1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Thực trạng và các yếu tố liên quan đến stress, trầm cảm, lo âu của nhân viên y tế thuộc trung tâm y tế huyện sóc sơn, thành phố hà nội

76 25 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Thực Trạng Và Các Yếu Tố Liên Quan Đến Stress, Trầm Cảm, Lo Âu Của Nhân Viên Y Tế Thuộc Trung Tâm Y Tế Huyện Sóc Sơn, Thành Phố Hà Nội
Tác giả Lưu Thị Liên
Người hướng dẫn TS. Vũ Ngọc Hà, ThS. Nguyễn Thành Trung
Trường học Đại học Quốc gia Hà Nội
Chuyên ngành Y Đa Khoa
Thể loại Khoá Luận Tốt Nghiệp
Năm xuất bản 2020
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 76
Dung lượng 637,66 KB

Cấu trúc

  • Chương 1: TỔNG QUAN (13)
    • 1.1. Giới thiệu về stress, lo âu, trầm cảm (13)
      • 1.1.1. Khái niệm (13)
        • 1.1.1.1. Khái niệm stress (13)
        • 1.1.1.2. Khái niệm lo âu (14)
        • 1.1.1.3. Khái niệm trầm cảm (15)
        • 1.1.1.4. Khái niệm Nhân viên y tế (NVYT) (15)
        • 1.1.1.5. Stress nhân viên y tế (15)
      • 1.1.2. Các yếu tố liên quan đến stress, lo âu và trầm cảm ở nhân viên y tế (16)
        • 1.1.2.1. Nguyên nhân gây ra stress, lo âu và trầm cảm (16)
        • 1.1.2.2. Những yếu tố gây ra rối loạn tâm thần trong lao động (16)
        • 1.1.2.3. Những điều kiện gây rối loạn tâm thần trong ngành y tế (17)
      • 1.1.3. Hậu quả của rối loạn tâm thần lên sức khoẻ (17)
    • 1.2. Giới thiệu về các thang đo lường stress, lo âu, trầm cảm và bộ công cụ (18)
  • DASS 21 của Lovibond (18)
    • 1.3. Một số nghiên cứu về stress, lo âu, trầm cảm trên thế giới và tại Việt Nam (19)
      • 1.3.1. Một số nghiên cứu trên thế giới (19)
      • 1.3.2. Thực trạng stress, lo âu và trầm cảm của nhân viên y tế tại Việt Nam (21)
    • 1.4. Giới thiệu về địa điểm nghiên cứu (23)
  • Chương 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU (26)
    • 2.1. Đối tượng nghiên cứu (26)
      • 2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn (26)
      • 2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ (26)
    • 2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu (26)
    • 2.3. Phương pháp nghiên cứu (26)
      • 2.3.1. Thiết kế nghiên cứu (26)
      • 2.3.2. Cỡ mẫu nghiên cứu (26)
      • 2.3.3. Các chỉ số và biến số nghiên cứu (27)
    • 2.4. Công cụ nghiên cứu (29)
    • 2.5. Phương pháp thu thập số liệu (30)
    • 2.6. Phương pháp phân tích số liệu (30)
    • 2.7. Các sai số và cách khắc phục (30)
    • 2.8. Đạo đức trong nghiên cứu (31)
    • 2.9. Hạn chế của nghiên cứu (31)
  • Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU (32)
    • 3.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu (32)
      • 3.1.1. Đặc điểm cá nhân của đối tượng nghiên cứu (32)
      • 3.1.2. Đặc điểm công việc của nhân viên y tế huyện Sóc Sơn (35)
    • 3.2. Xác định tỉ lệ stress, trầm cảm và lo âu của nhân viên y tế tại huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội năm 2019 (39)
    • 3.3. Xác định một số yếu tố liên quan đến stress, trầm cảm và lo âu của nhân viên y tế thuộc Trung tâm y tế huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội (42)
      • 3.3.1. Phân bố mức độ rối loạn tâm thần ở nhân viên y tế theo đặc điểm cá nhân (42)
      • 3.3.2. Phân bố mức độ rối loạn tâm thần ở nhân viên y tế theo đặc điểm công việc (45)
    • 3.4. Phân tích đa biến giữa các yếu tố liên quan với stress, trầm cảm, lo âu (49)
  • Chương 4: BÀN LUẬN (53)
    • 4.1. Đặc điểm của nhân viên y tế thuộc Trung tâm y tế huyện Sóc Sơn năm (53)
    • 4.2. Mô tả thực trạng về tình trạng stress, lo âu, trầm cảm của nhân viên y tế thuộc Trung tâm y tế huyện Sóc Sơn năm 2019 (54)
      • 4.3.1. Mối liên quan giữa các yếu tố cá nhân với tình trạng stress, lo âu, trầm cảm (59)
      • 4.3.2. Mối liên quan giữa các yếu tố về đặc điểm công việc với tình trạng stress, (62)
  • KẾT LUẬN (64)
  • PHỤ LỤC (71)

Nội dung

TỔNG QUAN

Giới thiệu về stress, lo âu, trầm cảm

“Stress” là thuật ngữ tiếng Anh có nguồn gốc từ chữ La tinh “strictus” và phần của từ “stringere”, mang ý nghĩa căng thẳng, bất hạnh và nghịch cảnh Ban đầu, stress được sử dụng trong vật lý học để chỉ sức nén mà vật liệu phải chịu Đến thế kỷ 17, thuật ngữ này được áp dụng trong y học và tâm lý học, diễn tả sức ép hoặc xâm phạm tác động đến con người, gây ra phản ứng căng thẳng.

Trong nghiên cứu lý luận và thực tiễn, stress được định nghĩa qua nhiều khái niệm khác nhau, phụ thuộc vào quan điểm của từng tác giả Mỗi người có cách nhìn riêng, dẫn đến những quan niệm đa dạng về vấn đề này.

Năm 1914, W.B Cannon lần đầu tiên sử dụng thuật ngữ stress trong nghiên cứu y sinh học, nhưng Hans Selye, nhà sinh lý học người Canada, đã đóng góp lớn trong việc định nghĩa stress một cách khoa học Theo Selye, stress là phản ứng sinh học không đặc hiệu của cơ thể trước các kích thích môi trường, giúp khôi phục trạng thái cân bằng nội môi và thích nghi với các điều kiện sống biến đổi Stress bình thường hỗ trợ con người trong việc thích nghi, nhưng nếu phản ứng không đầy đủ hoặc không phù hợp, cơ thể sẽ rối loạn chức năng, dẫn đến các vấn đề sức khỏe thể chất và tâm lý Học thuyết của Selye nhấn mạnh tầm quan trọng của cảm xúc đối với sức khỏe, là nguyên nhân của nhiều bệnh tâm thể như loét dạ dày – tá tràng và hen phế quản.

Từ phát hiện của H Selye, nhiều nhà khoa học đã nghiên cứu sâu về stress Theo nhà tâm lý học Richard Lazarus, stress là trạng thái cảm xúc mà cá nhân trải nghiệm khi nhận thấy các yêu cầu từ bên ngoài và bên trong có tính chất đe dọa, vượt qua khả năng và nguồn lực mà họ có thể huy động.

Theo nhà tâm lý học Mc Grath, stress được định nghĩa là sự mất thăng bằng giữa yêu cầu và khả năng đáp ứng Khi khả năng đáp ứng không đủ, hậu quả tiêu cực sẽ xảy ra.

Trong cuốn sách “Stress từ bệnh học tâm thần đến cách tiếp cận trị liệu” của Giáo sư Ferreri, được dịch bởi Giáo sư Nguyễn Việt, stress được định nghĩa là mối liên hệ giữa con người và môi trường xung quanh Stress không chỉ là tác nhân gây căng thẳng mà còn là phản ứng của cơ thể trước các tác nhân đó Vì vậy, stress là sự tương tác giữa tác nhân kích thích và phản ứng của cơ thể.

Theo bác sĩ Nguyễn Khắc Viện, stress có hai nghĩa trong tiếng Anh: thứ nhất là mối kích động mạnh mẽ tác động lên con người, và thứ hai là phản ứng sinh lý – tâm lý của con người trước kích động đó Mối kích động này có thể đến từ các tác nhân vật lý, hóa học, vi khuẩn hoặc các yếu tố tâm lý xã hội, tạo ra tình huống căng thẳng đột xuất mà con người phải huy động khả năng thích ứng để phản ứng Phản ứng này có hai mặt: một là phản ứng đặc thù cho từng loại kích động, và hai là phản ứng chung cho một loại nhưng có thể khác nhau giữa các kích động khác nhau.

Stress có thể được hiểu theo nhiều cách khác nhau, tùy thuộc vào góc độ tiếp cận Một số người coi stress là nguyên nhân, trong khi người khác lại xem đó là hậu quả Các nhà nghiên cứu có thể nhìn nhận stress từ khía cạnh sinh học, coi đó là phản ứng sinh lý của cơ thể, hoặc từ góc độ tâm lý, kết hợp cả yếu tố sinh học và tâm lý Trong nghiên cứu này, chúng tôi chọn định nghĩa về stress của Richard Lazarus, vì nó phù hợp với điều kiện, định hướng và thang công cụ đo lường mà chúng tôi sử dụng.

Lo âu là một phản ứng cảm xúc tự nhiên của con người trước những mối đe dọa và thử thách, thể hiện qua cảm giác sợ hãi và khó chịu, cùng với các rối loạn cơ thể Đây là tín hiệu báo động giúp cá nhân nhận thức được những nguy cơ từ bên trong hoặc bên ngoài, từ đó tìm ra giải pháp phù hợp để tồn tại và phát triển.

Khi lo âu trở nên dai dẳng và lan tỏa mà không liên quan đến một sự kiện cụ thể nào, nó mất đi tính chất thời sự và không còn gắn liền với các hoàn cảnh hay sự kiện đã qua.

Khi lo âu trở thành một bệnh lý, nó có thể cản trở công việc, học tập và sinh hoạt hàng ngày, đồng thời gây ảnh hưởng tiêu cực đến các mối quan hệ cá nhân Tình trạng này được gọi là rối loạn lo âu.

Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), trầm cảm là một rối loạn tâm thần phổ biến, với các triệu chứng như buồn rầu, mất hứng thú, cảm giác tội lỗi, giá trị bản thân thấp, rối loạn giấc ngủ, ăn uống và kém tập trung.

Theo DSM-IV (1984), trầm cảm được định nghĩa là một rối loạn cảm xúc, biểu hiện qua sự giảm khí sắc, mất hứng thú, và giảm năng lượng, dẫn đến mệt mỏi gia tăng ngay cả với những nỗ lực nhỏ Tình trạng này kéo dài ít nhất hai tuần.

Trầm cảm là một rối loạn khí sắc phổ biến trong các vấn đề tâm thần, biểu hiện bằng cảm giác buồn chán và giảm hứng thú kéo dài, ảnh hưởng tiêu cực đến công việc, học tập, và các mối quan hệ gia đình, xã hội Tuy nhiên, đây là một rối loạn tâm thần có thể điều trị hiệu quả.

Với các khái niệm trên, trầm cảm được xem xét biểu hiện ở các mặt: cảm xúc, nhận thức, cơ thể và hành vi

1.1.1.4 Khái niệm Nhân viên y tế (NVYT)

Theo báo cáo của Tổ chức Y tế Thế giới năm 2006, nhân viên y tế (NVYT) bao gồm tất cả những người tham gia vào các hoạt động nhằm nâng cao sức khỏe Cụ thể, NVYT không chỉ bao gồm bác sĩ, điều dưỡng, nữ hộ sinh, nha sĩ, dược sĩ và kỹ thuật viên phòng thí nghiệm, mà còn cả các quản lý và nhân viên hỗ trợ như quản lý bệnh viện, cán bộ tài chính, đầu bếp, nhân viên bảo trì và vệ sinh Do đó, NVYT là những người hoạt động trong lĩnh vực y tế, tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào việc chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cộng đồng.

Giới thiệu về các thang đo lường stress, lo âu, trầm cảm và bộ công cụ

Hiện nay, có nhiều bộ công cụ nghiên cứu và đánh giá sức khoẻ tâm thần, bao gồm PSS 10 để đánh giá cảm nhận về stress, GHO 12 để đo lường stress, thang tự đánh giá lo âu Zung (SAS), thang đánh giá lo âu Beck (BAI), thang đo trầm cảm Beck (BDI), AKUADS cho trầm cảm và lo âu, cùng với DASS 21 và DASS 42 để đánh giá stress, lo âu và trầm cảm.

Năm 1995, Lovibond S.H và Lovibond P.F tại Đại học New South Wales, Australia đã phát triển thang đo DASS 42 để đánh giá stress, lo âu và trầm cảm Phiên bản rút gọn DASS 21 được giới thiệu vào năm 1997, trong khi DASS 42 được sử dụng chủ yếu trong các bối cảnh lâm sàng.

của Lovibond

Một số nghiên cứu về stress, lo âu, trầm cảm trên thế giới và tại Việt Nam

1.3.1 Một số nghiên cứu trên thế giới

Hiện nay, sức khoẻ tâm thần đang trở thành một vấn đề được quan tâm ngày càng nhiều hơn Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã chỉ ra rằng stress, lo âu và trầm cảm ảnh hưởng đến nhiều đối tượng khác nhau, bao gồm công nhân, học sinh – sinh viên, nhân viên lái xe buýt, cựu chiến binh, và đặc biệt là nhân viên y tế, những người trực tiếp hoặc gián tiếp chăm sóc sức khoẻ cho cộng đồng.

Nghiên cứu của Refai Yassen Al-Hussein và Ahmed Moshirf Al-Mteiwty

Năm 2007, một nghiên cứu đã sử dụng thang đo DASS 21 để đánh giá tỷ lệ nhân viên y tế bị trầm cảm, lo âu và stress tại bảy bệnh viện ở thành phố Mosul, Iran Mẫu nghiên cứu bao gồm hai nhóm đối tượng khác nhau.

Một nghiên cứu đã chỉ ra rằng trong số 250 điều dưỡng và 250 nhân viên y tế khác, 16% điều dưỡng gặp phải tình trạng trầm cảm, trong khi tỷ lệ này ở nhóm nhân viên còn lại chỉ là 7,6% Ngoài ra, có 20,8% điều dưỡng bị rối loạn lo âu, so với 7,6% ở nhóm nhân viên khác, và 10% điều dưỡng trải qua stress, trong khi con số này ở nhóm còn lại chỉ là 6% Kết quả cho thấy điều dưỡng có nguy cơ cao mắc các rối loạn tâm thần hơn so với các nhân viên y tế khác, tuy nhiên nghiên cứu chưa xác định được nguyên nhân cụ thể của tình trạng này.

10 dẫn đến kết luận cũng như các yếu tố liên quan đến vấn đề SKTT của các nhóm đối tượng [40]

Nghiên cứu của Khalid S Al-Gelban (2009) đã sử dụng thang đo DASS 42 để đánh giá tình trạng stress, lo âu và trầm cảm ở 304 bác sĩ tại vùng Aseer, Saudi Arabia Kết quả cho thấy tỷ lệ mắc các vấn đề sức khỏe tâm thần khá thấp, với trầm cảm 7,6%, lo âu 8,6% và stress 7,2% Nghiên cứu cũng chỉ ra mối liên quan giữa các trạng thái này với tuổi, giới tính, quốc tịch, tình trạng hôn nhân, bằng cấp và số năm kinh nghiệm Đặc biệt, giới tính và trình độ chuyên môn là hai yếu tố có ý nghĩa thống kê liên quan đến stress và lo âu, trong đó nữ giới có tỷ lệ mắc cao hơn nam giới.

Nghiên cứu của Asad Zandi và cộng sự (2011) đã đánh giá tỉ lệ stress, lo âu và trầm cảm của 272 điều dưỡng tại 29 khoa phòng trong một bệnh viện quân đội, sử dụng thang đo DASS 21 Kết quả cho thấy 24,9% điều dưỡng bị trầm cảm, 27,9% lo âu và 23,8% stress, với nữ giới có tỉ lệ cao hơn nam giới Nghiên cứu cũng chỉ ra mối quan hệ có ý nghĩa thống kê giữa trầm cảm, lo âu, stress với tuổi tác, trình độ học vấn, số giờ làm thêm và nơi làm việc, nhưng chưa mở rộng đến các yếu tố cá nhân như mối quan hệ gia đình, bạn bè và xã hội.

Nghiên cứu của Mostafa A F Abbas, Lamiaa Z Abu Zaid và Mona Hussaein (2013) tại King Fahad Medical City, Saudi Arabia, đã khảo sát tình trạng lo âu và trầm cảm ở 715 điều dưỡng viên bằng cách sử dụng thang đo HADS (Hospital Anxiety and Depression Scale) Kết quả cho thấy 25% điều dưỡng có triệu chứng trầm cảm, trong đó 10% có khả năng mắc bệnh trầm cảm, và 27% có triệu chứng lo âu, với 20% có thể mắc rối loạn lo âu Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng ly hôn, ít rèn luyện thể dục và hút thuốc lá là những yếu tố nguy cơ cho triệu chứng lo âu và trầm cảm ở nhân viên y tế Tuy nhiên, khác với các nghiên cứu trước, tác giả không phát hiện mối liên hệ có ý nghĩa thống kê giữa yếu tố công việc như trực đêm và tăng ca với tình trạng lo âu, trầm cảm của nhân viên y tế.

Nghiên cứu của Creedy D.K (2017) sử dụng thang đo DASS 21 để khảo sát tình trạng stress, lo âu và trầm cảm ở 1037 điều dưỡng và nữ hộ sinh tại Australia, cho thấy tỷ lệ stress là 22,1%, trầm cảm là 17,3% và lo âu là 20,4% Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng các rối loạn tâm thần của nhân viên y tế có liên quan đến đặc điểm công việc, tuy nhiên chưa phân tích kỹ lưỡng các yếu tố này.

1.3.2 Thực trạng stress, lo âu và trầm cảm của nhân viên y tế tại Việt Nam

Tại Việt Nam, sức khỏe tâm thần (SKTT) đang ngày càng được chú trọng, nhưng các nghiên cứu liên quan đến stress, lo âu và trầm cảm trong đội ngũ nhân viên y tế (NVYT) vẫn còn hạn chế, chủ yếu tập trung vào stress nghề nghiệp Một số công trình nghiên cứu đáng chú ý trong lĩnh vực này đã được thực hiện.

Nghiên cứu của Lê Thành Tài và cộng sự (2008) đã khảo sát tình trạng stress nghề nghiệp của điều dưỡng tại BV đa khoa Trung ương Cần Thơ, BV đa khoa thành phố Cần Thơ và BV đa khoa Châu Thành – Hậu Giang, sử dụng bộ công cụ đánh giá stress nghề nghiệp của David Fontana Kết quả cho thấy BV đa khoa Trung ương Cần Thơ có tỷ lệ stress cao nhất (53,1%), tiếp theo là BV đa khoa thành phố Cần Thơ (33,9%) và thấp nhất là BV đa khoa Châu Thành – Hậu Giang (32,5%) Các yếu tố gây stress nghề nghiệp cho điều dưỡng bao gồm thâm niên công tác, làm việc quá nhiều giờ, áp lực công việc, thiếu hứng thú, điều kiện làm việc kém, tiếp xúc với mầm bệnh, nguy cơ thương tích, phản ứng từ bệnh nhân và người nhà, mâu thuẫn với đồng nghiệp và cấp trên, thu nhập không thỏa đáng, cũng như cơ hội thăng tiến hạn chế.

Nghiên cứu của Đỗ Nguyễn Nhựt Trần và cộng sự (2008) tại huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai cho thấy 79% nhân viên y tế (NVYT) gặp phải tình trạng stress, trong đó 27% bị stress thường xuyên Các yếu tố liên quan đến stress bao gồm trình độ học vấn, tính chất công việc, mức độ hài lòng, hoạt động thể lực, thời gian nghỉ ngơi không hợp lý, áp lực công việc, thiếu sự quan tâm từ cấp trên, quấy rối và phân biệt đối xử, cũng như thiếu trang thiết bị Mặc dù nghiên cứu đã xem xét các yếu tố cá nhân như mối quan hệ với gia đình và bạn bè, cũng như tham gia hoạt động thể lực, nhưng không tìm thấy mối liên hệ rõ ràng giữa những yếu tố này và trạng thái stress.

Nghiên cứu của Trần Thị Thuý (2011) tại BV Ung bướu Hà Nội đã đánh giá stress ở 120 nhân viên y tế khối lâm sàng bằng thang đo DASS 21, cho thấy 36,9% nhân viên có biểu hiện stress, 41,5% lo âu và 15,3% trầm cảm Mức độ nặng của stress, lo âu và trầm cảm lần lượt là 0,9%, 4,5% và 1,8% Phân tích hồi quy logistic đa biến chỉ ra rằng các yếu tố như số buổi trực trên 4 buổi và cảm nhận công việc ít hứng thú có liên quan đến việc tăng trạng thái stress.

Nghiên cứu cho thấy rằng việc tiếp xúc liên tục với hóa chất độc hại có thể ảnh hưởng tiêu cực đến mối quan hệ với người bệnh Tuy nhiên, nghiên cứu chưa đánh giá đầy đủ các yếu tố tác động đến tình trạng stress, bao gồm đời sống cá nhân, gia đình và các mối quan hệ ngoài công việc Hơn nữa, nghiên cứu chỉ tập trung vào các yếu tố liên quan đến stress mà chưa xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến lo âu và trầm cảm.

Nghiên cứu của Nguyễn Trung Tần (2012) về stress của nhân viên y tế tại Bệnh viện tâm thần Tiền Giang cho thấy 75,7% nhân viên thỉnh thoảng gặp stress, trong khi 14,7% rơi vào tình trạng stress thường xuyên.

Nghiên cứu của Đậu Thị Tuyết (2013) sử dụng thang đo DASS 21 để đánh giá tình trạng stress, lo âu và trầm cảm của nhân viên y tế tại hai bệnh viện ở Nghệ An, gồm Bệnh viện đa khoa thành phố Vinh và Bệnh viện đa khoa khu vực 115 Kết quả cho thấy tỷ lệ nhân viên y tế gặp phải stress, lo âu và trầm cảm là khá cao, với tỷ lệ trung bình lần lượt là 20,4%, 29% và 13,6% Bệnh viện đa khoa thành phố Vinh có tỷ lệ stress và trầm cảm thấp hơn, nhưng tỷ lệ lo âu lại cao hơn so với Bệnh viện đa khoa khu vực 115, mặc dù sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê Phân tích hồi quy logistic xác định 11 yếu tố liên quan đến các vấn đề tâm lý này, không có yếu tố nào chung giữa hai bệnh viện Các yếu tố chính ảnh hưởng đến stress và trầm cảm tại Bệnh viện đa khoa thành phố Vinh bao gồm mức độ hứng thú trong công việc và tình trạng cơ sở vật chất, trong khi tại Bệnh viện đa khoa 115 Nghệ An, stress liên quan đến nguy cơ lây nhiễm và lo âu liên quan đến sự rõ ràng trong phân công công việc Nghiên cứu cũng xem xét các yếu tố cá nhân, gia đình và môi trường xã hội, nhưng chỉ dừng lại ở mức mô tả chung mà chưa phân tích sâu hơn.

Nghiên cứu của Ngô Thị Kiều My và cộng sự (2014) trên 370 điều dưỡng và hộ sinh tại BV Phụ Sản – Nhi Đà Nẵng đã sử dụng bộ công cụ DASS 21 để đánh giá tình trạng stress, lo âu và trầm cảm Kết quả cho thấy tỷ lệ stress, lo âu và trầm cảm lần lượt là 18,1%, 33,2% và 18,4% Phân tích hồi quy logistic đa biến chỉ ra rằng các yếu tố liên quan đến stress bao gồm công việc không ổn định, không gian làm việc chật chội và mối quan hệ không tốt với cấp trên Trong khi đó, lo âu liên quan đến việc không tập thể dục, gặp biến cố cá nhân, sức khỏe kém và sự không công bằng trong đánh giá công việc Cuối cùng, tình trạng sức khỏe cũng là yếu tố liên quan đến trầm cảm.

13 không tốt, chưa tự chủ trong công việc, ít tham gia hoạt động văn thể mỹ tại bệnh viện, quan hệ với cấp trên không tốt [14]

Giới thiệu về địa điểm nghiên cứu

Sóc Sơn là một huyện ngoại thành thuộc Hà Nội, nằm ở phía bắc thành phố, cách trung tâm khoảng 35km Huyện này bao gồm 26 đơn vị hành chính cấp xã, trong đó có thị trấn Sóc Sơn và 25 xã như Bắc Phú, Bắc Sơn, Đông Xuân, Đức Hoà, Hiền Ninh, Hồng Kỳ, Kim Lũ, Mai Đình, Minh Phú, Nam Sơn, Phú Cường, Phù Linh, Phù Lỗ, Phú Minh, Quang Tiến, Tân Dân, Tân Hưng, Tân Minh, Thanh Xuân, Tiên Dược, Trung Giã, Việt Long, Xuân Giang và Xuân Thu.

Sóc Sơn đã phát huy nội lực và tận dụng xu thế phát triển, dần khẳng định vai trò là ngoại thành của trung tâm kinh tế lớn thứ hai tại Việt Nam Với hạ tầng ngày càng hoàn thiện và sự xuất hiện của các trung tâm công nghiệp như Trung tâm công nghiệp Nội Bài cùng các cụm công nghiệp và làng nghề, Sóc Sơn đã chuyển mình từ một huyện thuần nông sang cơ cấu kinh tế đa dạng hơn: công nghiệp – dịch vụ – nông nghiệp Ngoài những thành tựu kinh tế, lĩnh vực văn hóa xã hội cũng có những bước tiến mạnh mẽ, đặc biệt là trong chỉ tiêu y tế, đạt nhiều kết quả đáng phấn khởi.

Trung tâm Y tế huyện Sóc Sơn được thành lập năm 1988 theo quyết định số

Vào ngày 30/06/1988, UBND Thành phố Hà Nội ban hành quyết định số 3025, tiếp theo là Quyết định số 494 của UBND huyện Sóc Sơn vào ngày 22/07/1988 Đến tháng 10 năm 2008, 26 Trạm Y tế xã, thị trấn được sát nhập, nâng tổng số cơ sở y tế trực thuộc lên 30 đơn vị Theo chỉ đạo của Sở Y tế Hà Nội, vào ngày 10/05/2016, Trung tâm Y tế huyện Sóc Sơn đã tổ chức hội thảo về đề án xây dựng mô hình bác sĩ gia đình tại Hà Nội Hiện tại, Trung tâm có 5 khoa chuyên môn, 3 phòng chức năng, 4 phòng khám khu vực và 26 trạm y tế xã, thị trấn đạt chuẩn, với đội ngũ 417 cán bộ chuyên môn, bao gồm 2 bác sĩ chuyên khoa II, 14 bác sĩ chuyên khoa I, 11 thạc sĩ, 4 dược sĩ đại học, 55 bác sĩ, 41 dược sĩ trung học và nhiều nhân lực có trình độ chuyên môn cao khác.

Trung tâm không chỉ chú trọng vào nguồn nhân lực mà còn đầu tư mạnh mẽ vào cơ sở hạ tầng, đảm bảo có đầy đủ các phòng chuyên môn theo quy định Đặc biệt, trung tâm đã trang bị các thiết bị kỹ thuật hiện đại như máy siêu âm màu, máy nội soi, máy X-quang kỹ thuật số, điện tim, máy đo tật khúc xạ, ghế răng, máy xét nghiệm, kính sinh hiển vi và máy khí dung Những đầu tư này nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của bệnh nhân và nâng cao chất lượng khám chữa bệnh cho cộng đồng.

Để nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, Trung tâm y tế huyện Sóc Sơn đã hợp tác với các bệnh viện lớn tại Hà Nội như Bệnh viện Châm cứu Trung ương, Bệnh viện Tim Hà Nội, Bệnh viện Lão khoa Trung Ương, Bệnh viện Ung bướu Hà Nội và Bệnh viện Mắt Hà Nội.

Trung tâm Y tế Sóc Sơn, với phương châm "Người bệnh là trung tâm phục vụ", đã triển khai các giải pháp thiết thực và hiệu quả nhằm khẳng định vai trò quan trọng trong hoạt động chuyên môn Trung tâm không chỉ bảo vệ sức khỏe của người dân mà còn góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực y tế.

Huyện Sóc Sơn đang nỗ lực trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá và xây dựng nông thôn mới, nhằm trở thành một huyện phát triển năng động của Thủ đô Hà Nội.

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu là các cán bộ, nhân viên y tế làm việc tại các Trạm Y tế, Phòng khám Đa khoa khu vực và Phòng khám Đa khoa huyện ở huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội.

Nhân viên y tế, bao gồm bác sĩ, dược sĩ, y tá, điều dưỡng viên và kỹ thuật viên, đang làm việc tại các Trạm Y tế, Phòng khám Đa khoa khu vực và Phòng khám Đa khoa huyện tại huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội.

- Cán bộ phải công tác tại đơn vị từ 6 tháng trở lên tính đến ngày làm nghiên cứu điều tra tại đơn vị đó

- Đối tượng không đủ các tiêu chuẩn trên

- Đối tượng vắng mặt tại thời điểm điều tra (nghỉ thai sản, nghỉ phép, nghỉ do ốm đau bệnh tật…)

- Đối tượng từ chối tham gia nghiên cứu.

Địa điểm và thời gian nghiên cứu

- Địa điểm nghiên cứu: Các Trạm Y tế, Phòng khám đa khoa khu vực, Phòng khám đa khoa huyện trên địa bàn huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội

- Thời gian nghiên cứu: Tháng 06 năm 2019.

Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu mô tả cắt ngang

Tất cả 355 nhân viên y tế tại Trung tâm y tế huyện Sóc Sơn đã được liên hệ và phát phiếu tự điền, đáp ứng đầy đủ tiêu chí lựa chọn đối tượng Mọi nhân viên y tế đều đồng ý và đã hoàn thành việc điền thông tin vào phiếu điều tra, đạt tỷ lệ 100%.

2.3.3 Các chỉ số và biến số nghiên cứu

Bảng 2.1 Các chỉ số và biến số nghiên cứu

Mục tiêu Biến số Định nghĩa Phân loại biến Đặc trưng cá nhân và đặc điểm công việc

Tuổi Tuổi dương lịch, lấy 2019 trừ đi năm sinh của ĐTNC Định lượng Giới tính Là giới nam hay nữ Định tính

Dân tộc Dân tộc của ĐTNC Định tính

Tôn giáo Tôn giáo của ĐTNC Định tính Nơi ở hiện tại Nơi ở hiện tại của ĐTNC Định tính

Là chưa kết hôn/kết hôn/ly thân, ly dị hay goá bụa Định tính

Số con Số con mà ĐTNC hiện có Định lượng

Lĩnh vực chuyên môn Chuyên ngành được đào tạo Định tính

Trình độ học vấn cao nhất mà ĐTNC hoàn thành (trung cấp, cao đẳng, đại học, CK1, CK2, thạc sĩ) Định tính

Thời gian công tác trong ngành y

Số năm công tác của ĐTNC trong ngành y Định lượng

Thời gian công tác tại PK/TYT

Số năm công tác của ĐTNC trong TYT và PK Định lượng

Mục tiêu Biến số Định nghĩa Phân loại biến

Hình thức lao đông của ĐTNC (hợp đồng/ biên chế) Định tính

Chức vụ của ĐTNC ở PK,

Mức thu nhập hàng tháng

Mức thu nhập hàng tháng của ĐTNC (triệu VNĐ/tháng) Định lượng

Thời gian làm việc hàng ngày

Thời gian làm việc hàng ngày của ĐTNC (giờ) Định lượng

Xác định tỉ lệ stress, trầm cảm và lo âu của nhân viên y tế thuộc

Trung tâm y tế huyện Sóc

Sơn, thành phố Hà Nội năm 2019.

Mức độ stress của NVYT theo thang điểm DASS 21 (không stress, stress nhẹ, vừa, nặng hoặc rất nặng) Định tính

Mức độ lo âu của NVYT theo thang điểm DASS 21 (không lo âu, lo âu nhẹ, vừa, nặng hoặc rất nặng) Định tính

Mức độ trầm cảm của NVYT theo thang điểm DASS 21 (không trầm cảm, trầm cảm nhẹ, vừa, nặng hoặc rất nặng) Định tính

Xác định một số yếu tố liên quan đến stress, trầm cảm và lo âu của nhân viên

Nhóm tuổi Nhóm tuổi £30 hoặc >30 Định tính

Giới tính Nam hoặc nữ (theo giấy khai sinh) Định tính

Nhóm tình trạng hôn nhân

Có gia đình hoặc nhóm độc thân, ly thân, ly dị, goá Định tính

Mục tiêu Biến số Định nghĩa Phân loại biến y tế thuộc

Trung tâm y tế huyện Sóc

Sơn, thành phố Hà Nội

Có con Đã có con hoặc không Định tính

Nhóm lĩnh vực chuyên môn

Nhóm bác sĩ, y sĩ, điều dưỡng hoặc khác Định tính

Nhóm thời gian công tác trong ngành y

Nhóm thời gian công tác trong ngành y

Ngày đăng: 01/12/2021, 19:44

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. 10,7% người lao động bị rối loạn tâm thần (2008), truy cập ngày 11/11/2013, tại trang web http://www.baomoi.com/107-nguoi-lao-dong-bi-roi-loan-tam-than/82/1881892.epi Sách, tạp chí
Tiêu đề: 10,7% người lao động bị rối loạn tâm thần
Tác giả: 10,7% người lao động bị rối loạn tâm thần
Năm: 2008
4. Bộ Y tế (2012), Gánh nặng tâm thần trong lao động, Sức khoẻ nghề nghiệp - Sách đào tạo Bác sỹ chuyên khoa Định hướng Y học dự phòng, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Gánh nặng tâm thần trong lao động
Tác giả: Bộ Y tế
Nhà XB: Nhà xuất bản Y học
Năm: 2012
6. Nguyễn Hữu Chiến (2016), Rối loạn trầm cảm, truy cập ngày-2020, tại trang webhttp://www.bvtttw1.gov.vn/?lang=V&func=newsdetail&newsid=845&CatID=34&MN=7 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Rối loạn trầm cảm
Tác giả: Nguyễn Hữu Chiến
Năm: 2016
8. Đại học Y tế Công cộng (dự án VINE) (2011), Gánh nặng bệnh tật và chấn thương ở Việt Nam 2008, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, 48-50 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Gánh nặng bệnh tật và chấn thương ở Việt Nam 2008
Tác giả: Đại học Y tế Công cộng (dự án VINE)
Nhà XB: Nhà xuất bản Y học
Năm: 2011
9. Nguyễn Ý Đức (2013), Đời sống và stress, truy cập ngày, tại trang web https://tailieu.vn/doc/doi-song-va-stress-bs-nguyen-y-uc--1439230.html Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đời sống và stress
Tác giả: Nguyễn Ý Đức
Năm: 2013
10. Trương Thị Hoà (2018), Rối loạn trầm cảm ở người nhiễm HIV/AIDS tại phòng khám ngoại trú huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh, Viện Hàn Lâm Khoa học Xã hội Việt Nam Sách, tạp chí
Tiêu đề: Rối loạn trầm cảm ở người nhiễm HIV/AIDS tại phòng khám ngoại trú huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh
Tác giả: Trương Thị Hoà
Năm: 2018
11. Nguyễn Thị Huyền (2018), TTYT huyện Sóc Sơn: Phát triển toàn diện theo mô hình Bác sĩ gia đình quản lý sức khỏe toàn dân, truy cập ngày, tại trang web http://soyte.hanoi.gov.vn/vi/news/hoat-dong-co-so/ttyt-huyen-soc-son-phat-trien-toan-dien-theo-mo-hinh-bac-si-gia-dinh-quan-ly-suc-khoe-toan-dan-3315.html Sách, tạp chí
Tiêu đề: TTYT huyện Sóc Sơn: Phát triển toàn diện theo mô hình Bác sĩ gia đình quản lý sức khỏe toàn dân
Tác giả: Nguyễn Thị Huyền
Năm: 2018
12. Nguyễn Thanh Hương, Nguyễn Hữu Xuân Trường và Trần Thị Giáng Hương (2012), "Rối loạn lo âu và một số yếu tố liên quan ở cán bộ bệnh viện tâm thần Đà Nẵng", Tạp chí Y Tế Công cộng, 29(29), tr. 11-16 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Rối loạn lo âu và một số yếu tố liên quan ở cán bộ bệnh viện tâm thần Đà Nẵng
Tác giả: Nguyễn Thanh Hương, Nguyễn Hữu Xuân Trường và Trần Thị Giáng Hương
Năm: 2012
13. Đặng Phương Kiệt (2001), Cơ sở tâm lý học ứng dụng, Nhà xuất bản ĐHQG Hà Nội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cơ sở tâm lý học ứng dụng
Tác giả: Đặng Phương Kiệt
Nhà XB: Nhà xuất bản ĐHQG Hà Nội
Năm: 2001
14. Ngô Thị Kiều My, Trần Đình Vinh và Đỗ Mai Hoa (2014), Đánh giá tình trạng stress, lo âu, trầm cảm của điều dưỡng và hộ sinh khối lâm sàng Bệnh viện Phụ sản Nhi Đà Nẵng năm 2014, Tạp chí Y Tế Công cộng, Trường Đại học Y tế Công cộng Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đánh giá tình trạng stress, lo âu, trầm cảm của điều dưỡng và hộ sinh khối lâm sàng Bệnh viện Phụ sản Nhi Đà Nẵng năm 2014
Tác giả: Ngô Thị Kiều My, Trần Đình Vinh và Đỗ Mai Hoa
Năm: 2014
15. Nguyễn Huỳnh Ngọc (2010), Tâm lý y học y đức, Vol. 2, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, tr. 67-68 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tâm lý y học y đức
Tác giả: Nguyễn Huỳnh Ngọc
Nhà XB: Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam
Năm: 2010
16. Lê Thanh Nhuận và Phạm Cự Linh (2009), "Sự hài lòng đối với công việc của nhân viên y tế tuyến cơ sở", Tạp chí Y Tế Công cộng, 13(13), tr. 51 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sự hài lòng đối với công việc của nhân viên y tế tuyến cơ sở
Tác giả: Lê Thanh Nhuận và Phạm Cự Linh
Năm: 2009
17. Jean Marc Olivé (2008), Bài bình luận nhân ngày sức khoẻ tâm thần thế giới 10/10/2008, truy cập ngày 11/11/2013, tại trang web http://www.wpro.who.int/vietnam/mediacentre/releases/2008/10102008/vi/index.html Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bài bình luận nhân ngày sức khoẻ tâm thần thế giới 10/10/2008
Tác giả: Jean Marc Olivé
Năm: 2008
18. Lê Thành Tài, Trần Ngọc Xuân và Trần Trúc Linh (2008), "Tình hình stress nghề nghiệp của nhân viên điều dưỡng", Tạp chí Y học thành phố Hồ Chí Minh, 12(4), tr. 216-220 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tình hình stress nghề nghiệp của nhân viên điều dưỡng
Tác giả: Lê Thành Tài, Trần Ngọc Xuân và Trần Trúc Linh
Năm: 2008
19. Ngô Ngọc Tản và Nguyễn Văn Ngân (2007), Tâm thần học và tâm lý y học, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tâm thần học và tâm lý y học
Tác giả: Ngô Ngọc Tản và Nguyễn Văn Ngân
Nhà XB: Nhà xuất bản Quân đội nhân dân
Năm: 2007
20. Nguyễn Trung Tần (2012), Stress của nhân viên y tế tại bệnh viện tâm thần Tiền Giang, Luật văn Thạc sĩ Tâm lý học, Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh, TP Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Stress của nhân viên y tế tại bệnh viện tâm thần Tiền Giang
Tác giả: Nguyễn Trung Tần
Năm: 2012
21. Nguyễn Viết Thêm và Võ Tăng Lâm (2001), "Lo âu, trầm cảm trong thực hành tâm thần học", Nội san tâm thần học, 6, tr. 31-37 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lo âu, trầm cảm trong thực hành tâm thần học
Tác giả: Nguyễn Viết Thêm và Võ Tăng Lâm
Năm: 2001
5. Cẩm nang bệnh, truy cập ngày 26/04/2020, tại trang web http://www.camnangbenh.com/stress/ Link
28. Trung tâm Y tế huyện Sóc Sơn, truy cập ngày 07/05/2020, tại trang web http://trungtamytesocson.org.vn/gioi-thieu.htm Link
51. World Health Organization (1946), 1948, New York, truy cập ngày, tại trang web https://www.who.int/about/who-we-are/frequently-asked-questions Link

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Bảng 2.1. Các chỉ số và biến số nghiên cứu - Thực trạng và các yếu tố liên quan đến stress, trầm cảm, lo âu của nhân viên y tế thuộc trung tâm y tế huyện sóc sơn, thành phố hà nội
Bảng 2.1. Các chỉ số và biến số nghiên cứu (Trang 27)
Hình thức lao động  - Thực trạng và các yếu tố liên quan đến stress, trầm cảm, lo âu của nhân viên y tế thuộc trung tâm y tế huyện sóc sơn, thành phố hà nội
Hình th ức lao động (Trang 28)
Hình thức lao - Thực trạng và các yếu tố liên quan đến stress, trầm cảm, lo âu của nhân viên y tế thuộc trung tâm y tế huyện sóc sơn, thành phố hà nội
Hình th ức lao (Trang 29)
Bảng 2.2. Mức độ stress, lo âu, trầm cảm theo thang điểm DASS 21 - Thực trạng và các yếu tố liên quan đến stress, trầm cảm, lo âu của nhân viên y tế thuộc trung tâm y tế huyện sóc sơn, thành phố hà nội
Bảng 2.2. Mức độ stress, lo âu, trầm cảm theo thang điểm DASS 21 (Trang 30)
Bảng 3.1. Phân bố nhóm tuổi của đối tượng nghiên cứu - Thực trạng và các yếu tố liên quan đến stress, trầm cảm, lo âu của nhân viên y tế thuộc trung tâm y tế huyện sóc sơn, thành phố hà nội
Bảng 3.1. Phân bố nhóm tuổi của đối tượng nghiên cứu (Trang 32)
Bảng 3.2 cho thấy, trong tổng số 355 NVYT huyện Sóc Sơn tham gia nghiên cứu thì nữ chiếm đa số với tỉ lệ 75,49%, nam chiếm 24,51% - Thực trạng và các yếu tố liên quan đến stress, trầm cảm, lo âu của nhân viên y tế thuộc trung tâm y tế huyện sóc sơn, thành phố hà nội
Bảng 3.2 cho thấy, trong tổng số 355 NVYT huyện Sóc Sơn tham gia nghiên cứu thì nữ chiếm đa số với tỉ lệ 75,49%, nam chiếm 24,51% (Trang 33)
Bảng 3.4. Đặc điểm về hôn nhân, số con của đối tượng nghiên cứu - Thực trạng và các yếu tố liên quan đến stress, trầm cảm, lo âu của nhân viên y tế thuộc trung tâm y tế huyện sóc sơn, thành phố hà nội
Bảng 3.4. Đặc điểm về hôn nhân, số con của đối tượng nghiên cứu (Trang 34)
Bảng 3.6. Đặc điểm về trình độ của đối tượng nghiên cứu Trình độ học vấn Số lượng (n)  Tỉ lệ (%)  - Thực trạng và các yếu tố liên quan đến stress, trầm cảm, lo âu của nhân viên y tế thuộc trung tâm y tế huyện sóc sơn, thành phố hà nội
Bảng 3.6. Đặc điểm về trình độ của đối tượng nghiên cứu Trình độ học vấn Số lượng (n) Tỉ lệ (%) (Trang 35)
Bảng 3.8. Đặc điểm về chức vụ của đối tượng nghiên cứu - Thực trạng và các yếu tố liên quan đến stress, trầm cảm, lo âu của nhân viên y tế thuộc trung tâm y tế huyện sóc sơn, thành phố hà nội
Bảng 3.8. Đặc điểm về chức vụ của đối tượng nghiên cứu (Trang 37)
Biểu đồ 3.1. Hình thức lao động của đối tượng nghiên cứu - Thực trạng và các yếu tố liên quan đến stress, trầm cảm, lo âu của nhân viên y tế thuộc trung tâm y tế huyện sóc sơn, thành phố hà nội
i ểu đồ 3.1. Hình thức lao động của đối tượng nghiên cứu (Trang 37)
Bảng 3.10. Đặc điểm về thời gian làm việc một ngày của đối tượng nghiên cứu Thời gian làm việc một ngày (giờ) Số lượng (n) Tỉ lệ (%)  - Thực trạng và các yếu tố liên quan đến stress, trầm cảm, lo âu của nhân viên y tế thuộc trung tâm y tế huyện sóc sơn, thành phố hà nội
Bảng 3.10. Đặc điểm về thời gian làm việc một ngày của đối tượng nghiên cứu Thời gian làm việc một ngày (giờ) Số lượng (n) Tỉ lệ (%) (Trang 38)
Bảng 3.9. Đặc điểm về thu nhập của đối tượng nghiên cứu Thu nhập (Triệu VNĐ)Số lượng (n)  Tỉ lệ (%)  - Thực trạng và các yếu tố liên quan đến stress, trầm cảm, lo âu của nhân viên y tế thuộc trung tâm y tế huyện sóc sơn, thành phố hà nội
Bảng 3.9. Đặc điểm về thu nhập của đối tượng nghiên cứu Thu nhập (Triệu VNĐ)Số lượng (n) Tỉ lệ (%) (Trang 38)
Bảng 3.4 cung cấp thông tin về tỉ lệ các mức độ lo âu theo thang điểm DASS 21 từ mức độ nhẹ đến rất nặng - Thực trạng và các yếu tố liên quan đến stress, trầm cảm, lo âu của nhân viên y tế thuộc trung tâm y tế huyện sóc sơn, thành phố hà nội
Bảng 3.4 cung cấp thông tin về tỉ lệ các mức độ lo âu theo thang điểm DASS 21 từ mức độ nhẹ đến rất nặng (Trang 40)
Bảng 3.5 cho thấy, tỉ lệ NVYT huyện Sóc Sơn trầm cảm mức độ mức độ nhẹ và vừa chiếm tỉ lệ bằng nhau là 7,04%, mức độ nặng là 0,85% và NVYT trầm cảm ở  mức độ rất nặng lại chiếm tới 1,69% - Thực trạng và các yếu tố liên quan đến stress, trầm cảm, lo âu của nhân viên y tế thuộc trung tâm y tế huyện sóc sơn, thành phố hà nội
Bảng 3.5 cho thấy, tỉ lệ NVYT huyện Sóc Sơn trầm cảm mức độ mức độ nhẹ và vừa chiếm tỉ lệ bằng nhau là 7,04%, mức độ nặng là 0,85% và NVYT trầm cảm ở mức độ rất nặng lại chiếm tới 1,69% (Trang 41)
Bảng 3.11. Mức độ stress của NVYT phân theo đặc điểm cá nhân Đặc điểm cá nhân  - Thực trạng và các yếu tố liên quan đến stress, trầm cảm, lo âu của nhân viên y tế thuộc trung tâm y tế huyện sóc sơn, thành phố hà nội
Bảng 3.11. Mức độ stress của NVYT phân theo đặc điểm cá nhân Đặc điểm cá nhân (Trang 42)
Bảng 3.13. Mức độ trầm cảm của NVYT phân theo đặc điểm cá nhân - Thực trạng và các yếu tố liên quan đến stress, trầm cảm, lo âu của nhân viên y tế thuộc trung tâm y tế huyện sóc sơn, thành phố hà nội
Bảng 3.13. Mức độ trầm cảm của NVYT phân theo đặc điểm cá nhân (Trang 44)
3.3.2. Phân bố mức độ rối loạn tâm thần ở nhân viê ny tế theo đặc điểm công việc  - Thực trạng và các yếu tố liên quan đến stress, trầm cảm, lo âu của nhân viên y tế thuộc trung tâm y tế huyện sóc sơn, thành phố hà nội
3.3.2. Phân bố mức độ rối loạn tâm thần ở nhân viê ny tế theo đặc điểm công việc (Trang 45)
Hình thức lao động  - Thực trạng và các yếu tố liên quan đến stress, trầm cảm, lo âu của nhân viên y tế thuộc trung tâm y tế huyện sóc sơn, thành phố hà nội
Hình th ức lao động (Trang 46)
Hình thức lao động  - Thực trạng và các yếu tố liên quan đến stress, trầm cảm, lo âu của nhân viên y tế thuộc trung tâm y tế huyện sóc sơn, thành phố hà nội
Hình th ức lao động (Trang 47)
Bảng 3.16. Mức độ trầm cảm của NVYT theo đặc điểm công việc - Thực trạng và các yếu tố liên quan đến stress, trầm cảm, lo âu của nhân viên y tế thuộc trung tâm y tế huyện sóc sơn, thành phố hà nội
Bảng 3.16. Mức độ trầm cảm của NVYT theo đặc điểm công việc (Trang 48)
Đối với tình trạng trầm cảm của NVYT huyện Sóc Sơn, kết quả ở bảng 3.16 cho thấy mối liên quan giữa thời gian công tác trong ngành y, thời gian công tác tại  PK/TYT và dấu hiệu trầm cảm của NVYT - Thực trạng và các yếu tố liên quan đến stress, trầm cảm, lo âu của nhân viên y tế thuộc trung tâm y tế huyện sóc sơn, thành phố hà nội
i với tình trạng trầm cảm của NVYT huyện Sóc Sơn, kết quả ở bảng 3.16 cho thấy mối liên quan giữa thời gian công tác trong ngành y, thời gian công tác tại PK/TYT và dấu hiệu trầm cảm của NVYT (Trang 49)
Yếu tố trong mô hình Hệ số b KTC 95% p Lĩnh vực chuyên môn 0,05 -0,65-0,76  0,89  - Thực trạng và các yếu tố liên quan đến stress, trầm cảm, lo âu của nhân viên y tế thuộc trung tâm y tế huyện sóc sơn, thành phố hà nội
u tố trong mô hình Hệ số b KTC 95% p Lĩnh vực chuyên môn 0,05 -0,65-0,76 0,89 (Trang 50)
Hình thức lao động -0,44 -1,29-0,41 0,32 - Thực trạng và các yếu tố liên quan đến stress, trầm cảm, lo âu của nhân viên y tế thuộc trung tâm y tế huyện sóc sơn, thành phố hà nội
Hình th ức lao động -0,44 -1,29-0,41 0,32 (Trang 50)
Hình thức lao động -0,32 -0,99-0,34 0,34 - Thực trạng và các yếu tố liên quan đến stress, trầm cảm, lo âu của nhân viên y tế thuộc trung tâm y tế huyện sóc sơn, thành phố hà nội
Hình th ức lao động -0,32 -0,99-0,34 0,34 (Trang 51)
Yếu tố trong mô hình Hệ số b KTC 95% p Thời gian công tác tại  - Thực trạng và các yếu tố liên quan đến stress, trầm cảm, lo âu của nhân viên y tế thuộc trung tâm y tế huyện sóc sơn, thành phố hà nội
u tố trong mô hình Hệ số b KTC 95% p Thời gian công tác tại (Trang 51)
Yếu tố trong mô hình Hệ số b KTC 95% p - Thực trạng và các yếu tố liên quan đến stress, trầm cảm, lo âu của nhân viên y tế thuộc trung tâm y tế huyện sóc sơn, thành phố hà nội
u tố trong mô hình Hệ số b KTC 95% p (Trang 52)
B. SỨC KHỎE TINH THẦN - Thực trạng và các yếu tố liên quan đến stress, trầm cảm, lo âu của nhân viên y tế thuộc trung tâm y tế huyện sóc sơn, thành phố hà nội
B. SỨC KHỎE TINH THẦN (Trang 74)
1 = Đúng với tôi phần nào, hoặc thình thoảng mới đúng 2 =  Đúng với tôi phần nhiều, hoặc phần lớn thời gian là đúng  3 = Hoàn toàn đúng với tôi, hoặc hầu hết thời gian là đúng  - Thực trạng và các yếu tố liên quan đến stress, trầm cảm, lo âu của nhân viên y tế thuộc trung tâm y tế huyện sóc sơn, thành phố hà nội
1 = Đúng với tôi phần nào, hoặc thình thoảng mới đúng 2 = Đúng với tôi phần nhiều, hoặc phần lớn thời gian là đúng 3 = Hoàn toàn đúng với tôi, hoặc hầu hết thời gian là đúng (Trang 74)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w