã đƣợc coi là giáo dục đào tạo vật lý thông qua tập thể dục
Từ năm 1960 đến 1963, các tác giả Duncan và Watson (1960) cùng Cowell (1963) đã tiến hành nghiên cứu về chất lượng giáo dục thể chất tại Mỹ Họ chỉ ra tầm quan trọng của sức khỏe thể chất và mối liên hệ của nó với kết quả hoạt động của từng cá nhân.
Trong giai đoạn 1964 – 1970, một số tác giả đã giới thiệu khái niệm mới về Giáo dục thể chất (GDTC), coi đó là "Nghệ thuật và khoa học của các chuyển động của con người" Khái niệm này được đề xuất bởi các học giả nổi bật như Felshin vào năm 1967 và Zeigler vào năm 1968.
- Trong những năm 70 các tác giả: Felshin ( 1972), Seidel và Resick( 1972), Siedentop (1972), Vanderzwaag (1972), Nixon và Jewett ( 1974), Zeigler
Năm 1975, nghiên cứu giáo dục thể chất đã coi "chuyển động của con người" là một hoạt động cốt lõi Cụm từ này đóng vai trò quan trọng trong định nghĩa của giáo dục thể chất, thể hiện sự đa dạng và ý nghĩa của hoạt động thể chất trong cuộc sống con người.
7 cụ thể, trong đó GDTC đã có để xác định tình trạng của nó nhƣ là một ngành học quan trọng ở Mỹ.[11]
Kể từ những năm 80, nghiên cứu giáo dục thể chất (GDTC) trên thế giới tập trung vào việc cải thiện chất lượng GDTC trong trường học Các nhà khoa học đang nỗ lực tìm kiếm giải pháp đổi mới phương pháp giảng dạy và xây dựng tiêu chí đánh giá chất lượng GDTC, phù hợp với hoạt động giảng dạy tại các quốc gia như Trung Quốc và Nhật Bản.
Hiện nay, giáo dục thể chất (GDTC) đã trở thành môn học bắt buộc tại nhiều quốc gia trên thế giới, với hệ thống GDTC ở trường phổ thông được triển khai một cách đồng bộ và hiệu quả.
- Áo: Từ 14-18 tuổi 2-3 giờ/ tuần
Từ năm 1998 đến năm 2001, mục tiêu thể thao trường học đã đạt được 83% số trường tổ chức lớp thể dục thể thao nội khóa với tần suất 2 giờ mỗi tuần, đồng thời có 52% học sinh tham gia các câu lạc bộ thể thao ngoại khóa.
- Đan Mạch : Đối với tất cả các lớp 2 giờ / tuần, các giờ ngoại khóa bắt buộc
- Canada: Nội dung và thời gian của chương trình do chính quyền tỉnh quyết định, từ 2-3 giờ / tuần
Tại Mỹ, 40% các trường phổ thông tổ chức tập thể dục thể thao với thời gian 1 giờ mỗi ngày Các buổi học không chỉ đơn thuần là giảng dạy động tác mà chủ yếu là tập luyện thông qua các hình thức trò chơi, tiếp sức và thi đấu.