1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Hệ sinh thái rạn san hô vùng biển quần đảo trường sa việt nam

36 21 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Hệ Sinh Thái Rạn San Hô Vùng Biển Quần Đảo Trường Sa - Việt Nam
Tác giả Lữ Khánh Duy, Tống Thị Thanh Thúy, Nguyễn Thanh Thúy, Trần Thị Minh Thùy, Nhan Minh Trí, Phạm Dương Tú Trinh, Phan Nguyễn Thanh Tuyền
Người hướng dẫn PGS.TS Trịnh Xuân Ngọ
Trường học Trường Đại Học Công Nghiệp TP.HCM
Chuyên ngành Sinh Thái Học
Thể loại Tiểu Luận
Năm xuất bản 2011
Thành phố TP.HCM
Định dạng
Số trang 36
Dung lượng 0,94 MB

Cấu trúc

  • I. MỞ ĐẦU (5)
  • II. NỘI DUNG (7)
    • 1. San hô và rạn san hô (7)
      • 1.1 San hô (7)
      • 1.2 Rạn san hô (9)
    • 2. Hệ sinh thái rạn san hô quần đảo Trường Sa (17)
      • 2.1 Điều kiện sinh thái hình thành và phát triển (17)
      • 2.2 Đặc điểm tự nhiên (20)
      • 2.3 Quần xã sinh vật sống trên rạn san hô quần đảo Trường Sa (20)
      • 2.4 Vai trò ý nghĩa (22)
    • 3. Tình hình khai thác (27)
      • 3.1 Hiện trạng sử dụng và khai thác (27)
      • 3.2 Các mối đe dọa (31)
  • III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ (33)
    • 1. Kết luận (33)
      • 1.1 Nguồn lợi sinh vật và vai trò trong sinh thái (33)
      • 1.2 Hiện trạng khai thác thực tế (33)
    • 3. Kiến nghị các phương pháp khai thác, sử dụng hợp lý (34)

Nội dung

Việt Nam nằm bên bờ Tây của Biển Đông, một biển lớn, quan trọng của khu vực và thế giới. Với 3.260 km đường bờ biển trải dài trên 13 vĩ độ, chạy qua 29 tỉnh, thành phố gồm 124 huyện, thị xã với 612 xã, phường (trong đó có 12 huyện đảo, 53 xã đảo) Việt Nam đã thu hút 20 triệu người sống ở ven bờ và 17 vạn người sống ở các đảo. Hình: Nguồn thủy hải sản Biển nước ta có khoảng 11.000 loài sinh vật cư trú trong hơn 20 kiểu hệ sinh thái điển hình thuộc 6 vùng đa dạng sinh học biển khác nhau. Trữ lượng hải sản biển Việt Nam dao động trong khoảng 3,1 - 4,2 triệu tấn/năm, với khả năng khai thác 1,4 - 1,6 triệu tấn/năm. Trong đó, trữ lượng cá nổi và đáy ở vùng biển quần đảo Trường Sa tuy chưa có số liệu cụ thể nhưng được dự đoán là nơi tập trung lượng lớn thủy hải sản, cần phải có hướng khai thác và phát triển lâu dài. Hầu hết các loài thủy sản thường đuuợc tập trung ở các rạn san hô và thảm cỏ biển, đây cũng là những hệ sinh thái nhạy cảm, được xem là hệ sinh thái chỉ thị. Thủy hải sản ở đây nếu bị khai thác quá mức có thể Tiểu luận: Hệ sinh thái rạn san hô GVHD: PGS.TS Trịnh Xuân Ngọ vùng biển quần đảo Trường Sa Nhóm 2 - ĐHSH07LT Trang 2 dẫn đến suy kiệt, đồng thời tác động đến môi trường biển dẫn đến ảnh hưởng đời sống sinh hoạt của con người. Để hiểu rõ hơn về hệ sinh thái rạn san hô vùng biển quần đảo Trường Sa nói riêng và và hệ sinh thái rạn san hô trên thế giới nói chúng. Nhóm chúng em xin thực hiện bài báo cáo "Hệ sinh thái rạn san hô vùng biển quần đảo Trƣờng Sa - Việt Nam". Đại dương là một thế giới mênh mông và còn nhiều điều bí ẩn, ngay cả một hệ sinh thái rạn san hô nhỏ tồn tại trong đại dương vẫn còn nhiều điều mà con người cần phải tìm hiểu. Việc thiếu sót là điều khó có thể tránh khỏi, mong thầy và các bạn đóng góp giúp bài báo cáo hoàn thiện hơn

NỘI DUNG

San hô và rạn san hô

San hô, thuộc lớp San hô (Anthozoa), là những sinh vật biển dạng polip nhỏ giống hải quỳ, thường sống thành quần thể đông đảo với các cá thể giống hệt nhau Những cá thể này tiết ra cacbonat canxi để hình thành bộ xương cứng, từ đó xây dựng nên các rạn san hô tại các vùng biển nhiệt đới.

Mặc dù một đầu san hô có vẻ như là một cơ thể sống duy nhất, thực tế nó là tập hợp của nhiều cá thể polip giống hệt nhau về di truyền Các polip này là sinh vật đa bào, chúng chủ yếu ăn các sinh vật nhỏ hơn, bao gồm sinh vật phù du và cá nhỏ.

Hình : Giải phẫu một polip san hô

Polip thường có đường kính vài milimet, được cấu tạo từ lớp biểu mô bên ngoài và lớp mô bên trong giống như sứa, gọi là ngoại chất Chúng có hình dạng đối xứng trục với các xúc tu xung quanh miệng, là cửa duy nhất dẫn vào xoang vị (hay dạ dày), nơi thức ăn và bã thải đều đi qua.

Dạ dài của polip được đóng kín tại đáy, nơi mà biểu mô tạo ra một bộ xương ngoài gọi là đĩa nền Bộ xương này hình thành từ một vành hình khuyên chứa canxi, ngày càng dày lên Các cấu trúc này phát triển theo chiều thẳng đứng, tạo thành một ống từ đáy polip, cho phép polip co vào bên trong bộ xương ngoài khi cần trú ẩn.

Polip phát triển thông qua việc hình thành các khoang hình cốc (calices) theo chiều dọc, đôi khi chia thành vách ngăn để tạo nên đĩa nền mới cao hơn Qua nhiều thế hệ, quá trình này hình thành các cấu trúc san hô lớn chứa canxi, dẫn đến sự hình thành các rạn san hô Bộ xương ngoài chứa canxi được hình thành từ việc polip kết lắng aragonit khoáng từ các ion canxi trong nước biển Tốc độ kết lắng, tùy thuộc vào loài và điều kiện môi trường, có thể đạt tới 10 g/m² polip/ngày, với mức độ ánh sáng ảnh hưởng lớn đến quá trình này, khi sản lượng ban đêm thấp hơn 90% so với giữa trưa.

Các xúc tu của polip sử dụng tế bào châm gọi là nematocyst để bắt và làm tê liệt con mồi như sinh vật phù du Khi có tiếp xúc, nematocyst phản ứng nhanh chóng bằng cách tiêm chất độc vào con mồi Mặc dù chất độc thường yếu, nhưng ở san hô lửa, nó có thể gây tổn thương cho con người Ngoài polip, các loài sứa và hải quỳ cũng sở hữu nematocyst Chất độc tiêm vào con mồi có tác dụng làm tê liệt hoặc giết chết con mồi, sau đó các xúc tu kéo con mồi vào dạ dày của polip thông qua một dải biểu mô co dãn gọi là hầu.

Các polip san hô kết nối qua hệ thống kênh hô hấp và tiêu hóa, cho phép chia sẻ dinh dưỡng và sinh vật cộng sinh Đối với san hô mềm, các kênh này có đường kính từ 50-500 μm, hỗ trợ quá trình trao đổi chất và vận chuyển tế bào Nhiều loài san hô, cùng với các nhóm Cnidaria như hải quỳ, hình thành quan hệ cộng sinh với tảo vàng đơn bào thuộc chi Symbiodinium Một polip thường sống cùng một loại tảo cụ thể, giúp cung cấp năng lượng thông qua quang hợp và hỗ trợ quá trình canxi hóa Tảo hưởng lợi từ môi trường an toàn và các chất thải của polip, do đó san hô chủ yếu phát triển ở vùng nước nông, nơi có ánh sáng mặt trời, thường không sâu quá 60 m.

San hô có thể đóng góp lớn cho cấu trúc vật lý của các rạn san hô phát triển ở những vùng biển nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới

Hình : Một rạn san hô điển hình

Rạn san hô, hay còn gọi là ám tiêu san hô, là cấu trúc aragonit được hình thành từ các sinh vật sống, thường xuất hiện ở vùng biển nhiệt đới nông với mức dinh dưỡng thấp Nước thải từ nông nghiệp có thể gây hại cho rạn san hô do sự phát triển nhanh của tảo Các loài san hô đá chiếm ưu thế, tạo ra bộ xương ngoài bằng cacbonat canxi, góp phần hình thành cấu trúc đá vôi lớn, cung cấp nơi trú ẩn cho nhiều loài động thực vật khác Mặc dù san hô có mặt ở cả vùng biển nhiệt đới và ôn đới, nhưng rạn san hô chỉ hình thành ở khu vực hai bên đường xích đạo, từ vĩ độ 30° Bắc đến 30° Nam, và thường không sống ở độ sâu quá 30 m Nhiệt độ nước dưới 18°C được cho là không thích hợp cho sự sống của san hô.

Rạn san hô được hình thành từ các thế hệ san hô và sinh vật khác, với cấu trúc cơ thể chứa cacbonat canxi Khi san hô phát triển, nó tạo ra một lớp xương bao quanh mỗi polip mới Các loài sinh vật như cá vẹt, nhím biển và hải miên, cùng với các lực tự nhiên, làm vỡ các bộ xương san hô thành mảnh nhỏ, lấp đầy các khoảng trống trong cấu trúc rạn Ngoài ra, nhiều sinh vật khác trong cộng đồng rạn cũng đóng góp cacbonat canxi của mình Tảo san hô, bao gồm tảo zooxanthelat và tảo sợi, là yếu tố quan trọng trong việc xây dựng cấu trúc rạn, đặc biệt ở những khu vực chịu sóng lớn, bằng cách tiết ra đá vôi và tạo lớp phủ trên bề mặt rạn, từ đó tăng cường tính đồng nhất của cấu trúc.

1.2.1 Sự hình thành rạn san hô

1.2.1.2 Sự hình thành và phát triển rạn san hô vùng biển quần đảo Trường Sa Nhóm 2 - ĐHSH07LT Như đã nói, rạn san hô là các thành phần tạo cacbonat canxi có nguồn gốc sinh vật, trong đó san hô tạo rạn đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển của rạn san hô, sau đó đến rong vôi và các sinh vật khác

Rạn san hô bao gồm hai phần chính: khung cứng và không gian lấp đầy Khung cứng là cấu trúc xương của quần thể san hô, được kết nối bởi rong biển, trong khi không gian lấp đầy chứa các lỗ hổng và khoảng trống trong khung cứng, hình thành từ khi rạn mới phát triển Vật liệu lấp đầy những khoảng trống này chủ yếu là sản phẩm vụn nát từ quần thể san hô bị phân hủy và các sinh vật khác.

Sinh vật tạo rạn là những loài tham gia vào quá trình hình thành rạn san hô, đóng góp vật liệu mà chúng tạo ra để xây dựng và phát triển rạn ở các mức độ khác nhau.

Nghiên cứu về thành phần vật chất và cấu trúc của rạn san hô chỉ ra rằng có nhiều nhóm sinh vật, bao gồm cả động vật và thực vật, tham gia vào quá trình hình thành rạn san hô Tuy nhiên, phần lớn vật liệu cấu thành các rạn san hô chủ yếu là di tích từ nhóm san hô tạo rạn.

San hô tạo rạn nổi bật với ưu thế là “sinh vật – nhà máy” sản xuất vật liệu cacbonat nhanh chóng, dồi dào và tiết kiệm Điều này được thúc đẩy bởi sự hiện diện của tảo cộng sinh Zooxanthellae trong tế bào của chúng, giúp tăng cường quá trình quang hợp Nhờ đó, năng suất sinh học sơ cấp của san hô tạo rạn cao hơn nhiều so với các sinh vật khác, khẳng định vai trò quan trọng của chúng trong hệ sinh thái biển.

Quá trình hình thành và phát triển của rạn san hô bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khác nhau Những yếu tố này quyết định phương thức và hình thức phát triển của rạn san hô.

Hệ sinh thái rạn san hô quần đảo Trường Sa

2.1 Điều kiện sinh thái hình thành và phát triển

Quần đảo Trường Sa bao gồm hơn 100 đảo lớn, nhỏ và đảo đá ngầm, là một vùng biển nổi bật với sự hình thành của các rạn san hô Khu vực này sở hữu thành phần loài san hô đa dạng, với hơn 329 loài thuộc 69 giống và 15 họ đã được phát hiện, góp phần tạo nên hệ sinh thái phong phú của biển Trường Sa.

Thành phần khu hệ rạn san hô tại các đảo trong quần đảo có sự tương đồng rõ rệt với các vùng biển lân cận như Philippines, Indonesia và Australia.

Các rạn san hô ở vùng biển Trường Sa thuộc 2 kiểu chính: rạn viền bờ và rạn vòng (kín và hở), nhưng cơ bản giống nhau về mặt cấu trúc

Bảng 1 Đặc điểm cấu trúc rạn san hô Trường Sa- kiểu rạn viền bờ Đới cấu tạo Đặc điểm điều kiện tự nhiên

San hô tạo rạn Các sinh vật tạo rạn khác Đới khe rãnh ven bờ

Rộng 20-50m, sâu trên dưới 1m, dòng chảy tương đối mạnh, bề mặt đáy không bằng phẳng, mấp mô

San hô nghèo nàn, độ phủ 1-3%, phổ biến các giống: Porites, motipora, ngoài ra còn có Favia, Favites…

Rong vôi phát triển, các sinh vật đáy Đới mặt bằng rạn

Sâu trên dưới 0m hải đồ, rộng vài chục đến vài trăm mét, nền đáy cứng, mấp mô, động lực môi trường mạnh, ngập nước và phơi

Các tập đoàn san hô nhỏ, độ phong phú tăng dần theo hướng ra biển khơi,độ phủ 5-50% phổ biến là các giống

Rong vôi ưu thế, chiếm 80-90% bề mặt đáy, dày 2- 3cm; các sinh khô theo chu kỳ thủy triều Porites, Motipora,

Favia, Favites vật đáy Đới mào rạn

Hẹp, cao 0.5m so với mặt bằng rạn, cấu tạo từ khung xương san hô chết, cứng rắn, động lực môi trường mạnh

San hô nghèo nàn, ưu thế dạng cành ngắn, mập, sống thành tập đoàn nhỏ

Rong vôi ưu thế Đới sườn rạn Độ dốc khác nhau, nền đáy cứng, động lực môi trường giảm dần theo chiều sâu đáy biển

San hô phong phú, đa dạng, độ phủ tới 70-80% và cao hơn, tập đoàn lớn giảm dần theo độ sâu

Rất phong phú và đa dạng các nhóm sinh vật khác nhau Đới chân sườn rạn

Trầm tích cát sạn lẫn vụn xác sinh vật

Chưa nghiên cứu Chưa nghiên cứu

Bảng 2 Đặc điểm cấu trúc rạn san hô Trường Sa- kiểu rạn vòng Đới cấu tạo Đặc điểm điều kiện tự nhiên

San hô tạo rạn Các sinh vật tạo rạn khác Đới mặt bằng rạn

Nền đáy cứng, mấp mô, ngập nước triều lên và chỉ

San hô phát triển phong phú gồm các đại diện

Rong vôi phát triển trên các vùng biển quần đảo Trường Sa Nhóm 2 - ĐHSH07LT

Pocillopora chết, các sinh vật đáy phát triển phong phú Đới mào rạn

Hẹp, cao 0.3- 0.5m so với mặt bằng rạn, cấu tạo từ khung xương san hô chết, cứng rắn

San hô nghèo nàn, ưu thế dạng cành ngắn, mập, dạng ngón, dạng phủ như các giống

Các sinh vật đáy sống bám cố định trên nền cứng (sò, ốc, tôm, cua ) Đới sườn rạn Độ dốc khác nhau, phần trên thoải hơn phần dưới

Từ 10-20m, san hô phong phú, đa dạng, độ phủ có chỗ tới 100% gồm các dạng cành, dạng cây, dạng lá, dạng phễu như Acropora, Favia, Pavona…

Dưới 20m, san hô trở nên nghèo nàn và thưa thớt

Đới lòng hồ có sự phong phú và đa dạng về các nhóm sinh vật khác nhau Hồ có độ sâu lên tới 40m và bề mặt không bằng phẳng, với nhiều mấp mô cùng trầm tích và mảnh vụn tích tụ.

San hô dạng cành dài và mảnh phát triển chiếm ưu thế: Acropora palmata, Montipora digitata, Hydrnophora exesa

Các sinh vật khác phát triển phong phú và đa dạng Đới chân sườn rạn

Trầm tích cát sạn lẫn vụn có bề dày khá lớn, xác sinh vật

Chưa nghiên cứu Sinh vật nghèo nàn, đơn điệu

2.3 Quần xã sinh vật sống trên rạn san hô quần đảo Trường Sa

Bài viết đề cập đến sự đa dạng của thực vật thủy sinh với tổng cộng 186 loài, phân chia thành 33 họ thuộc 4 ngành chính: Ngành rong đỏ Rhodophyta với 103 loài, ngành rong nâu Phaeophyta có 20 loài, ngành rong lục Chlorophyta với 54 loài, và ngành rong lam Cyanophyta cũng có 54 loài.

2.3.2 Sự đa dạng của động vật đáy

Có 5 nhóm chính được nghiên cứu là ngành Ruột khoang (trừ san hô cứng), lớp giun nhiều tơ, lớp Giáp xác, nhàng Thân mềm và ngành Da gai Đây là các nhóm động vật cỡ lớn quan trọng nhất trong thành phần quần xà rạn san hô Trường Sa Ở đây đã thống kê được 554 loài động vật đáy thuộc 192 giống, 106 họ Trong số 5 nhóm trên Thân mềm có số loài đông nhất với 276 loài chiếm 49.5% tổng số loài chung, đúng thứ

2 là Giáp xác (83 loài, 15.0%) sau đó đến Giun nhiều tơ (112 loài, 20.2%), ít nhất là nhóm Ruột khoang (26 loài, 14.7%) vùng biển quần đảo Trường Sa Nhóm 2 - ĐHSH07LT

2.3.3 Sự đa dạng của cá biển ở quần đảo Trường Sa

Cá là nhóm động vật đa dạng và phân bố rộng rãi, nổi bật với khả năng bơi lội xuất sắc Trong các khu vực không quá rộng và có cùng loại sinh cảnh như san hô, sự khác biệt về thành phần loài cá là không nhiều.

Theo kết quả thu nhận được, khu hệ cá san hô vùng quần đảo Trường Sa có khoảng 524 loài, thuộc 138 giống, 48 họ

Qua thống kê cho thấy các họ cá san hô điển hình có số loài lớn nhất: họ cá thia

Họ cá Pomacentridae có 81 loài, trong khi họ cá bàng chày (Labridae) có 63 loài Họ cá bướm (Chaetodontidae) sở hữu 35 loài, và họ cá mó (Scaridae) có 33 loài Tiếp theo là họ cá đuôi gai (Acanthuridae) với 26 loài, cùng với họ cá hồng (Lutianidae) có 25 loài.

 Thành phần cá sống trong xuần xã san hô:

Thành phần cá vãng lai: bao gồm các loài cá phân bố rộng trong biển Đông và

Thái Bình Dương là nơi sinh sống của nhiều loài cá, bao gồm cá mập (Carcharhinidae), cá chuồn (Excoetidae), cá thu ngừ (Scombridae) và các loài cá đáy như cá đuối (Dasyatidae), cá khế (Carangidae), cá phèn Những loài cá này thường di chuyển đến rạn san hô để đẻ trứng, kiếm ăn hoặc tìm nơi trú ẩn khỏi kẻ thù trong những khoảng thời gian nhất định.

Cá san hô bao gồm các thành phần cơ bản, chiếm hơn 94% tổng số loài trong hệ sinh thái, với mật độ cá thể đồng nhất Trong đó, họ cá thia là một trong những họ đặc trưng.

Các loài cá như cá bàng chày (Labridae), cá bướm (Chaetodontidae), cá mó (Scaridae), cá đuôi gai (Acanthuridae) và cá sơn đá (Holocentridae) thuộc họ Pomacentridae, đều sống ổn định trong hệ sinh thái san hô và không di cư xa khỏi vùng phân bố của chúng.

Sự đa dạng sinh cảnh trong hệ sinh thái san hô được xác định bởi sự phong phú về nơi cư trú, các quần xã và các quá trình sinh thái Quần đảo Trường Sa, với địa hình phức tạp, đã tạo ra nhiều môi trường sống cho các loài khác nhau Tại đây, bên cạnh các loài cá vãng lai, còn có các tập đoàn cá sống ổn định, với những phương thức sống phù hợp với từng nơi cư trú trong hệ sinh thái san hô.

Cá san hô sống chủ yếu trong các quần thể san hô, nơi chúng có thân hình cao, màu sắc sặc sỡ và bơi lội chậm chạp Đặc điểm này giúp chúng ít khi rời khỏi môi trường sống an toàn của san hô.

Sống trong hang hốc, những loài cá này thường rất hiếm gặp và ít khi rời khỏi nơi cư trú của chúng Hầu hết chúng đều thuộc loại cá dữ, điển hình là các loài cá lịch và cá mú.

Cá sống trong các thảm rong, cỏ biển: sống lượn lờ, chập chờn, khi có nguy hiểm lẫn ngay vào các bụi rong, cỏ khó phát hiện

Cá sống cộng sinh là những động vật có xương sống bơi lội trong nước, nhưng chúng có mối quan hệ cộng sinh đặc biệt với các động vật đáy khác Một ví dụ điển hình là loài cá thia khoang cổ, thường sống cộng sinh với hải quỳ, tạo nên sự tương hỗ trong môi trường sống của chúng.

Rạn san hô đa dạng và tuyệt mỹ không chỉ hình thành và bảo vệ hàng ngàn hòn đảo mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc bảo tồn đất đai và sự sống của con người tại nhiều vùng ven biển và đảo lớn Giá trị của rạn san hô được đánh giá khác nhau giữa các quốc gia và cộng đồng do sự khác biệt về kinh tế, xã hội và văn hóa Đối với các cộng đồng phát triển, rạn san hô được xem như tài nguyên xã hội và văn hóa, trong khi giá trị kinh tế chủ yếu nằm ở lĩnh vực giải trí và du lịch Nhiều cộng đồng đã hỗ trợ các chương trình nghiên cứu khoa học để hiểu rõ hơn về chức năng của hệ rạn san hô và mối liên hệ của chúng với môi trường biển và lục địa.

2.4.1 Đối với các loài sinh vật rạn san hô

Tình hình khai thác

3.1 Hiện trạng sử dụng và khai thác

Quần đảo Trường Sa, nằm trong Biển Đông, được bao quanh bởi các vùng đánh cá phong phú và giàu tài nguyên dầu mỏ cũng như khí đốt Với nguồn lợi dồi dào này, Trường Sa đã trở thành một địa điểm khai thác lý tưởng cho con người.

Các đảo nổi lớn như Trường Sa lớn, Nam Yết và Song Tử Tây thường xuyên có người sinh sống và khai thác Trên các đảo này, đất đai đã được quy hoạch để xây dựng nhà ở và các công trình quân sự, cùng với hệ thống giao thông, hào, sân vận động và vườn rau cung cấp thực phẩm xanh cho cư dân Hiện nay, hầu hết các vùng đất trên các đảo đã được khai thác triệt để.

Mật độ dân số trên các đảo cao, nhưng nguồn thực phẩm lại hạn chế, chủ yếu phụ thuộc vào việc cung cấp từ đất liền Việc khai thác sinh vật biển và ven đảo diễn ra liên tục, với nhiều loài như trai, ốc, san hô trúc bị lấy đi để phục vụ cho ngành mỹ nghệ Đặc biệt, một số loài động vật quý hiếm như đồi mồi và vích đang bị khai thác quá mức, dẫn đến nguy cơ tuyệt chủng Hành vi khai thác không bền vững, bao gồm việc sử dụng thuốc nổ và mìn, đã gây ra những tác động nghiêm trọng đến hệ sinh thái, làm giảm đa dạng sinh học và phá hủy môi trường sống tự nhiên Tình trạng xói mòn và lũ lụt ngày càng gia tăng liên quan trực tiếp đến việc khai thác tài nguyên một cách vô độ của con người.

Gần đây, một số người đã tiến hành khai thác xa bờ và săn bắt cá mập một cách không hợp lý, cùng với việc khai thác các loài thủy hải sản khác như hải sâm và bào ngư Hành động này gây hại nghiêm trọng, dẫn đến cạn kiệt tài nguyên và có nguy cơ tuyệt chủng cho một số loài Hậu quả là hệ sinh thái san hô bị suy thoái nặng nề, gây mất cân bằng trong tự nhiên và làm mất đi các nguồn lợi quý giá mà hệ sinh thái này mang lại.

Tình hình khai thác hiện nay của quần đảo Trường Sa được thể hiện qua các mặt:

Nông nghiệp ở vùng ven biển quần đảo Trường Sa đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp lương thực cho cộng đồng địa phương và tạo nguyên vật liệu cho ngành công nghiệp Tuy nhiên, hoạt động này cũng chiếm dụng diện tích đất lớn và có thể ảnh hưởng đến chất lượng môi trường ven biển Điều kiện khí hậu và đất đai ở khu vực này rất thuận lợi cho phát triển nông nghiệp, góp phần cung cấp thực phẩm cho cư dân ven bờ.

Nông nghiệp vùng ven bờ mang lại nhiều lợi ích từ điều kiện môi trường thuận lợi, đất đai màu mỡ và giao thông đường biển, cũng như sự phát triển của công nghiệp và du lịch Tuy nhiên, hoạt động nông nghiệp ở đây cũng phải đối mặt với các thách thức như nhiễm mặn đất và nước, chất lượng nước kém do hoạt động thượng lưu, và sự cạnh tranh gay gắt về đất đai Hơn nữa, nông nghiệp cũng có tác động đến các lĩnh vực khác, tạo ra những tương tác tích cực lẫn tiêu cực, chủ yếu xoay quanh vấn đề cạnh tranh về đất, nước, nguồn vốn và lao động.

Nông nghiệp có tác động tiêu cực đến nhiều lĩnh vực khác, bao gồm việc ô nhiễm nguồn nước, ảnh hưởng trực tiếp đến nghề cá do hóa chất nông nghiệp, và làm tăng độ đục, gây hại cho rạn san hô cũng như các cảng do xói mòn đất Hậu quả của những tác động này có thể dẫn đến mất vùng cư trú của sinh vật và suy giảm đa dạng sinh học ven bờ.

Du lịch không chỉ là một ngành kinh doanh mang lại giá trị kinh tế mà còn phản ánh những giá trị lịch sử và văn hóa của từng vùng miền Đặc biệt, du lịch tại các vùng ven biển đang trở thành nguồn thu nhập quan trọng cho các quốc gia ven bờ Tại đây, du khách có thể chiêm ngưỡng cảnh đẹp của các cửa sông, bãi biển tuyệt vời, và những hòn đảo đá với hang động kỳ thú cùng bờ cát mịn Tiềm năng du lịch tại các khu vực này được phát triển mạnh mẽ với các hoạt động nghỉ dưỡng, điều dưỡng và dịch vụ giải trí như bơi thuyền, lặn, lướt sóng, câu cá, tắm biển và ngắm san hô.

Mặc dù du lịch giải trí mang lại nhiều lợi ích, nhưng nó cũng gây ra tác động tiêu cực đến môi trường ven bờ Các hoạt động của con người trong lĩnh vực này đã góp phần làm suy thoái môi trường ven biển Những tác động tiêu cực này cần được nhận diện và giải quyết để bảo vệ hệ sinh thái ven bờ.

 Khai thác quá mức và không hợp lý hải sản phục vụ nhu cầu thưởng thức đặc sản biển cho du khách

 Hoạt động tham quan, du lịch cũng làm ảnh hưởng đến số lượng, nơi cư trú và sinh sản của một số loài

Môi trường ven bờ đang bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi ô nhiễm từ đất liền, đặc biệt là chất thải sinh hoạt của du khách Những chất thải này có nguy cơ làm suy giảm chất lượng nước và ảnh hưởng đến các hệ sinh thái ven bờ.

Khách du lịch và các phương tiện vận chuyển có thể mang theo những loài sinh vật ngoại lai, gây ảnh hưởng đến sự phát triển của hệ sinh thái ven bờ.

Tác động của du lịch ven bờ có thể gây ra thảm họa cho môi trường và cộng đồng địa phương, do đó, cần phát triển du lịch dựa trên nguyên tắc bền vững Trước khi triển khai, việc đánh giá và phân loại các khu vực ven bờ cùng với tính nhạy cảm về sinh thái, xã hội và văn hóa là rất quan trọng Cần thiết lập các kế hoạch và mục tiêu quản lý cho từng vùng, đặc biệt là những khu vực nhạy cảm về môi trường và văn hóa, cần được bảo vệ thường xuyên và không nên phát triển.

Nuôi trồng thủy hải sản

Nuôi trồng thủy sản đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp protein và giảm nghèo cho cộng đồng ven biển Tuy nhiên, hoạt động này cũng gây ra nhiều tác động tiêu cực đến môi trường Một trong những vấn đề chính là sự cạnh tranh về không gian với các lĩnh vực khác như du lịch, giải trí và nông nghiệp Để phát triển bền vững, nuôi trồng thủy sản cần đảm bảo nguồn nước sạch, tránh sự xâm nhập của sinh vật lạ, và cần đầu tư vào cơ sở hạ tầng như nhà ở, kho bãi và hệ thống giao thông.

Khai thác khoáng sản và dầu mỏ

Khoáng sản là vật liệu tự nhiên từ vỏ trái đất, có thể được khai thác và sử dụng để đáp ứng nhu cầu sống của con người Sự phát triển của văn minh nhân loại luôn gắn liền với khả năng sử dụng nguyên liệu khoáng sản, thể hiện rõ qua các thời kỳ như đồ đá cũ, đồ đá mới, đồ đồng và đồ sắt Trong thời đại hiện nay, với sự tiến bộ vượt bậc của khoa học kỹ thuật, khả năng khai thác khoáng sản ngày càng được nâng cao.

Khai thác tài nguyên khoáng sản đã góp phần quan trọng vào sự phát triển của các nền văn minh và mang lại thịnh vượng cho nhiều khu vực Tuy nhiên, hoạt động này cũng gây ra những vấn đề môi trường nghiêm trọng, ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển bền vững của các ngành kinh tế khác.

Ngày đăng: 30/11/2021, 11:24

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Hình: Nguồn thủy hải sản - Hệ sinh thái rạn san hô vùng biển quần đảo trường sa việt nam
nh Nguồn thủy hải sản (Trang 5)
Hình: Giải phẫu một polip san hô. - Hệ sinh thái rạn san hô vùng biển quần đảo trường sa việt nam
nh Giải phẫu một polip san hô (Trang 7)
Hình: Một rạn san hô điển hình. - Hệ sinh thái rạn san hô vùng biển quần đảo trường sa việt nam
nh Một rạn san hô điển hình (Trang 9)
Hình: Bản đồ phân bố các rạn san hô trên thế giới. - Hệ sinh thái rạn san hô vùng biển quần đảo trường sa việt nam
nh Bản đồ phân bố các rạn san hô trên thế giới (Trang 14)
Bảng 1. Đặc điểm cấu trúc rạn san hô Trƣờng Sa- kiểu rạn viền bờ - Hệ sinh thái rạn san hô vùng biển quần đảo trường sa việt nam
Bảng 1. Đặc điểm cấu trúc rạn san hô Trƣờng Sa- kiểu rạn viền bờ (Trang 17)
Bảng 2. Đặc điểm cấu trúc rạn san hô Trƣờng Sa- kiểu rạn vòng - Hệ sinh thái rạn san hô vùng biển quần đảo trường sa việt nam
Bảng 2. Đặc điểm cấu trúc rạn san hô Trƣờng Sa- kiểu rạn vòng (Trang 18)

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w