1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

TRONG DI CHÚC HỒ CHÍ MINH VIẾT: “ĐẢNG TA LÀ MỘT ĐẢNG CẦM QUYỀN. MỖI ĐẢNG VIÊN VÀ CÁN BỘ PHẢI THẤM NHUẦN ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG, THẬT SỰ CẦN KIỆM LIÊM CHÍNH, CHÍ CÔNG VÔ TƯ. PHẢI GIỮ GÌN ĐẢNG TA THẬT TRONG SẠCH, PHẢI XỨNG ĐÁNG LÀ NGƯỜI LÃNH ĐẠO, NGƯỜI ĐẦY TỚ TH

50 77 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Trong Di Chúc Hồ Chí Minh Viết: “Đảng Ta Là Một Đảng Cầm Quyền. Mỗi Đảng Viên Và Cán Bộ Phải Thấm Nhuần Đạo Đức Cách Mạng, Thật Sự Cần Kiệm Liêm Chính, Chí Công Vô Tư. Phải Giữ Gìn Đảng Ta Thật Trong Sạch, Phải Xứng Đáng Là Người Lãnh Đạo, Người Đầy Tớ Thật Trung Thành Của Nhân Dân”
Tác giả Nhóm 3
Người hướng dẫn ThS. Nguyễn Thùy Linh
Trường học Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
Chuyên ngành Tư Tưởng Hồ Chí Minh
Thể loại bài tập
Năm xuất bản 2021
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 50
Dung lượng 340,48 KB

Cấu trúc

  • LỜI MỞ ĐẦU

  • I. CƠ SỞ LUẬN ĐIỂM

    • 1. Cơ sở lý luận

      • 1.1. Chủ nghĩa Mác Lênin là cơ sở cho sự ra đời của Đảng Cộng sản. 

      • 1.2. Hồ Chí Minh vận dụng chủ nghĩa Mác Lênin trong xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam

    • 2. Cơ sở thực tiễn

      • 2.1. Bối cảnh trong nước

      • 2.2. Bối cảnh quốc tế

  • II. NỘI DUNG LUẬN ĐIỂM

    • 1. Đảng ta là một đảng cầm quyền

      • 1.1 Khái niệm Đảng cầm quyền 

      • 1.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về “ Đảng ta là một Đảng cầm quyền”

    • 2. Đảng phải trong sạch, vững mạnh

      • 2.1. Đảng là đạo đức, là văn minh

      • 2.2. Đảng là người lãnh đạo, là đầy tớ của nhân dân

      • 2.3. Xây dựng đội ngũ cán bộ đảng viên

  • III. GIÁ TRỊ, Ý NGHĨA CỦA LUẬN ĐIỂM

    • 1. Giá trị của luận điểm

    • 1. Ý nghĩa của luận điểm

  • IV. LIÊN HỆ THỰC TIỄN VIỆT NAM 

    • 1. Thành tựu

      • 1.1. Kinh tế

      • 1.2. Văn hóa - Xã hội

    • 2. Hạn chế

      • 2.1. Kinh tế

      • 2.2. Văn hóa - Xã hội

      • 2.3. An sinh xã hội:

    • 3.Mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ

      • 3.1.Mục tiêu phát triển

      • 3.2.Phương hướng, nhiệm vụ

        • a, 03 đột phá chiến lược

        • b, 06 nhiệm vụ trọng tâm

    • 4.     Thực tiễn

      • 4.1. Vai trò của Đảng thể hiện qua thành công của Đại hội XIII:

      • 4.2. Vai trò của Đảng thể hiện qua thành công của cuộc bầu cử Đại biểu quốc hội khóa XV và Đại biểu hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kì 2021-2026

      • 4.3.Vai trò của Đảng thể hiện qua nỗ lực chống dịch và tiêm phòng vacxin cho nhân dân

  • TÀI LIỆU THAM KHẢO

Nội dung

CƠ SỞ LUẬN ĐIỂM

Cơ sở lý luận

1.1 Chủ nghĩa Mác Lênin là cơ sở cho sự ra đời của Đảng Cộng sản

Theo Mác - Lênin, trong xã hội phân chia giai cấp, cuộc đấu tranh giữa các giai cấp thù địch sẽ dẫn đến đấu tranh chính trị, và Đảng là đại diện cho cuộc đấu tranh này Giai cấp vô sản cần sự thống nhất về mục đích và tổ chức để giải phóng nhân dân lao động khỏi áp bức và lật đổ giai cấp tư sản, điều này chỉ có thể đạt được thông qua một đảng chính trị Lênin nhấn mạnh rằng phong trào công nhân chỉ có thể thành công khi có lý luận cách mạng khoa học, được hình thành từ kinh nghiệm và tư tưởng cách mạng toàn cầu trong suốt nửa thế kỷ.

19 Lý luận đó là chủ nghĩa Mác” Học thuyết Mác xuất hiện bên ngoài phong trào tự phát của công nhân, mặt khác nó đã ra đời như là kết quả phát triển khách quan và tất yếu của tư tưởng cách mạng Nó đã xuất hiện từ cơ sở tư tưởng và khoa học,được vun đắp bởi các nhà đại diện của giới trí thức cách mạng Theo V Lênin vớiTuyên ngôn của đảng cộng sản, chủ nghĩa Mác đã trở thành thế giới quan hoàn chỉnh của giai cấp công nhân V.Lênin cũng đã nhấn mạnh: Nhiệm vụ quan trọng của đảng cộng sản là “phải tích cực giáo dục chính trị cho giai cấp công nhân, là phải tăng cường giác ngộ chính trị cho giai cấp công nhân” Đảng cộng sản, bộ phận tiên phong của giai cấp, nhờ được vũ trang bởi học thuyết mác-xít mới có thể đem ý thức giác ngộ xã hội chủ nghĩa đến cho phong trào công nhân, mới là đại diện cho những quyền lợi cơ bản của giai cấp công nhân Kết luận này đã được

V.Lênin chỉ rõ trong hai luận điểm mật thiết liên hệ với nhau: “Không có lý luận cách mạng, không thể có phong trào cách mạng” và từ đó “chỉ có đảng được vũ trang bằng lý luận tiên phong mới đóng được vai trò là người chiến sĩ tiên phong”

Thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin là yếu tố then chốt để Đảng cầm quyền thực hiện trách nhiệm cách mạng tiền phong Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức rằng không có lý luận dẫn đường, cách mạng sẽ thiếu “phong trào vận động” Do đó, lý luận luôn được Đảng ta đề cao, với chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng và kim chỉ nam cho mọi hoạt động.

Đảng luôn xác định rõ vị trí và vai trò lãnh đạo của mình trong quá trình cách mạng, đồng thời luôn dựa trên nhu cầu thực tiễn để điều chỉnh và phát triển các chính sách phù hợp.

"Xây dựng chủ nghĩa cho vững" cần thể hiện rõ bản chất giai cấp công nhân, tính cách mạng sáng tạo và khoa học của Đảng Trọng tâm của chủ nghĩa này phải vì lợi ích của giai cấp, toàn thể nhân dân và dân tộc Việt Nam, đồng thời phản ánh đúng tâm tư, nguyện vọng của nhân dân Chủ nghĩa cũng phải dẫn dắt nhân dân hành động phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử và thời đại.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, từ Cương lĩnh chính trị đầu tiên năm 1930, trải qua nhiều giai đoạn cách mạng đầy thử thách và khó khăn, bao gồm cả những bất đồng trong hệ thống XHCN, Đảng ta vẫn kiên định giữ vững lập trường trung thành với chủ nghĩa Mác.

Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đã được vận dụng sáng tạo vào từng giai đoạn cách mạng Việt Nam, làm phong phú thêm lý luận cách mạng Đường lối cách mạng Việt Nam được bổ sung và phát triển qua từng thời kỳ, nhưng Cương lĩnh của Đảng vẫn khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc, đại diện cho lợi ích của họ Đảng dựa trên chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động.

1.2 Hồ Chí Minh vận dụng chủ nghĩa Mác Lênin trong xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam

Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng để một Đảng cầm quyền thành công, cần phải có "lý luận cách mạng tiền phong" và "chủ nghĩa làm cốt" Trong tác phẩm Đường cách mạng năm 1927, Bác cho rằng cách mạng cần có tổ chức vững bền và sức mạnh tập trung, điều này chỉ có thể đạt được khi có Đảng Giống như đũa phải được bó lại, Đảng cách mạng là yếu tố quan trọng để vận động công nông, tổ chức dân chúng và kết nối với giai cấp vô sản toàn cầu Bác khẳng định rằng sự vững mạnh của Đảng là điều kiện tiên quyết cho thành công của cách mạng, tương tự như "người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy".

Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng để Đảng vững mạnh, cần phải có chủ nghĩa làm nền tảng, với mọi thành viên trong Đảng phải hiểu và theo đuổi chủ nghĩa đó Ông khẳng định rằng trong số nhiều học thuyết và chủ nghĩa hiện nay, chủ nghĩa Lê-nin là chân chính và cách mạng nhất Bác xem chủ nghĩa Mác Lênin như một "cẩm nang thần kỳ" và "mặt trời chân lý", là kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng, nhằm thực hiện vai trò lãnh đạo cách mạng và đảm bảo sự tiên phong trong công cuộc xây dựng đất nước.

Chủ nghĩa Mác-Lênin đóng vai trò cốt lõi trong vị trí cầm quyền và lãnh đạo của Đảng ta, được Hồ Chí Minh khẳng định là “lực lượng tư tưởng hùng mạnh” chỉ đạo mọi hoạt động của Đảng Đây là lý luận nền tảng, mang bản chất cách mạng và khoa học, giúp Đảng trở thành hình thức tổ chức cao nhất của quần chúng lao động, thể hiện trí tuệ, danh dự và lương tâm của dân tộc Việt Nam Mặc dù Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm kim chỉ nam, nhưng theo Bác, điều này không có nghĩa là giáo điều theo từng câu chữ, mà là nắm vững tinh thần, lập trường và phương pháp của chủ nghĩa này, đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hóa dân tộc và nhân loại, tham khảo kinh nghiệm của các Đảng Cộng sản quốc tế để vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, nhằm đề ra đường lối lãnh đạo đúng đắn cho Cách mạng Việt Nam.

Cơ sở thực tiễn

Trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, thực dân Pháp đã bắt đầu xâm lược Việt Nam từ năm 1858, thiết lập chế độ thống trị tàn bạo Ngay từ đầu, nhân dân ta đã liên tiếp đứng lên chống lại sự xâm lược của thực dân Từ 1858 đến 1930, hàng trăm cuộc khởi nghĩa và phong trào chống Pháp đã diễn ra, như phong trào Cần Vương và Đông Du, thể hiện tinh thần đấu tranh kiên cường của dân tộc Mặc dù các cuộc khởi nghĩa đó rất anh dũng, nhưng đều bị thực dân Pháp đàn áp tàn bạo và thất bại.

Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thất bại của các phong trào đấu tranh ở Việt Nam là do những người lãnh đạo chưa xác định được con đường cứu nước phù hợp với nhu cầu phát triển xã hội Trong bối cảnh khủng hoảng và bế tắc về đường lối cứu nước, việc tìm ra một hướng đi đúng đắn, phù hợp với thực tiễn đấu tranh giải phóng dân tộc và thời đại trở thành nhu cầu cấp thiết của dân tộc Việt Nam lúc bấy giờ.

Vào ngày 5-6-1911, giữa lúc cách mạng Việt Nam đang gặp khủng hoảng về đường lối cứu nước, Nguyễn Tất Thành đã ra nước ngoài để tìm kiếm con đường cứu nước Trong quá trình này, ông đã đi qua nhiều quốc gia, vừa lao động vừa học tập, nghiên cứu các lý luận và kinh nghiệm từ các cuộc cách mạng tư sản tiêu biểu như Pháp và Mỹ, đồng thời tích cực tham gia vào Đảng Xã hội Pháp Sau một thời gian ngắn học tập tại Liên Xô và hoạt động trong Quốc tế Cộng sản, vào tháng 11-1924, Nguyễn Ái Quốc đã trở về Quảng Châu, Trung Quốc để trực tiếp chỉ đạo việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, dẫn đến sự ra đời của nhiều tổ chức cộng sản.

 Ngày 17-6-1929, Đông Dương Cộng sản Đảng được thành lập ở Bắc Kỳ.

 Mùa Thu năm 1929, An Nam Cộng sản Đảng được thành lập ở Nam Kỳ.

 Ngày 1-1-1930, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn được thành lập ở Trung Kỳ.

Trong một thời gian ngắn, ba tổ chức cộng sản đã được thành lập tại Việt Nam, phản ánh xu thế tất yếu của phong trào cách mạng Tuy nhiên, sự hoạt động riêng rẽ và cạnh tranh lẫn nhau giữa các tổ chức này đã gây bất lợi cho sự phát triển của cách mạng.

Vào ngày 5/3/1930, trong báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã nêu rõ về sự chia rẽ trong phong trào cách mạng ở An Nam Tháng 5/1929, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tổ chức hội nghị toàn quốc, nơi đại biểu Bắc Kỳ đề xuất thành lập ngay một Đảng Cộng sản, trong khi các đại biểu khác muốn hoãn lại Sự bất hòa này dẫn đến việc nhóm Bắc Kỳ rời hội nghị và thành lập Đảng Đông Dương, trong khi nhóm An Nam thành lập Đảng An Nam Sự chia rẽ đã làm yếu đi sức mạnh chung của phong trào, đe dọa đến công cuộc cách mạng Để khắc phục tình trạng này, việc thành lập một Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam trở nên cấp thiết Từ ngày 6-1 đến 7-2-1930, Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản diễn ra tại bán đảo Cửu Long, thống nhất thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập.

Nguyễn Ái Quốc là người tiên phong nhận thức rõ tầm quan trọng của việc thành lập một tổ chức Đảng lãnh đạo, điều này đóng vai trò quyết định trong sự thành công của cách mạng Nhờ đó, phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam đã tiến hành theo con đường cách mạng vô sản.

Vào ngày 2-9-1945, sau thành công của Cách mạng Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc Tuyên ngôn độc lập, đánh dấu sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, hiện nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Kể từ đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã trở thành đảng cầm quyền, thực hiện vai trò lãnh đạo đối với Nhà nước và xã hội Việt Nam.

Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 là sự kiện vĩ đại của thế kỷ 20, đánh dấu bước ngoặt trong lịch sử nhân loại và tạo ra nhà nước của người lao động Sự kiện này đã tiếp sức cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, dẫn đến làn sóng cách mạng vô sản mạnh mẽ ở châu Âu, làm rung chuyển nền thống trị của giai cấp tư sản Hệ thống xã hội chủ nghĩa ra đời đã đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của thế giới hiện đại, đồng thời tác động mạnh mẽ đến đời sống chính trị-xã hội của nhiều quốc gia Cách mạng tháng Mười Nga đã thức tỉnh và cổ vũ các dân tộc thuộc địa bị áp bức, mang lại niềm tin và hy vọng về khả năng tự giải phóng cho họ.

Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga đã đánh dấu sự khởi đầu của một kỷ nguyên mới cho nước Nga và nhân loại Sự kiện này không chỉ dẫn đến việc thành lập Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết (Liên Xô), mà còn mở ra con đường đấu tranh giải phóng cho các quốc gia bị áp bức và thuộc địa Quốc tế Cộng sản ra đời với sứ mệnh giải phóng các dân tộc bị bóc lột trên toàn thế giới, với giai cấp vô sản giữ vai trò nòng cốt trong cuộc chiến này.

Ngày 27 tháng 10 năm 1929 Quốc tế Cộng sản gửi cho người Cộng sản tại Đông Dương về việc thành lập một Đảng Cộng sản tại Đông Dương: “Việc thiếu một Đảng Cộng sản duy nhất trong lúc phong trào công nhân và nông dân ngày càng phát triển, đã trở thành một điều nguy hiểm vô cùng cho tương lai trước mắt cuộc cách mạng ở Đông Dương” Quốc tế Cộng sản nhấn mạnh: “Nhiệm vụ quan trọng nhất của tất cả những người Cộng sản Đông Dương là thành lập một Đảng cách mạng có tính chất giai cấp của giai cấp vô sản, nghĩa là một Đảng Cộng sản có tính chất quần chúng Đông Dương Đảng đó phải chỉ có một và là tổ chức cộng sản duy nhất ở Đông Dương ”

NỘI DUNG LUẬN ĐIỂM

Đảng ta là một đảng cầm quyền

1.1 Khái niệm Đảng cầm quyền

C.Mác và Ph.Ăngghen là những người đầu tiên xây dựng học thuyết về Đảng Cộng sản trong những năm nửa đầu thế kỷ XIX Tuy nhiên, trong thời kỳ của C.Mác và Ph.Ăngghen chưa có một đảng nào lãnh đạo nhân dân giành được chính quyền Do đó, vấn đề đảng trong điều kiện lãnh đạo chính quyền xây dựng xã hội mới- xã hội chủ nghĩa chưa được các ông nghiên cứu nhiều Sự ra đời của Đảng Bônsêvích Nga (đảng kiểu mới của giai cấp công nhân) và việc thành lập Quốc tế III là sự thể hiện tư tưởng của Lênin về học thuyết Đảng Cộng sản.

Khái niệm "đảng cầm quyền" được áp dụng trong cả các nước tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa Ở các nước tư bản chủ nghĩa, thuật ngữ này chỉ một đảng hoặc liên minh chính trị đã nắm giữ chính quyền trong nhiệm kỳ hiện tại của quốc hội hoặc tổng thống Trong khi đó, ở các nước xã hội chủ nghĩa, nó đề cập đến thời kỳ khi Đảng Cộng sản giành được và lãnh đạo chính quyền, thực hiện các nhiệm vụ chính trị Do đó, đảng cầm quyền là đảng thắng trong các cuộc bầu cử dân chủ, từ đó thành lập chính phủ và đưa ra quyết định chính sách thay mặt cho nhân dân.

Trước Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917, Lênin đã khẳng định rằng Đảng Bônsêvích Nga luôn sẵn sàng nắm quyền Sau cách mạng, Đảng Bônsêvích, sau này là Đảng Cộng sản Liên Xô, đã đóng góp to lớn cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân Liên Xô và thế giới Ngày 27/3/1922, Lênin lần đầu tiên giới thiệu khái niệm "Đảng Cộng sản cầm quyền" trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Nga, nhấn mạnh rằng chỉ có đảng này mới có khả năng lãnh đạo đất nước.

Sau cách mạng tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh vai trò cầm quyền của Đảng qua các thuật ngữ như "Đảng giành được chính quyền", "Đảng nắm chính quyền" và "Đảng cầm quyền" Trong Di chúc, Người khẳng định "Đảng ta là một Đảng cầm quyền" Những khái niệm này được ghi nhận trong các văn kiện của Đảng, thể hiện vai trò quan trọng của Đảng đối với xã hội sau khi có chính quyền cách mạng Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, được thông qua tại Đại hội toàn quốc lần thứ X và XI, cũng xác nhận "Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền".

Đảng Cộng sản, đặc biệt là ở các nước có một đảng cầm quyền, giữ vai trò lãnh đạo toàn diện trong xã hội và phải chịu trách nhiệm trước nhân dân Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng không chỉ lo những vấn đề lớn mà còn phải quan tâm đến những nhu cầu thiết yếu hàng ngày của người dân Đảng đại diện cho lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đồng thời giữ vững bản chất cách mạng và phương thức lãnh đạo khoa học Đảng Cộng sản Việt Nam đã áp dụng sáng tạo các nguyên tắc xây dựng đảng của các nhà sáng lập chủ nghĩa cộng sản và kế thừa học thuyết Mác-Lênin Để trở thành đảng cầm quyền, Đảng Cộng sản cần lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống lại các thế lực bóc lột và thiết lập chính quyền mới Sau khi giành được quyền lực, Đảng Cộng sản sẽ lãnh đạo nhà nước, tiến hành cải cách xã hội và xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa, theo nguyên tắc duy nhất chỉ có Đảng Cộng sản nắm quyền lãnh đạo mà không có sự cạnh tranh từ các đảng khác.

1.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về “ Đảng ta là một Đảng cầm quyền”

Tại sao Bác không nói là “Đảng ta là đảng cầm quyền” mà phải nói là

"Cụm từ 'một đảng cầm quyền' thể hiện tính duy nhất và tuyệt đối, nhấn mạnh rằng đảng này không chia sẻ quyền lực với bất kỳ đảng nào khác trong vai trò lãnh đạo của mình Điều này không có nghĩa là chỉ tồn tại một đảng duy nhất, vì trong lịch sử, đã từng có Đảng Dân chủ Việt Nam và Đảng Xã hội Việt Nam, nhưng họ không giữ vai trò lãnh đạo Sự không liên minh hay liên kết với các đảng khác để thực hiện vai trò lãnh đạo là một kết quả tất yếu của lịch sử, phản ánh tính chất độc lập trong quyền lực của đảng cầm quyền."

Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh rằng “Đảng ta là một đảng cầm quyền”, điều này không chỉ khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng mà còn cảnh báo về những vấn đề có thể phát sinh từ việc chỉ có một đảng nắm quyền trong thời gian dài Với sự thấu hiểu sâu sắc về chủ nghĩa Mác – Lênin, Người nhận thức rõ rằng mọi sự vật, hiện tượng đều trong trạng thái vận động và biến đổi liên tục.

Là đảng duy nhất cầm quyền, nếu không phát huy dân chủ và lắng nghe ý kiến từ nhân dân, nội bộ đảng có thể nảy sinh trì trệ và sai lầm Sự thiếu tiếp thu ý kiến phản biện có thể dẫn đến việc đảng tự xây dựng cho mình một môi trường khép kín, gây ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả lãnh đạo và phát triển.

Sự cách biệt giữa lãnh đạo và quần chúng nhân dân có thể dẫn đến quan liêu, tham nhũng và độc đoán, làm suy giảm lòng tin của người dân Lịch sử đã chứng minh rằng nhiều đảng phái đã phải trả giá cho sự xa rời này, thậm chí không còn khả năng cầm quyền Trong quá khứ, các triều đại phong kiến Việt Nam thường bắt đầu với những vị vua tài đức, nhưng theo thời gian, họ lại rơi vào trì trệ và khủng hoảng Hiện tượng này phản ánh quy luật phát triển của xã hội và được ghi nhận trong tư tưởng phương Đông.

Đảng Cộng sản Việt Nam luôn tự đổi mới và hoàn thiện để phù hợp với yêu cầu lãnh đạo cụ thể, nhận thức rằng quyền lãnh đạo thuộc về nhân dân Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng cách mạng cần phải chuyển giao quyền lực cho đông đảo nhân dân, xây dựng Nhà nước “của dân, do dân và vì dân” Đảng cầm quyền không chỉ lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng mà còn phải thiết lập quyền làm chủ của nhân dân, với nguyên tắc rằng quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân Đảng phải xây dựng cơ chế lãnh đạo dựa trên mối quan hệ chặt chẽ với nhân dân, vì nếu xa rời nguyên tắc này, Đảng sẽ trở thành đối lập với nhân dân Để dân thực sự làm chủ, Đảng cần “lấy dân làm gốc”, và mỗi công dân phải nhận thức rõ lợi ích và bổn phận của mình trong việc tham gia xây dựng chính quyền, với cán bộ, Đảng viên là đầy tớ trung thành của nhân dân.

Vì vậy, là thành viên của “một đảng cầm quyền”, Hồ Chí Minh đã căn dặn:

Mỗi đảng viên và cán bộ cần thấm nhuần đạo đức cách mạng, sống cần kiệm liêm chính và chí công vô tư Họ phải giữ gìn sự trong sạch của Đảng, xứng đáng là người lãnh đạo và là người đầy tớ trung thành của nhân dân.

Bác nhấn mạnh tầm quan trọng của việc các đảng viên phải "thực sự", "thật sự" và "thật" trong việc thực hiện các yêu cầu của Đảng, khẳng định rằng "Đảng ta là một đảng cầm quyền" Điều này có nghĩa là, để duy trì vai trò lãnh đạo, mỗi đảng viên cần phải thể hiện sự chân thành và cam kết không thể thiếu.

Đảng phải trong sạch, vững mạnh

Mỗi đảng viên và cán bộ cần phải thấm nhuần đạo đức cách mạng, sống cần kiệm liêm chính và chí công vô tư Việc giữ gìn sự trong sạch của Đảng là vô cùng quan trọng, bởi lẽ Đảng phải xứng đáng là người lãnh đạo và là người đầy tớ trung thành của nhân dân Bác nhấn mạnh rằng đạo đức của Đảng cần được củng cố để đảm bảo sự vững mạnh và uy tín.

2.1 Đảng là đạo đức, là văn minh

Trong bài phát biểu tại Lễ Kỷ niệm 30 năm Ngày thành lập Đảng, Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng "Đảng ta là đạo đức, là văn minh", khẳng định đạo đức cách mạng là nền tảng của người cách mạng Ông đã chỉ ra rằng, để thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc, người cách mạng cần có đạo đức; không có đạo đức, dù tài giỏi đến đâu cũng không thể lãnh đạo nhân dân Đạo đức được ví như gốc của cây và nguồn của sông, không có đạo đức thì không thể thực hiện thành công nhiệm vụ cách mạng Hồ Chí Minh khẳng định rằng mọi thành công hay thất bại đều phụ thuộc vào việc cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng hay không Ông cũng nhấn mạnh rằng tinh thần và sức mạnh của quần chúng là yếu tố quyết định trong cuộc đấu tranh, và chúng ta phải nhìn vào tương lai với niềm tin vững chắc.

“Nay tuy châu chấu đấu voi,

Đạo đức cách mạng đóng vai trò quan trọng trong việc chuyển đổi xã hội cũ thành xã hội mới và xây dựng những giá trị tốt đẹp Người có đạo đức sẽ kiên cường vượt qua khó khăn, không sợ hãi trước thất bại, và luôn giữ vững tinh thần giản dị, khiêm tốn trong thành công Họ có trách nhiệm với cộng đồng, không tham lam, không kiêu ngạo và không để mình bị tha hóa Đạo đức của Đảng được thể hiện qua những phẩm chất này.

Mục đích của Đảng là lãnh đạo cuộc đấu tranh nhằm giải phóng dân tộc, xã hội, giai cấp và con người, theo chủ nghĩa Mác-Lênin, với mục tiêu đem lại độc lập cho dân tộc và cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân Đảng cam kết đặt lợi ích của đất nước và dân tộc lên hàng đầu, với đạo đức phục vụ vì nước, vì dân Mỗi cán bộ, đảng viên đều nhận thức rõ ràng về trách nhiệm của mình trong việc bảo vệ quyền lợi của dân tộc, không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích chung Đảng thống nhất lãnh đạo để đạt được độc lập, thống nhất cho đất nước, mang lại tự do và hạnh phúc cho đồng bào, đồng thời đảm bảo quyền sống và giải phóng khỏi áp bức, bất công của chế độ thực dân và phong kiến.

Cương lĩnh và đường lối của Đảng hướng tới lợi ích toàn dân tộc, khẳng định rằng Đảng không có mục đích riêng Sự ra đời và phát triển của Đảng nhằm xây dựng đất nước hùng cường theo chủ nghĩa xã hội, mang lại quyền lợi cho nhân dân.

Đội ngũ đảng viên cần thấm nhuần đạo đức cách mạng và phấn đấu vì lợi ích của dân, của nước Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc rèn luyện đạo đức cho cán bộ, đảng viên, với yêu cầu phải có lòng nhân ái, tình đồng chí, trung thành với Đảng và dân tộc, cùng với bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính Những phẩm chất này không chỉ là yêu cầu mà còn là tiêu chí để mỗi người tự điều chỉnh bản thân trong công việc và sinh hoạt hàng ngày Hồ Chí Minh đã tiếp thu và phát triển các khái niệm đạo đức phương Đông, khẳng định rằng cần, kiệm, liêm, chính không chỉ là lý thuyết mà phải được thực hiện để làm gương cho nhân dân Trong tác phẩm "Cần, kiệm, liêm, chính" viết tháng 6-1949, Người đã thường xuyên nhấn mạnh đến các giá trị đạo đức này.

Hồ Chí Minh không chỉ giải thích các phẩm chất cần, kiệm, liêm, chính mà còn nhấn mạnh mối quan hệ giữa chúng Người cho rằng cần, kiệm, liêm là gốc rễ của chính, và để trở thành người hoàn thiện, cần phải có đủ cả bốn phẩm chất này So sánh với bốn mùa và bốn phương, Người khẳng định rằng thiếu một phẩm chất thì không thể trở thành con người trọn vẹn.

Cần, kiệm, liêm, chính đối với cán bộ đảng viên lại càng cần thiết, bởi vì:

Theo Hồ Chí Minh, quyền lực của cán bộ các cơ quan và đoàn thể có sự phân chia rõ rệt, từ cao đến thấp, nhưng dù ở vị trí nào, nếu thiếu lương tâm sẽ dẫn đến tham nhũng và lạm dụng quyền lực Ông nhấn mạnh rằng những người nắm giữ chức vụ cần phải thực hiện các nguyên tắc Cần, Kiệm, Liêm, Chính để tránh trở thành hủ bại và biến thành gánh nặng cho dân.

Theo Hồ Chí Minh, cần, kiệm, liêm, chính là thước đo văn minh và tiến bộ của một dân tộc Ông nhấn mạnh rằng một dân tộc biết cần, kiệm, và liêm sẽ trở nên giàu có về vật chất và mạnh mẽ về tinh thần Những giá trị này là nền tảng cho đời sống mới và là động lực cho thi đua ái quốc, giúp con người làm việc, phục vụ đoàn thể, giai cấp và nhân dân Đồng chí Phạm Văn Đồng cũng khẳng định rằng cần, kiệm, liêm, chính là đặc điểm của xã hội hưng thịnh, trong khi những điều trái ngược lại dẫn đến sự suy vong của xã hội.

Chí công, vô tư là tinh thần đặt lợi ích của Đảng, Tổ quốc và đồng bào lên trên hết, không nghĩ đến bản thân Hồ Chí Minh đã vận dụng tư tưởng của Phạm Trọng Yêm để nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phục vụ nhân dân Ông yêu cầu phải thực hiện chí công vô tư bằng cách “kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân” và nâng cao đạo đức cách mạng, vì chủ nghĩa cá nhân mâu thuẫn với chủ nghĩa tập thể và đạo đức cách mạng.

Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng chủ nghĩa cá nhân là một nguy cơ tiềm ẩn, dễ dẫn dắt con người vào con đường sa sút Nó như một loại vi trùng độc hại, gây ra nhiều vấn đề như tham ô, hủ hóa, lãng phí, và thái độ coi thường tập thể Chủ nghĩa cá nhân và tư tưởng tiểu tư sản luôn hiện diện trong mỗi người, chờ đợi cơ hội để bộc lộ, dù là trong thất bại hay thành công Đây không chỉ là một kẻ thù mà còn là đồng minh của những thế lực thù địch khác.

Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam thành một Đảng có đạo đức cách mạng là mục tiêu quan trọng, nhằm biến Đảng thành một tổ chức văn minh, đúng như lời Bác Hồ đã nói về “một Đảng cách mạng chân chính” Điều này thể hiện qua các nội dung chủ yếu trong việc nâng cao phẩm chất đạo đức và tinh thần trách nhiệm của từng đảng viên, đồng thời khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.

 Đảng văn minh là một Đảng tiêu biểu cho lương tâm, trí tuệ và danh dự của dân tộc.

Sự ra đời của Đảng là một điều tất yếu, phản ánh quy luật phát triển văn minh của dân tộc và nhân loại Tất cả hoạt động của Đảng đều hướng đến yêu cầu phát triển của dân tộc, đặt lợi ích tối cao của dân tộc lên hàng đầu, trong khi mọi lợi ích giai cấp phải tuân theo sự phát triển chung của dân tộc Đảng cam kết thực hiện các hoạt động phù hợp với quy luật vận động của xã hội Việt Nam.

Đảng cần duy trì sự trong sạch và vững mạnh để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, đó là lãnh đạo nhân dân giành độc lập cho Tổ quốc và mang lại tự do, ấm no, hạnh phúc cho mọi người Trong thời kỳ Đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phòng ngừa và chống lại các tiêu cực trong nội bộ Đảng.

Xây dựng Đảng văn minh thể hiện qua việc Đảng hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật trong giai đoạn cầm quyền, khẳng định rằng Đảng không đứng trên dân tộc.

GIÁ TRỊ, Ý NGHĨA CỦA LUẬN ĐIỂM

LIÊN HỆ THỰC TIỄN VIỆT NAM

Ngày đăng: 26/11/2021, 07:07

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w