Hiện nay, thời kì quá độ từ chủ nghĩa tư bản trên phạm vi toàn thế giới nói chung vẫn đang tiếp diễn và con đường “phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa” tại các nước chủ nghĩa xã hội nói riêng cũng có cơ sở lịch sử, thực tiễn sâu xa, vững chắc, mang tính quy luật khách quan, tất yếu và hoàn toàn khả thi. Việt Nam trong xu thế chung của thế giới cũng đang tiến hành quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đây là quá trình lâu dài và cũng có nhiều khó khan. Có nhiều tài liệu đã nghiên cứu về vấn đề này nhưng ở mỗi tài liệu thì mới đề cập đến một khía cạnh của con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nghiên cứu đề tài này cung cấp cho chúng ta thêm những thông tin quý giá về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trong nước để qua đó hình thành cho bản thân những tư duy kinh tế, giúp ta hiểu được tình hình quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày nay.
LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH
Khái niệm cơ bản về quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Để hiểu rõ về quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trước tiên cần tìm hiểu về thời kỳ quá độ Theo lý luận Mác – Lênin, để tiến từ phương thức sản xuất thấp lên cao hơn, việc trải qua thời kỳ quá độ là điều cần thiết Mác đã khẳng định rằng thời kỳ quá độ là giai đoạn cải biến cách mạng liên tục, triệt để và toàn diện giữa các phương thức sản xuất Trong thời kỳ này, về mặt kinh tế, chính trị và xã hội, sẽ xuất hiện nhiều mâu thuẫn cần được lý luận giải quyết một cách triệt để.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) là quá trình chuyển tiếp từ trật tự xã hội cũ sang trật tự xã hội mới thông qua cách mạng, với sự phát triển dựa trên các luận chứng khoa học về tính tất yếu lịch sử của CNXH và vai trò của giai cấp công nhân Quá độ này bao gồm sự thay đổi về phương thức sản xuất, quan hệ sản xuất và chế độ sở hữu, nhằm thiết lập một xã hội mang tính chất xã hội chủ nghĩa, trong đó giai cấp công nhân và nhân dân lao động là chủ thể quyền lực của nhà nước kiểu mới.
Tính tất yếu của quá độ lên CNXH
1.2.1 Tính tất yếu của quá độ lên CNXH
C.Mác cho rằng thời kì này bao gồm những cơn đau đẻ kéo dài có nghĩa là tiến trình quá độ không dễ dàng, nhanh chóng và có thể trải qua nhiều khúc quanh; những quãng cách mới đi đến kết quả cuối cùng Điều đó cũng được Lênin khẳng định rằng: Trong thời kì quá độ, sự nghiệp xây dựng cnxh có khi phải
Quá trình chuyển đổi trong gần 90 năm qua đã trải qua nhiều lần điều chỉnh và thử thách, cho thấy sự cần thiết phải "làm lại nhiều lần" để đạt được kết quả cuối cùng Những thất bại và thành công trong giai đoạn này đã chứng minh rằng sự kiên nhẫn và nỗ lực không ngừng là yếu tố quan trọng để tiến tới thành công.
Theo V.I.Lênin tất yếu xảy ra quá trình quá độ lên CNXH là do đặc điểm ra đời phương thức sản xuất Cộng sản chủ nghĩa và cách mạng vô sản quy định, sự hình thành chế độ mới có thể ví như một cơn đau đẻ kéo dài do đó nó cần phải có thời gian, có những sự chuẩn bị và những tích lũy vật chất cần thiết đủ cho nó lọt lòng và phát triển.
Cách mạng vô sản khác biệt cơ bản so với Cách mạng tư sản, vì quan hệ sản xuất phong kiến và tư bản chủ nghĩa đều dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất Điều này cho phép quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển từ xã hội phong kiến, với nhiệm vụ chính là giải quyết vấn đề chính quyền Nhà nước và tạo ra một nền kinh tế thị trường phù hợp với cơ sở hạ tầng của nó.
Sự phát triển của phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa là một quá trình dài hạn, không thể hoàn thiện ngay lập tức Để nâng cao lực lượng sản xuất, tăng năng suất lao động và xây dựng chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, cần có thời gian và một giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội là điều tất yếu.
1.2.2 Các loại hình quá độ lên CNXH
Chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định rằng con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) của mỗi quốc gia là khác nhau, tuy nhiên, C.Mác đã tổng quát hóa và phân loại thành hai hình thức quá độ lên CNXH.
Quá độ phát triển tuần tự yêu cầu các quốc gia muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội phải trải qua tất cả các phương thức sản xuất từ thấp đến cao Mặc dù quá trình này diễn ra chậm, nhưng nó rất vững chắc, vì mỗi phương thức sản xuất trước đó tạo điều kiện cho phương thức sản xuất tiếp theo.
Quá độ nhảy vọt hay bỏ qua theo lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin cho phép các quốc gia tiến lên chủ nghĩa xã hội bằng cách bỏ qua một hoặc vài bước trung gian Để thực hiện con đường này, các quốc gia cần tạo ra các điều kiện tiền đề cả bên trong lẫn bên ngoài Điều kiện bên trong bao gồm việc hình thành một đảng của giai cấp vô sản lãnh đạo, đồng thời phải liên minh với các tầng lớp lao động Về điều kiện bên ngoài, ít nhất một quốc gia phải có cách mạng xã hội chủ nghĩa thành công để hỗ trợ.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
1.3.1 Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
1.3.1.1 Một số đặc trưng cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện vừa thuận lợi vừa khó khăn đan xen, có những đặc trưng cơ bản:
Xuất phát từ một xã hội thuộc địa và nửa phong kiến với lực lượng sản xuất thấp, đất nước đã trải qua nhiều thập kỷ chiến tranh ác liệt, để lại hậu quả nặng nề Những tàn dư thực dân và phong kiến vẫn còn tồn tại, trong khi các thế lực thù địch liên tục tìm cách phá hoại chế độ xã hội chủ nghĩa và nền độc lập dân tộc của nhân dân.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang diễn ra mạnh mẽ, thu hút sự quan tâm của các quốc gia với mức độ khác nhau Nền sản xuất vật chất và đời sống xã hội đang trải qua quá trình quốc tế hóa sâu sắc, ảnh hưởng lớn đến nhịp độ phát triển lịch sử và cuộc sống của các dân tộc Những xu hướng này không chỉ mang lại cơ hội phát triển nhanh chóng cho các quốc gia mà còn đặt ra những thách thức nghiêm trọng.
Thời đại hiện nay vẫn là giai đoạn chuyển tiếp từ chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa xã hội, mặc dù chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu đã sụp đổ Các quốc gia với chế độ xã hội và mức độ phát triển khác nhau đang cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa cạnh tranh vì lợi ích quốc gia và dân tộc Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội, dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng theo quy luật tiến hóa của lịch sử, nhân loại sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội.
1.3.1.2 Nhận thức về quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chủ nghĩa tư bản ở Việt Nam
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội mà không qua chế độ tư bản chủ nghĩa là lựa chọn duy nhất đúng đắn, phản ánh quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam trong thời đại hiện nay Cương lĩnh năm 1930 của Đảng khẳng định rằng sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, Việt Nam sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội Đây là sự lựa chọn quyết liệt của Đảng, đáp ứng nguyện vọng của dân tộc và phù hợp với xu thế phát triển của thời đại, đồng thời phản ánh quan điểm khoa học và sáng tạo của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là con đường phát triển của Việt Nam, theo Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam Điều này có nghĩa là không thiết lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng vẫn tiếp thu các thành tựu về khoa học và công nghệ từ chế độ tư bản để phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng nền kinh tế hiện đại Tư tưởng này phản ánh nhận thức và tư duy mới của Đảng về con đường tiến tới chủ nghĩa xã hội.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội mà không qua chế độ tư bản chủ nghĩa là một con đường cách mạng tất yếu và khách quan, thể hiện sự cần thiết trong quá trình xây dựng đất nước trong giai đoạn chuyển tiếp này ở Việt Nam.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội là quá trình không thông qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là không thiết lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản Trong giai đoạn này, tồn tại nhiều hình thức sở hữu và thành phần kinh tế, nhưng sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa không chiếm ưu thế Phân phối trong thời kỳ quá độ vẫn chủ yếu dựa vào lao động, bên cạnh đó còn có phân phối theo mức độ đóng góp và quỹ phúc lợi xã hội Mặc dù vẫn tồn tại quan hệ bốc lột, nhưng bốc lột tư bản chủ nghĩa không giữ vai trò chủ đạo.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội mà không qua chế độ tư bản chủ nghĩa cần tiếp thu và kế thừa những thành tựu nhân loại đã đạt được dưới chủ nghĩa tư bản, đặc biệt là trong lĩnh vực khoa học, công nghệ và quản lý Điều này là cần thiết để phát triển xã hội, xây dựng nền kinh tế hiện đại và nhanh chóng nâng cao lực lượng sản xuất.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội mà không qua chế độ tư bản chủ nghĩa tạo ra sự biến đổi chất lượng xã hội trên mọi lĩnh vực Đây là một sự nghiệp khó khăn, phức tạp và kéo dài, với nhiều giai đoạn và hình thức tổ chức kinh tế, xã hội mang tính chất quá độ Điều này đòi hỏi sự quyết tâm chính trị cao và khát vọng lớn từ toàn Đảng và toàn dân.
1.3.2 Những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội và phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay 1.3.2.1 Những đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội Việt Nam
Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện Việt Nam, Đảng và nhân dân ta đã có những bước tiến quan trọng trong nhận thức về chủ nghĩa xã hội qua hơn 30 năm đổi mới Từ Đại hội IV (1976), nhận thức chỉ dừng lại ở mức định hướng, nhưng đến Đại hội VII, đã có sự phát triển rõ rệt với nhận thức định hình và định lượng về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991) đã xác định mô hình chủ nghĩa xã hội với sáu đặc trưng Đến Đại hội XI, nhận thức tiếp tục phát triển, với Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011, mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam đã được mở rộng với tám đặc trưng, phản ánh mục tiêu và bản chất của xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng.
Nền tảng cho sự phát triển của xã hội là do nhân dân lao động làm chủ, với nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu Văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là yếu tố quan trọng, trong khi con người được giải phóng khỏi áp bức, bốc lột, bất công, sống theo năng lực và hưởng theo lao động, đảm bảo cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc và điều kiện phát triển toàn diện Các dân tộc trong nước cần bình đẳng, đoàn kết và hỗ trợ lẫn nhau để cùng tiến bộ, đồng thời duy trì quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
Một là: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Hai là: Do nhân dân làm chủ.
Ba là: Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp.
Bốn là: Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Năm là: Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.
Sáu là: Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển.
Bảy là: Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Tám là: Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.
1.3.2.2 Phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay
Đảng ta đã xác định rõ mục tiêu và đặc trưng của chủ nghĩa xã hội, cùng với những nhiệm vụ quan trọng trong sự nghiệp xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ Để đạt được điều này, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân cần nêu cao tinh thần cách mạng tiến công, phát huy ý chí tự lực tự cường, tận dụng mọi tiềm năng và trí tuệ, nhằm vượt qua thách thức và xây dựng đất nước ngày càng to đẹp và đàng hoàng hơn.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991) xác định 7 phương hướng cơ bản cho con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam Tại Đại hội XI, Cương lĩnh đã được bổ sung và phát triển vào năm 2011, xác định 8 phương hướng mới, phản ánh rõ nét hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Một là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường
Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Ba là xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, mang đậm bản sắc dân tộc; đồng thời, phát triển con người và nâng cao chất lượng đời sống của nhân dân, nhằm thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội
THỰC TRẠNG NỀN KINH TẾ QUÁ ĐỘ Ở NƯỚC TA
Những thành tựu đạt được
Nhờ đường lối phát triển kinh tế đúng đắn, Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu ấn tượng trong gần 30 năm đổi mới, được quốc tế đánh giá cao Sau 10 năm đổi mới, đất nước đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội, và sau 25 năm, đã chuyển mình từ nước nghèo sang nhóm nước có thu nhập trung bình Giai đoạn 2001-2010 chứng kiến tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh chóng, đạt 7,26%/năm, với GDP năm 2010 đạt 101,6 tỷ USD, gấp 3,26 lần so với năm 2000 GDP bình quân đầu người cũng tăng từ 1168 USD năm 2010 lên khoảng 1900 USD năm 2014 Mặc dù giai đoạn 2011-2015 đối mặt với khó khăn do khủng hoảng tài chính toàn cầu, tốc độ tăng GDP vẫn đạt 5,8%, và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong giai đoạn 2006-2010 đạt gần 45 tỷ USD.
Tổng vốn ODA cam kết đạt trên 31 tỷ USD, vượt 1,3 lần so với mục tiêu, với giải ngân ước đạt khoảng 13,8 tỷ USD, tăng 17,5% Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, với tỷ trọng khu vực công nghiệp và dịch vụ tăng lên, trong khi khu vực nông nghiệp giảm xuống Năm 2010, khu vực công nghiệp chiếm 41,1% GDP, khu vực dịch vụ 38,3%, và khu vực nông nghiệp 20,6% Hạ tầng được xây dựng hiện đại, đồng bộ, và nguồn nhân lực qua đào tạo ngày càng tăng, đạt 49% vào năm 2013, góp phần cải thiện đời sống nhân dân.
2.1.2 Về xã hội Đảng ta đã quan tâm phát triển giáo dục, đào tạo và khoa học, công nghệ, coi phát triển giáo dục, đào tạo cùng với khoa học, công nghệ là quốc sách hàng đầu Tiến hành đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo thực hiện đồng bộ các giải pháp phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo ở các cấp học và ngành học Mở rộng giáo dục mầm non 5 tuổi Thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở Phát triểt mạnh dạy nghề và giáo dục chuyên nghiệp, nâng cao chất lượng giáo dục đại học
Phát triển khoa học công nghệ là yếu tố quyết định cho sự phát triển nhanh và bền vững của nền kinh tế, giúp nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh Để đạt được mục tiêu này, cần thực hiện đồng bộ ba nhiệm vụ chính: nâng cao năng lực khoa học và công nghệ, đổi mới cơ chế quản lý, và đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng Đồng thời, cần phát triển giáo dục và đào tạo để từng bước xây dựng nền kinh tế tri thức theo các lộ trình hợp lý.
Trong những năm đổi mới, Việt Nam đã chú trọng thực hiện các chính sách xã hội nhằm nâng cao hạnh phúc con người, thể hiện bản chất ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa và khắc phục những hạn chế của cơ chế kinh tế thị trường Chính sách xã hội không chỉ đảm bảo đời sống vật chất cho mọi thành viên mà còn tạo ra từ 1,5 đến 1,6 triệu việc làm mới mỗi năm, giảm tỷ lệ thất nghiệp Đảng và Nhà nước nhất quán trong việc giảm nghèo bền vững, ưu tiên cho các huyện nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số, với tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 60% trước đổi mới xuống còn 9,5% vào năm 2011 và phấn đấu dưới 5% vào năm 2015 Thành tựu giảm nghèo của Việt Nam được Liên Hiệp Quốc công nhận Hệ thống y tế được cải thiện đáng kể, với sự gia tăng về số bác sĩ và giường bệnh, cùng với chất lượng dịch vụ y tế ngày càng cao Chính sách ưu đãi cho người có công với cách mạng được đặc biệt quan tâm, đảm bảo mức sống cao hơn mức trung bình Hệ thống an sinh xã hội được mở rộng và phát triển mạnh mẽ, bao gồm bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, và bảo hiểm thất nghiệp, nhằm tạo điều kiện cho người lao động tiếp cận và tham gia Các hình thức cứu trợ xã hội cũng được mở rộng, đảm bảo cung ứng dịch vụ cơ bản cho người nghèo và những người có hoàn cảnh khó khăn.
2.1.3 Về chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam đã rất coi trọng công tác xây dựng Đảng, coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt Nội dung xây dựng Đảng bao gồm xây dựng Đảng cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức, phương thức lãnh đạo và phong cách công tác. Mục đích nhằm xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động; đẩy mạnh nghiên cứu lý luận về Đảng cầm quyền, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với tình hình mới; phòng và chống những nguy cơ lớn đối với một Đảng cầm quyền: sai lầm về đường lối, bệnh quan liêu, mất dân chủ và sự thoái hóa, biến chất của cán bộ, đảng viên Đảng khẳng định phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định nguyên tắc tập trung dân chủ, kiên định đường lối đổi mới, chống giáo điều, bảo thủ hoặc chủ quan, nóng vội, cực đoan Tổ chức việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong Đảng và nhân dân.
Tiếp tục đổi mới và kiện toàn tổ chức của Đảng và hệ thống chính trị, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm từng tổ chức, đồng thời sáp nhập một số ban, bộ, ngành Trung ương để giảm bớt đầu mối và cải cách hành chính Tăng cường chất lượng tổ chức cơ sở đảng, phát triển đảng viên và nâng cao công tác quản lý Đổi mới mạnh mẽ các khâu công tác cán bộ như đánh giá, quy hoạch, luân chuyển, đào tạo và bổ nhiệm Tăng cường công tác dân vận, nâng cao hiệu quả kiểm tra, giám sát và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã hội.
Việt Nam đang tích cực xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, khẳng định quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân và được thực hiện thông qua sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước Trong thời kỳ đổi mới, Hiến pháp năm 1992 và 2013 cùng với nhiều bộ luật đã được ban hành nhằm hoàn thiện Nhà nước pháp quyền, nâng cao vai trò của Hiến pháp và pháp luật trong đời sống xã hội Quá trình này cũng bao gồm việc cải cách tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan tư pháp và chính quyền địa phương Mục tiêu của việc đổi mới hệ thống chính trị là xây dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, với dân chủ vừa là bản chất, vừa là động lực cho sự nghiệp đổi mới.
Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm.
2.2.1 Những hạn chế tồn tại trong nền kinh tế của thời kì quá độ
Trong những năm đổi mới, mặc dù tốc độ tăng trưởng kinh tế khá, nhưng sự phát triển kinh tế vẫn chưa tương xứng với tiềm năng và yêu cầu, thiếu bền vững, đặc biệt trong 10 năm qua Chất lượng, hiệu quả, năng suất lao động và năng lực cạnh tranh quốc gia vẫn còn thấp Hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa hoàn thiện, trong khi hệ thống thị trường phát triển chưa đồng bộ Chất lượng nguồn nhân lực và kết cấu hạ tầng còn nhiều hạn chế, cản trở sự phát triển Việc xây dựng nền tảng để trở thành một nước công nghiệp hiện đại đang diễn ra chậm và gặp nhiều khó khăn.
2.2.2 Hạn chế trong quản lý của nhà nước
Trong lĩnh vực chính trị, đổi mới chính trị diễn ra chậm và chưa đồng bộ với đổi mới kinh tế, đặc biệt là về tổ chức, thể chế và chính sách Hệ thống chính trị hiện vẫn cồng kềnh, hiệu lực và hiệu quả hoạt động chưa đạt yêu cầu Mặc dù biên chế của hệ thống chính trị ngày càng gia tăng, nhưng chất lượng công vụ vẫn còn thấp.
Việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã đạt được nhiều tiến bộ, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế Nguyên tắc kiểm soát quyền lực nhà nước gặp nhiều bất cập, trong khi số lượng văn bản luật ngày càng tăng nhưng hiệu lực pháp luật chưa cao Việc phát huy dân chủ chưa gắn liền với việc bảo đảm kỷ cương, kỷ luật và pháp luật Hiệu lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước còn hạn chế, cải cách hành chính diễn ra chậm chạp, và cải cách tư pháp vẫn còn lúng túng.
Mặc dù đã có nhiều nghị quyết và chỉ thị từ Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị nhằm xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nhưng công tác này vẫn chưa có sự chuyển biến đáng kể Các giải pháp để ngăn chặn tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức và lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa hiệu quả; tình trạng tham nhũng, lãng phí và tiêu cực xã hội vẫn diễn ra nghiêm trọng Công tác tư tưởng, lý luận, tổ chức cán bộ, kiểm tra giám sát và dân vận còn nhiều bất cập Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và các tổ chức xã hội chưa được đổi mới kịp thời, dẫn đến năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của nhiều tổ chức đảng còn thấp, quản lý đảng viên lỏng lẻo và chế độ trách nhiệm chưa rõ ràng, đặc biệt là đối với người đứng đầu.
Những hạn chế hiện tại khiến Đảng chưa đạt được sự trong sạch và vững mạnh cần thiết, không đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ, từ đó làm giảm lòng tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.
PHƯƠNG HƯỚNG CHO CON ĐƯỜNG QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
Giải pháp về công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH-HĐH), Việt Nam có lợi thế là nước đi sau, có thể học hỏi từ kinh nghiệm thành công của các quốc gia đi trước, từ đó rút ngắn thời gian thực hiện Bối cảnh hiện tại cho thấy nhân loại đang chuyển sang phát triển kinh tế tri thức (KTTT) với sự bùng nổ của các công nghệ như tự động hóa, công nghệ thông tin, công nghệ gen, công nghệ nano và vật liệu mới Điều này đúng như dự đoán của C Mác và Ph Ăng-ghen vào giữa thế kỷ XIX rằng "tri thức sẽ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp" Đây là cơ hội lịch sử hiếm hoi để Việt Nam thu hẹp khoảng cách với các nước phát triển, vì vậy việc chuyển đổi nền kinh tế sang phát triển dựa vào tri thức là yêu cầu cấp thiết không thể trì hoãn.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, Việt Nam cần thực hiện đồng thời hai quá trình quan trọng: chuyển đổi từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp (CNH-HĐH) và từ kinh tế nông-công nghiệp sang kinh tế thị trường (KTTT) Khác với các quốc gia đi trước, Việt Nam có cơ hội tận dụng, do đó hai quá trình này được lồng ghép và kết hợp một cách linh hoạt, với sự kết hợp giữa các bước phát triển tuần tự và những bước nhảy vọt trong phát triển kinh tế.
Nội dung chính của việc thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH-HĐH) gắn liền với phát triển kinh tế thị trường (KTTT) là lựa chọn bỏ qua một số thế hệ công nghệ trung gian để áp dụng công nghệ cao và công nghệ mới Điều này nhằm nhanh chóng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng gia tăng các ngành công nghiệp dịch vụ có hàm lượng tri thức và giá trị gia tăng cao Trong "Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011-2020", bên cạnh các mục tiêu khối lượng, việc thúc đẩy tăng trưởng bền vững cũng được đặt ra là một ưu tiên quan trọng.
Để đạt được mục tiêu GDP bình quân 7-8% mỗi năm và GDP bình quân đầu người khoảng 3.000 USD, Việt Nam cần tập trung vào việc cơ cấu lại sản xuất công nghiệp theo hướng tăng cường hàm lượng khoa học công nghệ và tỷ trọng giá trị nội địa Các ngành công nghiệp và dịch vụ cần chiếm khoảng 85% GDP, trong khi giá trị sản phẩm công nghệ cao đạt 45% GDP Yếu tố năng suất tổng hợp đóng góp 35% vào tăng trưởng, cùng với việc giảm tiêu hao năng lượng trên GDP từ 2,5-3% mỗi năm và tỷ lệ lao động nông nghiệp xuống còn 30-35% Để đạt được những chỉ tiêu này, cần phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn như công nghệ thông tin, khai khoáng, luyện kim, hóa chất, chế biến nông sản và năng lượng, đồng thời đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn thông qua đổi mới đào tạo nhân lực và ứng dụng công nghệ sinh học để gia tăng giá trị nông-lâm-thủy sản.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, Việt Nam có nhiều cơ hội để nâng cao hàm lượng khoa học công nghệ trong sản phẩm Để đạt được điều này, cần đẩy mạnh việc sử dụng tri thức mới thông qua nhập khẩu công nghệ trực tiếp, thu hút đầu tư, mua bằng sáng chế, và mời chuyên gia nước ngoài Ngoài ra, việc học hỏi và áp dụng công nghệ mềm như quản lý, kinh nghiệm nhân tài, và đổi mới thể chế kinh tế cũng rất quan trọng Công nghệ và tri thức luôn thay đổi, vì vậy việc tiếp cận và áp dụng chúng là cần thiết để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và ứng dụng tri thức mới vào các ngành kinh tế.
Chúng ta cần kết hợp hai quá trình là công nghiệp hóa - hiện đại hóa (CNH-HĐH) và phát triển kinh tế thị trường (KTTT), điều này đòi hỏi phải thực hiện các bước đi tuần tự song song với những bước phát triển nhảy vọt.
Xây dựng hai trung tâm quốc gia về công nghệ cao tại Hà Nội và TP Hồ Chí Minh sẽ là động lực chính cho sự phát triển công nghệ ở Việt Nam, đồng thời tạo ra mô hình tiêu biểu cho cả nước Những trung tâm này không chỉ thu hút mà còn nuôi dưỡng công nghệ và tri thức mới từ khắp nơi trên thế giới.
Đẩy nhanh quá trình xây dựng thị trường khoa học - công nghệ, nơi mọi tri thức và công nghệ có thể được trao đổi, mua bán và chuyển giao dễ dàng Thị trường này cần được phát triển trong tinh thần cạnh tranh bình đẳng, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển và đổi mới.
Ba là, việc sử dụng công cụ tín dụng và thuế nhằm khuyến khích doanh nghiệp bỏ qua các thế hệ công nghệ trung gian và trực tiếp áp dụng các công nghệ tiên tiến, công nghệ cao.
Tạo môi trường thuận lợi cho các tập đoàn xuyên quốc gia không chỉ đầu tư vào cơ sở sản xuất mà còn phát triển cơ sở đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, giúp nâng cao kỹ năng nghề nghiệp cho người lao động.
Năm là, chính phủ khuyến khích du học sinh ra nước ngoài học tập và triển khai các chính sách đãi ngộ hấp dẫn nhằm thu hút họ trở về nước làm việc hoặc khởi nghiệp.
Để phát triển khoa học-công nghệ, cần có một chiến lược rõ ràng với các bước đi thích hợp Giai đoạn đầu nên tập trung vào việc tiếp cận, tiếp thu và chuyển giao công nghệ mới, ưu tiên xây dựng các khu công nghệ cao cấp để thu hút công nghệ tiên tiến Cần hình thành các cơ sở nghiên cứu-ứng dụng có khả năng tiếp thu và cải tiến công nghệ, đồng thời sáng tạo công nghệ mới gắn liền với sản xuất kinh doanh Giai đoạn tiếp theo cần sử dụng cơ chế tài chính để khuyến khích hợp tác giữa các đối tác nước ngoài và cơ sở trong nước trong việc phát triển công nghệ mới Từ đó, tạo ra năng lực nghiên cứu nội sinh giúp các nhà khoa học và cơ sở sản xuất trong nước làm chủ công nghệ và tri thức mới của nhân loại.
Công nghiệp hóa - hiện đại hóa với bảo vệ môi trường
Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, Việt Nam hiện có gần 4000 cơ sở sản xuất và hơn 1500 làng nghề gây ô nhiễm, cùng với hơn 200 khu công nghiệp cần kiểm soát ô nhiễm Ô nhiễm nguồn nước và không khí đang gia tăng không chỉ ở các khu công nghiệp và đô thị mà còn ở vùng nông thôn Sự suy giảm đa dạng sinh học, biến đổi khí hậu và nước biển dâng đang gây ra triều cường với nhiều hậu quả nghiêm trọng Thành quả phát triển của nhiều địa phương có thể bị xóa sạch chỉ sau một đợt thiên tai.
Ngày 15-11-2004, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 41-NQ/TW về bảo vệ môi trường trong bối cảnh đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước Nghị quyết này khẳng định rằng bảo vệ môi trường không chỉ là mục tiêu mà còn là một nội dung thiết yếu của phát triển bền vững trong giai đoạn này.
Năm 2005, Quốc hội đã thông qua Luật bảo vệ môi trường, và tại Đại hội Đảng lần thứ XI, nội dung bảo vệ môi trường được nâng cao, liên kết chặt chẽ với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH-HĐH), nhấn mạnh việc tích hợp bảo vệ môi trường vào chiến lược phát triển Một điểm mới là chú trọng phát triển kinh tế xanh, năng lượng sạch và sản xuất tiêu dùng sạch Tiến trình CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn đã thúc đẩy sự phát triển của gần 1500 làng nghề, tạo ra 11 triệu việc làm Tuy nhiên, do sản xuất tự phát và công nghệ lạc hậu, nhiều làng nghề gây ô nhiễm môi trường Khảo sát của Bộ Y tế tại ba tỉnh Nam Định, Bắc Ninh, Hưng Yên cho thấy hầu hết các làng nghề không có hệ thống xử lý nước thải và kiểm soát chất thải rắn.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN
Mục tiêu phát triển kinh tế hướng tới việc xây dựng một xã hội "Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh" Điều này bao gồm việc giải phóng và phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân, đồng thời đẩy mạnh công tác xóa đói giảm nghèo và khuyến khích mọi người nỗ lực vươn lên làm giàu một cách chính đáng.
Kinh tế quốc dân phát triển với nhiều hình thức sở hữu và thành phần kinh tế đa dạng, trong đó kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo Sự kết hợp giữa kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể ngày càng tạo nên nền tảng vững chắc cho sự phát triển của nền kinh tế.
Tiến bộ và công bằng xã hội cần được tích hợp trong từng bước và chính sách phát triển Tăng trưởng kinh tế phải song hành với sự phát triển của văn hóa, y tế và giáo dục, đồng thời giải quyết hiệu quả các vấn đề xã hội.
Chế độ phân phối chủ yếu dựa trên kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời xem xét mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác, kết hợp với phúc lợi xã hội.
Phát huy quyền làm chủ xã hội của nhân dân là yếu tố then chốt trong việc đảm bảo vai trò quản lý và điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền XHCN Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, việc này không chỉ khẳng định quyền lợi của người dân mà còn góp phần tạo ra một nền kinh tế phát triển bền vững, phù hợp với lợi ích chung của toàn xã hội.
3.3 Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Đại hội XI khẳng định: “Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế- xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội”.
Thực hiện công bằng trong giáo dục là một phần quan trọng của công bằng xã hội tại Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Để đạt được mục tiêu giáo dục về đào tạo nhân lực và nâng cao dân trí, cần tiếp tục chống tái mù chữ và khắc phục tình trạng bỏ học, đặc biệt ở những học sinh thuộc gia đình nghèo và các đối tượng chính sách tại vùng sâu, vùng xa Việc giải quyết bất hợp lý trong chính sách đầu tư giáo dục giữa nông thôn và thành phố, cũng như trong phân bổ ngân sách cho các cấp học, là rất cần thiết để giảm chênh lệch về điều kiện học tập Mặc dù đã có cải tiến trong chính sách học bổng, học phí và tín dụng học tập, nhưng vẫn cần điều chỉnh để hỗ trợ hợp lý hơn cho con em nông dân, công nhân nghèo và các đối tượng chính sách.
Để đạt được tiến bộ và công bằng xã hội, cần thực hiện từng bước và chính sách phát triển hiệu quả Việc áp dụng chính sách xã hội phải dựa trên nền tảng phát triển kinh tế, liên kết quyền lợi và nghĩa vụ của mọi người Điều này sẽ tạo ra động lực mạnh mẽ và bền vững hơn cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội là biểu hiện rõ nét của chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang xây dựng Đại hội XII của Đảng đã xác định các nội dung, phương hướng và giải pháp cần thiết để thúc đẩy tiến bộ và công bằng xã hội trong bối cảnh mới Điều này thể hiện tư duy đổi mới của Đảng về vấn đề này, mang lại ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng, đòi hỏi sự nhận thức đúng đắn và triển khai hiệu quả.
Đảm bảo vững chắc QPAN quốc gia, trật tự, an toàn xã hội 20 3.5 Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế
Xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN là hai nhiệm vụ chiến lược có mối liên hệ chặt chẽ Đảm bảo an ninh quốc gia hiện nay bao gồm an ninh chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng và xã hội Bảo vệ Tổ quốc không chỉ dừng lại ở việc bảo vệ lãnh thổ, biên giới, hải đảo, vùng trời và vùng biển, mà còn bao gồm bảo vệ chế độ XHCN, Đảng, Nhà nước, nhân dân, cũng như bảo vệ kinh tế và văn hóa dân tộc, góp phần vào sự nghiệp đổi mới.
3.5 Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Toàn cầu hóa là xu thế tất yếu, thu hút nhiều quốc gia tham gia Để hội nhập kinh tế quốc tế hiệu quả, cần đổi mới tư duy và cách làm, chủ động tham gia và tích cực đóng góp vào các hoạt động liên kết quốc tế Việc hợp tác liên ngành, đa ngành và đa phương là cần thiết để phát huy lợi thế cạnh tranh cho địa phương và doanh nghiệp trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt Đồng thời, cần đẩy mạnh phổ biến các cam kết hội nhập, đặc biệt là các hiệp định FTA, để tận dụng cơ hội và đối phó với thách thức trong quá trình hội nhập.
Hoàn thiện thể chế pháp lý nhằm hài hòa hóa chính sách với các cam kết quốc tế và xây dựng chiến lược lớn về hội nhập quốc tế, tham gia FTA Cần rà soát và triển khai lộ trình thực hiện các cam kết quốc tế, đồng thời nâng cao năng lực thực thi hội nhập Tăng cường nguồn nhân lực chất lượng cao với tri thức, kỹ năng hội nhập và nghề nghiệp, cùng với việc đổi mới quản lý phù hợp với tình hình bất ổn Đẩy mạnh đào tạo cán bộ, luật sư và chương trình nghề nghiệp gắn với nhu cầu xã hội và yêu cầu hội nhập Cần đổi mới phương thức và kiện toàn cơ chế phối hợp liên ngành để thích ứng với sự chuyển biến nhanh chóng trong hội nhập quốc tế Công tác chuẩn bị cho hội nhập quốc tế đã có những bước tiến quan trọng, đặc biệt là việc ban hành Nghị quyết 22-NQ/TW và thành lập Ban Chỉ đạo quốc gia về hội nhập quốc tế do Thủ tướng Chính phủ lãnh đạo.
Xây dựng nền dân chủ XHCN, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất 22 3.7 Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
Phát huy dân chủ XHCN và bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân là mục tiêu cốt lõi của chế độ ta Dân chủ không chỉ là mục tiêu mà còn là động lực phát triển, gắn liền với sức mạnh đại đoàn kết dân tộc Đây là nguồn lực quan trọng để xây dựng xã hội mới và là yếu tố quyết định cho sự thành công bền vững trong sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta.
3.7 Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Nhà nước pháp quyền đại diện cho sự tiến bộ của nhân loại, với đặc điểm nổi bật là bảo đảm quyền tối thượng của pháp luật Đại hội XI đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, bao gồm việc thiết lập cơ chế vận hành hiệu quả cho nhà nước, hoàn thiện cơ chế kiểm tra và giám sát các cơ quan công quyền, đổi mới hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp, cũng như nỗ lực phòng ngừa và chống tham nhũng, lãng phí một cách kiên quyết.
Xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh
Trong bối cảnh hiện tại, việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng là nhiệm vụ quan trọng, quyết định sự sống còn của Đảng và sự nghiệp cách mạng của nhân dân Đảng cần thường xuyên tự đổi mới và tự chỉnh đốn, coi đây là quy luật thiết yếu cho sự tồn tại và phát triển.
Lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam trước khi Đảng Cộng sản ra đời cho thấy nhiều phong trào yêu nước chống thực dân Pháp đã thất bại do bế tắc về chiến lược Các phương án chính trị từ tư tưởng phong kiến đến lập trường nông dân, tiểu tư sản và tư sản đều không mang lại thành công Trong bối cảnh đó, sự ra đời của Đảng Cộng sản đã nhanh chóng khẳng định ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, mở ra một hướng đi mới cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Cách mạng Việt Nam đã không ngừng phát triển dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, với những mốc lịch sử quan trọng như cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 và cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp cùng đế quốc Mỹ Chiến thắng mùa Xuân năm 1975 đã đưa cả nước đến độc lập và thống nhất, mở ra thời kỳ xây dựng và quá độ lên chủ nghĩa xã hội Vai trò của Đảng trong quá trình này là vô cùng quan trọng, đòi hỏi sự hoàn thiện không ngừng của Đảng và bộ máy Nhà nước để đảm bảo sự phát triển bền vững của đất nước.
Nhiệm vụ và giải pháp chung nhằm tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực và hiệu quả trong hệ thống chính trị trong thời gian tới bao gồm 10 nội dung cụ thể.
Đảng lãnh đạo thống nhất trong việc xây dựng và quản lý tổ chức bộ máy cùng biên chế của toàn bộ hệ thống chính trị Ở cấp Trung ương, vai trò này được thực hiện trực tiếp bởi Bộ Chính trị, trong khi ở cấp địa phương, ban thường vụ cấp ủy tỉnh đảm nhận trách nhiệm tương tự.
Cần khẩn trương nghiên cứu và hoàn thiện mô hình tổ chức của hệ thống chính trị nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Đồng thời, cần phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và tích cực hội nhập quốc tế.
Ba là, cần rà soát và sắp xếp lại các tổ chức trong hệ thống chính trị để tinh giản biên chế và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Quyết tâm giảm thiểu và không thành lập mới các tổ chức trung gian, đồng thời giải thể hoặc sắp xếp lại những tổ chức hoạt động không hiệu quả Việc tổ chức lại bộ máy phải đảm bảo không tăng thêm đầu mối và biên chế, trừ những trường hợp đặc biệt có sự đồng ý của Bộ khi cần tăng đầu mối từ cấp vụ, cục hoặc tương đương trở lên.
Cần rà soát và hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cũng như mối quan hệ công tác giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị để khắc phục tình trạng trùng lặp và chồng chéo Mỗi tổ chức và cá nhân nên đảm nhận nhiều nhiệm vụ, nhưng một công việc chỉ do một tổ chức hoặc cá nhân chủ trì và chịu trách nhiệm chính Đồng thời, cần thực hiện tinh giản biên chế theo đúng mục tiêu đã đề ra.
Năm nay, cần rà soát và sửa đổi các quy định của Đảng và Nhà nước về tổ chức bộ máy các cấp, ngành và địa phương để đảm bảo tính đồng bộ và thống nhất Cần mạnh dạn thí điểm những mô hình mới nhằm thu gọn tổ chức bộ máy và kiêm nhiệm chức danh, từ đó nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động Đồng thời, cần tiến hành sơ kết, tổng kết và mở rộng dần những mô hình phù hợp và hiệu quả.
Xây dựng và thực hiện cơ chế cạnh tranh lành mạnh, công khai, minh bạch trong việc bổ nhiệm và tuyển dụng cán bộ là cần thiết để thu hút nhân tài có đức, có tài vào hệ thống chính trị Cần thực hiện nghiêm túc các quy định về miễn nhiệm, bãi nhiệm và từ chức để kịp thời thay thế những cá nhân không đủ năng lực và phẩm chất, nhằm đảm bảo hiệu quả công việc và đáp ứng yêu cầu của chức danh.
Bảy là, cần thực hiện phân cấp và phân quyền hợp lý giữa Trung ương và địa phương, cũng như giữa các cấp quản lý, nhằm gắn quyền hạn với trách nhiệm Đồng thời, xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực chặt chẽ thông qua các quy định của Đảng và pháp luật Nhà nước, bảo đảm tính dân chủ, công khai và minh bạch Việc này cũng cần đề cao trách nhiệm giải trình và tăng cường công tác kiểm tra, giám sát trong quá trình thực hiện.
Để nâng cao hiệu quả lãnh đạo và chỉ đạo trong việc thực hiện các quy định về sắp xếp tổ chức bộ máy và tinh giản biên chế trong hệ thống chính trị, cần xây dựng chương trình và kế hoạch cụ thể, thực tiễn Đồng thời, cần tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra và giám sát nhằm đảm bảo việc chấp hành các quy định này được thực hiện nghiêm túc.
Chín là, cần tiếp tục cải cách hành chính mạnh mẽ và ứng dụng rộng rãi khoa học - công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin, để thúc đẩy xây dựng chính phủ điện tử và đô thị thông minh Cần tổng kết và đánh giá hiệu quả hạ tầng công nghệ thông tin nhằm chống lãng phí, tinh gọn bộ máy và tinh giản biên chế Đồng thời, cần đầu tư hợp lý cho công tác nghiên cứu khoa học về tổ chức bộ máy và cán bộ trong hệ thống chính trị, cũng như nghiên cứu sửa đổi quy định về phân bổ ngân sách chi thường xuyên cho các tổ chức, cơ quan trong hệ thống chính trị.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền và giáo dục chính trị nhằm tạo sự thống nhất trong Đảng và đồng thuận trong xã hội Cần bố trí đủ nguồn lực và xây dựng cơ chế, chính sách phù hợp cho cán bộ, công chức, viên chức bị ảnh hưởng trong quá trình sắp xếp tổ chức bộ máy Đồng thời, cần cảnh giác và chủ động triển khai các giải pháp ngăn chặn hoạt động chống phá từ các thế lực thù địch và phần tử xấu.
Một số kiến nghị
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, Đảng ta cần tập trung giải quyết một số vấn đề chủ yếu để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quá độ lên chủ nghĩa xã hội Điều này bao gồm việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, mở rộng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, và phát huy mọi nguồn lực cho xây dựng chủ nghĩa xã hội Đồng thời, cần kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chăm lo xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, chống tham ô lãng phí, và mở rộng quan hệ quốc tế để tận dụng nguồn lực bên ngoài Mục tiêu cuối cùng là xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, với dân giàu, nước mạnh, tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Trong thời đại thông tin hiện nay, nhiều kẻ xấu lợi dụng mạng xã hội để phát tán tin giả và kích động người dân, ảnh hưởng đến đất nước và Đảng Do đó, người dân cần giữ sự tỉnh táo và niềm tin vào Đảng để không bị lợi dụng và bảo vệ bản thân cũng như xã hội.