1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Hệ thống thông tin kế toán trong trong bối cảnh áp dụng công nghệ thông tin tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam

160 13 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 160
Dung lượng 2,1 MB

Cấu trúc

  • 1. Tính cấp thiết của đề tài (8)
  • 2. Tổng quan nghiên cứu (12)
    • 2.1. Các nghiên cứu quốc tế (12)
    • 2.2 Các nghiên cứu về AIS ở Việt Nam (21)
    • 2.3 Khoảng trống nghiên cứu (24)
  • 3. Mục tiêu nghiên cứu (26)
  • 4. Câu hỏi nghiên cứu (27)
  • 5. Đối tượng và nghiên cứu (27)
    • 5.1. Đối tượng nghiên cứu (27)
    • 5.2. Phạm vi nghiên cứu (27)
  • 6. Đóng góp của đề tài (28)
  • 7. Kết cấu của luận án (28)
  • CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT (29)
    • 1.1 Hệ thống thông tin kế toán trong doanh nghiệp (29)
      • 1.1.1 Khái quát về hệ thống thông tin trong doanh nghiệp (29)
      • 1.1.2 Hệ thống thông tin quản lý MIS (30)
      • 1.1.3 Hệ thống thông tin kế toán trong doanh nghiệp (31)
      • 1.1.4 Vai trò của hệ thống thông tin kế toán đối với doanh nghiệp (34)
    • 1.2 Sự phù hợp của hệ thống thông tin kế toán trong doanh nghiệp (36)
      • 1.2.1 Cấp độ thiết lập CNTT trong doanh nghiệp (38)
      • 1.2.2 Hiểu biết của chủ sở hữu/người quản lý (43)
      • 1.2.3 Cam kết của chủ sở hữu/người quản lý (48)
      • 1.2.4 Tri thức bên ngoài (51)
      • 1.2.5 Tri thức nội bộ (55)
      • 1.2.6 Quy mô doanh nghiệp (57)
    • 1.3. Thành quả hoạt động doanh nghiệp (59)
      • 1.3.1. Khái niệm về thành quả doanh nghiệp (59)
      • 1.3.2 Đo lường thành quả doanh nghiệp (60)
        • 1.3.2.1 Đo lường khách quan thành quả hoạt động (61)
        • 1.3.2.2 Đo lường chủ quan thành quả hoạt động (63)
    • 1.4 Mối quan hệ giữa sự phù hợp của hệ thống thông tin kế toán với thành quả hoạt động của doanh nghiệp (64)
    • 1.5 Lý thuyết nền tảng (65)
      • 1.5.1 Lý thuyết về xử lý thông tin (65)
      • 1.5.2 Lý thuyết tình huống (66)
      • 1.5.3 Lý thuyết hệ thống (67)
  • CHƯƠNG 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU (69)
    • 2.1 Giới thiệu chung về phương pháp nghiên cứu (69)
    • 2.2 Giả thuyết nghiên cứu và mô hình nghiên cứu (72)
      • 2.2.1 Giả thuyết nghiên cứu (72)
      • 2.2.2 Mô hình nghiên cứu (75)
      • 2.2.3 Đo lường các biến (75)
    • 2.3 Thu thập dữ liệu (86)
    • 2.4. Phương pháp phân tích dữ liệu (90)
  • CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN (92)
    • 3.1 Khái quát về doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam và ứng dụng công nghệ thông tin (92)
      • 3.1.1 Khái quát về doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam (92)
      • 3.1.2 Hiện trạng về ứng dụng CNTT trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam (94)
    • 3.2 Thông tin về mẫu và thống kê mô tả (96)
      • 3.2.1 Các thông tin về đặc điểm đối tượng trả lời khảo sát (96)
      • 3.2.2 Các thông tin về đặc điểm hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ (97)
      • 3.2.3 Các thông tin về tình trạng CNTT của các doanh nghiệp vừa và nhỏ (100)
    • 3.3. Phân tích và kiểm định mô hình (104)
      • 3.3.1 Kiểm định độ tin cậy của thang đo (104)
      • 3.3.2 Kiểm định sự khác biệt trị trung bình bằng ONE-WAY ANOVA (106)
        • 3.3.2.1 Kiểm định sự khác biệt trị trung bình bằng ONE-WAY ANOVA cho biến các công nghệ hiện đang được sử dụng tại doanh nghiệp (SORT) và Sự phù hợp của AIS (AISA_TOTALL) (106)
        • 3.3.2.2 Kiểm định sự khác biệt trị trung bình bằng ONE-WAY ANOVA cho biến các ứng dụng công nghệ thông tin đang được triển khai tại doanh nghiệp hiện đang sử dụng (ITAPP) và Sự phù hợp của (108)
        • 3.3.2.3 Kiểm định sự khác biệt trị trung bình bằng ONE-WAY ANOVA cho biến Đặc điểm phần mềm kế toán doanh nghiệp hiện đang sử dụng (ACSOFT) và Sự phù hợp của AIS (AISA_TOTALL) (109)
      • 3.3.3 Xác định sự phù hợp của hệ thống thông tin kế toán (111)
      • 3.3.4 Phân tích hồi quy mô hình (112)
    • 3.4. Các phát hiện qua nghiên cứu và thảo luận kết quả (120)
  • CHƯƠNG 4. HOÀN THIỆN HỆ THỐNG THÔNG TIN KẾ TOÁN (124)
    • 4.1 Định hướng phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam và nguyên tắc hoàn thiện (124)
    • 4.2. Khuyến nghị các giải pháp nhằm nâng cao sự phù hợp của hệ thống thông tin kế toán (129)
      • 4.2.1 Đối với yếu tố “Hiểu biết của chủ sở hữu/người quản lý” (129)
      • 4.2.2 Đối với yếu tố Cấp độ thiết lập công nghệ thông tin trong doanh nghiệp (132)
      • 4.2.3 Đối với yếu tố Quy mô doanh nghiệp (138)
    • 4.3 Khuyến nghị các giải pháp nhằm nâng cao thành quả hoạt động của các DNVVN (140)
      • 4.3.1 Đối với bản thân các doanh nghiệp (140)
      • 4.3.2 Đối với cơ quan nhà nước (142)
    • 4.4 Lộ trình thực hiện và điều kiện thực hiện giải pháp (143)
      • 4.4.1 Lộ trình thực hiện (143)
      • 4.4.2 Điều kiện thực hiện giải pháp (145)
  • Kết luận (68)

Nội dung

1. Tính cấp thiết của đề tài Hệ thống thông tin kế toán (AIS) là một hệ thống dùng để thu thập, ghi nhận, lưu trữ, xử lý dữ liệu để tạo ra thông tin cho người dùng ra quyết định. AIS gồm 5 cấu thành: (1) người sử dụng hệ thống; (2) quy trình và hướng dẫn được sử dụng để thu thập, xử lý và lưu trữ dữ liệu; (3) dữ liệu của tổ chức; (4) phần mềm, hạ tầng công nghệ thông tin; (5) hệ thống kiểm soát nội bộ và bảo vệ dữ liệu (Bodnar, 2014; M. B. Romney, and Steinbart, Paul J., 2012). Trên gốc dộ lý thuyết Một mặt, thông tin được cung cấp từ AIS gồm thông tin về kế toán, tài chính và các thông tin khác có vai trò quan trọng cho việc ra quyết định của các đối tượng bên trong và bên ngoài doanh nghiệp (A.Hall, 2007; F. L. Jones và Rama, 2006). Trong đó thông tin kế toán có thể giúp cho các doanh nghiệp (DN), đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN ) có thể quản lý các vấn đề ngắn hạn trong quá trình hoạt động như doanh thu, chi phí và dòng tiền… bằng cách cung cấp thông tin để hỗ trợ giám sát và kiểm soát (F. Mitchell, G. C. Reid, và J. A. Smith, 2000b). AIS có vai trò là cung cấp thông tin quan trọng để giúp các nhà quản lý kiểm soát các hoạt động và giảm bớt sự không chắc chắn trong quá trình hoạt động kinh doanh của DN (Chong, 1996; B. M. Romney, and Steinbart, J.P, 2008). Bên cạnh đó nó cũng có thể giúp các DNVVN hoạt động trong một môi trường năng động và cạnh tranh hơn, ngoài ra còn thuận lợi trong việc thực hiện các kế hoạch chiến lược dài hạn (Mitchell và cộng sự, 2000b). Ngoài ra AIS còn được coi là một cơ chế tổ chức quan trọng, là một công cụ có thể giúp quản lý cải thiện khả năng kiểm soát đối với các hoạt động và của việc ra quyết định. AIS tồn tại trong mọi tổ chức và rất quan trọng đối với các DNVVN, đóng vai trò thiết yếu trong việc cung cấp thông tin một cách kịp thời, chính xác cho chủ sở hữu để ra các quyết định mang tính chiến lược (Budiarto, Prabowo, Djajanto, Widodo, và Herawan, 2018; Naranjo-Gil, 2004). AIS thường được sử dụng bởi những người ra quyết định như chủ sở hữu, người quản lý cấp trung và người quản lý điều hành. để đưa ra quyết định một cách tối ưu, các chủ sở hữu phải có được thông tin phù hợp, đáng tin cậy và kịp thời được cung cấp từ các hệ thống như AIS (Kharuddin, Ashhari, và Nassir, 2010). Mặt khác, để AIS phát huy hết vai trò thì sự phù hợp của AIS là hết sức quan trọng. Sự phù hợp đã được đề cập trong nghiên cứu phát triển từ lý thuyết xử lý thông tin (IP) của Galbraith (1973). Galbraith chứng minh rằng khả năng xử lý thông tin của tổ chức phải phù hợp với các yêu cầu thông tin của tổ chức để mang lại thành quả hoạt động cho tổ chức. Sự phù hợp AIS thường dựa trên mức độ giống nhau giữa hai thước đo, trong trường hợp này là mức độ tương đồng giữa yêu cầu của AIS và khả năng của AIS hay nói cách khác sự phù hợp của AIS được xem là sự tương tác của yêu cầu AIS và khả năng của AIS. Bên cạnh đó, kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thường được đo lường thông qua các chỉ tiêu hiệu suất hay hiệu quả trong việc sử dụng nguồn lực để tạo ra lợi nhuận. Trong những năm gần đây, việc đánh giá kết quả hoạt động không dừng lại ở các chỉ tiêu hiệu suất hay hiệu quả mà được mở rộng và đo lường bằng cả các chỉ tiêu phi tài chính, sự cân bằng trong hoạt động kinh doanh (BSC) hay các chỉ tiêu đo lường trách nhiệm xã hội (CSR) của doanh nghiệp. Do đó, khái niệm thành quả hoạt động (performance) được sử dụng với một phạm vi tổng quát hơn để đo lường đa khía cạnh của hoạt động tổ chức. Khi thông tin kế toán được sử dụng cho việc ra quyết định, hệ quả của nó là góp phần nâng cao thành quả hoạt động của các doanh nghiệp. Thành quả đạt được khi các DN chủ động triển khai ứng dụng một AIS hiện đại (Esmeray, 2016). Đã có nhiều nghiên cứu đã chứng minh thành công sự quan hệ thuận chiều từ AIS đến thành quả hoạt động của các DNVVN (Esmeray, 2016; Kareem, 2019b; McMahon, 2001; McMahon và Davies, 1994; Prasad và Green, 2015; Thomas III và Evanson, 1997; R. Trabulsi, 2018). Chang (2001) còn khẳng định AIS đóng vai trò then chốt trong việc nâng cao hiệu quả quản trị của tổ chức, đặc biệt trong môi trường cạnh tranh toàn cầu. Các nghiên cứu từ nhiều năm cho thấy, để các DNVVN thành công trong kinh doanh, và có thành quả tốt họ cần phải có những công cụ đúng đắn, AIS là

Tính cấp thiết của đề tài

Hệ thống thông tin kế toán (AIS) là công cụ quan trọng giúp thu thập, ghi nhận, lưu trữ và xử lý dữ liệu, từ đó cung cấp thông tin cần thiết cho người dùng trong quá trình ra quyết định.

Hệ thống thông tin bao gồm năm thành phần chính: (1) người sử dụng hệ thống, (2) quy trình và hướng dẫn để thu thập, xử lý và lưu trữ dữ liệu, (3) dữ liệu của tổ chức, (4) phần mềm và hạ tầng công nghệ thông tin, và (5) hệ thống kiểm soát nội bộ cùng với các biện pháp bảo vệ dữ liệu (Bodnar, 2014; M B Romney, và Steinbart, Paul J., 2012).

Trên gốc dộ lý thuyết

Thông tin từ AIS bao gồm dữ liệu về kế toán, tài chính và các thông tin quan trọng khác, đóng vai trò thiết yếu trong quá trình ra quyết định của các bên liên quan cả bên trong và bên ngoài doanh nghiệp (A.Hall, 2007; F L Jones và Rama).

Thông tin kế toán đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ, quản lý hiệu quả các vấn đề ngắn hạn như doanh thu, chi phí và dòng tiền Bằng cách cung cấp thông tin cần thiết, kế toán giúp doanh nghiệp thực hiện giám sát và kiểm soát tốt hơn trong quá trình hoạt động.

Hệ thống thông tin kế toán (AIS) đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp thông tin cần thiết cho các nhà quản lý, giúp họ kiểm soát hoạt động và giảm thiểu sự không chắc chắn trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp.

Hệ thống thông tin kế toán (AIS) đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) hoạt động hiệu quả trong môi trường cạnh tranh Nó không chỉ giúp thực hiện các kế hoạch chiến lược dài hạn mà còn cải thiện khả năng kiểm soát và ra quyết định của quản lý AIS cung cấp thông tin kịp thời và chính xác cho chủ sở hữu, từ đó giúp họ đưa ra các quyết định chiến lược đúng đắn Các nhà quản lý và chủ sở hữu cần thông tin đáng tin cậy từ AIS để tối ưu hóa quy trình ra quyết định trong tổ chức.

Để hệ thống thông tin kế toán (AIS) phát huy hiệu quả, sự phù hợp của nó là rất quan trọng Nghiên cứu của Galbraith (1973) từ lý thuyết xử lý thông tin chỉ ra rằng khả năng xử lý thông tin của tổ chức cần phải tương thích với các yêu cầu thông tin để đạt được kết quả hoạt động tốt Sự phù hợp của AIS được xác định dựa trên mức độ tương đồng giữa yêu cầu và khả năng của nó, thể hiện qua sự tương tác giữa hai yếu tố này.

Kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được đo lường không chỉ qua các chỉ tiêu hiệu suất mà còn thông qua các chỉ tiêu phi tài chính và trách nhiệm xã hội (CSR) Khái niệm thành quả hoạt động (performance) đã mở rộng để phản ánh đa khía cạnh của tổ chức Việc sử dụng thông tin kế toán trong ra quyết định góp phần nâng cao thành quả hoạt động, đặc biệt khi doanh nghiệp áp dụng hệ thống thông tin kế toán hiện đại (AIS) Nhiều nghiên cứu đã chứng minh mối quan hệ tích cực giữa AIS và thành quả hoạt động của doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) AIS đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả quản trị, giúp DNVVN tồn tại và phát triển bằng cách cung cấp thông tin tài chính cần thiết cho quản lý Đặc biệt, thông tin mà DNVVN yêu cầu thường khác biệt so với các doanh nghiệp lớn do phải đối phó với sự không chắc chắn trong môi trường cạnh tranh và nhu cầu thị trường.

1998) AIS có tiềm năng lớn ảnh hưởng đến thành quả của các doanh nghiệp, đặc biệt là trong bối cảnh của các DNVVN (Ismail, 2009; Ismail và King, 2005)

Trên gốc độ thực tiễn

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và sự bùng nổ của Cách mạng công nghiệp 4.0, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hệ thống thông tin kế toán trở nên ngày càng quan trọng Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích mà công nghệ mang lại, người dùng cũng phải đối mặt với nhiều thách thức và rủi ro liên quan đến tính tin cậy của hệ thống thông tin kế toán.

Hiện nay, nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNVVN) gặp khó khăn trong việc quản lý thông tin, dẫn đến tình trạng kiểm soát kém và ra quyết định dựa trên cảm tính (Perren và Grant, 2000) Nhiều DNVVN chưa chú trọng vào việc đánh giá và đầu tư công nghệ hiện đại như Hệ thống Thông tin Kế toán (AIS) trong hoạt động kinh doanh (Kareem, 2019a) Việc sử dụng AIS vẫn chưa đạt hiệu quả tối đa do thiếu nguồn lực và công nghệ mới (Harash, 2017), trong khi xử lý thông tin trong các DNVVN lại khá phức tạp (Mitchell và cộng sự, 2000b) Một trong những hạn chế lớn là số lượng nhân viên ít, khiến việc phát triển công nghệ thông tin gặp khó khăn, do đó, cần thiết lập các công nghệ để cung cấp thông tin tốt hơn (Ismail và King, 2005, 2007) Ngoài ra, các DNVVN còn phải đối mặt với nhiều thách thức như quản lý dòng tiền, nguyên liệu, đáp ứng nhu cầu khách hàng và thiếu tài chính (Manurung và Manurung, 2019) Tại các quốc gia nghèo và đang phát triển, việc áp dụng AIS còn lạc hậu so với các nước phát triển, đặc biệt là hệ thống thông tin không đáp ứng yêu cầu quản lý (Ismail, 2009) Mặc dù có nhiều nghiên cứu về AIS, nhưng việc phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến sự phù hợp của AIS trong DNVVN và tác động của nó đến hiệu quả hoạt động vẫn chưa được nhiều nghiên cứu thực hiện (Ismail và King).

Cần khám phá sâu hơn về nhận thức của các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) về tầm quan trọng của thông tin kế toán và hệ thống thông tin kế toán hiện đại để đạt được kết quả tích cực.

Theo Sách Trắng (2019) của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) chiếm tới 97,6% tổng số doanh nghiệp tại Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội và góp phần vào GDP cũng như tạo việc làm Để nâng cao hiệu quả hoạt động và kiểm soát thông tin, DNVVN cần xây dựng hệ thống thông tin kế toán (AIS) phù hợp với đặc điểm hoạt động của mình Do đó, nghiên cứu về hệ thống thông tin kế toán trong DNVVN, đặc biệt trong bối cảnh ứng dụng công nghệ thông tin, là cần thiết nhằm đề xuất các giải pháp giúp DNVVN phát triển bền vững và hội nhập tốt hơn Luận án này sẽ tập trung vào việc nghiên cứu AIS và đánh giá tác động của sự phù hợp của hệ thống này đến thành quả hoạt động của DNVVN tại Việt Nam.

Dựa trên lý thuyết và thực tiễn, tôi thực hiện đề tài “Hệ thống thông tin kế toán trong bối cảnh áp dụng công nghệ thông tin tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam.” Luận án này có ý nghĩa quan trọng trong việc hệ thống hóa cơ sở lý luận về hệ thống thông tin kế toán (HTTTK) và cung cấp bằng chứng từ dữ liệu phân tích thực nghiệm về các yếu tố tác động của hệ thống thông tin kế toán đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Mục tiêu là giúp các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa, tìm ra những biện pháp cải thiện hệ thống thông tin kế toán hiện tại và nâng cao hiệu quả hoạt động.

Tổng quan nghiên cứu

Các nghiên cứu quốc tế

Trong nhiều năm qua, nghiên cứu về Hệ thống Thông tin Kế toán (AIS) chủ yếu tập trung vào chi phí và lợi ích của hệ thống trong các doanh nghiệp lớn Mặc dù đã có một số nghiên cứu về việc đo lường sự thành công của Hệ thống Thông tin (IS), nhưng vẫn thiếu các nghiên cứu xem xét sự phù hợp của AIS và tác động của nó đến hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp, đặc biệt là trong bối cảnh doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Các nghiên cứu theo hướng tổ chức thực hiện AIS

Nghiên cứu của nhóm tác giả Salehi (2011) về "Nghiên cứu về các rào cản thực hiện hệ thống thông tin kế toán" đã chỉ ra sáu yếu tố cản trở việc triển khai hệ thống thông tin kế toán (AIS), bao gồm quản lý cấp trung, nhân sự, cấu trúc tổ chức, yếu tố môi trường, vấn đề tài chính và văn hóa tổ chức, dựa trên mẫu 100 doanh nghiệp Công cụ thu thập dữ liệu là bảng câu hỏi, với phân tích thống kê mô tả và kiểm định hệ số Cronbach α Kết quả cho thấy cả sáu yếu tố này đều có tác động đáng kể Để vượt qua các rào cản, nghiên cứu khuyến nghị rằng các nhà quản lý và nhân viên cần được đào tạo thực tế bởi những giáo viên giàu kinh nghiệm về AIS, đồng thời cần nhấn mạnh lợi ích của việc thiết lập AIS cho các nhà quản lý Việc khuyến khích nhân viên sử dụng hệ thống mới thông qua phần thưởng có thể tạo ra động lực và tăng cường khả năng thực hiện thành công hệ thống Nghiên cứu đã làm rõ các rào cản trong việc tổ chức thực hiện AIS và lợi ích của nó đối với hiệu quả doanh nghiệp, tuy nhiên chỉ tập trung vào các doanh nghiệp đại chúng, mở ra cơ hội cho các nghiên cứu tiếp theo về các loại hình doanh nghiệp khác.

Nghiên cứu của tác giả Fitrios (2015) về "Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện Hệ thống Thông tin Kế toán và Chất lượng Thông tin Kế toán" tại Indonesia đã chỉ ra rằng cam kết quản lý hàng đầu và đào tạo người dùng có ảnh hưởng đáng kể đến việc thực hiện hệ thống thông tin kế toán (AIS) Mô hình nghiên cứu đề xuất hai giả thuyết: GT1 cho rằng việc thực hiện AIS bị ảnh hưởng bởi cam kết quản lý và đào tạo người sử dụng, trong khi GT2 khẳng định chất lượng thông tin kế toán cũng bị tác động bởi việc thực hiện AIS Dữ liệu được xử lý bằng SPSS đã xác nhận rằng hai yếu tố này thực sự góp phần cải thiện hiệu suất của AIS và chất lượng thông tin kế toán Tuy nhiên, nghiên cứu chỉ tập trung vào hai yếu tố này và chưa xem xét các khía cạnh khác của AIS có thể ảnh hưởng đến thành quả của doanh nghiệp trong bối cảnh áp dụng công nghệ thông tin.

Iskandar (2015) đã nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến sự thành công trong việc triển khai hệ thống thông tin kế toán, nhằm cung cấp cái nhìn sâu sắc về những yếu tố quyết định sự hiệu quả của hệ thống này.

Mục đích nghiên cứu này là tìm giải pháp cho các vấn đề liên quan đến chất lượng Hệ thống Thông tin Kế toán (AIS) thông qua cam kết quản lý, năng lực người dùng và văn hóa tổ chức Nghiên cứu sử dụng phương pháp phân tích hiện tượng và tìm kiếm bằng chứng qua các sự kiện thực nghiệm, đặc biệt là về ảnh hưởng của cam kết quản lý và năng lực người dùng đến chất lượng AIS Kết quả cho thấy cam kết quản lý và năng lực người dùng có tác động tích cực đến chất lượng AIS Các lý thuyết nhấn mạnh rằng sự kết hợp giữa cam kết quản lý và năng lực người dùng là yếu tố then chốt trong việc nâng cao chất lượng AIS Mặc dù nghiên cứu này mang tính lý thuyết, nhưng kết quả có thể được áp dụng để giải quyết các vấn đề chất lượng AIS, đồng thời mở ra hướng nghiên cứu thực nghiệm trong tương lai để làm rõ hơn những vấn đề này.

Gần đây, nhóm tác giả Andarwati, Nirwanto và Darsono (2018) đã tiến hành nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến sự thành công của hệ thống thông tin kế toán trong quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ, dựa trên công nghệ thông tin Nghiên cứu này nhằm làm rõ các yếu tố quan trọng góp phần vào hiệu quả của hệ thống thông tin kế toán.

Nghiên cứu này phân tích ảnh hưởng của chất lượng hệ thống và hỗ trợ quản lý hàng đầu đến sự hài lòng của các nhà quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN), với mẫu nghiên cứu gồm 118 doanh nghiệp Sử dụng phương pháp lấy mẫu có chủ đích và phân tích bằng Mô hình SEM, kết quả cho thấy chất lượng hệ thống và sự hỗ trợ từ quản lý có tác động tích cực đến sự hài lòng của người dùng thông tin kế toán Nghiên cứu đóng góp vào việc làm phong phú thêm hệ thống thông tin kế toán (AIS), tuy nhiên chưa phản ánh đầy đủ thực trạng áp dụng công nghệ thông tin (CNTT) và ảnh hưởng của CNTT đến hiệu quả hoạt động của DNVVN.

Tóm lại, các nghiên cứu đã làm rõ mối quan hệ giữa sự phù hợp của Hệ thống Thông tin Kế toán (AIS) và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, đặc biệt là trong bối cảnh doanh nghiệp vừa và nhỏ Những yếu tố ảnh hưởng đến việc tổ chức và thực hiện thành công AIS sẽ góp phần nâng cao hiệu quả cho doanh nghiệp Tuy nhiên, các nghiên cứu hiện tại chủ yếu tập trung vào đánh giá thực hiện AIS mà chưa xem xét các khía cạnh khác của AIS có tác động đến thành quả doanh nghiệp trong bối cảnh áp dụng công nghệ thông tin Hơn nữa, các nghiên cứu này mang tính lý thuyết và chưa đi sâu vào thực nghiệm, cần thiết để phản ánh chính xác tình hình của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong bối cảnh ứng dụng CNTT.

Các nghiên cứu theo hướng phản ánh sự phù hợp của AIS tác động đến thành quả hoạt động của các doanh nghiệp

Nghiên cứu của P B Cragg (1990) là một trong những nghiên cứu quan trọng trong việc điều tra mối quan hệ giữa sự phù hợp của AIS và ảnh hưởng của CNTT đến thành quả hoạt động của doanh nghiệp Nghiên cứu này tập trung vào các doanh nghiệp nhỏ tại Anh, sử dụng bảng câu hỏi qua thư gửi đến 289 doanh nghiệp nhằm khám phá vai trò của CNTT trong sự thành công và hiệu quả tài chính của họ Dữ liệu được phân tích bằng phương pháp thống kê và hồi quy, với lý thuyết hệ thống và lý thuyết xử lý thông tin làm nền tảng lý thuyết cho nghiên cứu.

Mức độ thiết lập công nghệ thông tin (CNTT) trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) được đánh giá thông qua số lượng ứng dụng CNTT đang được triển khai, bao gồm các công nghệ và phần mềm khác nhau Đồng thời, việc sử dụng các ứng dụng bảo mật thông tin (IS) trong quá trình hoạt động cũng là một yếu tố quan trọng Cuối cùng, cách thức quản lý CNTT, bao gồm đội ngũ nhân viên, đóng vai trò quyết định trong hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.

Nghiên cứu này tập trung vào việc đánh giá vai trò của công nghệ thông tin (CNTT) trong doanh nghiệp và ảnh hưởng của nó đến hệ thống thông tin kế toán (AIS) và hiệu quả tài chính Sự phù hợp của AIS được đo lường qua khả năng đáp ứng thông tin kế toán và tài chính, từ đó liên hệ đến hiệu quả tài chính thông qua các chỉ tiêu như tăng trưởng doanh số, doanh thu và lợi nhuận Kết quả cho thấy, các doanh nghiệp có mức độ thiết lập CNTT cao đạt được sự phù hợp AIS tốt hơn và có hiệu quả tài chính cao hơn so với doanh nghiệp có mức độ thiết lập CNTT thấp Nghiên cứu cũng xác nhận kết luận trước đó về mối quan hệ tích cực giữa việc áp dụng CNTT và hiệu quả của doanh nghiệp Tuy nhiên, nghiên cứu này có hạn chế khi chỉ đo lường cấp độ thiết lập CNTT qua công nghệ và phần mềm, mà chưa xem xét các yếu tố khác, cũng như chỉ sử dụng các chỉ tiêu tăng trưởng doanh số, doanh thu và lợi nhuận để đánh giá hiệu quả tài chính.

Trong một nỗ lực để hiểu thêm về vấn đề này, Raymond, Paré, và Bergeron

Nghiên cứu năm 1995 đã khám phá mối quan hệ giữa mức độ thiết lập công nghệ thông tin (CNTT) và sự phù hợp của hệ thống thông tin kế toán (AIS) ảnh hưởng đến thành quả của các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) Một nghiên cứu thực nghiệm đã được tiến hành trên 108 DNVVN sản xuất tại Canada, trong đó mức độ thiết lập CNTT được đo lường qua các ứng dụng phần mềm, phần cứng, công nghệ, cơ sở hạ tầng, quản lý và kiểm soát Phương pháp đo lường này tương tự với nghiên cứu trước đó của P B Cragg (1990) Sự phù hợp của AIS được xác định dựa trên khả năng đáp ứng thông tin từ AIS trong các DN, trong khi thành quả được đánh giá qua các chỉ số tài chính như ROI, ROA, doanh thu và tăng trưởng doanh số bán hàng, theo nghiên cứu của Venkatraman và Ramanujam (1986) cũng như Raymond (1990).

Nghiên cứu đã thực hiện thống kê mô tả, kiểm định dữ liệu và phân tích hồi quy, cho thấy rằng cấp độ thiết lập công nghệ thông tin (CNTT) có mối liên hệ tích cực với sự phù hợp của hệ thống thông tin kế toán (AIS) và ảnh hưởng tích cực đến thành quả của tổ chức Các doanh nghiệp có mức độ thiết lập CNTT tốt sẽ giúp AIS đạt được sự phù hợp và cung cấp thông tin cần thiết cho các nhà quản lý, từ đó nâng cao thành quả doanh nghiệp Kết quả này cũng nhất quán với các nghiên cứu trước đây của Raymond.

Nghiên cứu năm 1990 đã tạo nền tảng lý thuyết cho việc xác định yếu tố CNTT ảnh hưởng đến AIS và thành quả của các DNVVN, đồng thời áp dụng phương pháp đo lường thành quả chủ quan cho các nghiên cứu sau Tuy nhiên, nghiên cứu này có hạn chế khi chỉ xem xét cấp độ thiết lập CNTT qua các loại công nghệ và phần mềm mà chưa đánh giá các yếu tố khác Biến phụ thuộc về hiệu quả tài chính chỉ được đo lường qua các chỉ tiêu ROI, ROA, doanh thu và tăng trưởng doanh số bán hàng Nghiên cứu của Ismail và King (2005) đã phân tích "Thành quả của DN và sự phù hợp của AIS tại các DNVVN ở Malaysia".

Sự phù hợp của Hệ thống Thông tin Kế toán (AIS) được đánh giá qua mối tương quan giữa yêu cầu và khả năng xử lý của AIS, thể hiện qua 19 đặc điểm thông tin kế toán Nghiên cứu này áp dụng lý thuyết “xử lý thông tin” của Galbraith (1973) để xem xét ảnh hưởng của sự phù hợp đến thành quả hoạt động của các Doanh nghiệp Nhỏ và Vừa (DNVVN) sản xuất tại Malaysia Thành quả hoạt động được đo lường qua lợi nhuận dài hạn, khả năng tiếp cận nguồn tài chính, tăng trưởng doanh số, sự trung thành của khách hàng và hình ảnh doanh nghiệp Dữ liệu được thu thập thông qua bảng hỏi gửi qua bưu điện, nhắm đến các DN có từ 20 đến 250 nhân viên Nghiên cứu đã tiến hành khảo sát thí điểm với 50 doanh nghiệp và khảo sát chính thức với 310 phiếu hợp lệ, đạt tỷ lệ trả lời 25%, tập trung vào các giám đốc điều hành của các doanh nghiệp sản xuất.

Các nghiên cứu về AIS ở Việt Nam

Ở Việt Nam các nghiên cứu về AIS trong doanh nghiệp cũng đã được một số tác giả thực hiện theo các hướng như sau:

Các nghiên cứu theo hướng tổ chức thực hiện AIS như:

Luận án của tác giả Hồ Mỹ Hạnh (2013) nghiên cứu về tổ chức hệ thống thông tin kế toán quản trị chi phí trong các doanh nghiệp may Việt Nam, hệ thống hóa tổ chức AIS quản trị chi phí trong các DN sản xuất Nghiên cứu phân tích thực trạng và các nhân tố ảnh hưởng đến AIS quản trị chi phí, chứng minh rằng mục tiêu, chiến lược doanh nghiệp và nhu cầu thông tin từ nhà quản trị là yếu tố quan trọng nhất trong việc thiết lập AIS Luận án cũng đưa ra giải pháp hoàn thiện tổ chức AIS quản trị chi phí và góp phần củng cố lý thuyết về Tổ chức AIS trong doanh nghiệp Tuy nhiên, nghiên cứu không đề cập đến AIS trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Tác giả Vũ Bá Anh (2015) trong luận án "Tổ chức hệ thống thông tin kế toán trong doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong điều kiện ứng dụng công nghệ thông tin" đã hệ thống hóa cơ sở lý luận về tổ chức Hệ thống Thông tin Kế toán (AIS) khi ứng dụng công nghệ thông tin Luận án cũng nêu rõ thực trạng tổ chức AIS trong các doanh nghiệp, từ đó đề xuất các giải pháp cải thiện hiệu quả hoạt động kế toán trong bối cảnh hiện đại.

DN sản xuất và hoàn thiện tổ chức AIS trong bối cảnh ứng dụng công nghệ thông tin tại các doanh nghiệp sản xuất Luận án đã đóng góp vào việc củng cố lý thuyết về hệ thống thông tin kế toán.

Tổ chức hệ thống thông tin kế toán (AIS) trong doanh nghiệp sản xuất là rất quan trọng Nghiên cứu này tập trung vào việc tổ chức AIS mà chưa phân tích sâu các yếu tố tác động đến hệ thống này, cũng như ảnh hưởng của AIS đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) trong bối cảnh ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT).

Tiếp đó, Nguyễn Thành Hưng (2017) với nghiên cứu “Tổ chức hệ thống thông tin kế toán quản trị chi phí trong các doanh nghiệp viễn thông Việt Nam”

Luận án đã hệ thống hóa lý luận và thiết lập khung lý thuyết về tổ chức hệ thống thông tin kế toán quản trị chi phí trong doanh nghiệp Nghiên cứu chỉ ra các yếu tố cấu thành của hệ thống thông tin kế toán quản trị chi phí, đồng thời nhấn mạnh tính hệ thống trong quy trình thu thập, xử lý và phân tích thông tin, cũng như việc cung cấp thông tin Điều này khác biệt so với nghiên cứu của Hồ.

Luận án của Mỹ Hạnh (2013) đã xác định các nhân tố ảnh hưởng đến tổ chức hệ thống thông tin kế toán quản trị chi phí trong các doanh nghiệp viễn thông, bao gồm chất lượng dữ liệu đầu vào, nguồn nhân lực kế toán, và cam kết của nhà quản trị Bên cạnh đó, luận án cũng đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống thông tin kế toán quản trị chi phí Nghiên cứu này không chỉ làm rõ các yếu tố ảnh hưởng mà còn củng cố lý thuyết về tổ chức hệ thống thông tin kế toán (AIS) trong doanh nghiệp Tuy nhiên, luận án tập trung vào tổ chức AIS quản trị chi phí mà không đề cập đến ứng dụng CNTT trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Nghiên cứu của Nguyễn Văn Hải (2020) mang tên “Tổ chức hệ thống thông tin kế toán quản trị chi phí trong các doanh nghiệp da giầy Việt Nam” đã hệ thống hóa lý thuyết về tổ chức hệ thống thông tin kế toán quản trị chi phí (HTTT KTQTCP) và phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng thông tin KTQTCP trong doanh nghiệp sản xuất Luận án cũng đã đưa ra thực trạng về tổ chức HTTT KTQTCP trong các doanh nghiệp da giầy tại Việt Nam, khác biệt so với các nghiên cứu trước đó.

Luận án của Hồ Mỹ Hạnh (2013) và Nguyễn Thành Hưng (2017) phân tích các nhân tố tổ chức ảnh hưởng đến chất lượng thông tin kế toán quản trị chi phí (KTQTCP) trong doanh nghiệp, đồng thời đề xuất giải pháp cải thiện hệ thống thông tin KTQTCP trong ngành da giày Việt Nam Nghiên cứu này không chỉ củng cố lý thuyết về tổ chức hệ thống thông tin kế toán trong doanh nghiệp mà còn tập trung vào các yếu tố tác động đến tổ chức AIS quản trị chi phí trong lĩnh vực sản xuất da giày, mà không đề cập đến bối cảnh chung của doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam.

Gần đây, tác giả Đàm Bích Hà (2020) đã thực hiện nghiên cứu về "Tổ chức hệ thống thông tin kế toán tại các doanh nghiệp thương mại cổ phần trên địa bàn Hà Nội" Nghiên cứu này đã hệ thống hóa cơ sở lý thuyết tổ chức AIS trong doanh nghiệp thương mại, đồng thời trình bày các lý thuyết nền tảng cho nghiên cứu này.

Nghiên cứu này tập trung vào lý thuyết thực thể, lý thuyết hệ thống, lý thuyết hữu ích và lý thuyết sở hữu, đồng thời phân tích thực trạng tổ chức hệ thống thông tin kế toán (AIS) trong các doanh nghiệp thương mại Cụ thể, nghiên cứu xem xét cơ sở hạ tầng kỹ thuật, nguồn nhân lực, bộ máy vận hành, quy trình xử lý thông tin và các phân hệ thông tin kế toán Từ đó, đề xuất giải pháp hoàn thiện tổ chức AIS tại các doanh nghiệp thương mại cổ phần ở Hà Nội Nghiên cứu không chỉ củng cố lý thuyết về tổ chức AIS mà còn chỉ ra những hạn chế khi chưa đề cập đến các yếu tố công nghệ thông tin và ảnh hưởng của chúng đến thành quả của doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Các nghiên cứu theo hướng phản ánh tác động của AIS tác động đến thành quả hoạt động của các doanh nghiệp

Gần đây nghiên cứu của tác giả Vũ Thị Thanh Bình (2019 ) thực hiện đề tài

Luận án “Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng hệ thống thông tin kế toán tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn thành phố Hà Nội” đã hệ thống hóa cơ sở lý luận về chất lượng hệ thống thông tin kế toán (AIS) và phân tích thực trạng các yếu tố tác động đến chất lượng AIS Bài nghiên cứu đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thông tin kế toán cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNVVN) tại Hà Nội, đồng thời góp phần phát triển khung lý luận về chất lượng hệ thống thông tin kế toán Tuy nhiên, nghiên cứu chủ yếu tập trung vào các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng AIS tại các DN nhỏ mà chưa xem xét đầy đủ các yếu tố khác có thể tác động đến hiệu quả hoạt động của DNVVN trong bối cảnh ứng dụng công nghệ thông tin.

Tóm lại, các nghiên cứu về Hệ thống Thông tin Kế toán (AIS) trong nước đã làm rõ và củng cố lý thuyết về AIS, đồng thời tổ chức hiệu quả hệ thống thông tin kế toán trong doanh nghiệp.

Khoảng trống nghiên cứu

Dựa trên tổng quan các nghiên cứu về Hệ thống Thông tin Kế toán (AIS) tại Việt Nam, các nghiên cứu chủ yếu tập trung vào tổ chức hệ thống thông tin kế toán trong doanh nghiệp và các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng của hệ thống này Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu nào đi sâu vào mối quan hệ giữa AIS và thành quả hoạt động của các Doanh nghiệp Nhỏ và Vừa (DNVVN) trong bối cảnh ứng dụng Công nghệ Thông tin (CNTT) Điều này mở ra khoảng trống cho các tác giả tiếp tục thực hiện nghiên cứu trong lĩnh vực này.

Các nghiên cứu quốc tế về tính phù hợp của Hệ thống Thông tin Kế toán (AIS) và tác động của nó đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, đặc biệt trong bối cảnh áp dụng công nghệ thông tin tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đã chỉ ra một số hạn chế trong các nghiên cứu trước Những hạn chế này tạo ra khoảng trống cho các nghiên cứu tiếp theo Để đạt được mục tiêu của luận án, nghiên cứu sẽ xác định các yếu tố ảnh hưởng đến tính phù hợp của AIS trong bối cảnh ứng dụng công nghệ thông tin, từ đó tác động đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam.

Trong nghiên cứu của P B Cragg (1990); biến độc lập mức độ thiết lập

CNTT hiện nay chủ yếu được đánh giá qua công nghệ, phần mềm và ứng dụng bảo mật IS, mà chưa tập trung vào mức độ ứng dụng cụ thể Sự phù hợp của AIS được đo lường qua khả năng cung cấp thông tin kế toán và tài chính, nhưng điều này chưa phản ánh đầy đủ mức độ phù hợp của AIS trong môi trường CNTT Các chỉ tiêu đo lường biến phụ thuộc như tăng trưởng doanh số, doanh thu và lợi nhuận chưa xem xét đến các yếu tố thành quả khác Nghiên cứu của Raymond và cộng sự (1995) cho thấy mối liên hệ giữa mức độ thiết lập CNTT và sự phù hợp AIS tương đồng với quan điểm của P B Cragg (1990).

Nghiên cứu hiện tại chỉ đo lường biến phụ thuộc thông qua các chỉ tiêu như doanh số, doanh thu, lợi nhuận, ROA và ROI, mà chưa xem xét các yếu tố khác Các nghiên cứu của Ismail và King (2005, 2006) chỉ tập trung vào lợi nhuận dài hạn, sự sẵn có của nguồn tài chính, tăng trưởng doanh số và lòng trung thành của khách hàng mà không đề cập đến ROA, ROI Kharuddin và cộng sự (2010) đánh giá sự phù hợp của AIS dựa trên ứng dụng phần mềm kế toán, nhưng phương pháp này có thể không phản ánh đầy đủ mức độ phù hợp của AIS trong bối cảnh công nghệ thông tin Nghiên cứu của Esmeray (2016) lại dựa vào hiểu biết của nhà quản lý về kế toán và CNTT, cũng như số lượng nhân viên sử dụng AIS, nhưng vẫn chưa thể hiện hết mức độ phù hợp của AIS Esparza-Aguilar và cộng sự (2016) đo lường sự phù hợp của AIS thông qua tính kịp thời và tích hợp thông tin, trong khi Trabulsi (2018) đánh giá thành quả doanh nghiệp dựa trên hiệu quả báo cáo tài chính và giảm chi phí Tóm lại, cần có những chỉ tiêu đa dạng hơn để đánh giá chính xác hơn về thành quả hoạt động và sự phù hợp của AIS.

Mặc dù các nghiên cứu đã sử dụng nhiều phương pháp khác nhau để đo lường biến độc lập, biến trung gian và biến phụ thuộc, nhưng yếu tố mức độ thiết lập CNTT vẫn chưa phản ánh rõ thực trạng ứng dụng CNTT của các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) trong lĩnh vực sản xuất Điều này mở ra một khoảng trống cho luận án khảo sát và đo lường từ nhiều góc độ, bao gồm các công nghệ hiện đang được áp dụng tại doanh nghiệp như phần mềm văn phòng, hệ thống mạng nội bộ (LAN) kết nối các máy tính, phần mềm hỗ trợ quản lý sản xuất, và việc sử dụng máy vi tính cùng phần mềm điều khiển quá trình sản xuất.

Các ứng dụng công nghệ thông tin trong kế toán, quản lý nhân sự và phân tích tài chính đang ngày càng phổ biến Tuy nhiên, hiện nay chưa có sự thống nhất trong việc đo lường sự phù hợp của Hệ thống Thông tin Kế toán (AIS) trong bối cảnh ứng dụng CNTT tại các doanh nghiệp sản xuất Điều này tạo ra một khoảng trống nghiên cứu cần được làm rõ hơn về cách đo lường sự phù hợp của AIS Ngoài ra, thành quả hoạt động hiện chỉ được đánh giá thông qua các chỉ tiêu tăng trưởng và doanh thu, mà chưa xem xét đến nhiều yếu tố khác như hoạt động sản xuất, chi phí, và khả năng sinh lợi Do đó, nghiên cứu này sẽ mở rộng góc nhìn về thành quả hoạt động của doanh nghiệp.

Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu nghiên cứu là xác định các yếu tố ảnh hưởng đến tính phù hợp của Hệ thống Thông tin Kế toán (AIS) trong bối cảnh ứng dụng công nghệ thông tin của các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNVVN) tại Việt Nam Nghiên cứu sẽ phân tích mức độ phù hợp của AIS và tác động của nó đến kết quả hoạt động của DNVVN, từ đó đưa ra các đề xuất và khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp này.

Tổng hợp lý thuyết về Hệ thống Thông tin Kế toán (AIS) trong doanh nghiệp, bao gồm các yếu tố cấu thành và ảnh hưởng của sự phù hợp của AIS đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Xác định mức độ ảnh hưởng của Hệ thống Thông tin Kế toán (AIS) và tác động của sự phù hợp AIS đến hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam là điều quan trọng Việc áp dụng AIS đúng cách có thể cải thiện hiệu suất và năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp này.

Đề xuất các khuyến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống thông tin kế toán trong bối cảnh áp dụng công nghệ thông tin, giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) tại Việt Nam nâng cao hiệu quả hoạt động Việc cải tiến hệ thống thông tin kế toán không chỉ tối ưu hóa quy trình quản lý tài chính mà còn tăng cường khả năng ra quyết định cho các DNVVN, từ đó thúc đẩy sự phát triển bền vững trong môi trường kinh doanh hiện đại.

Câu hỏi nghiên cứu

Thông qua các mục tiêu nghiên cứu được xác lập, các câu hỏi nghiên cứu được đặt ra bao gồm:

(1) Mức độ phù hợp của hệ thống thông tin kế toán tại các DNVVN ở Việt Nam hiện nay như thế nào?

(2) Sự phù hợp của AIS ảnh hưởng đến thành quả hoạt động của các DNVVN ở Việt Nam hiện nay như thế nào?

(3) Giải pháp nào về AIS có thể giúp cho các DNVVN ở Việt Nam nâng cao được thành quả hoạt động?

Đối tượng và nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu

Luận án nghiên cứu các yếu tố của hệ thống thông tin kế toán và đánh giá hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh vực sản xuất tại Việt Nam.

Phạm vi nghiên cứu

Nghiên cứu này tập trung vào việc phân tích các thành phần và mức độ phù hợp của hệ thống thông tin kế toán (AIS) đối với hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh vực sản xuất Mô hình hóa tác động của sự phù hợp của AIS đến thành quả doanh nghiệp sẽ giúp hiểu rõ hơn về vai trò của hệ thống này trong việc nâng cao hiệu suất và kết quả kinh doanh.

Về không gian nghiên cứu: Các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ ở Việt

Nghiên cứu này tập trung vào việc áp dụng phương pháp lấy mẫu phi xác suất, với các tỉnh thành trọng điểm như Đồng Nai, Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đắc Nông và Quảng Trị.

Về thời gian nghiên cứu: Dữ liệu thu thập số liệu khảo sát năm 2020.

Đóng góp của đề tài

Kết quả nghiên cứu của luận án được kỳ vọng đóng góp cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn, bao gồm như sau:

Nghiên cứu này tập trung vào lý luận về Hệ thống Thông tin Kế toán (AIS), xác định các yếu tố ảnh hưởng đến sự phù hợp của AIS và phương pháp đo lường sự phù hợp trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ Luận án áp dụng lý thuyết xử lý thông tin, lý thuyết tình huống và lý thuyết hệ thống để xây dựng mô hình nghiên cứu, trong đó xác định ba yếu tố chính ảnh hưởng đến sự phù hợp của AIS và tác động của sự phù hợp này đến hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Luận án khảo sát và đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến sự phù hợp của Hệ thống Thông tin Kế toán (AIS) và tác động của sự phù hợp này đến thành quả hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam trong bối cảnh công nghệ thông tin Đồng thời, luận án đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống thông tin kế toán, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nước.

Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết cấu luận án bao gồm 4 chương sau:

Chương 1 Cơ sở lý thuyết

Chương 2 Phương pháp nghiên cứu

Chương 3 Kết quả nghiện cứu và thảo luận

Chương 4 Hoàn thiện hệ thống thông tin kế toán trong bối cảnh áp dụng công nghệ thông tin tại các DNVVN của Việt Nam.

CƠ SỞ LÝ THUYẾT

Hệ thống thông tin kế toán trong doanh nghiệp

1.1.1 Khái quát về hệ thống thông tin trong doanh nghiệp

Hệ thống thông tin (HTTT) được định nghĩa là một tập hợp các thành phần có liên quan, bao gồm đầu vào, xử lý và đầu ra, nhằm thu thập, lưu trữ và truyền tải dữ liệu dưới dạng thông tin để phục vụ cho mục tiêu cụ thể Theo Nguyễn Thế Hưng (2006), hệ thống này bao gồm ba yếu tố cơ bản: các yếu tố đầu vào, quá trình xử lý và các yếu tố đầu ra James A Hall (2010) nhấn mạnh rằng hệ thống thông tin là tập hợp các hình thức và thủ tục để chuyển giao thông tin tới người sử dụng Nghiên cứu của Nguyễn Đăng Huy (2012) và Thái Phúc Huy cùng Nguyễn Phước Bảo Anh (2012) cũng khẳng định rằng hệ thống thông tin tồn tại với mục tiêu cung cấp thông tin hỗ trợ hoạt động của tổ chức Tóm lại, hệ thống thông tin trong doanh nghiệp là một cấu trúc liên kết nhằm thu thập, xử lý và phân phối thông tin, hỗ trợ cho quyết định và kiểm soát trong tổ chức.

Hình 1.1: Mô hình hệ thống thông tin trong doanh nghiệp 1.1.2 Hệ thống thông tin quản lý

Hệ thống thông tin quản lý (MIS) được thiết kế để hỗ trợ các nhà lãnh đạo và quản lý trong quá trình ra quyết định và điều hành tổ chức MIS là một cấu trúc tích hợp bao gồm các cơ sở dữ liệu và dòng thông tin, giúp tối ưu hóa việc thu thập, lưu trữ, truyền dẫn và phân tích thông tin Hệ thống này hoạt động thông qua nhiều cấp độ và các nhóm thành phần thực hiện các nhiệm vụ khác nhau, nhằm đạt được mục tiêu thống nhất trong quản lý.

Nghiên cứu của Trịnh Hoài Sơn (2016) chỉ ra rằng hệ thống thông tin quản lý (MIS) hỗ trợ hoạt động quản trị ở ba cấp độ: quản lý chiến lược, quản lý chiến thuật và quản lý tác nghiệp MIS sử dụng dữ liệu từ các hệ thống xử lý giao dịch và nguồn dữ liệu bên ngoài để tạo ra các báo cáo phục vụ cho yêu cầu của các cấp quản lý Chất lượng của MIS phụ thuộc vào chất lượng dữ liệu mà hệ thống xử lý giao dịch cung cấp.

Hình 1.2: Hệ thống thông quản lý 1.1.3 Hệ thống thông tin kế toán trong doanh nghiệp

Hệ thống thông tin kế toán (AIS) là công cụ quan trọng trong quản lý tài chính và kế toán của tổ chức, kết hợp giữa kế toán và công nghệ thông tin (Nzomo, 2013) Sự phát triển công nghệ thông tin đã biến AIS thành một phần chiến lược trong tổ chức (Louadi, 1998) Hệ thống này không chỉ cần thiết mà còn thiết yếu cho mọi tổ chức (Wilkinson, Cerullo, Raval, và Wong-On-Wing, 2000) Theo nghiên cứu của Laudon (2004), AIS thuộc phân hệ hệ thống thông tin quản lý (MIS) và được định nghĩa là hệ thống thu thập, xử lý và lưu trữ dữ liệu kinh tế của doanh nghiệp, phục vụ cho việc ra quyết định (David, Dunn, McCarthy, và Poston, 1999).

Tương tự M B Romney, and Steinbart, Paul J (2012) định nghĩa AIS là một hệ thống thu thập, ghi nhận, lưu trữ, xử lý dữ liệu để tạo ra thông tin cho

Dữ liệu từ các hệ thống xử lý giao dịch

Dữ liệu từ các dữ liệu bên trong và bên ngoài khác

Tổng hợp Khái quát Phân tích

Phản hồi cho người sử dụng

Dữ liệu HHTT phục vụ quản lý

Kho dữ liệu người dùng ra quyết định bao gồm các yếu tố như người sử dụng hệ thống, quy trình và hướng dẫn thu thập, xử lý, lưu trữ dữ liệu, cùng với phần mềm và hạ tầng công nghệ thông tin cần thiết Theo Bagranoff (2010) và các tác giả khác (Kieso, 2011; Weygandt, 2010), Hệ thống Thông tin Kế toán (AIS) là cấu trúc doanh nghiệp sử dụng để thu thập, lưu trữ, quản lý và báo cáo dữ liệu tài chính, phục vụ cho các bên liên quan như kế toán, nhà phân tích kinh doanh, quản lý, kiểm toán viên và cơ quan thuế Đồng thời, Ulric J Gelinas, Richard B Dull và Patrick R Wheeler (2015) cũng nhấn mạnh rằng AIS là một hệ thống con của hệ thống thông tin, nhằm mục đích thu thập, xử lý và báo cáo thông tin liên quan đến tài chính trong hoạt động kinh doanh.

Hiệp hội Kế toán Hoa Kỳ (AAA) xác định Hệ thống Thông tin Kế toán (AIS) là một phần của Hệ thống Thông tin Quản lý (MIS), có chức năng thu thập và phân loại dữ liệu nhằm cung cấp thông tin kịp thời và phù hợp cho người ra quyết định cả nội bộ lẫn bên ngoài AIS được xem như một hệ thống con của MIS, với khả năng thu thập dữ liệu, chuyển đổi dữ liệu thành thông tin hữu ích và cung cấp thông tin cho các bên liên quan (Gelinas, Dull, và Wheeler, 2011; McLeod, Raymon, và Schell, 2007; Nicolaou, 2000).

Hệ thống thông tin kế toán (AIS) là công cụ quan trọng trong mọi doanh nghiệp và tổ chức, giúp tạo ra giá trị kinh tế Theo Gelinas (2005), AIS là một phần của hệ thống thông tin quản trị, chuyên thu thập, xử lý và cung cấp thông tin tài chính Wilkinson và cộng sự (2000) nhấn mạnh rằng AIS đóng vai trò như một cấu trúc thống nhất trong tổ chức, giúp chuyển đổi dữ liệu kinh tế thành thông tin kế toán, từ đó hỗ trợ các nhà quản trị trong việc ra quyết định.

Tóm lại, từ những quan điểm nghiên cứu về Hệ thống Thông tin Kế toán (AIS), có thể khẳng định rằng AIS là một hệ thống độc lập hoặc con của Hệ thống Thông tin Quản lý (MIS), tích hợp các thành phần để thu nhận, xử lý, phân tích và cung cấp thông tin tài chính cho các bên liên quan, phục vụ cho quyết định AIS bao gồm người sử dụng hệ thống, quy trình và hướng dẫn thu thập, xử lý và lưu trữ dữ liệu, phần mềm xử lý dữ liệu, cùng với hạ tầng công nghệ thông tin và các biện pháp kiểm soát nội bộ để bảo vệ dữ liệu.

Trong hệ thống AIS, người dùng chủ yếu là các chuyên gia trong tổ chức, bao gồm kế toán viên, chuyên gia tư vấn, nhà phân tích kinh doanh, nhà quản lý, giám đốc tài chính và kiểm toán viên (A.Hall, 2007; Amy Fontinelle, 2017).

Thủ tục và hướng dẫn của Hệ thống Thông tin Kế toán (AIS) là các phương pháp thu thập, lưu trữ, truy xuất và xử lý dữ liệu, bao gồm cả thủ công và tự động Dữ liệu có thể được lấy từ các nguồn nội bộ như nhân viên và các nguồn bên ngoài như đơn hàng trực tuyến của khách hàng Những thủ tục và hướng dẫn này được mã hóa thành quy trình để thực hiện thông qua phần mềm ứng dụng trong AIS (A.Hall, 2007; Amy Fontinelle, 2017; M B Romney, và Steinbart, Paul J., 2012).

Hệ thống thông tin kế toán (AIS) chứa đựng tất cả thông tin tài chính liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp Mọi dữ liệu tác động đến tài chính sẽ được ghi nhận trong AIS, bao gồm thông tin về bán hàng và mua hàng, báo cáo thanh toán của khách hàng, phân tích doanh thu, yêu cầu mua hàng, dữ liệu hàng tồn kho, chấm công và thông tin thuế Nội dung của AIS sẽ thay đổi tùy theo tính chất và quy mô của từng doanh nghiệp.

Phần mềm của Hệ thống Thông tin Kế toán (AIS) bao gồm các chương trình máy tính được thiết kế để lưu trữ, truy xuất, xử lý và phân tích dữ liệu tài chính của doanh nghiệp Trước khi máy tính ra đời, AIS chủ yếu dựa vào các hệ thống giấy tờ, nhưng hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp đã chuyển sang sử dụng phần mềm máy tính như một phần quan trọng trong cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin.

Hạ tầng công nghệ thông tin là yếu tố quan trọng để vận hành hệ thống thông tin kế toán, bao gồm các thiết bị phần cứng thiết yếu như máy tính cá nhân, máy chủ, máy in, thiết bị hỗ trợ, mạng internet, mạng LAN và các phương tiện lưu trữ.

Kiểm soát nội bộ và bảo vệ dự liệu của AIS là các biện pháp bảo vệ hệ thống,

Hệ thống thông tin kế toán (AIS) cần thiết phải có kiểm soát nội bộ để ngăn chặn truy cập trái phép vào máy tính và hạn chế quyền truy cập của những người dùng không được phép, bao gồm cả người dùng nội bộ và bên ngoài doanh nghiệp.

Nguồn: Hall James A 2011 Accounting Information Systems

Hình 1.3: Mô hình chung của hệ thống thông tin kế toán

1.1.4 Vai trò của hệ thống thông tin kế toán đối với doanh nghiệp

Hệ thống thông tin kế toán là yếu tố then chốt quyết định sự thành công hay thất bại của các tổ chức kinh doanh hiện đại Nó đảm nhiệm việc ghi chép, phân tích, giám sát và đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp.

Sự phù hợp của hệ thống thông tin kế toán trong doanh nghiệp

Nhiều nghiên cứu nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phát triển sự phù hợp giữa chiến lược kinh doanh và chiến lược CNTT, nhưng nhiều doanh nghiệp vẫn gặp khó khăn trong việc đạt được điều này, đặc biệt là trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ Khái niệm "sự phù hợp" lần đầu tiên được đề cập trong lý thuyết xử lý thông tin của Galbraith (1973), cho thấy rằng khả năng xử lý thông tin của tổ chức cần phải phù hợp với yêu cầu thông tin để đạt được thành công Các nghiên cứu sau đó, như của De Ven, Andrew và Drazin (1985), đã phân loại sự phù hợp thành ba loại: cách tiếp cận lựa chọn, tương tác và hệ thống, trong đó cách tiếp cận lựa chọn nhấn mạnh rằng thiết kế tổ chức phải thích ứng với đặc điểm của bối cảnh hoạt động để tồn tại và hiệu quả.

Cách tiếp cận tương tác giải thích "sự phù hợp" là hiệu ứng tương tác giữa tổ chức và cơ cấu trong việc nâng cao hiệu quả Phương pháp hệ thống áp dụng khái niệm lý thuyết hệ thống và thực hiện phân tích thực nghiệm Chan, Huff, Barclay, và Copeland (1997) chỉ ra rằng sự phù hợp trong tiếp cận đối sánh dựa trên mức độ tương đồng giữa yêu cầu và khả năng của Hệ thống Thông tin Kế toán (AIS) Các nghiên cứu của Ismail và King (2005, 2006) cũng đã làm sáng tỏ vấn đề này.

King (2007); Ashif, Mahmud, và Hasan (2013) cho rằng sự phù hợp của AIS là tương quan giữa hai yếu tố: yêu cầu của AIS và khả năng của AIS

Sự phù hợp của hệ thống thông tin kế toán (AIS) được xác định bởi mức độ tương đồng giữa yêu cầu của hệ thống và khả năng đáp ứng của nó Sự tương quan giữa hai yếu tố này quyết định mức độ hiệu quả và tính phù hợp của AIS trong việc phục vụ nhu cầu thông tin kế toán.

Cách đo lường sự phù hợp của AIS qua các nghiên cứu

Sự phù hợp của Hệ thống Thông tin Kế toán (AIS) được đánh giá thông qua mô hình hồi quy, dựa trên các yếu tố như hiểu biết của chủ sở hữu, mức độ thiết lập công nghệ thông tin và quy mô doanh nghiệp (Hussin, King, và Cragg, 2002; Raymond và Paré, 1992; Seyal, Rahim, và Rahman, 2000).

Sự phù hợp trong tổ chức không chỉ phụ thuộc vào các yếu tố nội tại mà còn bị ảnh hưởng bởi cam kết của chủ sở hữu và người quản lý, cũng như tri thức bên ngoài và tri thức nội bộ (Thong, 1999; Ashif và cộng sự, 2013; Budiarto, SE, Ak, và Fakultas Ekonomi, 2014; Budiarto, SE, Ak, Fakultas Ekonomi, và Prabowo, 2019; Hussin và cộng sự).

Nghiên cứu của Ismail và King (2005-2007) cùng với Tamoradi (2014) chỉ ra rằng những yếu tố chính phản ánh sự phù hợp về hệ thống thông tin (IS) trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNVVN) bao gồm hiểu biết của chủ sở hữu, cấp độ thiết lập công nghệ thông tin (CNTT), quy mô doanh nghiệp và sự hỗ trợ từ bên ngoài Các nghiên cứu trước đó của Raymond và Paré (1992), Thong (1999), Seyal và cộng sự (2000), cũng như Hussin và cộng sự (2002) khẳng định rằng hiểu biết về CNTT và kế toán của chủ sở hữu có ảnh hưởng lớn đến các quyết định kinh doanh trong doanh nghiệp.

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phù hợp của hệ thống thông tin kế toán (AIS) trong môi trường doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNVVN) được đánh giá qua nhiều khía cạnh Nghiên cứu cho thấy sự phù hợp của AIS là kết quả của sự tương tác giữa yêu cầu và khả năng của hệ thống, bao gồm các yếu tố như cấp độ thiết lập công nghệ thông tin, hiểu biết và cam kết của chủ sở hữu/người quản lý, cũng như tri thức bên ngoài, tri thức nội bộ và quy mô doanh nghiệp.

Nội dung các yếu tố liên quan đến sự phù hợp của AIS trong bối cảnh áp dụng CNTT được trình bày cụ thể sau đây:

1.2.1 Cấp độ thiết lập CNTT trong doanh nghiệp

Trong nghiên cứu về hệ thống thông tin và hệ thống thông tin kế toán trong doanh nghiệp, cấp độ thiết lập CNTT được nhấn mạnh Raymond và Paré (1992) định nghĩa cấp độ thiết lập CNTT là một cấu trúc đa chiều phản ánh bản chất, độ phức tạp và sự phụ thuộc lẫn nhau của việc sử dụng và quản lý CNTT trong tổ chức Định nghĩa này không chỉ bao gồm việc sử dụng CNTT mà còn cả quản lý CNTT, cho thấy sự đa dạng của cấp độ thiết lập công nghệ tương ứng với số lượng ứng dụng CNTT đang được sử dụng trong doanh nghiệp.

Cấp độ thiết lập CNTT, theo nghiên cứu của Raymond và Paré (1992) cùng với các tác giả như Iacovou, Benbasat, Dexter (1995), Raymond và cộng sự (1995), Chwelos, Benbasat, Dexter (2001), Pflughoeft và các đồng tác giả (2003), cũng như Rai, Tang, Brown, Keil (2006), được định nghĩa là bản chất, sự phức tạp và mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau trong việc quản lý và sử dụng công nghệ thông tin trong doanh nghiệp.

Trong bối cảnh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNVVN), việc thực hiện các quy trình công nghệ thông tin (CNTT) phù hợp với mục tiêu của doanh nghiệp là rất quan trọng Điều này bao gồm việc triển khai các ứng dụng và mức độ tham gia của người dùng vào quá trình này Quá trình triển khai có thể cần sự hỗ trợ từ các chuyên gia tư vấn bên ngoài, cũng như phát triển nguồn lực và năng lực CNTT nội bộ Cấp độ thiết lập thông tin liên quan đến bản chất và phạm vi của các giao dịch, cũng như cách thức quản lý và chức năng của các lĩnh vực như kế toán, tài chính, nhân sự, ngân sách, sản xuất, phân phối, tiếp thị, bán hàng và dịch vụ khách hàng trong danh mục ứng dụng.

Các nghiên cứu chỉ ra rằng khái niệm cấp độ thiết lập CNTT được xem xét từ nhiều khía cạnh khác nhau và có sự đa dạng đáng kể Cấp độ thiết lập CNTT được định nghĩa như một tập hợp các cấu trúc, phản ánh bản chất, sự phức tạp và mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau thông qua việc sử dụng các ứng dụng công nghệ thông tin và quản lý CNTT trong doanh nghiệp Việc đo lường cấp độ thiết lập CNTT trong các doanh nghiệp là rất quan trọng để hiểu rõ hơn về hiệu quả và khả năng ứng dụng công nghệ trong hoạt động kinh doanh.

Nghiên cứu của Raymond (1987) và sự phát triển vào năm 1990 đã đặt nền tảng cho việc đo lường cấp độ thiết lập CNTT trong doanh nghiệp Nghiên cứu này xác định sáu tiêu chí quan trọng, bao gồm danh mục ứng dụng như bảng lương, các khoản phải thu, phải trả, hóa đơn, tồn kho, kiểm soát sản xuất và dự báo, cũng như chế độ xử lý các ứng dụng.

Hệ thống ứng dụng trực tuyến và offline đang được phát triển mạnh mẽ, bao gồm cả các phần mềm ứng dụng tùy chỉnh do doanh nghiệp tự phát triển Mức độ kiểm soát hoạt động của máy tính có thể thuộc về công ty mẹ, do nội bộ đảm nhận hoặc do bên ngoài kiểm soát Phân cấp chức năng của Hệ thống Thông tin Quản lý (MIS) được xác định dựa trên quyền hạn của người điều hành, trong khi vị trí chức năng của MIS phản ánh trách nhiệm của giám đốc điều hành Nghiên cứu cho thấy trong 6 danh mục ứng dụng để đo lường cấp độ thiết lập công nghệ thông tin (CNTT) ở doanh nghiệp nhỏ, chỉ có danh mục hoạt động của máy tính không ảnh hưởng đến quản trị hệ thống thông tin Kết luận cho thấy MIS đang phát triển ngày càng tinh vi trong các doanh nghiệp sản xuất nhỏ, và để đạt được hiệu quả tốt, các doanh nghiệp cần tổ chức quản lý CNTT một cách triệt để.

Kagan, Lau, và Nusgart (1990) đã áp dụng một phương pháp khác để đo lường cấp độ CNTT thông qua việc đánh giá các phần mềm ứng dụng tại doanh nghiệp, cho thấy sự khác biệt trong việc sử dụng MIS giữa các lĩnh vực hoạt động và mối quan hệ tích cực giữa các chỉ số cấp độ phần mềm ứng dụng và quy mô doanh nghiệp Tuy nhiên, phương pháp này chỉ tập trung vào phần mềm mà chưa xem xét các khía cạnh khác của cấp độ CNTT, chức năng và quản lý thông tin Trong khi đó, P B Cragg (1990) đã thực hiện việc đo lường bằng cách xác định số lượng các loại ứng dụng CNTT tại DNVVN, bao gồm công nghệ, phần mềm, ứng dụng bảo mật IS và cách thức quản lý CNTT hiện tại của doanh nghiệp Cách tiếp cận này giúp phản ánh rõ ràng các ứng dụng công nghệ thông tin mà doanh nghiệp đang sử dụng và cách thức quản lý CNTT, từ nhân viên CNTT đến chiến lược CNTT.

Nghiên cứu của Raymond và Paré (1992) về "Đo lường cấp độ thiết lập CNTT trong các doanh nghiệp sản xuất nhỏ" chỉ ra rằng, trong bối cảnh môi trường ngày càng phức tạp, các doanh nghiệp nhỏ cần đầu tư nhiều hơn vào CNTT để nâng cao năng suất và hiệu quả Nghiên cứu nhấn mạnh rằng CNTT đang ảnh hưởng đến cấu trúc, chiến lược và hoạt động của các doanh nghiệp nhỏ Mục tiêu của nghiên cứu là khám phá cấp độ thiết lập CNTT và đo lường cấu trúc trong các doanh nghiệp nhỏ, với cấp độ thiết lập CNTT được định nghĩa là một cấu trúc đa chiều bao gồm bốn khía cạnh: hỗ trợ công nghệ, nội dung thông tin, hỗ trợ chức năng và quản lý vận hành Nghiên cứu cũng đã phát triển một khung đặc điểm chung về cấp độ thiết lập CNTT tại các doanh nghiệp nhỏ, có thể được sử dụng làm cơ sở cho các nghiên cứu tiếp theo nhằm mở rộng cấu trúc này cho các bối cảnh doanh nghiệp khác.

Hình 1.5: Các khía cạnh cấp độ thiết lập CNTT trong doanh nghiệp

Thành quả hoạt động doanh nghiệp

1.3.1 Khái niệm về thành quả doanh nghiệp sản xuất

Thành quả của doanh nghiệp trong nền kinh tế hiện đại là một chủ đề quan trọng đối với các nhà nghiên cứu Mặc dù khái niệm về thành quả doanh nghiệp chưa được thống nhất, nhưng có một số điểm chung đáng lưu ý Theo Venkatraman và Ramanujam (1986), thành quả kinh doanh hay thành quả hoạt động của doanh nghiệp chủ yếu liên quan đến kết quả tài chính Nghiên cứu của Smith và Reece cũng đã chỉ ra những yếu tố ảnh hưởng đến thành quả này.

Khái niệm về thành quả doanh nghiệp được định nghĩa vào năm 1999 là khả năng hoạt động kinh doanh nhằm đáp ứng các mục tiêu mong muốn của chủ sở hữu và các bên liên quan.

Nghiên cứu này đề cập đến các bên liên quan, bao gồm các nhà đầu tư và cổ đông chiến lược của doanh nghiệp Theo đó, thành quả được định nghĩa là việc đo lường mức độ hoàn thành các mục tiêu của doanh nghiệp, sự hài lòng của các bên liên quan, cùng với trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (Connolly, Conlon, và Deutsch).

Các nghiên cứu từ Hitt (1988), Kaplan và Norton (2005), Richard và cộng sự (2009), Vij và Bedi (2016), cùng Zammuto (1984) đều nhấn mạnh trách nhiệm xã hội (CRS) của doanh nghiệp, khái niệm này liên quan đến tính bền vững và bổn phận của doanh nghiệp Mặc dù có sự khác biệt trong cách tiếp cận, nhưng chung quy lại, các nghiên cứu này đều xem thành quả doanh nghiệp như một chỉ số hoặc mục tiêu quan trọng cần đạt được (Smith và Reece, 1999; Samsonowa, 2011).

Thành công của doanh nghiệp được đánh giá qua mức độ hoàn thành các mục tiêu đã đề ra và sự hài lòng của chủ sở hữu cùng các bên liên quan.

1.3.2 Đo lường thành quả doanh nghiệp sản xuất

Trong bối cảnh doanh nghiệp hiện nay, việc đo lường thành quả trở thành một chủ đề quan trọng liên quan đến phát triển bền vững và đổi mới quản trị Theo nghiên cứu của John (2000), đo lường thành quả là việc đánh giá mức độ đạt được các mục tiêu của doanh nghiệp Nhiều nghiên cứu, như của Dess và Robinson Jr (1984) cũng như Gruber và cộng sự (2010), nhấn mạnh tầm quan trọng của việc này đối với tổ chức Đo lường thành quả có thể được thực hiện thông qua các phương pháp chủ quan hoặc khách quan, bao gồm cả hiệu quả tài chính và phi tài chính, với sự khác biệt giữa hai phương pháp này được thể hiện rõ trong bảng 1.7.

Bảng 1.7: Phân biệt cách đo lường chủ quan và đo lường khách về thành quả của doanh nghiệp

Tiêu chí phân biệt Đo lường chủ quan Đo lường khách quan

1 Các chỉ số Tập trung vào hiệu quả tổng thể

Dựa vào các chỉ số tài chính thực tế cụ thể

2 Tiêu chuẩn đo lường Người trả lời thông tin được yêu cầu so sánh hiệu quả của

DN mình so với đối thủ cạnh tranh cùng ngành

Người trả lời thông tin được yêu cầu trả lời các số liệu tài chính mang tính tuyệt đối

3 Thang đo Phạm vi từ rất xấu, đến mức rất tốt, hay thấp hơn rất nhiều, đến mức thấp hơn nhiều đến mức cao hơn nhiều, hay tệ nhất trong ngành…

Không sử dụng thang đo

Về tầm quan trọng của cách đo lường thành quả trong các doanh nghiệp

Đo lường thành quả là yếu tố quan trọng giúp doanh nghiệp điều chỉnh chiến lược thành các hành vi và kết quả mong muốn Nó không chỉ truyền đạt kỳ vọng và theo dõi tiến trình, mà còn cung cấp thông tin phản hồi và thúc đẩy nhân viên thông qua các phần thưởng dựa trên thành quả đạt được.

Đo lường thành quả không chỉ là công cụ quản lý hiệu quả mà còn mang ý nghĩa chiến lược trong việc triển khai và sử dụng nguồn lực của doanh nghiệp.

Cách đo lường thành quả khách quan và đo lường chủ quan sẽ được trình bày rõ hơn qua phần dưới đây

1.3.2.1 Đo lường khách quan thành quả hoạt động

Các nghiên cứu khác nhau áp dụng các phương pháp đo lường thành quả khác nhau tùy thuộc vào phạm vi nghiên cứu Rowe, Morrow, và Finch (1995) chỉ ra rằng trong doanh nghiệp, thành quả thường được đo bằng các chỉ số tài chính như ROA và ROE Ngoài ra, Singh, Darwish, và Potočnik (2016); Taouab và Issor (2019) cũng nhấn mạnh rằng việc đo lường thành quả có thể bao gồm sự tăng trưởng thị phần, giá cổ phiếu, chất lượng dịch vụ và sản phẩm, sự hài lòng của nhân viên, cũng như các cam kết đã thực hiện.

Nghiên cứu của Forker, Vickery, và Droge (1996) cùng với Magableh, Kharabsheh, và Al-Zubi (2011) đã chỉ ra các chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hiệu quả doanh nghiệp như doanh thu, tốc độ tăng trưởng doanh thu, lợi nhuận, lợi tức đầu tư (ROI), và sự tăng trưởng khách hàng Andersen và Segars (2001) cũng nhấn mạnh việc sử dụng các chỉ số tài chính như lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA) và tỷ suất lợi nhuận ròng để đánh giá hoạt động của doanh nghiệp Hơn nữa, các chỉ số kế toán cụ thể dựa trên kết quả lợi nhuận và tăng trưởng cũng được đề cập (Dess và Robinson Jr, 1984; C Jones, 1985; Parnell và Wright, 1993) Tuy nhiên, một số nghiên cứu chỉ ra rằng các chỉ tiêu này có thể khó hiểu và phức tạp, chủ yếu tập trung vào khía cạnh tài chính ngắn hạn, thiếu thông tin về thành quả tương lai, và không rõ ràng trong mối liên kết giữa mục tiêu và chiến lược của doanh nghiệp (Antic và Sekulic, 2006; Keegan, Eiler, và Jones, 1989; Neely, Gregory, và Platts, 1995).

Roberts (1999) chỉ ra rằng các doanh nghiệp nhỏ thường ngần ngại trong việc công khai thông tin tài chính, bao gồm tài sản, doanh số bán hàng và chỉ số lợi nhuận Điều này có thể dẫn đến việc đo lường không chính xác và ảnh hưởng đến mục tiêu nghiên cứu.

Trong quản lý chiến lược, việc đo lường thành quả tập trung vào các yếu tố như chất lượng, nhà cung cấp, sự tăng trưởng, bán hàng, phân phối và hiệu quả tài chính (Covin và Slevin, 1989; Dyer và Nobeoka, 2000; Gruber và cộng sự, 2010; Teece, Pisano, và Shuen, 1997) Ngoài các chỉ số truyền thống như hiệu quả chi phí và lợi nhuận, doanh nghiệp cần chú ý đến các yếu tố khác như chất lượng sản phẩm, dịch vụ, năng suất, tính linh hoạt, khả năng đáp ứng yêu cầu của khách hàng và nhà cung cấp, hiệu quả quy trình sản xuất, tính sáng tạo, chất lượng đội ngũ nhân viên, cũng như các cơ hội và thách thức trong môi trường kinh doanh (Campbell, 1977; Hudson, Smart, và Bourne, 2001; Kaplan và Norton, 2005; Laitinen, 1996; Medori và Steeple, 2000) Mann và Kehoe (1994); Franco‐Santos và cộng sự (2007) cũng khuyến nghị việc đo lường thành quả hoạt động nên được thực hiện thông qua hệ thống đo lường thành quả hoạt động (BPM).

Việc áp dụng hệ thống đo lường thành quả thông qua các chỉ tiêu khách quan giúp doanh nghiệp kiểm soát, quản lý hiệu quả và đánh giá tổng thể so với các mục tiêu đã đề ra Điều này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh doanh nghiệp nhỏ tại Việt Nam đang hội nhập sâu rộng với nền kinh tế toàn cầu.

1.3.2.2 Đo lường chủ quan thành quả hoạt động

Nghiên cứu về thành quả hoạt động của doanh nghiệp cho thấy việc đo lường thành quả chủ quan qua tự đánh giá của nhà quản lý phổ biến hơn so với các phương pháp đo lường khách quan Các tác giả như March và Sutton (1997), Richard và cộng sự (2009), Silvestro (2014), và Vij và Bedi (2012) đã nhấn mạnh tầm quan trọng của cách tiếp cận này trong việc đánh giá hiệu quả tổ chức.

Mối quan hệ giữa sự phù hợp của hệ thống thông tin kế toán với thành quả hoạt động của doanh nghiệp

Nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng việc sử dụng thông tin là yếu tố quan trọng cho sự tồn tại của doanh nghiệp vừa và nhỏ (Lybaert, 1998; Mitchell và cộng sự, 2000a) Mặc dù có mối quan hệ tích cực giữa thiết kế Hệ thống Thông tin Kế toán (AIS) và hiệu quả của doanh nghiệp lớn (Abernethy và Guthrie, 1994; Mia và Chenhall, 1994), nhưng kết quả về mối quan hệ này trong doanh nghiệp vừa và nhỏ lại không rõ ràng và đôi khi trái ngược (Gorton, 1999; McMahon và Davies, 1994; Perren và Grant, 2000), điều này cho thấy cần có thêm nghiên cứu Tổng quan nghiên cứu cho thấy việc sử dụng công nghệ thông tin (CNTT) có thể mang lại nhiều lợi ích cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhưng tác động trực tiếp của CNTT đến hiệu quả hoạt động vẫn cần được làm rõ Shin (2001) nhấn mạnh rằng CNTT cần kết hợp với các yếu tố tổ chức như cấu trúc và chiến lược kinh doanh để có hiệu quả Chan (1997) và Cragg cùng cộng sự (2002) cũng cho rằng sự phù hợp giữa CNTT và chiến lược kinh doanh ảnh hưởng đến kết quả hoạt động Nghiên cứu của Ismail và King (2005) đã xem xét sự phù hợp của AIS dựa trên yêu cầu và khả năng AIS đối với hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp vừa và nhỏ Galbraith (1973) cho rằng sự phù hợp giữa thông tin yêu cầu và thông tin cung cấp là yếu tố then chốt cho hiệu quả tổ chức Do đó, sự phù hợp của AIS là rất quan trọng, và doanh nghiệp nào có AIS phù hợp sẽ có khả năng thành công cao hơn so với những doanh nghiệp không có sự phù hợp hoặc có sự phù hợp thấp.

Lý thuyết nền tảng

1.5.1 Lý thuyết về xử lý thông tin

Hiện nay, sự phát triển của công nghệ thông tin (CNTT) đã tạo ra sự kết nối mạnh mẽ trong các quy trình kinh doanh, giúp các doanh nghiệp thích ứng linh hoạt với môi trường thay đổi Nhiều tổ chức đang áp dụng hệ thống thông tin (IS) để nâng cao hiệu quả quản lý và thực hiện nhiệm vụ công việc Galbraith (1973) nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xử lý thông tin trong các tổ chức, đóng góp vào sự phát triển bền vững của doanh nghiệp.

Lý thuyết xử lý thông tin tổ chức (OIPT) nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đáp ứng yêu cầu xử lý thông tin trong bối cảnh doanh nghiệp phải thích ứng với môi trường kinh doanh năng động Ba khái niệm chính của lý thuyết này bao gồm yêu cầu xử lý thông tin, khả năng xử lý thông tin và sự phù hợp giữa chúng để đạt hiệu quả tối ưu Galbraith chỉ ra rằng sự tương thích giữa năng lực xử lý thông tin và nhu cầu thông tin có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Đặc biệt, các tổ chức sử dụng hệ thống thông tin (IS) sẽ hoạt động hiệu quả hơn, bất chấp sự khác biệt trong cấu trúc tổ chức Sự phù hợp giữa khả năng xử lý thông tin và nhu cầu thông tin sẽ tác động tích cực đến hiệu quả kinh doanh, điều này đã thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu trong việc khảo sát ảnh hưởng của IS/IT đến việc thiết kế và điều chỉnh tổ chức nhằm cải thiện khả năng xử lý thông tin.

Lý thuyết về sự phù hợp đã được phát triển qua nhiều nghiên cứu, trong đó Van de Ven và Drazin (1984) định nghĩa phù hợp là một tập hợp khả thi có hiệu quả tương đương trong các tổ chức có bối cảnh và cấu trúc nhất quán Louadi (1998) chỉ ra rằng khi các tổ chức có khả năng xử lý thông tin đáp ứng nhu cầu thông tin, sự phù hợp này sẽ ảnh hưởng đáng kể đến hiệu suất hoạt động Nhiều nghiên cứu cũng đã áp dụng lý thuyết IP để đánh giá sự phù hợp giữa yêu cầu của Hệ thống Thông tin Kế toán (AIS) và khả năng của AIS trong các doanh nghiệp (Ashif và cộng sự, 2013; Budiarto và cộng sự, 2014; Ismail và King, 2005).

Lý thuyết xử lý thông tin nhấn mạnh rằng khả năng xử lý thông tin phù hợp có ảnh hưởng lớn đến thành quả của tổ chức Các tổ chức triển khai hệ thống thông tin sẽ hoạt động hiệu quả hơn, với sự phù hợp giữa yêu cầu của Hệ thống Thông tin Kế toán (AIS) và khả năng của nó ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động doanh nghiệp Nghiên cứu cho thấy hầu hết các công trình nghiên cứu về tác động của AIS đến thành quả doanh nghiệp đều áp dụng lý thuyết này, khẳng định tầm quan trọng của Lý thuyết xử lý thông tin của Galbraith.

Năm 1973, luận án đã áp dụng để đánh giá sự phù hợp của Hệ thống Thông tin Kế toán (AIS) bằng cách xem xét tầm quan trọng của các yêu cầu về đặc điểm thông tin và mức độ đáp ứng hiện tại của doanh nghiệp đối với các đặc điểm này Qua đó, nghiên cứu đo lường sự phù hợp của AIS và đánh giá tác động của sự phù hợp này đến hiệu quả hoạt động của các Doanh nghiệp Nhỏ và Vừa (DNVVN) tại Việt Nam.

Lý thuyết tình huống đã được áp dụng rộng rãi trong nghiên cứu về hành vi tổ chức, thiết kế, hiệu quả, lập kế hoạch và chiến lược quản lý Mặc dù các chủ đề nghiên cứu có sự khác biệt, nhưng chúng đều nhấn mạnh rằng kết quả của tổ chức phụ thuộc vào sự phù hợp giữa hai hoặc nhiều yếu tố (Van de Ven và Drazin).

Lý thuyết tình huống, được xem là một nhánh của lý thuyết hành vi, khẳng định rằng không tồn tại một phương pháp quản lý duy nhất hiệu quả cho mọi tổ chức trong mọi tình huống Theo Fiedler (1964), một nhà quản lý có thể đạt được thành công trong một bối cảnh cụ thể nhưng có thể không đạt được kết quả tương tự trong bối cảnh khác.

Lý thuyết tình huống được áp dụng trong hệ thống thông tin kế toán qua các nghiên cứu của Khazanchi (2005) và Raymond cùng cộng sự (1995), nhằm phân tích mối quan hệ giữa các yếu tố CNTT và hiệu quả triển khai chiến lược CNTT trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ Ngoài ra, các nghiên cứu của Gordon và Miller (1976) cùng Weill và Olson (1989) cũng sử dụng lý thuyết này để thiết kế hệ thống thông tin, đảm bảo sự phù hợp giữa các yếu tố với việc thiết kế và vận hành hệ thống nhằm nâng cao hiệu quả Hơn nữa, lý thuyết tình huống đã được áp dụng trong các nghiên cứu của Raymond và cộng sự (1995), Ismail và King (2005), cùng Esmeray (2016) để phân tích tác động của hệ thống thông tin kế toán đến kết quả hoạt động của doanh nghiệp.

Trong tổng quan nghiên cứu, lý thuyết tình huống đã được áp dụng để phân tích tác động của hệ thống thông tin kế toán đối với hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) trong bối cảnh công nghệ thông tin.

Trong luận án này, lý thuyết tình huống được áp dụng để phân tích tác động của hệ thống thông tin kế toán trong bối cảnh công nghệ thông tin đến thành quả của các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) tại Việt Nam Nghiên cứu tập trung vào các khía cạnh như hoạt động sản xuất, chi phí hoạt động, hoạt động bán hàng, tăng trưởng và khả năng sinh lợi.

Trong môi trường tổ chức, lý thuyết hệ thống mô tả ảnh hưởng của sự tương tác giữa các phòng ban và bộ phận Theo lý thuyết này, tổ chức được xem là hệ thống cha, còn các phòng ban là hệ thống con Sự tương tác không chỉ diễn ra trực tiếp mà còn có thể là ảnh hưởng gián tiếp; một thay đổi nhỏ ở một bộ phận có thể tác động lớn đến toàn bộ tổ chức, trong khi một thay đổi lớn trong tổ chức lại có thể không ảnh hưởng nhiều đến các bộ phận khác Lý thuyết hệ thống đã được ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu khoa học từ những năm 1940, với những đóng góp quan trọng từ các nhà nghiên cứu như Bertalanffy (1968) và Willems (1972).

Theo lý thuyết về hệ thống thông tin, nghiên cứu cho thấy Hệ thống Thông tin Kế toán (AIS) của doanh nghiệp là một phần quan trọng trong hệ thống thông tin quản lý doanh nghiệp (A Hall, 2007; Nguyễn Thế Hưng, 2006; M B Romney và Steinbart, Paul J., 2012; Thái Phúc Huy và Nguyễn Phước Bảo Anh, 2012) Đồng thời, cần xem xét sự điều chỉnh của AIS trong bối cảnh hiện tại để đảm bảo tính hiệu quả và phù hợp với yêu cầu quản lý.

DNVVN cần xem xét tác động đến các phòng ban và bộ phận khác nhau, đồng thời đề xuất các giải pháp phải tích hợp và thống nhất giữa các hệ thống con để hướng đến mục tiêu chung của doanh nghiệp (Vũ Thị Thanh Bình, 2019) Nghiên cứu của Ismail và King (2005; 2006), R Trabulsi (2018), và Budiarto cùng các cộng sự (2018) đã áp dụng lý thuyết hệ thống để xác định sự phù hợp của AIS trong các doanh nghiệp.

Nghiên cứu luận án này áp dụng Lý thuyết hệ thống để xác định sự phù hợp của Hệ thống Thông tin Kế toán (AIS) trong các doanh nghiệp, ảnh hưởng đến thành quả của doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) Sự phù hợp của AIS được định nghĩa là sự tương tác giữa yêu cầu và khả năng của AIS, cùng với các yếu tố liên quan, bao gồm cả yếu tố nội bộ và ngoại vi của doanh nghiệp.

Chương 1 của nghiên cứu tập trung vào lý thuyết hệ thống thông tin kế toán trong doanh nghiệp, bao gồm hệ thống thông tin quản lý và các yếu tố cấu thành của nó Nghiên cứu phân tích vai trò quan trọng của hệ thống thông tin kế toán đối với sự phát triển của doanh nghiệp, đồng thời khái quát thành quả và cách đo lường thành quả trong lĩnh vực sản xuất Ngoài ra, nghiên cứu cũng cung cấp cơ sở lý thuyết nền tảng cho nghiên cứu, bao gồm lý thuyết về xử lý thông tin, lý thuyết tình huống (contingency theory) và lý thuyết hệ thống.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

HOÀN THIỆN HỆ THỐNG THÔNG TIN KẾ TOÁN

Ngày đăng: 01/12/2021, 15:55

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
2. Abernethy, M. A., và Guthrie, C. H. (1994). An empirical assessment of the “fit” between strategy and management information system design. Accounting & Finance, 34(2), 49-66 Sách, tạp chí
Tiêu đề: fit
Tác giả: Abernethy, M. A., và Guthrie, C. H
Năm: 1994
24. Bodnar, G. H. a., W.S. (2014), “..”, UK : . (2014). Accounting Information Systems (Vol. Eleventh Edition). UK Sách, tạp chí
Tiêu đề:
Tác giả: Bodnar, G. H. a., W.S. (2014), “..”, UK
Năm: 2014
126. Khazanchi, D. (2005). Information technology (IT) appropriateness: The contingency theory of “fit” and IT implementation in small and medium enterprises. Journal of Computer Information Systems, 45(3), 88-95 Sách, tạp chí
Tiêu đề: fit
Tác giả: Khazanchi, D
Năm: 2005
9. Anh Tùng. (2016). Ứng dụng CNTT trong doanh nghiệp Việt Nam. Mạng thông tin khoa học và công nghệ TP HCM. Retrieved from http://www.cesti.gov.vn/the-gioi-du-lieu/ng-dung-cntt-trong-doanh-nghiep-viet-nam.html Link
230. VECOM. (2019). Báo cáo chỉ số thương mại điện tử Việt Nam 2019. http://www.vecom.vn/tai-lieu/bao-cao-chi-thuong-mai-dien-tu-viet-nam-2019 Link
1. A.Hall, J. (2007). Accounting information systems: Mason, OH. Thomson SouthWestern Khác
3. Agarwal, R., và Prasad, J. (1999). Are individual differences germane to the acceptance of new information technologies? Decision Sciences, 30(2), 361-391 Khác
4. Al-Qirim, N. A. (2004). A framework for electronic commerce research in small to medium- sized enterprises Electronic commerce in small to medium-sized enterprises: Frameworks, issues and implications (pp. 1-16): IGI Global Khác
5. Alasadi, R., và Abdelrahim, A. (2008). Analysis of small business performance in Syria. Education, Business and Society: Contemporary Middle Eastern Issues Khác
7. Andarwati, M., Nirwanto, N., và Darsono, J. T. (2018). Analysis of factors affecting the successof accounting information systems based on information technology on SME managementsas accounting informationend user. EJEFAS Journal(98), 97-102 Khác
8. Andersen, T. J., và Segars, A. H. (2001). The impact of IT on decision structure and firm performance: evidence from the textile and apparel industry. Information & management, 39(2), 85-100 Khác
10. Antic, L., và Sekulic, V. (2006). New paradigm of business performance measurement in contemporary business conditions. Economics and Organization, 3 (1), 6977 Khác
11. Argenti, J. (1976). How Can You Tell If They Are Going Bust? Accountancy87, 42-44 Khác
12. Ashif, A. S. M., Mahmud, M. T., và Hasan, M. T. (2013). AIS Requirement and Capacity, an Understanding of AIS Alignment: Evidence from Bangladesh Paper presented at the JAR-BAE.www.setscholars.org/index.php/ijarbae Khác
13. Ashrafi, R., và Murtaza, M. (2008). Use and impact of ICT on SMEs in Oman. Electronic Journal of Information Systems Evaluation, 11(3) Khác
14. AyyoubAl Swalhah. (2014). The role of Accounting Information Systems (A.I.S.) in rationalized Administrative Decision- making (field study) Jordanian banks. INTERDISCIPLINARY JOURNAL OF CONTEMPORARY RESEARCH IN BUSINESS Khác
15. Bagranoff, N. A. (2010). Core concept of accounting information systems. John Wiley & Sons Khác
16. Banu Dincer. (2016). Literature Review on the Use of Technology and Information Systems in SMEs. International Journal of Academic Research in Business and Social Sciences, 2016, Vol. 6, No. 12 Khác
17. Beaver, G. (2003). Small business: success and failure. Strategic change, 12(3), 115-122 Khác
18. Belal Yousef AL Smirat. (2013). The Use of Accounting Information by Small and Medium Enterprises in South District of Jordan,( An empirical study). Research Journal of Finance and Accounting Khác

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Hình 1.1: Mô hình hệ thống thông tin trong doanh nghiệp  1.1.2 Hệ thống thông tin quản lý - Hệ thống thông tin kế toán trong trong bối cảnh áp dụng công nghệ thông tin tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam
Hình 1.1 Mô hình hệ thống thông tin trong doanh nghiệp 1.1.2 Hệ thống thông tin quản lý (Trang 30)
Hình 1.2: Hệ thống thông quản lý  1.1.3 Hệ thống thông tin kế toán trong doanh nghiệp - Hệ thống thông tin kế toán trong trong bối cảnh áp dụng công nghệ thông tin tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam
Hình 1.2 Hệ thống thông quản lý 1.1.3 Hệ thống thông tin kế toán trong doanh nghiệp (Trang 31)
Hình 1.3: Mô hình chung của hệ thống thông tin kế toán - Hệ thống thông tin kế toán trong trong bối cảnh áp dụng công nghệ thông tin tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam
Hình 1.3 Mô hình chung của hệ thống thông tin kế toán (Trang 34)
Hình 1.5: Các khía cạnh cấp độ thiết lập CNTT trong doanh nghiệp - Hệ thống thông tin kế toán trong trong bối cảnh áp dụng công nghệ thông tin tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam
Hình 1.5 Các khía cạnh cấp độ thiết lập CNTT trong doanh nghiệp (Trang 41)
Bảng 1.2: Cách đo lường hiểu biết của chủ sở hữu/người quản lý thông  qua các nghiên cứu - Hệ thống thông tin kế toán trong trong bối cảnh áp dụng công nghệ thông tin tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam
Bảng 1.2 Cách đo lường hiểu biết của chủ sở hữu/người quản lý thông qua các nghiên cứu (Trang 47)
Bảng 1.3: Cách đo lường yếu tố cam kết chủ sở hữu/người quản lý thông - Hệ thống thông tin kế toán trong trong bối cảnh áp dụng công nghệ thông tin tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam
Bảng 1.3 Cách đo lường yếu tố cam kết chủ sở hữu/người quản lý thông (Trang 50)
Bảng 1.7: Phân biệt cách đo lường chủ quan và đo lường khách về thành - Hệ thống thông tin kế toán trong trong bối cảnh áp dụng công nghệ thông tin tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam
Bảng 1.7 Phân biệt cách đo lường chủ quan và đo lường khách về thành (Trang 60)
Bảng 2.1 Mã hóa các biến đo lường trong mô hình nghiên cứu - Hệ thống thông tin kế toán trong trong bối cảnh áp dụng công nghệ thông tin tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam
Bảng 2.1 Mã hóa các biến đo lường trong mô hình nghiên cứu (Trang 80)
Bảng 3.1 Phân loại DNVVN  theo Nghị định số 39/NĐ-CP của Chính Phủ - Hệ thống thông tin kế toán trong trong bối cảnh áp dụng công nghệ thông tin tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam
Bảng 3.1 Phân loại DNVVN theo Nghị định số 39/NĐ-CP của Chính Phủ (Trang 93)
Bảng 3.6 Thống kê các công nghệ hiện đang được sử dụng tại doanh nghiệp  khảo sát - Hệ thống thông tin kế toán trong trong bối cảnh áp dụng công nghệ thông tin tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam
Bảng 3.6 Thống kê các công nghệ hiện đang được sử dụng tại doanh nghiệp khảo sát (Trang 100)
Bảng  3.7  Thống  kê  các  ứng  dụng  CNTT  hiện  đang  được  triển  khai  tại  doanh  nghiệp khảo sát - Hệ thống thông tin kế toán trong trong bối cảnh áp dụng công nghệ thông tin tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam
ng 3.7 Thống kê các ứng dụng CNTT hiện đang được triển khai tại doanh nghiệp khảo sát (Trang 102)
Bảng 3.8 Thống kê đặc điểm phần mềm kế toán doanh nghiệp hiện đang sử  dụng tại doanh nghiệp khảo sát - Hệ thống thông tin kế toán trong trong bối cảnh áp dụng công nghệ thông tin tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam
Bảng 3.8 Thống kê đặc điểm phần mềm kế toán doanh nghiệp hiện đang sử dụng tại doanh nghiệp khảo sát (Trang 103)
Bảng 3.9: Tổng hợp kết quả phân tích độ tin cậy của thang đo - Hệ thống thông tin kế toán trong trong bối cảnh áp dụng công nghệ thông tin tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam
Bảng 3.9 Tổng hợp kết quả phân tích độ tin cậy của thang đo (Trang 105)
Bảng 3.10: Thống kê mô tả - Hệ thống thông tin kế toán trong trong bối cảnh áp dụng công nghệ thông tin tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam
Bảng 3.10 Thống kê mô tả (Trang 106)
Hình 3.1 Mối quan hệ giữa các công nghệ hiện đang được sử dụng tại doanh - Hệ thống thông tin kế toán trong trong bối cảnh áp dụng công nghệ thông tin tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam
Hình 3.1 Mối quan hệ giữa các công nghệ hiện đang được sử dụng tại doanh (Trang 107)

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w