1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Khoá luận quan niệm của jean jacques rousseau trong tác phẩm “bàn về khế ước xã hội”

61 14 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 61
Dung lượng 553,56 KB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1: ĐIỀ U KI Ệ N VÀ TI ỀN ĐỀ CHO S Ự RA ĐỜ I QUAN (12)
    • 1.1. Nh ững điề u ki ệ n kinh t ế - xã h ội, văn hóa cho sự ra đờ i quan ni ệ m v ề (12)
    • 1.2. Nh ữ ng ti ền đề lý lu ậ n cho s ự ra đờ i c ủ a quan ni ệ m v ề t ự do c ủ a Jean (15)
    • 1.3. Jean Jacques Rousseau – cu ộc đờ i và tác ph ẩ m Bàn v ề kh ế ướ c xã h ộ i25 (27)
  • CHƯƠNG 2: NỘ I DU NG CƠ BẢ N QUAN NI Ệ M V Ề T Ự DO C Ủ A (36)
    • 2.1 Quan ni ệ m v ề t ự do trong tr ạ ng thái t ự nhiên (36)
    • 2.2. Quan ni ệ m v ề t ự do c ủa con ngườ i trong tr ạ ng thái xã h ộ i công dân . 37 2.3. Bi ệ n pháp th ự c hi ệ n quy ề n t ự do c ủa con ngườ i (39)
    • 2.4. Đánh giá quan niệ m v ề t ự do c ủ a Rousseau (53)

Nội dung

ĐIỀ U KI Ệ N VÀ TI ỀN ĐỀ CHO S Ự RA ĐỜ I QUAN

Nh ững điề u ki ệ n kinh t ế - xã h ội, văn hóa cho sự ra đờ i quan ni ệ m v ề

Thời kỳ cận đại ở Tây Âu được khởi đầu bằng các cuộc cách mạng tư sản, đánh dấu sự kết thúc của phương thức sản xuất phong kiến và sự chuyển mình sang tư bản chủ nghĩa Cuộc cách mạng đầu tiên diễn ra tại Hà Lan, sau đó là Anh, mở đường cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở Châu Âu Những cuộc cách mạng này là kết quả của một quá trình dài, từ những mầm mống tiềm tàng cho đến khi đủ sức thay thế hình thái xã hội đương thời, tiến tới một nấc thang cao hơn trong hình thái kinh tế - xã hội Karl Marx đã khẳng định rằng sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên Để chứng minh sự chuyển tiếp này, có thể xem xét các sự kiện lịch sử, cho thấy sự phát triển của tư bản chủ nghĩa đã giúp giai cấp tư sản trở thành lực lượng kinh tế mạnh mẽ Trong khi đó, giai cấp phong kiến và tăng lữ vẫn giữ quyền lực thống trị Đến thế kỷ XVIII, cách mạng công nghiệp tại Anh đã thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh chóng, biến quốc gia này thành cường quốc hàng đầu thế giới, trong khi Pháp, mặc dù đang phát triển, vẫn bị kìm hãm bởi chế độ phong kiến chuyên chế.

Trước cách mạng, nền kinh tế Pháp chủ yếu là nông nghiệp, với 90% nông dân và 30% đất đai bỏ hoang, do hình thức địa tô lạc hậu và chế độ phong kiến khắc nghiệt Chính sách thuế và lao động bắt buộc đã khiến các vùng quê trở nên nghèo nàn Ngược lại, nền công nghiệp Pháp phát triển vượt bậc, đặc biệt trong các lĩnh vực sản xuất bông, dệt tơ lụa, luyện kim và thương mại.

Tầng lớp quý tộc phong kiến đã bộc lộ sự yếu kém khi không thể giải quyết các vấn đề quốc gia, chỉ tập trung vào việc duy trì quyền lực và mở rộng đặc quyền của mình Sự gia tăng các phong trào phản phong kiến là hệ quả tự nhiên của sự kìm hãm từ chế độ, mặc dù vẫn có sự đàn áp từ giai cấp thống trị Điều này cho thấy chế độ phong kiến đã trở thành lực lượng phản động, không còn phù hợp với tiến bộ xã hội Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở Pháp yêu cầu phải xóa bỏ chế độ phong kiến, trong khi tầng lớp tư sản trở thành lực lượng đại diện cho lợi ích của những người bị áp bức Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất đang phát triển và hình thức lạc hậu của quan hệ sản xuất phong kiến phản ánh những mâu thuẫn tương tự trong xã hội tư bản sau này.

12 lại đẻ ra sự phủ định bản thân nó, với tính tất yếu của một quá trình tự nhiên”

Karl Marx nhấn mạnh rằng sự ra đời của một cuộc cách mạng Xã hội chủ nghĩa là điều tất yếu để thay thế quan hệ sản xuất tư bản đã trở nên lạc hậu Xét trong bối cảnh xã hội Pháp và phương Tây từ thế kỷ XVI đến XVIII, có thể thấy rằng sự chuyển biến lên hình thái xã hội cao hơn, tức là Tư bản chủ nghĩa, là một quá trình khách quan không thể tránh khỏi.

Trong bối cảnh kinh tế - xã hội đang chuyển biến mạnh mẽ, văn hóa cũng cần thay đổi để phù hợp với thực tiễn Tư tưởng nhân văn và khai sáng đóng vai trò quan trọng trong lịch sử - xã hội, có nguồn gốc từ thời cổ đại và bùng nổ trong thời kỳ Phục hưng, tiếp tục phát triển qua các triết thuyết thế kỷ XVII-XVIII Thời kỳ Khai sáng ở Anh đã khởi đầu xu hướng văn hóa thế tục, với sự duy lý hóa tôn giáo và cảm nhận về Thượng đế như một kiến trúc sư vĩ đại Sự nổi lên của tầng lớp nhà khoa học song hành với tầng lớp linh mục phản ánh sự chuyển mình của tư tưởng nhân văn trong thời kỳ này.

Pháp đã phát triển một nền văn hóa vững chắc dựa trên chủ nghĩa duy lý, điều này được thể hiện rõ qua các tác phẩm của những nhà khai sáng nổi bật Chẳng hạn, trong "Suy tư" của Pascal và những cuộc tranh luận của Voltaire, chúng ta thấy được sự ảnh hưởng mạnh mẽ của tư tưởng duy lý trong văn hóa Pháp.

Chủ nghĩa bi quan Kito giáo đã thúc đẩy việc xác lập một triết lý về con người, dựa trên việc thừa nhận hạnh phúc trần gian Montesquieu trong tác phẩm "Luận về những nguyên nhân hưng thịnh và suy vong của người La Mã" đã chỉ ra những tác hại của Kito giáo đối với xã hội, nguyên nhân là sự thủ tiêu tự do và đàn áp con người Do đó, văn hóa thời kỳ cận đại vừa mang tính thực dụng, vừa mang ý nghĩa giải phóng cá nhân khỏi sự chi phối của Kito giáo, tập trung vào con người hoạt động, tự thích nghi và sáng tạo, đồng thời đề cao lý tính của con người.

Sự phát triển mạnh mẽ của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và sự gia tăng của giai cấp tư sản Pháp đã dẫn đến sự bùng nổ các phong trào đấu tranh trong xã hội Trong bối cảnh đó, phong trào Khai sáng Pháp đã xuất hiện, phản ánh những biến chuyển quan trọng trong đời sống xã hội thời bấy giờ.

Nh ữ ng ti ền đề lý lu ậ n cho s ự ra đờ i c ủ a quan ni ệ m v ề t ự do c ủ a Jean

1.2 Những tiền đề lý luận cho sựra đời của quan niệm về tự do của Jean Jacques Rousseau

* Tư tưở ng v ề t ự do trướ c Jean Jacques Rousseu

Tư tưởng về tự do của Rousseau không xuất hiện một cách ngẫu nhiên mà được hình thành qua quá trình tích lũy lý luận từ các quan niệm trước đó, đặc biệt là trong thời kỳ Khai sáng Để hiểu rõ hơn về quan niệm này, cần xem xét các tư tưởng về tự do trong lịch sử triết học, bắt đầu từ nền dân chủ sơ khai của Hy Lạp vào thế kỷ V TCN, nơi mà các vấn đề về con người và xã hội đã được đặt ra bên cạnh sự quan tâm đến tự nhiên và vũ trụ.

Con người hiện nay không chỉ là chủ thể mà còn là đối tượng nghiên cứu, với triết gia Protagoras khẳng định rằng "Con người là thước đo tất thảy mọi vật" Ông coi nghệ thuật tranh luận là cách chứng minh vai trò của chủ thể, nơi con người phải lựa chọn giữa các ý kiến trái ngược để có lập trường nhất quán Trong khi đó, Socrates lại nhấn mạnh rằng sự tự do chỉ có ý nghĩa khi gắn liền với mục đích đạo đức cao nhất – cái Thiện phổ quát.

Aristotle, nhà triết học Hy Lạp cổ đại, đã nhấn mạnh tầm quan trọng của năng lực lựa chọn tự do trong bối cảnh đạo đức và chính trị Ông cho rằng con người, với tư cách là sinh vật xã hội, luôn có khả năng lựa chọn cách sống và hành xử phù hợp với lý trí Tuy nhiên, năng lực này không có nghĩa là vượt qua các quy tắc và chuẩn mực truyền thống, mà là sự khẳng định cái tôi trong khuôn khổ đạo đức Theo Aristotle, con người sở hữu tự do ý chí và có trách nhiệm đối với các hành động chính trị và đạo đức của mình.

Epicurus đã mang đến những quan điểm mới về tự do, coi đó là sự giải thoát khỏi mọi ràng buộc của số phận Ông cho rằng tự do phải dựa trên sự tĩnh tâm, giúp con người tự chủ và tự quyết định hành động để đạt được hạnh phúc, đồng thời tránh xa khổ đau và những thú vui vật chất tầm thường Theo ông, tự do chân chính là không bị lệ thuộc vào thói quen, tín ngưỡng truyền thống, không lo lắng về cái chết và không thừa nhận sự can thiệp của thần thánh trong cuộc sống.

Chế độ chiếm hữu nô lệ đã khiến 3/4 dân số trở thành nô lệ, biến họ thành những "công cụ biết nói" trong suốt quá trình tồn tại và phát triển của nó.

Nô lệ thường bị xem như hàng hóa trao đổi của các chủ nô, dẫn đến sự phân biệt rõ rệt giữa “công dân” và “nô lệ” Khái niệm này phản ánh sự khác biệt giữa người tự do và người không tự do, trong đó nô lệ được coi là những sinh vật không có tinh thần, tương tự như thế giới động vật.

Sự ra đời và phát triển của Kitô giáo được coi là một hình thức giải thoát tinh thần, diễn ra song song với việc thay thế quan hệ xã hội nô lệ bằng quan hệ phong kiến vào cuối thế kỷ IV và đầu thế kỷ V Dựa trên Kinh thánh như nền tảng và chân lý vĩnh cửu, các Giáo phụ nhấn mạnh rằng lý trí chỉ phục vụ cho đức tin Hai nhân vật tiêu biểu cho triết học Kitô giáo là Augustin và Thomas Aquinas.

Con người, được tạo ra theo hình ảnh của Thiên Chúa, nhận được món quà quý giá là tự do, trong đó tự do tinh thần được coi trọng hơn tự do thân xác Ngay cả khi bị biến thành nô lệ, ý chí tự do vẫn không bị khuất phục bởi sự nô lệ thân xác.

Thời kỳ Phục hưng đánh dấu sự chuyển biến tích cực so với thời kỳ trung cổ, khi mà xã hội bị ảnh hưởng nặng nề bởi thế giới quan tôn giáo Dù nhà nước thần quyền vẫn còn mạnh mẽ, các phong trào đòi quyền con người trong thời kỳ này đã khơi dậy tinh thần yêu chuộng tự do Con người bắt đầu nhận thức về tự do trong việc lựa chọn phương thức sống và tín ngưỡng, thay thế chủ nghĩa thầy tu khổ hạnh bằng chủ nghĩa hạnh phúc, và thuyết định mệnh bằng thuyết tự do cá nhân Chủ nghĩa nhân văn đã mở đường cho cuộc đấu tranh thực sự chống lại cả thần quyền lẫn thế quyền trong thời Cận đại.

Trong thời kỳ Cận đại, khái niệm tự do trở nên gắn bó chặt chẽ với sự phát triển tư tưởng về con người cá nhân, xã hội công dân và nhà nước pháp quyền Sự chuyển mình từ thời kỳ phong kiến Trung cổ đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc khẳng định giá trị của tự do và quyền con người.

Cận đại đánh dấu một bước ngoặt trong việc xem xét vị trí và vai trò của con người trong xã hội, nhấn mạnh tự do như phẩm giá tối thượng và bản tính vốn có của con người.

Vào giữa thế kỷ XVI tại Pháp, Boetie (1530 – 1563) đã nổi bật với tác phẩm "Luật về chế độ nô lệ tự nguyện", phản kháng lại chính trị bạo lực của chế độ phong kiến và ca ngợi sự tự do tự nhiên của con người Ông khẳng định rằng tự do chính là trạng thái tự nhiên, với tự do chính trị là tư tưởng trung tâm trong tác phẩm của mình Boetie nhấn mạnh rằng tự do và bình đẳng là quyền của mọi người, đối lập với chế độ quân chủ chuyên chế Ông cũng phân tích nguồn gốc của sự mất tự do và bình đẳng, cho rằng nó xuất phát từ sự ép buộc và lừa dối của các bạo chúa, khiến con người quen với hoàn cảnh và ngừng đấu tranh cho sự giải phóng của chính mình.

Ông tin tưởng mạnh mẽ vào việc nâng cao giáo dục và sức mạnh của lý trí, điều này sẽ khơi dậy khát vọng tự do trong mỗi con người.

Vào thế kỷ XVII – XVIII, nhiều nhà tư tưởng như Thomas Hobbes, John Locke, Montesquieu và Voltaire đã mạnh mẽ lên tiếng về quyền con người, yêu cầu tự do và bình đẳng trong xã hội Họ nhấn mạnh sự cần thiết phải thiết lập một nhà nước chân chính để bảo đảm các quyền cơ bản này, phản ánh nhu cầu của xã hội đang bước vào kỷ nguyên phát triển mới.

Thomas Hobbes trình bày quan điểm về trạng thái tự nhiên và xã hội công dân của con người Trong trạng thái tự nhiên, con người sống trong tình trạng vô chính phủ, thiếu tổ chức nhà nước và không có quyền lực rõ ràng, dẫn đến sự thống trị của quyền lực đám đông Sự hình thành của xã hội công dân với quyền lực nhà nước giúp chấm dứt tình trạng hỗn loạn này Hobbes nhấn mạnh rằng để duy trì hòa bình, cần có sự đồng thuận và ý chí thống nhất từ tất cả mọi người, mỗi cá nhân phải tuân thủ ý chí chung để đảm bảo trật tự xã hội.

Sự thống nhất được tạo ra bằng cách đó gọi là nhà nước hay xã hội công dân

Jean Jacques Rousseau – cu ộc đờ i và tác ph ẩ m Bàn v ề kh ế ướ c xã h ộ i25

*V ề cu ộc đờ i c ủ a Jean Jacques Rousseau

Jean Jacques Rousseau, sinh ngày 28 tháng 6 năm 1712 tại Genève, Thụy Sĩ, trong một gia đình thợ thủ công chuyên sửa chữa đồng hồ Ông có nguồn gốc Pháp từ phía ông nội, trong khi cha của ông là Issac.

J.J Rousseau chào đời không lâu thì mẹ ông qua đời, để lại cậu bé mồ côi trong sự chăm sóc của cha, ông Isaac Rousseau Trong suốt mười năm tuổi thơ, ông được cha nuôi dạy và khuyến khích đọc nhiều sách, đặc biệt là những tác phẩm của Plutarque về các nhân vật lịch sử Hy Lạp, điều này đã ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng và sự nghiệp sau này của ông.

J.J Rousseau, khi hồi tưởng về tuổi thơ, đã bày tỏ sự yêu thích đối với các tác phẩm của nhà văn Hy Lạp cổ đại, vì chúng mang lại cho ông tinh thần tự do và cộng hòa Ông cảm nhận được tính cách bất khuất, kiêu hãnh và lối sống không chấp nhận số phận nô lệ từ những tác phẩm này.

Năm 1722, Issac rời Geneve để kiếm sống, trong khi Rousseau sống cùng chú và được cho đi học nghề chạm khắc khi 15 tuổi Dù cuộc sống không quá vất vả, Rousseau vẫn trải qua những năm tháng đáng nhớ trong quá trình học tập và phát triển bản thân.

Rousseau, sống ở Geneve trong bối cảnh phong kiến nhưng lại bị ảnh hưởng bởi bầu không khí dân chủ tư sản, luôn cảm thấy cuộc sống của mình tù túng và bị coi thường Với khát vọng tự do từ nhỏ, vào ngày 14 tháng 3 năm 1728, khi gần tròn 16 tuổi, ông đã quyết định trốn khỏi Geneve để tìm kiếm một cuộc sống tốt đẹp hơn.

Trong những năm tháng lưu lạc để kiếm sống và mưu tìm sự nghiệp, từ

Từ năm 1728 đến 1741, J.J Rousseau đã trải qua nhiều công việc khác nhau ở Thụy Sĩ, Pháp và Italia, trước khi định cư tại Paris vào năm 1742 Dù làm thư ký sở địa chính, chép nhạc hay gia sư, ông luôn gặp khó khăn trong cuộc sống và không hài lòng với công việc của mình Tại Paris, ông cảm thấy xã hội thượng lưu xa lạ và không đồng cảm với cuộc sống của những người lao động mà ông yêu mến Để ổn định cuộc sống, Rousseau đã phải từ bỏ đạo Tin lành mà ông theo từ nhỏ để trở thành tín đồ Giatô giáo theo ý muốn của người khác.

Mặc dù phải kiếm sống hàng ngày, J.J Rousseau vẫn duy trì thói quen đọc sách và đã tiếp cận nhiều tác phẩm kinh điển của Plato, Virgil, Horace, Montaigne, Pascal và Voltaire ở tuổi 20 Đối với ông, việc đọc sách không chỉ là một sở thích mà còn là cách hiệu quả nhất để trang bị kiến thức Tư duy của ông về triết học, chính trị, văn học, âm nhạc và nghệ thuật đã được hình thành và phát triển trong những năm tháng lưu lạc Vào những năm cuối cuộc sống lưu lạc, Rousseau bắt đầu ghi chép những suy nghĩ về các lĩnh vực mà ông quan tâm, đánh dấu sự khởi đầu cho sự nghiệp lý luận của mình.

1742 - 1756 khi ông chuyển tới sống ở Paris

Năm 1742, J.J Rousseau đã cho ra mắt tác phẩm đầu tay mang tên "Kiến nghị lập bản ký âm mới cho âm nhạc." Ông đã gửi bản kiến nghị này đến Viện Hàn lâm khoa học Paris, nhưng không được Hội đồng giám định chấp thuận do phương pháp ghi âm mới của ông quá phức tạp và rắc rối so với cách ghi nốt nhạc phổ biến thời bấy giờ.

Năm 1745, J.J Rousseau kết hôn với Therèse Levasseur và làm nhiều nghề khác nhau như thư ký riêng và chép nhạc để kiếm sống Trong thời gian này, ông có mối liên hệ với Diderot cùng các nhà tư tưởng khác trong nhóm biên soạn Bách khoa toàn thư, đồng thời tham gia viết nhiều bài về khoa học, nghệ thuật và tuyên truyền tư tưởng tự do, bình đẳng, chống lại giáo hội và chế độ quân chủ chuyên chế đương thời.

Năm 1749, J.J Rousseau viết luận văn "Luận về khoa học và nghệ thuật" để tham gia cuộc thi của Viện Hàn lâm khoa học Dijon, với chủ đề về tác động của khoa học và nghệ thuật đến phong tục Ông khẳng định rằng sự tiến bộ trong các lĩnh vực này là cần thiết cho nhân loại, nhưng đồng thời chỉ trích việc khoa học lấn át tôn giáo, nghệ thuật thiên về tính nhục cảm và văn chương tràn ngập sự phóng đãng, dẫn đến việc con người lợi dụng chúng cho mục đích bất chính Rousseau cũng chỉ ra rằng tầng lớp thượng lưu quý tộc sống xa hoa trên lưng người lao động, khiến xã hội quý tộc càng sa vào trụy lạc trong khi người lao động ngày càng nghèo khổ Ông dành phần cuối của luận văn để ca ngợi những nhà khoa học và triết học chân chính như Bacon, Descartes và Newton, nhằm phân biệt họ với những kẻ áp bức và bóc lột.

Viện Hàn lâm khoa học Dijon trao giải thưởng Nó đã làm cho J.J.Rousseau

Vào năm 1750, tác phẩm đã trở nên nổi tiếng đến mức D Diderot phải thốt lên rằng chưa bao giờ ông thấy một trường hợp thành công như vậy Tuy nhiên, nó đã gây ra nhiều phản ứng trái ngược trong xã hội Pháp thời bấy giờ: giới quý tộc chỉ trích và công kích, trong khi đông đảo quần chúng nhân dân lại hoan nghênh cả nội dung lẫn tác giả.

Năm 1753, Rousseau tham gia cuộc thi do Viện Hàn lâm Dijon tổ chức với chủ đề “Nguồn gốc bất bình đẳng giữa người và người là gì? Nó phù hợp với luật tự nhiên hay không?” Trong luận văn, ông phê phán chế độ tư hữu tài sản, chỉ ra rằng đây là nguyên nhân sâu xa gây ra sự bất bình đẳng Mặc dù tác phẩm "Về nguồn gốc bất bình đẳng" không giành được giải thưởng, nhưng nó đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong cuộc đấu tranh chính trị của Rousseau.

Tháng 1 năm 1761, J.J.Rousseau cho ra mắt công chúng Pháp cuốn tiểu thuyết July hay nàng Heloise mới Trong tiểu thuyết này, thông qua câu chuyện tình éo le, trắc trở giữa nàng July - con gái một nam tước với chàng gia sư Xanh - Prơ, ông đã đưa ra một quan niệm mới về tình yêu và hết lòng ca ngợi tình yêu chân thật, ngợi ca những con người dám đấu tranh cho tự do hôn nhân, tự do luyến ái, đồng thời lên án gay gắt kiểu cưỡng ép hôn nhân của chế độ phong kiến đương thời Chính vì thế mà tiểu thuyết này đã được đông đảo công chúng Paris, nhất là các bậc mệnh phụ và lớp trẻ nồng nhiệt tiếp nhận

Tháng 5 năm 1762, J.J.Rousseau tiếp tục cho ra mắt công chúng Pháp cuốn tiểu thuyết thứ hai của ông - Emile hay bàn về giáo dục Trong tiểu thuyết này, thông qua câu chuyện hư cấu về cách dạy dỗ của anh gia sư Jean

Jacques đối với cậu học trò Emile, J.J.Rousseau đã đưa ra quan niệm mới về giáo dục, khuyến khích trẻ phát triển theo quy luật tự nhiên mà không bị cha mẹ cưỡng chế Mặc dù quan điểm này có phần thái quá, nhưng nó hoàn toàn trái ngược với nền giáo dục gò bó của chế độ phong kiến và Giáo hội đương thời Tinh thần dân chủ và tự do được nêu cao trong quan điểm giáo dục của Rousseau, nhằm đào tạo những công dân kiểu mới cho xã hội mới Chính vì lý do này, tiểu thuyết "Emile hay bàn về giáo dục" đã bị thu hồi ngay sau khi ra mắt công chúng Pháp và tác giả của nó bị truy nã.

NỘ I DU NG CƠ BẢ N QUAN NI Ệ M V Ề T Ự DO C Ủ A

Quan ni ệ m v ề t ự do trong tr ạ ng thái t ự nhiên

Cũng như các nhà triết học Cận đại khác, Rousseau coi tự do là một quyền tự nhiên của con người Ông nhận xét trong tác phẩm "Bàn về khế ước xã hội" rằng: “Người ta sinh ra tự do, nhưng rồi đâu đâu con người cũng sống trong xiềng xích” Qua đó, ông chỉ ra sự mâu thuẫn giữa quyền tự do vốn có và thực trạng con người đang phải chịu đựng Để giải thích nguyên nhân của sự đối lập này, Rousseau phân tích trạng thái tự nhiên của con người ở thời kỳ sơ khai.

Rousseau kế thừa quan niệm của các triết gia trước đó, cho rằng loài người trải qua hai trạng thái trong lịch sử: trạng thái tự nhiên và trạng thái xã hội công dân Trạng thái tự nhiên, tồn tại từ rất sớm trong lịch sử, được Rousseau nhìn nhận là thời kỳ hòa bình nhất, trái ngược với quan điểm của Hobbes về cuộc đấu tranh sinh tồn Trong trạng thái tự nhiên, con người chưa có sự phân biệt về kinh tế, xã hội hay đẳng cấp, tạo nên một xã hội bình yên và hạnh phúc Sự tương đồng trong quan niệm về trạng thái tự nhiên giữa Rousseau và Montesquieu cũng được thể hiện qua tác phẩm "Tinh thần pháp luật" của Montesquieu.

“Con người trong trạng thái tự nhiên có khả năng nhận thức trước khi có được

Montesquieu cho rằng hòa bình là quy luật đầu tiên của con người, trong khi ý tưởng về chiến tranh chỉ xuất hiện sau này Khi con người cảm thấy yếu đuối, họ thường ít nói và nhận thức về sự thấp kém của bản thân, dẫn đến việc không có ý định tấn công lẫn nhau Điều này cho thấy rằng trong trạng thái yếu đuối, mọi người có xu hướng nhìn nhận nhau như những người đồng cảnh ngộ.

Trong trạng thái tự nhiên, con người đạt được quyền tự do tuyệt đối, cho phép họ thực hiện mọi khả năng mà sức lực tự nhiên của mình có thể làm được Rousseau đã nhấn mạnh tầm quan trọng của tự do này trong việc phát triển bản thân.

Tự do là bản chất của con người, và điều đầu tiên trong tự do là mỗi cá nhân phải chăm lo cho sự tồn tại của chính mình Khi đến tuổi trưởng thành, con người cần tự quyết định các phương tiện sinh tồn và tự làm chủ bản thân Họ có quyền sống theo bản năng mà không bị ràng buộc bởi bất kỳ đạo luật nào, trong trạng thái đó, con người trở thành trung tâm của chính mình, không bị ảnh hưởng bởi luật tự nhiên.

Rousseau nhấn mạnh quyền tự do tự nhiên, nhưng sự tự do cá nhân này lại dẫn đến việc con người tự xóa bỏ quyền tự do của chính mình Trong trạng thái tự nhiên, mọi người đều có khả năng thực hiện hành vi không giới hạn, nhưng chính sự không giới hạn này gây ra xung đột giữa các cá nhân và nhóm người Thomas Hobbes đã chỉ ra rằng điều này dẫn đến "cuộc chiến tranh của tất cả mọi người chống lại tất cả" Do đó, tự do có thể gây hại và tổn thương cho người khác, đồng thời cũng tiềm ẩn khả năng gây xung đột.

36 nhận thiệt hại cho chính bản thân mình vì những người khác cũng có cơ hội làm như vậy

Trạng thái tự nhiên giai đoạn đầu biểu tượng cho thời ấu thơ và sự nhiệt huyết của nhân loại Qua quá trình sống, con người nhận ra tầm quan trọng của giao tiếp và tương tác, từ đó nâng cao nhận thức Sự tiến bộ khiến con người trở nên khéo léo hơn và sản xuất nhiều của cải hơn, dẫn đến sự dư thừa Tuy nhiên, mong muốn sở hữu của cải cá nhân đã tạo ra sự chênh lệch, gây ra mâu thuẫn xã hội giữa những người giàu và nghèo Sự xuất hiện của tư hữu dẫn đến bất đồng và bất công, đánh dấu sự kết thúc của trạng thái tự nhiên và khởi đầu cho xã hội có nhà nước và nền chính trị.

Con người từng trải qua một thời kỳ tự do vô hạn, nhưng sự tự do này nhanh chóng bị giới hạn bởi bất bình đẳng xã hội do chính con người tạo ra Những người có quyền lực muốn áp đặt sự thống trị lên người khác, dẫn đến việc hợp pháp hóa nô lệ trong xã hội Kết quả là, xã hội trở thành sân khấu cho những cuộc chiến tàn khốc, làm biến dạng bản tính con người.

Quan ni ệ m v ề t ự do c ủa con ngườ i trong tr ạ ng thái xã h ộ i công dân 37 2.3 Bi ệ n pháp th ự c hi ệ n quy ề n t ự do c ủa con ngườ i

Jean Jacques Rousseau đã nhấn mạnh rằng gia đình là mô hình xã hội đầu tiên trong xã hội chính trị, mang tính tự nhiên và lâu đời Trong gia đình, các thành viên nhận được tình thương từ người đứng đầu (cha) đối với con cái (dân chúng) thông qua sự chăm sóc Tuy nhiên, khi mở rộng ra quy mô lớn hơn là xã hội, ông chỉ ra rằng người lãnh đạo thường thiếu tình thương đối với dân chúng và có xu hướng kiểm soát họ Rousseau đã sử dụng hình thái xã hội chiếm hữu nô lệ như một ví dụ để minh họa cho sự khác biệt này, nhấn mạnh rằng "chỉ có những công ước" mới tạo ra mối quan hệ giữa người cầm quyền và dân chúng.

Jean Jacques Rousseau cho rằng sự thỏa thuận giữa người sở hữu quyền tự do và người chấp nhận từ bỏ tự do để có quyền sinh tồn là một hành động vô lý và mâu thuẫn Ông lên án việc từ bỏ tự do như một sự từ bỏ phẩm chất con người, quyền làm người và nghĩa vụ làm người Rousseau khẳng định rằng việc ghi vào công ước quyền hành tuyệt đối cho một bên và sự phục tùng vô hạn cho bên kia là điều hoàn toàn không hợp lý và vô nghĩa.

Nền văn hóa xã hội hình thành đồng thời với sự xuất hiện của cái ác, buộc con người phải phát huy khả năng và năng lực của mình để tồn tại Rousseau nhấn mạnh tầm quan trọng của một công ước xã hội khi bước vào trạng thái xã hội, khác với thỏa thuận giữa chủ nô và nô lệ hay giữa người thống trị và người bị trị Công ước này không phải là sự thống trị, mà là một hình thức quản lý xã hội, nơi quyền lợi của người lãnh đạo gắn bó với lợi ích của cộng đồng.

Rousseau khẳng định rằng để bảo vệ quyền lợi cá nhân, con người cần kết hợp lại thành một lực lượng chung, hành động hài hòa Xã hội công dân hình thành từ khế ước xã hội, vượt qua trạng thái tự nhiên Ông giải thích rằng việc mỗi cá nhân đóng góp sức mạnh vào “cái tổng lực” không làm mất đi tự do, mà ngược lại, mỗi thành viên vẫn giữ được quyền tự do như trước, chỉ tuân theo chính mình Khế ước xã hội không xóa bỏ sự bình đẳng tự nhiên, mà thông qua quyền bình đẳng về luật pháp và đạo đức, can thiệp vào sự bình đẳng về thế lực do tạo hóa.

Khế ước xã hội đánh đổi tự do thiên nhiên và quyền làm theo ý muốn để đổi lấy quyền tự do dân sự và quyền sở hữu tài sản Trong xã hội dân sự, mỗi cá nhân tự nguyện cống hiến cho cộng đồng, do đó, giới hạn của tự do dân sự phụ thuộc vào ý chí chung của mọi người.

Công ước xã hội hình thành khi mỗi cá nhân từ bỏ quyền riêng tư để hợp nhất thành quyền chung, dưới sự điều khiển của ý chí tập thể Hành vi liên kết này tạo ra một cơ thể tinh thần chung, với tiếng nói trong hội đồng tỷ lệ thuận với số lượng thành viên Nhà nước trong mô hình này hoàn toàn khác biệt so với nhà nước quân chủ, nơi nhân dân giữ vai trò tối cao, là nguyên thủ quốc gia và nhà lập pháp.

Bước chuyển từ trạng thái tự nhiên sang trạng thái dân sự là điều tất yếu theo Rousseau, khi con người không thể sống hài hòa trong xã hội với sự xuất hiện của tư hữu và bất bình đẳng Sự chuyển biến này không chỉ mang lại giá trị đạo đức mà trạng thái tự nhiên không thể có, mà còn tạo ra một cuộc sống ổn định hơn, thay thế cho sự tạm bợ Thay vì sống độc lập với thiên nhiên, con người đạt được tự do và an toàn cho bản thân, khác với sự tổn hại đến người khác Rousseau nhấn mạnh sự khác biệt giữa tự do thiên nhiên, giới hạn bởi sức lực cá nhân, và quyền tự do dân sự, được xác định bởi ý chí chung của cộng đồng.

Cần phân biệt giữa quyền sở hữu tự nhiên, chỉ là kết quả của sức mạnh và quyền lực của kẻ chiếm lĩnh đầu tiên, với quyền sở hữu trong trạng thái dân sự, được xây dựng trên một danh nghĩa tích cực.

Con người khi tham gia vào bản khế ước xã hội đánh đổi tự do thiên nhiên và quyền tự do không giới hạn để nhận lại tự do trong văn minh và quyền sở hữu Như ông đã chỉ ra, trong khế ước xã hội, con người mất đi tự do tự nhiên nhưng thu được quyền tự do dân sự và quyền sở hữu Một đặc điểm quan trọng của trạng thái dân sự là con người có khả năng kiểm soát ham muốn của bản thân, từ đó làm chủ chính mình Ngược lại, khi bị chi phối bởi những ham muốn bản năng mà không thể kiềm chế, con người rơi vào tình trạng nô lệ Do đó, tự do trong trạng thái tự nhiên không phải là tự do thực sự.

Con người ở độ tuổi 40 thường lo lắng về cuộc sống của mình Vì vậy, để đạt được tự do thực sự trong xã hội, họ cần từ bỏ một phần tự do tự nhiên để có được tự do dân sự.

Rousseau và John Locke có những quan niệm khác nhau về tự do Locke cho rằng tự do tự nhiên được duy trì khi con người tuân thủ luật tự nhiên, do đó không cần từ bỏ tự do của mình Ngược lại, Rousseau cho rằng con người phải hy sinh tự do tự nhiên để đạt được lợi ích chung Dù có sự khác biệt, cả hai đều đồng nhất rằng khế ước xã hội là phương tiện duy nhất để bảo đảm ý chí chung và khuyến khích sự tham gia toàn diện của mọi người.

Bước chuyển từ trạng thái tự nhiên sang trạng thái xã hội công dân đánh dấu một thay đổi quan trọng trong lịch sử nhân loại Sự xóa bỏ tự do nguyên thủy, vốn chỉ thỏa mãn các bản năng, đã dẫn đến việc thiết lập những giá trị tự do mới trong xã hội dân sự, bao gồm quyền sở hữu cá nhân Điều này không chỉ mang lại cho con người quyền tự do mà còn giúp họ vượt qua những kích thích của dục vọng bản năng, hướng tới một cuộc sống tinh thần cao hơn.

2.3 Biện pháp thực hiện quyền tự do của con người

Trong bối cảnh công ước xã hội, cần có một "thế lực" như "kim chỉ nam" để định hướng hành động và tư tưởng của mọi công dân, không phải do một cá nhân hay tổ chức tự ý thực hiện mà phải mang tinh thần công cộng Rousseau gọi đó là "ý chí chung" và "chủ quyền tối cao".

Ý chí chung, theo Rousseau, là yếu tố quan trọng trong việc hình thành khế ước xã hội, thể hiện tiếng nói chung của cộng đồng Sự tự do của con người chỉ có thể thực hiện khi mọi người đồng lòng hướng tới lợi ích chung, tạo nên một xã hội công bằng và hài hòa.

Trước khi viết tác phẩm Bàn về khế ước xã hội, Rousseau đã phân tích khái niệm ý chí chung trong bài viết Về kinh tế chính trị năm 1755 Ông cho rằng cơ thể chính trị là một xã hội quy ước có ý chí chung, nhằm duy trì và đảm bảo sự ổn định cho toàn bộ cơ thể và từng bộ phận của nó Ý chí chung này là nền tảng cho sự hình thành các bộ luật và là thước đo công bằng hay bất công cho tất cả các thành viên trong nhà nước, chỉ được áp dụng trong một cộng đồng xã hội nhất định Rousseau cũng xem xét các cấp độ khác nhau của ý chí chung, cho rằng ý chí của các cộng đồng riêng được thể hiện qua hai mối quan hệ: ý chí chung đối với các thành viên của cộng đồng cụ thể và có thể là ý chí riêng đối với cộng đồng lớn hơn.

Đánh giá quan niệ m v ề t ự do c ủ a Rousseau

Tác phẩm "Bàn về khế ước xã hội" là một lời kêu gọi mạnh mẽ về tự do, nhấn mạnh sự cần thiết phải thoát khỏi sự nô dịch của chế độ phong kiến.

Tinh thần pháp luật của Montesquieu và tác phẩm "Bàn về khế ước xã hội" của Rousseau là hai trong những tác phẩm quan trọng nhất của phong trào Khai sáng Pháp Những giá trị cốt lõi trong quan niệm tự do của Rousseau có thể được tóm tắt qua một số luận điểm chính, phản ánh tư tưởng tiến bộ và nhân văn của ông.

Rousseau đã chỉ trích sâu sắc những mặt tiêu cực của nền văn minh, đồng thời khẳng định quyền tự do và bình đẳng là những quyền tự nhiên của con người cần được bảo vệ Ông nhấn mạnh rằng nhiệm vụ của nhà nước là đảm bảo tự do, bình đẳng và công lý cho tất cả mọi người trong xã hội.

Nhà nước xuất phát từ sự thỏa thuận giữa con người nhằm bảo vệ các quyền tự nhiên như quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc, quyền tự do và bình đẳng Điều này đồng thời phản bác hệ tư tưởng phong kiến dựa vào thần quyền để duy trì quyền lực.

Quan niệm về Ý chí chung của Rousseau là nguồn gốc của quyền lực nhà nước, đóng vai trò quan trọng trong tư tưởng của Tổng thống Mỹ Lincoln về nhà nước của dân, do dân, vì dân Nó khẳng định quyền tự do tự nhiên của con người như một điều thiêng liêng Ý tưởng này đã được ghi nhận trong Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp năm 1791, Hiến pháp Hòa Kỳ, và được Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa trong Bản Tuyên ngôn độc lập năm 1945, khi ông trích dẫn rằng “Tất cả mọi người sinh ra có quyền bình đẳng” và “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi.”

Rousseau đã phát triển tư tưởng về khả năng thực hiện cách mạng và quyền của quần chúng nhân dân trong việc lật đổ chính phủ khi chính phủ đó vi phạm quyền con người và phá vỡ khế ước xã hội Tư tưởng này đã khích lệ và góp phần vào sự thành công của các cuộc cách mạng tư sản trong thời kỳ đó.

Mặc dù tư tưởng chính trị của Rousseau, đặc biệt là quan điểm về tự do, đã có những đóng góp quan trọng, nhưng ông vẫn không thể thoát khỏi những hạn chế của thời đại mình.

Tư tưởng về khế ước xã hội chưa được xác định nguồn gốc sâu xa liên quan đến sự hình thành của nhà nước và pháp luật, vì nó chỉ được coi là kết quả của thỏa thuận xã hội Thực tế, cần xem xét các yếu tố cơ bản của mối quan hệ kinh tế để hiểu rõ hơn về sự phát triển này.

Tư tưởng về ý chí chung và nền dân chủ trực tiếp, với chính phủ luân phiên đóng đô ở mỗi thành phố, thể hiện niềm tin mạnh mẽ vào quyền lập pháp trong mối quan hệ với các quyền hành pháp và tư pháp Tuy nhiên, những quan điểm này thiếu tính cụ thể, khả thi và có phần không tưởng.

Việc tuyệt đối hóa ý chí chung theo Rousseau là một sự hạn chế, khi ông yêu cầu con người từ bỏ tự do tự nhiên để phục tùng ý chí chung nhằm bảo vệ tự do cá nhân Mặc dù ý chí chung được coi là tối thượng và là "kim chỉ nam" cho mọi hành động tư tưởng, nhưng nó vẫn được đại diện bởi những con người cụ thể, vốn không thể hoàn toàn công minh và chính trực Do đó, ý chí cá nhân vẫn tồn tại, dẫn đến nguy cơ lạm dụng quyền lực nếu không có cơ chế kiểm soát và thiết chế bảo vệ quyền con người, cũng như quyền tự do của công dân trong nhà nước.

Rousseau đã nhấn mạnh tầm quan trọng của nền dân chủ trực tiếp và vai trò của mỗi công dân trong việc thông qua các đạo luật Ông cho rằng để thực hiện ý chí chung một cách trọn vẹn, cần thiết phải có một nền dân chủ hoàn hảo không có sự đại diện.

Rousseau coi sở hữu tư nhân là nguyên nhân gây ra bất bình đẳng xã hội, nhưng ông không phản đối nó mà thậm chí còn thừa nhận sự cần thiết của sở hữu tư nhân Ông ủng hộ các quyền tự nhiên, đặc biệt là quyền tự do dân sự, và phản đối việc xóa bỏ sở hữu tư nhân Dù ủng hộ chủ nghĩa bình quân, Rousseau bảo vệ sở hữu nhỏ chống lại những người sở hữu lớn và các kẻ thống trị phong kiến Ông mong muốn ngăn chặn những hậu quả tiêu cực của sở hữu tư nhân nhưng cũng coi đó là điều tất yếu trong xã hội, thể hiện sự mâu thuẫn trong quan niệm của mình.

54 thuẫn Một mặt khẳng định tính tất yếu, mặt khác lại phủ định chính luận điểm đó.

Jean Jacques Rousseau phân tích khái niệm “tự do” qua hai khía cạnh: tự do trong trạng thái tự nhiên và tự do trong trạng thái dân sự Ông nhấn mạnh rằng tuân thủ ý chí chung là điều kiện cần thiết để đạt được tự do dân sự khi con người chuyển nhượng tự do tự nhiên cho nhà nước Quan niệm về tự do và triết học chính trị của Rousseau được coi là một di sản tư tưởng quý giá của nhân loại Mặc dù đã hơn 250 năm trôi qua, những giá trị tư tưởng và lý luận trong tác phẩm của ông vẫn giữ nguyên giá trị và tiếp tục lan tỏa, góp phần hoàn thiện việc xây dựng nhà nước pháp quyền trong cả lý luận và thực tiễn.

Thế kỷ cận đại chứng kiến sự trỗi dậy của chủ nghĩa duy lý, tạo ra nhu cầu cấp bách về việc thiết lập một trật tự xã hội mới nhằm giải phóng con người và tôn trọng quyền tự do Các nhà tư tưởng Khai sáng đã sử dụng ngòi bút để xây dựng một xã hội "tự do, bình đẳng, bác ái" Tác phẩm "Bàn về khế ước xã hội" của Jean Jacques Rousseau không chỉ phản ánh quan điểm về xã hội công dân mà còn mở đường cho cuộc cách mạng tư sản tại Pháp Ông nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo vệ quyền lợi con người và thiết lập một chế độ xã hội đảm bảo quyền tự do, bình đẳng, coi đó là tiêu chuẩn cho một nhà nước hợp pháp Rousseau xem trí tuệ toàn dân là công cụ thiết yếu để duy trì sức mạnh quốc gia.

Rousseau đã đóng góp tiếng nói của mình vào tiếng nói chung của trào lưu triết học Khai sáng

Quan niệm về tự do của Jean Jacques Rousseau trong tác phẩm "Bàn về khế ước xã hội" có ảnh hưởng sâu sắc và giá trị lịch sử to lớn, thể hiện qua sự phát triển mạnh mẽ của trào lưu Khai sáng Pháp và đặc biệt là sự thành công của cuộc cách mạng tư sản Pháp năm 1789.

Ngày đăng: 23/11/2021, 13:30

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
[1] Dương Thị Ng ọ c Dung (2009), Tri ế t h ọ c chính tr ị Jean Jacques Rousseau và ý nghĩa lị ch s ử c ủ a nó, Lu ậ n án ti ến sĩ Triế t h ọc, trường Đạ i h ọ c Khoa h ọ c xã h ội và Nhân văn, Đạ i h ọ c Qu ố c gia Thành ph ố H ồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Triết học chính trị Jean Jacques Rousseau và ý nghĩa lịch sử của nó
Tác giả: Dương Thị Ng ọ c Dung
Năm: 2009
[2] Ăngghen, Ch ống Đuy -rinh, C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tậ p, Nxb. Chính tr ị Qu ố c gia, Hà N ộ i Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chống Đuy-rinh, C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập
Nhà XB: Nxb. Chính trị Quốc gia
[3] Ph ạ m Th ị Thu Hương (2007), Quan ni ệ m v ề con ngườ i trong tri ế t h ọ c Khai sáng Pháp, Lu ận văn thạc sĩ T ri ế t h ọ c, Đạ i h ọ c Khoa h ọ c Xã h ộ i và Nhân văn, Đạ i h ọ c Qu ố c Gia Hà N ộ i Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quan niệm về con người trong triết học Khai sáng Pháp
Tác giả: Ph ạ m Th ị Thu Hương
Năm: 2007
[4] Nguy ễ n Th ị Thanh Huy ền (2014), “Tư tưở ng c ủ a J.J Rousseau v ề quy ề n con người”, T ạ p chí Tri ế t h ọ c, 6 (277), 85 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tư tưởng của J.J Rousseau về quyền con người”, "Tạp chí Triết học
Tác giả: Nguy ễ n Th ị Thanh Huy ền
Năm: 2014
[5] Đỗ Minh H ợ p (2004),V ề khái ni ệm “tự do” trong triế t h ọ c Hêgen, T ạ p chí Tri ế t h ọ c, s ố 1, (1), 152 Sách, tạp chí
Tiêu đề: tựdo” trong triết học Hêgen," Tạp chí Triết học, số 1
Tác giả: Đỗ Minh H ợ p
Năm: 2004
[6] Nguy ễ n Chí Hi ế u (2015), Quan ni ệ m v ề t ự do như là quyền cơ bả n c ủ a con người trong tư tưở ng Rousseau và Tocqueville, T ạ p chí Nghiên c ứ u con ngườ i. 2 (77) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tạp chí Nghiên cứu con người
Tác giả: Nguy ễ n Chí Hi ế u
Năm: 2015
[7] H ội đồng trung ương chỉ đạ o biên so ạ n giáo trình qu ố c gia các b ộ môn khoa h ọ c Mác – Lênin, Tư tưở ng H ồ Chí Minh, Giáo trình tư tưở ng H ồ Chí Minh, Nxb.Chính tr ị Qu ố c gia Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh
Nhà XB: Nxb.Chính trị Quốc gia
[8] Vũ Thị Khuyên (2012), Tư tưở ng dân ch ủ c ủ a Russeau trong tác ph ẩ m “Bàn về kh ế ướ c xã h ội” , Lu ận văn thạc sĩ Triế t h ọc, trường Đạ i h ọ c Khoa h ọ c xã h ội và Nhân văn, Đạ i h ọ c Qu ố c gia Hà N ộ i Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tư tưởng dân chủ của Russeau trong tác phẩm "“Bàn về khế ước xã hội”
Tác giả: Vũ Thị Khuyên
Năm: 2012
[10] John Locke (2007), Kh ả o lu ậ n th ứ hai v ề chính quy ề n – chính quy ề n dân s ự , Nxb. Tri th ứ c Sách, tạp chí
Tiêu đề: Khảo luận thứ hai về chính quyền – chính quyền dân sự
Tác giả: John Locke
Nhà XB: Nxb. Tri thức
Năm: 2007
[11] C.Mác và Ph.Ă ngghen (2004), Toàn t ậ p, Nxb.S ự th ậ t, Hà N ộ i Sách, tạp chí
Tiêu đề: Toàn tập
Tác giả: C.Mác và Ph.Ă ngghen
Nhà XB: Nxb.Sự thật
Năm: 2004
[12] C.Mác và Ph.Ăngghen (1993) Toàn t ậ p, Nhà xu ấ t b ả n Chính tr ị qu ố c gia, Hà N ộ i Sách, tạp chí
Tiêu đề: Toàn tập
Nhà XB: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia
[14] Montesquieu (1996), Tinh th ầ n pháp lu ậ t (b ả n d ị ch c ủ a Hoàng Thanh Đạ m), Nxb. Giáo d ụ c và Khoa lu ật, Trường Đạ i h ọ c Khoa h ọ c xã h ộ i và nhân văn, Hà Nộ i, 1996 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tinh thần pháp luật
Tác giả: Montesquieu
Nhà XB: Nxb. Giáo dục và Khoa luật
Năm: 1996
[15] Nguy ễ n Th ế Nghĩa (2019), Tuy ể n t ậ p tri ế t h ọ c, Nxb.Chính tr ị qu ố c gia s ự th ậ t Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tuyển tập triết học
Tác giả: Nguy ễ n Th ế Nghĩa
Nhà XB: Nxb.Chính trị quốc gia sự thật
Năm: 2019
[16] Nguy ễ n Ái Qu ố c – H ồ Chí Minh, Những tác phẩm tiêu biểu từ 1919 đến 1945, Nxb.Giáo d ụ c Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những tác phẩm tiêu biểu từ 1919 đến 1945
Nhà XB: Nxb.Giáo dục
[17] Jean Jacques Rousseau (2004), Bàn v ề kh ế ướ c xã h ộ i, Hoàng Thanh Đạ m d ị ch, 2004, Nxb Lý lu ậ n Chính tr ị Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bàn về khế ước xã hội
Tác giả: Jean Jacques Rousseau
Nhà XB: Nxb Lý luận Chính trị
Năm: 2004
[18] Jean Jacques Rousseau (2018), Bàn v ề kh ế ướ c xã h ộ i, Hoàng Thanh Đạ m d ị ch, Nxb.Th ế gi ớ i Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bàn về khế ước xã hội
Tác giả: Jean Jacques Rousseau
Nhà XB: Nxb.Thế giới
Năm: 2018
[19] Jean Jacques Rousseau (2010), Emile hay là v ề giáo d ụ c, Lê H ồ ng Sân, Tr ầ n Qu ốc Dương dị ch, Nxb. Tri th ứ c, Hà N ộ i Sách, tạp chí
Tiêu đề: Emile hay là về giáo dục
Tác giả: Jean Jacques Rousseau
Nhà XB: Nxb. Tri thức
Năm: 2010
[20] Đinh Ngọ c Th ạ ch (2004), V ề “tự do: v ới tư cách phạ m trù c ủ a tri ế t h ọ c xã h ộ i, Tạp chí triết học, (2), 153 Sách, tạp chí
Tiêu đề: tự do: với tư cách phạm trù của triết học xã hội, "Tạp chí triết học
Tác giả: Đinh Ngọ c Th ạ ch
Năm: 2004
[21] Đinh Ngọ c Th ạ ch (2017), “ M ộ t s ố tư tưở ng tri ế t h ọ c chính tr ị c ủ a Gi.L ốccơ: Thự c ch ất và ý nghĩa lị ch s ử” , Tạp chí Triết học, (1), 188 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số tư tưởng triết học chính trị của Gi.Lốccơ: Thực chất và ý nghĩa lịch sử”, "Tạp chí Triết học
Tác giả: Đinh Ngọ c Th ạ ch
Năm: 2017
[22] Đinh Ngọ c Th ạ ch – Doãn Chính (2018) – L ị ch s ử tri ế t h ọc phương Tây: t ừ tri ế t h ọ c c ổ đại đế n tri ế t h ọ c c ổ điển Đứ c, Nxb. Chính tr ị Qu ố c gia s ự th ậ t, Hà N ộ i Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lịch sử triết học phương Tây: "từ triết học cổ đại đến triết học cổđiển Đức
Nhà XB: Nxb. Chính trị Quốc gia sự thật