GIỚI THIỆU
LÝ DO LỰA CHỌN NGHIÊN CỨU
Kế hoạch thuế (KHT) là một tập hợp các hoạt động được thiết lập nhằm khai thác hợp pháp các chính sách thuế, tạo ra lợi ích thuế cho công ty Mục tiêu chính của KHT là tối ưu hóa số thuế phải nộp thông qua các biện pháp giảm, giãn, miễn và hoãn thuế Việc thực hiện KHT không chỉ gia tăng lợi ích cho công ty mà còn có tác động tích cực đến giá trị thị trường và giá trị tài sản của chủ sở hữu.
Trong hoạch định tài chính, KHT đóng vai trò quan trọng và không thể thiếu, bởi chi phí thuế ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của công ty mà không có đối giá trực tiếp Theo lý thuyết nhà quản lý, các nhà quản trị tài chính nỗ lực tiết kiệm chi phí để tối ưu hóa lợi nhuận, từ đó gia tăng giá trị doanh nghiệp (GTDN).
Nhiều nghiên cứu thực nghiệm đã chỉ ra rằng KHT có ảnh hưởng đến GTDN, nhưng kết quả không đồng nhất Cụ thể, KHT có thể ảnh hưởng thuận chiều, ngược chiều hoặc không ảnh hưởng đến GTDN Điều này cho thấy rằng tác động của KHT đến GTDN phụ thuộc vào bối cảnh và đặc điểm quản trị của từng doanh nghiệp.
Nghiên cứu của Dharmapala (2009) là nghiên cứu đầu tiên đề xuất đánh giá ảnh hưởng của yếu tố quản trị, đặc biệt là sở hữu của nhà đầu tư tổ chức, lên mối quan hệ giữa tránh thuế và giá trị doanh nghiệp (GTDN) Tuy nhiên, Desai và cộng sự (2009) cùng các nghiên cứu trước đó chỉ dựa vào lý thuyết đại diện truyền thống, tập trung vào mâu thuẫn lợi ích giữa chủ sở hữu và nhà quản trị, mà chưa xem xét mối quan hệ giữa cổ đông lớn và cổ đông nhỏ, cũng như các mâu thuẫn có thể xảy ra giữa các bên này.
2 chính cổ đông chi phối Nhà nước trong đánh đổi giữa mục đích thu thuế và mục đích gia tăng giá trị cổ phiếu
Tại Việt Nam, Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong các doanh nghiệp niêm yết với tư cách là cổ đông và là người ban hành chính sách thuế Việc thực hiện đồng thời hai chức năng này đặt ra câu hỏi về ảnh hưởng của Nhà nước đối với mối quan hệ giữa kiểm soát tài chính (KHT) và giá trị doanh nghiệp niêm yết (GTDN) Đây là một chủ đề nghiên cứu chưa được khám phá nhiều trong các nghiên cứu trước, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam.
Luận án này sẽ tập trung vào việc nghiên cứu cơ chế ảnh hưởng của KHT đến GTDN phi tài chính niêm yết tại Việt Nam Câu hỏi chính đặt ra là liệu KHT có thực sự tác động đến GTDN trong bối cảnh Việt Nam hay không Đồng thời, nghiên cứu cũng sẽ xem xét vai trò điều tiết của sở hữu Nhà nước đối với mối quan hệ giữa KHT và GTDN Cuối cùng, luận án sẽ phân tích xem mức độ sở hữu Nhà nước có phải là yếu tố bổ sung quan trọng trong việc làm rõ ảnh hưởng của KHT đến GTDN hay không.
Luận án mở rộng nghiên cứu về ảnh hưởng của kế hoạch thuế đến giá trị doanh nghiệp, dựa trên lý thuyết đại diện hiện đại và các lý thuyết liên quan khác Lý thuyết đại diện hiện đại chỉ ra mâu thuẫn giữa mục tiêu thu thuế và mục tiêu tăng giá tài sản của cổ đông nhà nước Đề tài "Ảnh hưởng của kế hoạch thuế đến giá trị doanh nghiệp: Trường hợp các doanh nghiệp phi tài chính niêm yết tại Việt Nam" không chỉ mang ý nghĩa khoa học mà còn có giá trị thực tiễn và đóng góp mới cho lĩnh vực này.
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là đề xuất khung hợp tác (KHT) dựa trên việc đánh giá tác động của KHT đến giá trị doanh nghiệp (GTDN) trong bối cảnh các doanh nghiệp phi tài chính niêm yết tại Việt Nam.
Căn cứ mục tiêu nghiên cứu tổng quát nói trên, đề tài xác định các mục tiêu nghiên cứu cụ thể như sau:
- Đánh giá ảnh hưởng của KHT đến GTDN đối với trường hợp các doanh nghiệp phi tài chính niêm yết ở Việt Nam
Đánh giá vai trò của sở hữu Nhà nước trong việc điều tiết mối quan hệ giữa Khả năng tài chính (KHT) và Giá trị doanh nghiệp (GTDN) tại các doanh nghiệp phi tài chính niêm yết ở Việt Nam cho thấy sự ảnh hưởng mạnh mẽ của Nhà nước đối với hiệu quả hoạt động và sự phát triển bền vững của các doanh nghiệp này Sở hữu Nhà nước không chỉ tác động đến quyết định đầu tư mà còn định hình chiến lược quản lý tài chính, góp phần nâng cao giá trị doanh nghiệp trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt Việc phân tích mối liên hệ này là cần thiết để hiểu rõ hơn về vai trò của chính sách sở hữu Nhà nước trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế tại Việt Nam.
Đề xuất và khuyến nghị về Kế hoạch Tài chính (KHT) cần phù hợp với Giá trị Doanh nghiệp (GTDN) của các doanh nghiệp phi tài chính niêm yết tại Việt Nam, đặc biệt khi xem xét sự ảnh hưởng của sở hữu Nhà nước Việc hoạch định tài chính hiệu quả sẽ giúp tối ưu hóa giá trị doanh nghiệp, đồng thời tạo ra lợi ích bền vững cho các nhà đầu tư và cổ đông.
CÂU HỎI NGHIÊN CỨU
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu nêu trên, đề tài nghiên cứu của Luận án sẽ lần lược trả lời các câu hỏi như sau:
Thứ nhất , với trường hợp các doanh nghiệp phi tài chính niêm yết tại Việt
Nam, KHT có ảnh hưởng đến GTDN hay không? Nếu có, KHT ảnh hưởng đến GTDN như thế nào?
Sở hữu Nhà nước có ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp (GTDN) của các doanh nghiệp phi tài chính niêm yết tại Việt Nam thông qua các cơ chế điều tiết Quan hệ điều tiết này thể hiện sự tác động của chính sách sở hữu nhà nước đối với hoạt động và hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp, từ đó ảnh hưởng đến giá trị thị trường của họ.
Thứ ba, KHT của các doanh nghiệp có điều tiết bởi sở hữu nhà nước hay
KHT của các doanh nghiệp không bị điều tiết bởi sở hữu nhà nước có thể phù hợp hơn với hoạch định giá trị doanh nghiệp (GTDN) Mức độ sở hữu của nhà nước ảnh hưởng đáng kể đến giá trị tăng thêm được tạo ra từ KHT, vì nó quyết định khả năng linh hoạt và hiệu quả trong quản lý và phát triển doanh nghiệp.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1.4.1 Đối tượng nghiên cứu Đề tài nghiên cứu về ảnh hưởng của KHT đến GTDN đối với các doanh nghiệp phi tài chính
Về thời gian: Đề tài nghiên cứu được thực hiện với dữ liệu thời gian 5 năm, tính từ năm
2015 đến năm 2019, sự lựa chọn này đảm bảo phản ánh chính xác KHT trong dài
Nghiên cứu bắt đầu từ năm 2015 nhằm đảm bảo tính nhất quán trong hệ thống báo cáo tài chính của doanh nghiệp theo Thông tư 200/2014/TT-BTC, thay thế chế độ kế toán doanh nghiệp trước đó (Mafrolla, 2019).
Nghiên cứu này tập trung vào 513 doanh nghiệp phi tài chính niêm yết trên thị trường chứng khoán chính thức tại Việt Nam, loại trừ các doanh nghiệp trong lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán và bảo hiểm Mẫu nghiên cứu được chọn không bao gồm các doanh nghiệp tài chính do sự khác biệt trong hoạt động và hệ thống báo cáo tài chính của họ so với doanh nghiệp phi tài chính.
DỮ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.5.1 Dữ liệu Đề tài chủ yếu được thực hiện trên cơ sở dữ liệu thứ cấp được thu thập từ báo cáo tài chính đã kiểm toán hàng năm của các doanh nghiệp và dữ liệu thống kê về sở hữu Nhà nước tại các doanh nghiệp thông qua hệ thống dữ liệu FiinPro được cung cấp bởi Công ty Cổ phần FiinGroup
Luận án áp dụng phương pháp định tính kết hợp với phương pháp định lượng nhằm giải quyết câu hỏi nghiên cứu và đạt được mục tiêu nghiên cứu liên quan đến tác động của KHT đến GTDN (Creswell, 2018).
Phương pháp nghiên cứu định tính được áp dụng qua các bước sau: (i) Tổng hợp và phân tích dữ liệu để xây dựng khung lý thuyết và xác định khoảng trống nghiên cứu (ii) Thiết kế mô hình nghiên cứu dựa trên lập luận logic (iii) Sử dụng phương pháp chọn mẫu có mục đích để đánh giá ảnh hưởng của KHT đến GTDN và kiểm định mối quan hệ giữa mức độ sở hữu và ảnh hưởng này (iv) Thảo luận kết quả nghiên cứu, rút ra kết luận và phát hiện điểm mới, đồng thời đưa ra các gợi ý và khuyến nghị liên quan.
Phương pháp nghiên cứu định lượng được áp dụng để xác định kết quả nghiên cứu thông qua các kỹ thuật như Thống kê mô tả nhằm nhận diện đặc điểm bộ dữ liệu, Phân tích tương quan để đo lường mối liên hệ giữa các biến, và Phân tích hồi quy dữ liệu bảng để định lượng hóa ảnh hưởng của KHT đến GTDN, cùng với vai trò điều tiết của sở hữu nhà nước đối với GTDN phi tài chính niêm yết tại Việt Nam.
1.6 Ý NGHĨA KHOA HỌC, THỰC TIỄN & ĐÓNG GÓP MỚI
Nghiên cứu này mở ra nhiều vấn đề thú vị về ảnh hưởng của KHT đến GTDN, không chỉ từ góc độ khoa học mà còn từ khía cạnh thực tiễn, đồng thời đóng góp những phát hiện mới cho lĩnh vực nghiên cứu.
Luận án đã đóng góp ba vấn đề chính cho khoa học lên quan đến ảnh hưởng của KHT đến GTDN, cụ thể:
Một là, đóng góp về lý thuyết Đầu tiên Luận án khẳng định khung lý thuyết về KHT cần tổng hợp giữa quan điểm của Scholes & Wofson (1992) và Karayan
Nghiên cứu của & Swenson (2007) nhấn mạnh rằng kế hoạch thuế (KHT) cần bao gồm tất cả các bên liên quan, các loại thuế và chi phí, với mục tiêu tối ưu hóa thuế thông qua mô hình SAVANT, phù hợp với mục tiêu chung của doanh nghiệp Luận án đã kết hợp các lý thuyết đối lập để xây dựng khung lý thuyết về ảnh hưởng của KHT đến giá trị doanh nghiệp (GTDN), xem xét cả trường hợp có và không có sự điều tiết từ sở hữu Nhà nước, cho cả mẫu nghiên cứu chung và mẫu chọn có mục đích Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng lý thuyết đại diện có thể giải thích cả ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của KHT lên GTDN.
Lý thuyết nhà quản lý gợi mở về hướng quản lý phần vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp Nhà nước bền vững hơn
Hai là, đóng góp về phương pháp luận nghiên cứu Kết quả nghiên cứu của
Luận án đạt được giá trị khoa học nhờ vào việc kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu hỗ trợ Trong đó, phân tích dữ liệu hiển thị được sử dụng để xác định rõ ràng bối cảnh nghiên cứu.
Nghiên cứu này tập trung vào việc phân tích ảnh hưởng của kiểm soát nhà nước đến giá trị doanh nghiệp (GTDN) thông qua việc chọn mẫu có mục đích Mục tiêu là tìm kiếm câu trả lời thuyết phục cho đề tài nghiên cứu, từ đó phát hiện những điểm mới cho hướng nghiên cứu tiếp theo Phân tích hồi quy sẽ được sử dụng để lượng hóa các kết quả Luận án cũng chỉ ra rằng thuế suất hiệu dụng kế toán là một thước đo hợp lý để đánh giá tổng thể về kiểm soát nhà nước (KHT), trong khi sở hữu nhà nước phản ánh chất lượng quản trị của các doanh nghiệp niêm yết Hơn nữa, việc sở hữu nhà nước còn thể hiện sự mâu thuẫn về lợi ích và thống nhất mục tiêu giữa các bên liên quan như người đại diện, cổ đông nhà nước và cổ đông khác.
Luận án đã làm rõ ảnh hưởng của sở hữu Nhà nước đến mối quan hệ giữa KHT và GTDN, dựa trên nghiên cứu của Wilde & Wilson (2018) Cụ thể, sự điều tiết của sở hữu Nhà nước với mức kiểm soát cao sẽ gia tăng sự tương tác giữa KHT và GTDN Trong bối cảnh Việt Nam, sở hữu Nhà nước không chỉ phản ánh vai trò của người đại diện mà còn liên quan đến mục tiêu của Nhà nước tại các doanh nghiệp cổ phần và lợi thế chính trị của các doanh nghiệp phi tài chính niêm yết có sự tham gia của Nhà nước.
Kết quả nghiên cứu từ Luận án chỉ ra rằng nhà đầu tư cần chú ý đến tác động ngược chiều của ETR đối với GTDN Cổ phiếu của doanh nghiệp nhà nước có kiểm soát có khả năng tăng giá trước các đợt thoái vốn, nhưng việc hy sinh mục tiêu thu thuế có thể dẫn đến rủi ro cao hơn cho doanh nghiệp và ảnh hưởng lâu dài đến hoạt động của họ (Nguyen & Nguyen, 2020) Đối với nhà quản trị, Luận án cung cấp bằng chứng thực nghiệm về lợi ích của việc đầu tư vào KHT, đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tối ưu hóa thuế theo khung SAVANT của Karayan & Swenson (2007).
Luận án nghiên cứu về việc gia tăng mức đầu tư vốn, lợi thế quy mô lớn và hạn chế sử dụng nợ vay nhằm tạo lá chắn thuế, cung cấp minh chứng học thuật cho Bộ Tài Chính về tính minh bạch thông tin thuế của doanh nghiệp niêm yết Cơ quan đại diện phần vốn Nhà nước cần trao quyền quản lý để phát huy tính chủ động và sáng tạo trong kinh doanh Đồng thời, luận án cũng mở rộng nghiên cứu về ảnh hưởng của KHT đến GTDN tại Việt Nam, khuyến khích sử dụng chỉ tiêu thuế suất hiệu dụng kế toán để đo lường KHT và sở hữu Nhà nước, phản ánh sự thống nhất và bất đồng lợi ích giữa các bên liên quan Ngoài ra, nghiên cứu cũng chỉ ra những rủi ro tiềm ẩn cho cổ đông từ sự khác biệt giữa thực trạng KHT và chính sách thuế.
Về đóng góp mới của Luân án
Luận án có bốn đóng góp mới:
Luận án đã mở rộng nghiên cứu về ảnh hưởng của KHT đến GTDN thông qua các doanh nghiệp phi tài chính niêm yết tại Việt Nam, nhấn mạnh sự điều tiết của sở hữu Nhà nước Cụ thể, khi sở hữu Nhà nước đạt mức kiểm soát, doanh nghiệp có khả năng khai thác giá trị KHT tốt hơn, trong khi sở hữu dưới mức kiểm soát có thể làm giảm giá trị này Kết quả này trái ngược với nghiên cứu của Bradshaw et al (2019), cho rằng sở hữu Nhà nước ở mức kiểm soát có xu hướng ít né tránh thuế hơn, đặc biệt với doanh nghiệp quản lý bởi chính quyền tỉnh.
Bài viết đề cập đến 8 loại thuế có liên quan đến xung đột lợi ích giữa cổ đông lớn và cổ đông nhỏ Cụ thể, cổ đông Nhà nước, với mục tiêu thu thuế cho ngân sách, có thể ảnh hưởng đến nỗ lực gia tăng giá cổ phiếu của cổ đông nhỏ Sự chênh lệch trong mục tiêu này tạo ra những bất đồng trong việc quản lý và phát triển giá trị cổ phiếu.
Luận án đề xuất mở rộng lý thuyết đại diện hiện đại để giải thích ảnh hưởng của KHT đến GTDN, nhấn mạnh hai mâu thuẫn chính: (i) mâu thuẫn ngắn hạn giữa cổ đông Nhà nước và (ii) mâu thuẫn lợi ích dài hạn giữa cổ đông Nhà nước và các cổ đông khác Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng ảnh hưởng của KHT trong bối cảnh Việt Nam giai đoạn 2015-2019 khác biệt so với các nghiên cứu trước, đặc biệt là nghiên cứu của Bradshaw et al (2019) tại Trung Quốc Doanh nghiệp có sở hữu kiểm soát bởi Nhà nước tại Việt Nam chịu ảnh hưởng lớn từ Nhà nước, trong khi môi trường thể chế yếu có thể tạo ra rủi ro cho cổ đông Những đề xuất này không chỉ mới mẻ mà còn góp phần lấp đầy khoảng trống lý thuyết cho sự hiểu biết về ảnh hưởng của KHT, theo khuyến nghị của Wilde & Wilson.
Nhà nước với vai trò cổ đông chi phối doanh nghiệp có khả năng khai thác tốt hơn các nguồn lực kinh tế để tăng giá trị doanh nghiệp trong ngắn hạn Tuy nhiên, trong dài hạn, Nhà nước cần đảm bảo mục tiêu thu thuế cho ngân sách quốc gia.
KẾT CẤU TỔNG QUÁT CỦA ĐỀ TÀI
Đề tài Luận án nghiên cứu ảnh hưởng của Khoa học và Công nghệ (KHT) đến Giá trị Doanh nghiệp (GTDN) được thực hiện cụ thể cho các doanh nghiệp phi tài chính niêm yết tại Việt Nam Luận án được cấu trúc thành 5 chương, trình bày một cách hệ thống và rõ ràng về các khía cạnh liên quan đến mối quan hệ giữa KHT và GTDN.
Chương 1 của đề tài nhằm giới thiệu tổng quát về nội dung nghiên cứu, bao gồm lý do lựa chọn đề tài, mục tiêu nghiên cứu tổng quát và cụ thể, cùng với các câu hỏi nghiên cứu liên quan Chương này cũng xác định phạm vi và đối tượng nghiên cứu, trình bày khái quát dữ liệu nghiên cứu và phương pháp được sử dụng Bên cạnh đó, ý nghĩa và đóng góp thực tiễn của đề tài cũng được nêu rõ, và cuối cùng là kết cấu khái quát các chương trong đề tài.
Chương 2: Cơ sở lý thuyết và nghiên cứu thực nghiệm
Chương 2 sẽ thực hiện khảo lược các cơ sở lý thuyết và các nghiên cứu thực nghiệm trong và ngoài nước về vấn đề nghiên cứu, qua đó chương này sẽ thảo luận để xác định khoảng trống nghiên cứu và định hướng thiết kế nghiên cứu nhằm trả lời các câu hỏi nghiên cứu của đề tài
Chương 3: Mô hình và phương pháp nghiên cứu
Chương 3 bắt đầu bằng việc xác định mô hình nghiên cứu, giải thích lý do chọn biến và cách đo lường chúng, đồng thời đưa ra các giả thuyết nghiên cứu Tiếp theo, chương này sẽ khái quát và mô tả chi tiết quy trình nghiên cứu, bao gồm mô tả mẫu và dữ liệu nghiên cứu Cuối cùng, chương 3 sẽ trình bày chi tiết về phương pháp nghiên cứu được áp dụng.
Chương 4: Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Chương 4 sẽ trình bày và thảo luận kết quả nghiên cứu theo thống kê mô tả, phân tích tương quan và phân tích hồi quy dữ liệu bảng theo phương pháp ước lượng khác nhau, từ đó kiểm định lựa chọn kết quả hồi quy
Sau khi kiểm định các vi phạm cơ bản của mô hình hồi quy như đa cộng tuyến nghiêm trọng, phương sai sai số thay đổi và tự tương quan, nếu phát hiện bất kỳ vi phạm nào, kết quả hồi quy sẽ được điều chỉnh bằng phương pháp ước lượng phù hợp để khắc phục vấn đề.
Chương 5: Kết luận và gợi ý, khuyến nghị
Chương 5 sẽ đúc rút vấn đề nghiên cứu, qua đó trả lời các câu hỏi nghiên cứu cũng như thực hiện mục tiêu nghiên cứu đã đề ra Và theo đó, chương này sẽ đưa ra các gợi ý và khuyến nghị về KHT cho các doanh nghiệp nhằm đảm bảo gia tăng GTDN, cũng như gia tăng giá trị tài sản của chủ sở hữu dưới góc độ của quản trị tài chính; kết quả nghiên cứu cũng gợi ý thông tin hữu ích cho các nhà đầu tư cũng như chủ thể có liên quan trong việc đưa ra các quyết định Ngoài ra, chương 5 cũng sẽ trình bày những hạn chế của đề tài nghiên cứu và đưa ra gợi ý hướng nghiên cứu tiếp theo
Chương 1 đã chỉ ra tầm quan trọng của KHT đối với GTDN, đặc biệt khi có vai trò điều tiết của sở hữu Nhà nước; đồng thời dựa trên kết quả của các nghiên cứu thực nghiệm trước đây, đề tài đã chỉ ra khả năng giải thích rõ hơn của KHT đối với GTDN khi có sự điều tiết của sở hữu Nhà nước, và đảm bảo đề tài khẳng định được ý nghĩa khoa học và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu
Chương 1 của nghiên cứu xác định 3 mục tiêu cụ thể từ mục tiêu tổng quát, và sẽ giải quyết các mục tiêu này thông qua 3 câu hỏi nghiên cứu tương ứng.
Đề tài nghiên cứu xác định đối tượng và phạm vi nghiên cứu, tập trung vào nội dung trong khoảng thời gian 5 năm từ 2015 đến 2019, với 513 doanh nghiệp phi tài chính niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam Ngoài ra, nghiên cứu còn phân nhóm doanh nghiệp dựa trên tỷ lệ sở hữu vốn của Nhà nước, phân chia thành hai nhóm: nhóm 1 có sở hữu kiểm soát bởi Nhà nước và nhóm 2 không có.
Chương 1 của Luận án đã tổng quan nguồn dữ liệu và phương pháp nghiên cứu, đồng thời khẳng định những đóng góp lý thuyết, thực tiễn và những điểm mới của đề tài Cuối cùng, chương này cũng đã trình bày tóm tắt nội dung chính của 5 chương trong Luận án.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM
TỔNG QUAN VỀ KẾ HOẠCH THUẾ, SỞ HỮU NHÀ NƯỚC VÀ GIÁ TRỊ DOANH NGHIỆP
2.1.1.1 Khái niệm kế hoạch thuế
Trong nghiên cứu “Lý thuyết về kế hoạch thuế”, Hoffman (1961) định nghĩa kế hoạch thuế (KHT) là khả năng tổ chức các hoạt động tài chính nhằm tối thiểu hóa chi phí thuế, tức là sử dụng hợp pháp các quy định pháp luật để đạt được mục tiêu tránh thuế hiệu quả KHT cần tuân thủ 7 nguyên tắc: linh hoạt, phù hợp với từng đối tượng chịu thuế, chuyên nghiệp, liên hoàn giữa các sắc thuế, đảm bảo lợi ích của các bên liên quan, ổn định và hoàn toàn trung thực Nguyên tắc quan trọng nhất theo Hoffman là KHT phải đảm bảo tính trung thực, tránh vi phạm pháp luật và không chấp nhận lợi ích từ việc trốn thuế Rego (2003) và Singhania & Singhania (2019) cũng đưa ra định nghĩa tương tự về KHT.
Theo nghiên cứu năm 2003, việc bổ sung các hoạt động kế hoạch hóa thuế (KHT) có lợi cho nhà đầu tư vì giúp giảm chi phí thuế, từ đó tăng thu nhập sau thuế Bên cạnh đó, Singhania & Singhania (2019) cũng khẳng định rằng các hoạt động KHT hợp pháp có khả năng giảm chi phí thuế được coi là tránh thuế.
Theo Scholes & Wofson (1992), kế hoạch thuế (KHT) là các hoạt động nhằm áp dụng kỹ năng và kiến thức để giảm thiểu gánh nặng thuế, đồng thời tối ưu hóa thu nhập sau thuế Các tác giả nêu rõ ba nguyên tắc chính của KHT, bao gồm: (i) Phản ánh đầy đủ tất cả các bên liên quan, từ cổ đông, nhà quản trị, doanh nghiệp, nhà cung cấp, người lao động cho đến đối thủ cạnh tranh; (ii) Đề cập đến tất cả các khía cạnh liên quan đến quá trình tối ưu hóa thuế.
1 Tax planning: Lập kế hoạch thuế/ kế hoạch thuế
Tất cả các loại thuế, bao gồm cả thuế hiện tại và thuế ẩn, cần được xem xét Đồng thời, tất cả các chi phí phát sinh trong quá trình thực hiện kế hoạch, bao gồm cả chi phí thuế và chi phí không phải thuế, cũng phải được tính toán đầy đủ.
Theo Karayan & Swenson (2007), KHT là các hoạt động thuế cần được thực hiện một cách chiến lược (Strategy - S), hài hòa với chiến lược chung của công ty, có dự báo (Anticipation - A), dàn xếp giữa các bên liên quan (Negotiating - N) và khả năng chuyển đổi giao dịch (Transforming - T) nhằm tạo ra giá trị tăng thêm (Value-Adding - VA) Mô hình S-A-VA-N-T của Karayan (2007) hỗ trợ các nhà quản trị trong việc ra quyết định hiệu quả hơn, giúp cân bằng giữa lợi ích và chi phí thực thi KHT.
KHT khác với tránh thuế (tax avoidance) và trốn thuế (tax evasion), trong đó tránh thuế là các hoạt động hợp pháp nhằm giảm số thuế phải nộp, còn trốn thuế là hành vi bất hợp pháp (Rego, 2003; Singhania & Singhania, 2019) Ranh giới giữa tránh thuế và trốn thuế thường không rõ ràng (Kirchler & cộng sự, 2001; Slemrod, 2004), tuy nhiên, mỗi quốc gia có quy định cụ thể về hành vi trốn thuế, thường liên quan đến việc bỏ sót hoặc giấu thông tin dẫn đến giảm thuế phải nộp (Hoffman, 1961) Tại Việt Nam, hiện chưa có định nghĩa chính thức về KHT trong luật, mặc dù các thuật ngữ “tránh thuế” và “trốn thuế” được đề cập trong một số văn bản pháp lý như Luật quản lý thuế số 38/2019/QH14 và Nghị định 20/2017/NĐ-CP, nhưng không cung cấp định nghĩa rõ ràng về tránh thuế.
Thuế hiện (explicit tax) bao gồm các loại thuế do chính phủ quy định, như thuế thu nhập, thuế giá trị gia tăng, thuế xuất nhập khẩu và thuế tiêu thụ đặc biệt Trong khi đó, thuế ẩn (implicit tax) là khoản giảm từ thuế trong thu nhập trước thuế, thường do sự chênh lệch giữa thuế suất cao và thấp.
14 thể cấu thành tội phạm hình sự theo quy định của Điều 200 Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13, sửa đổi bổ sung năm 2017
Trong Luận án, tác giả xác định khái niệm KHT là tập hợp các hoạt động được hoạch định nhằm khai thác hợp pháp các chính sách và cơ chế để tạo ra lợi ích về thuế, từ đó kỳ vọng gia tăng giá trị cho công ty KHT không chỉ đơn thuần là một bản kế hoạch.
Kế hoạch thuế (KHT) không chỉ đơn thuần là giảm chi phí thuế mà còn mang tính chiến lược với mục tiêu tối ưu hóa số thuế phải nộp trong khuôn khổ pháp luật Mặc dù công ty hướng tới việc giảm thiểu thuế, nhưng điều này có thể dẫn đến việc gia tăng một số chi phí khác hoặc giảm thu nhập Do đó, KHT cần được xem như một phần trong chiến lược tổng thể của công ty, tuân thủ chính sách thuế và pháp luật để tránh tổn thất và đảm bảo sự phát triển bền vững.
Luận án khẳng định rằng thuật ngữ "KHT" không đồng nhất với tránh thuế, đồng thời đồng thuận với quan điểm của Wilde & Wilson (2018) về việc "KHT" phù hợp hơn cho nhiều nghiên cứu Thuật ngữ này phản ánh những nỗ lực chủ định nhằm tạo ra lợi ích thuế hoặc đầu tư vào hoạt động thuế một cách thận trọng, trong khi "tránh thuế" chỉ là một phần hay kết quả của KHT Việc sử dụng khái niệm "KHT" mở ra nhiều hướng nghiên cứu mới, trong khi "tránh thuế" chỉ phản ánh kết quả của KHT.
2.1.1.2 Lợi ích và chi phí của kế hoạch thuế Động cơ của KHT phụ thuộc vào thái độ của người ra quyết định đối với rủi ro Trong trường hợp ngại rủi ro, họ sẽ chọn phương án rủi ro thấp với lợi nhuận kỳ vọng thấp và ngược lại Điều này được lý giải dựa trên lý thuyết hữu dụng kỳ vọng (Expected Utility Theory) của Neumann & Morgenstern (1953) và lý thuyết triển vọng (Prospect Theory) của Kahneman & Tversky (1979) Theo lý thuyết hữu dụng kỳ vọng, hành vi của người nộp thuế trong điều kiện không chắc chắn là tối đa hóa lợi ích đạt được từ KHT khi đánh đổi giữa phần thuế tiết kiệm được
Nghiên cứu của King và Sheffrin (2002) đã chỉ ra rằng lý thuyết triển vọng có thể giải thích hành vi trốn thuế, cho thấy người nộp thuế thường lựa chọn các quyết định thuế ít rủi ro hơn.
Khi xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến động cơ quyết định thuế, không thể không nhắc đến các yếu tố kiểm soát KHT Những yếu tố này có tác động gián tiếp đến KHT, có khả năng tạo ra lợi ích hoặc rủi ro và có thể dẫn đến chi phí phát sinh cho KHT.
Mục tiêu của kế toán thuế (KHT) hiệu quả là tối đa hóa lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp, thay vì chỉ tập trung vào việc giảm thiểu số thuế phải nộp Doanh nghiệp không nên tiết kiệm thuế bằng cách từ chối đầu tư vào các dự án có lợi nhuận nhưng rủi ro, vì điều này có thể dẫn đến các chi phí không phải thuế làm giảm thu nhập báo cáo.
KHT mang lại lợi ích về dòng tiền cho doanh nghiệp, giúp cải thiện tình hình tài chính thông qua việc quản lý thời điểm và số tiền thuế thanh toán Doanh nghiệp có dự báo dòng tiền sẽ thấy kết quả tích cực từ KHT, với giá trị gia tăng dòng tiền tỷ lệ thuận với khoản chênh lệch vĩnh viễn Tuy nhiên, mối quan hệ này lại ngược chiều đối với thuế thu nhập hoãn lại (Ayers & cộng sự, 2018; Jones & Rhoades-Catanach).
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ ẢNH HƯỞNG CỦA KẾ HOẠCH THUẾ ĐẾN GIÁ TRỊ DOANH NGHIỆP VÀ VAI TRÒ ĐIỀU TIẾT CỦA SỞ HỮU NHÀ NƯỚC
To assess the impact of corporate governance on firm value, this dissertation primarily relies on several theoretical frameworks, including Agency Theory, Steward Theory, Helping Hand Theory, Glabbing Hand Theory, Political Power Theory, and Political Cost Theory.
Lược khảo đề tài Luận án cho thấy lý thuyết đại diện được áp dụng trong nhiều nghiên cứu về ảnh hưởng của KHT đến giá trị doanh nghiệp Chiều hướng ảnh hưởng này phụ thuộc vào đặc điểm quản trị của doanh nghiệp tại các nước phát triển và đang phát triển (Dharwadkar & cộng sự, 2000) Tuy nhiên, lý thuyết đại diện không giải quyết được tình huống khi lợi ích của nhà quản trị không xung đột với lợi ích của chủ sở hữu, trong trường hợp này cần áp dụng Lý thuyết nhà quản lý Tại Việt Nam, sau 35 năm đổi mới, tỷ lệ sở hữu Nhà nước tại các công ty phi tài chính niêm yết là 25,28%, ảnh hưởng đáng kể đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Đây là luận điểm quan trọng để xác định bối cảnh ảnh hưởng của KHT đến giá trị doanh nghiệp phi tài chính niêm yết tại Việt Nam Do đó, ngoài lý thuyết đại diện và Lý thuyết nhà quản lý, Luận án còn kết hợp lý thuyết “bàn tay hỗ trợ”.
Bàn tay can thiệp có động cơ, lý thuyết quyền lực chính trị và lý thuyết chi phí chính trị giúp xác định vai trò cụ thể của sở hữu Nhà nước trong mối quan hệ giữa các yếu tố kinh tế và chính trị Sự kết hợp này làm nổi bật tầm quan trọng của sở hữu Nhà nước trong việc điều tiết và quản lý các nguồn lực, đồng thời ảnh hưởng đến quyết định chính sách và phát triển kinh tế.
KHT và giá trị doanh nghiệp phi tài chính niêm yết tại Việt Nam, làm rõ hơn điều kiện ảnh hưởng đến mối quan hệ này
Lý thuyết đại diện (Agency theory) là một lý thuyết quan trọng, được áp dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực như kế toán, tài chính, kinh tế, khoa học chính trị, hành vi tổ chức và marketing Lý thuyết này nêu rõ các vấn đề phát sinh trong doanh nghiệp do sự tách biệt giữa quyền sở hữu và quản trị Nó tập trung vào các biện pháp nhằm giảm thiểu vấn đề của người đại diện Trong công ty cổ phần, các cổ đông là chủ sở hữu sẽ lựa chọn nhà quản trị để điều hành doanh nghiệp, nhưng vấn đề cốt lõi là các nhà quản trị có thể hành động vì lợi ích của chính họ thay vì vì lợi ích của chủ sở hữu.
Sự phát triển của lý thuyết đại diện
Adam Smith là người đầu tiên đặt ra câu hỏi về vấn đề đại diện, khơi nguồn cho các nghiên cứu sâu về lý thuyết này (Panda & Leepsa, 2017) Ông cho rằng của cải của tổ chức do những người không phải chủ sở hữu quản lý, nhưng không mang lại lợi ích cho chủ sở hữu Các nghiên cứu trước năm 1973 chỉ ra mâu thuẫn giữa chủ sở hữu và nhà quản trị, cho rằng nhà quản trị có thể hành động vì lợi ích cá nhân (Berle & Means, 1932) hoặc phân tán rủi ro để phục vụ lợi ích của họ (Wilson, 1968) Ross (1973) và Mitnick (1975) đã phát triển lý thuyết đại diện theo hai hướng khác nhau; Ross nhấn mạnh động cơ của nhà quản trị và cơ chế thưởng để giảm thiểu vấn đề, trong khi Mitnick xem xét ảnh hưởng của cấu trúc thể chế Jensen và Meckling (1976) đã làm rõ mối liên hệ giữa hành vi của nhà quản trị, chi phí đại diện và cấu trúc sở hữu, cho rằng các mối quan hệ trong doanh nghiệp mang tính cam kết.
Quan hệ giữa chủ sở hữu và người đại diện trong doanh nghiệp thường dẫn đến xung đột lợi ích, khi nhà quản trị có thể làm gia tăng chi phí trong khi chủ sở hữu lại muốn giảm thiểu chi phí đại diện Để giải quyết vấn đề này, chủ sở hữu có thể áp dụng các cơ chế như lương thưởng hợp lý, tuyển dụng nhân sự mới và giảm thiểu thông tin bất cân xứng Từ đó, lý thuyết về cấu trúc sở hữu được hình thành, nhấn mạnh rằng vốn sở hữu của công ty cổ phần bao gồm cả cổ đông bên trong và bên ngoài Giá trị thị trường của công ty được xác định bằng tổng giá trị thị trường của cả hai nhóm cổ đông và bao gồm cả vốn vay bên ngoài.
Jensen và Meckling (1976) cho rằng doanh nghiệp hoạt động như một "hộp đen" với mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận và gia tăng giá trị Để đạt được giá trị tài sản tối đa, cần có cơ chế cân bằng lợi ích giữa cổ đông và nhà quản trị Sự khác biệt trong lợi ích có thể dẫn đến xung đột, nhưng có thể được khắc phục bằng cách các nhà quản trị sở hữu cổ phần và nắm giữ tỷ lệ kiểm soát công ty Nhờ đó, nhà quản trị sẽ làm việc vì sự phát triển và tồn tại của doanh nghiệp Nghiên cứu của Fama cũng bổ sung thêm vào luận điểm này.
(1980) cũng cho kết luận tương tự
Fama & Jensen (1983) nghiên cứu quá trình ra quyết định của nhà quản trị và các yếu tố liên quan, phân biệt giữa quản trị quyết định (khởi xướng và thực hiện) và kiểm soát quyết định (giám sát) Hai vấn đề này thường xuất hiện trong các công ty có cơ cấu sở hữu phân tán, nơi người đại diện có thể gia tăng rủi ro khi các nhà quản trị đưa ra quyết định liên quan đến tài sản doanh nghiệp, trong khi cổ đông là những người chịu ảnh hưởng từ những quyết định đó Do đó, việc kết hợp giữa quản trị quyết định và kiểm soát quyết định là cần thiết để bảo vệ cổ đông khỏi các rủi ro phát sinh từ sự tách biệt giữa sở hữu và kiểm soát trong doanh nghiệp.
Grossman & Hart (1983) phân tích vấn đề người đại diện thông qua sự khác biệt về ưa thích rủi ro giữa chủ sở hữu và người đại diện, nhấn mạnh rằng lợi ích của cổ đông có thể bị ảnh hưởng bởi các quyết định của người đại diện Sự không đồng nhất này có thể dẫn đến xung đột lợi ích, khi người đại diện ưu tiên lợi ích cá nhân hơn là lợi ích của chủ sở hữu Điều này tạo ra những thách thức trong quản lý doanh nghiệp và yêu cầu các cơ chế giám sát hiệu quả để đảm bảo rằng các quyết định được đưa ra phù hợp với lợi ích của cổ đông.
Quyết định của nhà quản trị có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, do đó, các chủ sở hữu thường tìm cách tối ưu hóa động lực làm việc của nhà quản trị thông qua cơ chế lương và thưởng Hơn nữa, hành vi của nhà quản trị còn bị chi phối bởi mức độ chấp nhận rủi ro và chất lượng thông tin mà cổ đông có về doanh nghiệp Nếu nhà quản trị không quan tâm đến rủi ro, thì các cơ chế khuyến khích sẽ trở nên vô nghĩa.
Eisenhardt (1989) phân loại lý thuyết đại diện thành hai mô hình chính: mô hình ủy quyền tích cực và mô hình chủ sở hữu-người đại diện, trong đó mô hình chủ sở hữu-người đại diện dễ đo lường hơn Theo mối quan hệ hợp đồng, mô hình này cho thấy chủ sở hữu không quan tâm đến rủi ro và tập trung vào việc tối đa hóa lợi nhuận, trong khi nhà quản trị lại ngại rủi ro và nhận lương từ việc quản lý Mô hình đại diện năng động giải thích nguyên nhân của vấn đề đại diện và chi phí liên quan.
Lý thuyết này nhấn mạnh hai nội dung chính: Thứ nhất, có sự ràng buộc giữa nhà quản trị và chủ sở hữu thông qua cơ chế lương thưởng, yêu cầu nhà quản trị làm việc vì lợi ích của chủ sở hữu Thứ hai, chủ sở hữu nắm giữ thông tin về nhà quản trị, giúp họ kiểm soát hành vi của nhà quản trị một cách hiệu quả.
Các vấn đề được rút ra từ lý thuyết đại diện
Lý thuyết đại diện chỉ ra rằng sự phân chia giữa quyền sở hữu công ty của cổ đông và quyền điều hành của nhà quản trị dẫn đến xung đột lợi ích, do mỗi bên có mục tiêu và lợi ích khác nhau Sự phát triển của lý thuyết này không chỉ phản ánh mối quan hệ giữa chủ sở hữu và nhà quản trị, mà còn giữa các chủ sở hữu với nhau và giữa chủ sở hữu với chủ nợ Panda & Leepsa (2017) đã nêu ra ba vấn đề liên quan đến người đại diện.
Vấn đề thứ nhất là mâu thuẫn lợi ích giữa chủ sở hữu và nhà quản trị
Sự mâu thuẫn lợi ích giữa người sở hữu và nhà quản trị xuất phát từ việc tách biệt giữa sở hữu và quản trị trong các công ty cổ phần (Berle & Means, 1932) Chủ sở hữu ủy quyền cho nhà quản trị với kỳ vọng họ sẽ hành động vì lợi ích của chủ sở hữu, nhưng nhà quản trị thường ưu tiên tối đa hóa thù lao cá nhân Sự khác biệt này, cùng với việc thiếu cơ chế giám sát hiệu quả, dẫn đến xung đột lợi ích giữa hai bên.
Sự xuất hiện của 36 cơ chế kiểm soát có thể dẫn đến xung đột lợi ích giữa chủ sở hữu và nhà quản trị Nhà quản trị, với vị trí làm việc tại công ty và sở hữu nhiều thông tin hơn cổ đông, có khả năng theo đuổi lợi ích cá nhân thay vì tối đa hóa giá trị doanh nghiệp Điều này có thể khiến kết quả đầu tư của cổ đông không đạt được như mong đợi, tạo ra rủi ro đạo đức cho họ.
Vấn đề thứ hai là mâu thuẫn lợi ích giữa cổ đông lớn và cổ đông nhỏ
CÁC NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM CÓ LIÊN QUAN
Để đánh giá tác động của KHT đến GTDN, đặc biệt là các điều kiện cụ thể mà KHT ảnh hưởng đến GTDN phi tài chính niêm yết tại Việt Nam trong giai đoạn 2015-2019, các nghiên cứu trước đây đã được phân loại theo nhóm nghiên cứu.
Sở hữu kiểm soát của Nhà nước
Sở hữu không kiểm soát của Nhà nước
Nghiên cứu về ảnh hưởng của KHT đến giá trị doanh nghiệp (GTDN) được phân loại thành hai nhóm: một nhóm không có vai trò điều tiết của yếu tố khác và một nhóm có sự tác động của các yếu tố điều tiết Phân loại này không chỉ đảm bảo tính logic với khung lý thuyết của Luận án mà còn giúp dễ dàng thảo luận và phát hiện khoảng trống nghiên cứu, theo Templier & Paré (2015).
2.3.1 Các nghiên cứu thực nghiệm về ảnh hưởng của kế hoạch thuế đến giá trị doanh nghiệp
Các nghiên cứu đầu tiên về tác động của các yếu tố đến kế toán thuế (KHT) đã bắt đầu từ những năm 1980, xác nhận sự ảnh hưởng tích cực giữa đặc điểm doanh nghiệp như đòn bẩy tài chính và mức độ sử dụng vốn với KHT (Stickney & McGee, 1982) Đồng thời, quy mô doanh nghiệp cũng có mối liên hệ với thuế suất hiệu dụng (Zimmerman, 1983) Qua thời gian, các nghiên cứu đã mở rộng để đánh giá tác động của KHT, đặc biệt là những lợi ích và rủi ro liên quan đến KHT (Hutchens & Rego).
Tính đến tháng 10 năm 2020, nghiên cứu về KHT đã được khai thác đa dạng từ nhiều khía cạnh khác nhau, với phạm vi nghiên cứu mở rộng từ dữ liệu của một quốc gia đến dữ liệu KHT của nhiều quốc gia trên toàn cầu.
Trong những năm đầu thế kỷ 21, các nghiên cứu tại Anh và Mỹ đã chỉ ra ảnh hưởng của KHT đến GTDN, nhưng kết quả lại không đồng nhất Các nghiên cứu này, như của Kawor & Kportorgbi (2014) và Khaoula, không xem xét vai trò điều tiết của các yếu tố khác trong mối quan hệ giữa KHT và GTDN.
& cộng sự (2015) khẳng định sự ảnh hưởng thuận chiều của KHT đến GTDN,
Quy mô doanh nghiệp có ảnh hưởng lớn đến chi phí chính trị, với các doanh nghiệp lớn thường thu hút nhiều sự chú ý từ phía chính phủ Nghiên cứu của Jensen & Meckling (1976) và Wu cùng các cộng sự (2012) chỉ ra rằng, doanh nghiệp càng lớn thì càng phải đối mặt với các chi phí chính trị cao hơn.
Sau khi đạo luật Sarbanes-Oxley được ban hành vào năm 2002, quản trị rủi ro thuế đã trở thành một lĩnh vực thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu Luật này yêu cầu các công ty đại chúng nâng cao độ tin cậy và đảm bảo thông tin tài chính, nhằm bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư.
10 Theo khả năng cập nhật các bài báo khoa học của tác giả
Nghiên cứu cho thấy rằng việc khai thác tốt kiến thức tài chính (KHT) có thể giúp doanh nghiệp tiết kiệm thuế và gia tăng giá trị doanh nghiệp (GTDN) Tuy nhiên, một số nghiên cứu như của Appolos & Jerry (2016) lại chỉ ra rằng khi doanh nghiệp khai thác KHT tốt hơn, GTDN có thể giảm Ngoài ra, nghiên cứu của Umeh & Okegbe (2019) cho thấy KHT không ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Do đó, các kết quả nghiên cứu trước đây về tác động của KHT đến GTDN là không đồng nhất, khiến cho việc xác định chiều hướng tác động của KHT lên GTDN trở nên khó khăn.
Theo Nguyễn Văn Tuấn (2018), một nghiên cứu mới có thể bao gồm các yếu tố như ý tưởng nghiên cứu, dữ liệu, phương pháp nghiên cứu và cách luận giải kết quả Luận án này lược khảo các nghiên cứu trước để phát hiện khoảng trống nghiên cứu và kỳ vọng đóng góp mới, nhằm làm rõ bối cảnh ảnh hưởng của KHT đến GTDN Trên cơ sở đó, luận án thống kê các nghiên cứu trước trong Bảng 2.2 để khái quát các nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của KHT đến GTDN mà không có vai trò điều tiết của yếu tố khác, đồng thời phân tích và đối sánh giữa các nghiên cứu theo từng nội dung cụ thể.
Kết quả từ Bảng 2.2 cho thấy rằng phần lớn các nghiên cứu áp dụng phương pháp hồi quy truyền thống cho mô hình tuyến tính đơn tầng để tìm kiếm câu trả lời Bên cạnh đó, một số nghiên cứu khác còn sử dụng phương pháp phân tích nhân quả (Granger Causality), mô hình tự hồi quy véc tơ và điện não đồ kết hợp.
Do đặc tính dữ liệu khác nhau, các nghiên cứu đã áp dụng các kỹ thuật xử lý khác nhau Cụ thể, Khaoula và cộng sự (2015) sử dụng phương pháp GLS vì ước lượng OLS không hiệu quả do hiện tượng phương sai thay đổi Appolos và Jerry (2016) áp dụng Pooled OLS cùng với kiểm định Wooldridge để xác định không có tự tương quan giữa các biến Trong khi đó, Assidi và cộng sự (2016) đã sử dụng kỹ thuật hồi quy và kiểm định Hausman để lựa chọn mô hình tác động cố định (FEM) Nghiên cứu của Assidi và cộng sự cũng chia mẫu thành hai nhóm doanh nghiệp niêm yết và không niêm yết nhằm đánh giá ảnh hưởng của việc niêm yết đến giá trị doanh nghiệp (GTDN).
Mô hình được lựa chọn trong nghiên cứu bao gồm FEM và REM, với Olajide (2017) áp dụng phương pháp đơn giản, trong khi Salawu và cộng sự (2017) kết hợp phân tích nhân quả với mô hình tự hồi quy véc-tơ (VAR) Đặc biệt, nghiên cứu của Ji & Shan cũng đáng chú ý trong bối cảnh này.
Năm 2018, nghiên cứu đã áp dụng biện pháp điện não đồ để hỗ trợ cho kết quả hồi quy Tuy nhiên, việc thực hiện phương pháp này trong thực tế gặp nhiều khó khăn.
Nghiên cứu của Nguyen & cộng sự (2020) là nghiên cứu duy nhất liên quan đến bối cảnh Việt Nam, trong đó các nhà nghiên cứu áp dụng phương pháp GMM (Generalized Method of Moments) để đánh giá tác động của hành vi né tránh thuế đối với hiệu quả hoạt động của 125 công ty niêm yết tại Việt Nam trong giai đoạn 2010.
(ii) Mô hình nghiên cứu
Mô hình nghiên cứu thường phản ánh mối quan hệ tuyến tính giữa biến phụ thuộc, biến độc lập và các biến kiểm soát Tuy nhiên, nghiên cứu của Salawu và cộng sự (2017) đã áp dụng mô hình VAR Các nghiên cứu này đều lựa chọn các biến đo lường với những điểm tương đồng và khác biệt nhất định.