1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

QUÁ TRÌNH HOÀN CHỈNH ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG DÂN TỘC DÂN CHỦ NHÂN DÂN TỪ CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN ĐẾN CHÍNH CƯƠNG ĐẢNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM

62 491 17

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 62
Dung lượng 150,5 KB

Cấu trúc

  • TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA KHOA KHOA HỌC ỨNG DỤNG

  • BÁO CÁO PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ VÀ KẾT QUẢ THỰC HIỆN ĐỀ TÀI CỦA TỪNG THÀNH VIÊN NHÓM 12

  • PHẦN MỞ ĐẨU

  • PHẦN NỘI DUNG

  • 1. Bối cảnh lịch sử Việt Nam dưới chính sách thống trị và khai thác thuộc địa của thực dân Pháp và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng

    • 1.1. Bối cảnh lịch sử

    • 1.2. Cương lĩnh chính trị đầu tiên

  • Tiểu kết (1)

  • 2. Bối cảnh lịch sử và chủ trương của Đảng từ 10-1930 đến tháng 5/1941

    • 2.1. Luận cương chính trị

  • Tiểu kết (2)

    • 2.2. Sự hoàn chỉnh đường lối cách mạng giải phóng dân tộc từ năm 1939 đến 1945

  • 3. Chính cương Đảng Lao động Việt Nam và sự hoàn chỉnh đường lối cách mạng Dân tộc Dân chủ Nhân dân

    • 3.1. Bối cảnh lịch sử và nội dung Chính cương Đảng Lao động Việt Nam

  • Tiểu kết (3)

    • 3.2. Sự bổ sung, hoàn chỉnh đường lối cách mạng Dân tộc Dân chủ Nhân dân

  • PHẦN KẾT LUẬN

  • DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Nội dung

Thời gian chính là chặng đường để minh chứng cho mọi việc, nước ta dưới sự lãnh đạo của một đảng duy nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam, là thời gian mà đất nước và dân tộc vượt qua nhiều thách thức, có lúc hiểm nghèo. Mỗi lần vượt qua thách thức, Đảng và dân tộc ta lại trưởng thành, vươn lên tạo dựng những mốc son mới. Những mốc son chói ngời đó chứng minh rõ tài năng lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, một đảng duy nhất lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Chỉ điểm qua những kết quả nêu trên, có thể khẳng định sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Vì thế để hiểu rõ hơn về sự trưởng thành ấy như thế nào, chúng ta cần biết về những đường lối cách mạng đầu tiên. Sự khởi nguồn của một dân tộc bất khuất và kiên cường, cùng sự may mắn khi có vị lãnh đạo kính mến Hồ Chí Minh – người đặt tiền đề cho Cương lĩnh chính trị đầu tiên. Đồng thời sự thay đổi theo thời gian về đường lối cách mạng sẽ cho ta biết về lịch sử của nước nhà, giúp ta thêm trân trọng những điều bình thường thân thuộc xung quanh nhưng đó là sự hy sinh và đấu tranh không ngừng nghỉ của những người anh hùng Việt Nam đã ngã xuống cho Việt Nam tiến lên như ngày hôm nay. Những đặc điểm về kinh tế, xã hội Việt Nam dưới chính sách đầu tiên của Đảng sẽ được làm rõ thông qua Cương lĩnh chính trị đầu tiên (2/1930), đồng thời sẽ đề cập đến ưu điểm và hạn chế của văn kiện tiếp theo đó chính là Luận cương chính trị (10/1930). Tiếp đến sẽ phân tích quá trình khắc phục những hạn chế về đường lối cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng bởi các Hội nghị 11/1939, 5/1941 và Chính cương Đảng Lao động Việt Nam. Cuối cùng là sự hoàn chỉnh đường lối cách mạng Dân tộc dân chủ nhân dân của Đảng đóng vai trò quan trọng như thế nào đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc và đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam.

Bối cảnh lịch sử Việt Nam dưới chính sách thống trị và khai thác thuộc địa của thực dân Pháp và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng

Bối cảnh lịch sử

Cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản phương Tây chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền, dẫn đến sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế hàng hóa Giai đoạn này tạo ra nhu cầu cao về thị trường, bao gồm thị trường hàng hóa, tiền tệ, nguyên liệu sản xuất và đặc biệt là thị trường lao động giá rẻ Để giải quyết khó khăn về thị trường, các nước tư bản đã chọn giải pháp xâm chiếm các quốc gia khác, gây ra các cuộc chiến tranh thôn tính để tạo thuộc địa Sự áp bức dân tộc gia tăng đã dẫn đến mâu thuẫn gay gắt giữa các dân tộc thuộc địa và chủ nghĩa đế quốc, từ đó kích thích phong trào phản kháng mạnh mẽ từ các dân tộc thuộc địa.

Trong các nước tư bản phát triển, giai cấp công nhân đã xuất hiện và phải chịu đựng sự áp bức, bóc lột nặng nề Đến giữa thế kỷ XIX, phong trào đấu tranh của họ phát triển mạnh mẽ nhưng không thành công do chỉ dừng lại ở mức độ tự phát Điều này làm nổi bật sự cần thiết của một hệ thống lý luận khoa học, như một vũ khí tư tưởng cho giai cấp công nhân trong cuộc chiến chống chủ nghĩa tư bản Lý luận Mác – Lê-nin ra đời, khẳng định rằng giai cấp công nhân có khả năng lịch sử để tiêu diệt chủ nghĩa tư bản và tiến tới xã hội chủ nghĩa Để đạt được thắng lợi trong cuộc đấu tranh lịch sử của mình, giai cấp công nhân cần thành lập Đảng Cộng sản.

Năm 1917, cách mạng Tháng Mười Nga thành công đánh dấu thắng lợi đầu tiên của giai cấp vô sản dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, không chỉ chống đế quốc mà còn giải phóng các dân tộc thuộc địa bị đế quốc Nga thôn tính Sự kiện này mở ra thời đại chống đế quốc, khơi dậy phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới, dẫn đến sự ra đời của nhiều đảng Cộng sản như ở Mông Cổ, Trung Quốc, Anh, Pháp, và Mỹ Quốc tế cộng sản được thành lập vào tháng 3 năm 1919, đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, đồng thời góp phần truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

Năm 1858, thực dân Pháp bắt đầu cuộc xâm lược Việt Nam, và sau gần 30 năm, họ đã chiếm được nước này về mặt quân sự thông qua hàng loạt hiệp ước, trong đó có Hiệp ước Nhâm Tuất.

Vào năm 1862, Việt Nam đã ký Hiệp ước Giáp Tuất 1874, tiếp theo là Hiệp ước Harmand 1883 và Hiệp ước Patenotre 1884 Công cuộc bình định kéo dài trong suốt 10 năm từ 1885 đến 1896, sau đó bắt đầu giai đoạn khai thác thuộc địa với hai đợt khai thác lớn: đợt khai thác lần I diễn ra từ 1897 đến trước Chiến tranh thế giới thứ nhất và đợt khai thác lần II sau Chiến tranh thế giới thứ nhất.

Thực dân Pháp áp đặt chính trị tại Việt Nam, tước bỏ quyền lực của chính quyền phong kiến và lợi dụng hệ thống hiện có để bóc lột nhân dân Mặc dù duy trì nhà nước phong kiến, quyền lực thực sự nằm trong tay Toàn quyền Đông Dương, dẫn đến việc triều đình phong kiến không còn quyền lực Chính sách chia để trị của Pháp chia Việt Nam thành ba kỳ: Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ, mỗi nơi có chế độ cai trị riêng nhằm tạo ra sự chia rẽ trong khối đại đoàn kết dân tộc Thực dân Pháp kết hợp với địa chủ để bóc lột kinh tế và áp bức chính trị, trong khi một số địa chủ trở thành tay sai vì lợi ích cá nhân, nhưng vẫn có những người giữ tinh thần dân tộc và kiên quyết chống lại thực dân.

Trong lĩnh vực kinh tế, thực dân Pháp đã tiến hành cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền và đầu tư khai thác tài nguyên nhằm giải quyết vấn đề thị trường nguồn nguyên liệu cho Pháp Họ xây dựng một số cơ sở công nghiệp, hệ thống giao thông và bến cảng phục vụ cho chính sách khai thác thuộc địa Thực dân Pháp độc chiếm thị trường Việt Nam, áp đặt thuế nặng nề, với nhiều loại thuế mới chồng lên thuế cũ một cách vô lý, khiến đời sống nhân dân trở nên khốn khổ.

Mặc dù Việt Nam đã có một số cơ sở đô thị mới và hệ thống giao thông phát triển, nhưng tất cả những cải cách này đều phục vụ cho chính sách thống trị của thực dân Pháp Điều này đã khiến nền kinh tế Việt Nam bị kìm hãm, phát triển chậm chạp và lệ thuộc vào kinh tế Pháp, dẫn đến tình trạng què quặt và phiến diện.

Chính sách ngu dân trong giáo dục và sự đầu độc văn hóa đã trở thành những công cụ quan trọng trong việc khai thác tài nguyên và nhân lực của Việt Nam Những biện pháp này không chỉ làm suy yếu tri thức của người dân mà còn ảnh hưởng sâu sắc đến bản sắc văn hóa dân tộc.

Hồ Chí Minh đã chỉ trích chế độ thực dân Pháp, nhấn mạnh rằng nhân dân Đông Dương đang kêu gọi mở trường học do tình trạng thiếu thốn nghiêm trọng, khiến hàng ngàn trẻ em phải chịu cảnh dốt nát Chính phủ thuộc địa đã tìm mọi cách ngăn cản thanh niên An Nam du học tại Pháp, với mục tiêu duy trì sự ngu dốt để dễ dàng cai trị Các chính sách như cờ bạc, rượu, thuốc phiện, mại dâm và mê tín dị đoan được thực dân áp dụng để nô dịch tinh thần quần chúng, khiến họ trở nên tự ti và mất niềm tin vào khả năng của dân tộc Dù vậy, thực dân Pháp không thể ngăn cản sự phát triển của các trào lưu văn hóa dân tộc tiến bộ.

Chính sách thống trị của thực dân Pháp đã để lại hậu quả nặng nề cho nền kinh tế Việt Nam, dẫn đến sự sa sút nghiêm trọng và sự phát triển của các tệ nạn xã hội Mâu thuẫn xã hội ngày càng sâu sắc, không chỉ giữa nông dân và địa chủ phong kiến mà còn giữa nhân dân và thực dân Pháp Mâu thuẫn dân tộc này cần được giải quyết để đạt được độc lập cho đất nước Bên cạnh đó, xã hội cũng chứng kiến sự xuất hiện của các giai cấp mới như giai cấp công nhân, tư sản và tiểu tư sản Địa chủ được chia thành hai loại: đại địa chủ liên kết với Pháp, phản bội lợi ích dân tộc, và địa chủ vừa, nhỏ có tinh thần dân tộc, phản đối chính sách thực dân Nông dân mất đất, buộc phải rời bỏ quê hương và trở thành công nhân, trong khi giai cấp tư sản xuất hiện sau giai cấp công nhân, góp phần vào sự phân hóa xã hội.

Trong giai đoạn 1925-1926, Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng tư sản mại bản có mối liên hệ chặt chẽ với thực dân Pháp, trong khi tư sản dân tộc lại có những đặc điểm riêng Sự chuyển biến từ xã hội phong kiến thuần túy sang xã hội thuộc địa nửa phong kiến đã tạo ra những thay đổi sâu sắc trong cấu trúc xã hội Việt Nam Thực tiễn lịch sử đã đặt ra nhiệm vụ cấp bách là chống đế quốc và giải phóng dân tộc, đây được coi là nhiệm vụ hàng đầu trong bối cảnh lúc bấy giờ.

Cương lĩnh chính trị đầu tiên

Cương lĩnh đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam được đề ra tại Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản trong nước, do đồng chí Nguyễn Ái Quốc triệu tập và chủ trì Hội nghị này mang ý nghĩa như một Đại hội thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, đã thảo luận và quyết định thành lập Đảng, thông qua 7 tài liệu quan trọng Trong đó, 4 văn bản chính gồm Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt, tạo thành nội dung cốt lõi của Cương lĩnh chính trị của Đảng.

Nội dung đường lối cách mạng trong Cương lĩnh chính trị:

(1) Về phương hướng chiến lược cách mạng

Văn kiện xác định rõ ràng ba giai đoạn quan trọng trong cuộc cách mạng Việt Nam: giai đoạn đầu tiên là tư sản dân quyền cách mạng, nhằm giành quyền tự quyết và độc lập cho dân tộc, đồng thời xóa bỏ chế độ phong kiến Giai đoạn thứ hai tập trung vào thổ địa cách mạng, giải quyết mâu thuẫn giữa nông dân và địa chủ, mặc dù không gay gắt như giai đoạn đầu Cuối cùng, giai đoạn ba hướng tới mục tiêu cao nhất là xây dựng xã hội cộng sản Sự xác định này không chỉ nhấn mạnh vấn đề dân tộc mà còn tập trung vào cuộc đấu tranh giải phóng xã hội giai cấp và nhân dân Việt Nam.

(2) Về nhiệm vụ cách mạng

Chính trị Việt Nam hướng tới việc đánh đổ đế quốc Pháp và chế độ phong kiến, nhằm đạt được độc lập hoàn toàn cho đất nước Điều này bao gồm việc thành lập chính phủ đại diện cho công nông binh và tổ chức một quân đội mạnh mẽ từ lực lượng công nông Hơn nữa, việc chống lại đế quốc là vô cùng quan trọng, bởi vì nhà nước phong kiến chỉ là một bù nhìn, không có quyền lực thực sự trong tay.

Chính phủ công nông binh sẽ tịch thu tài sản lớn của tư bản đế quốc Pháp, đồng thời thu hồi toàn bộ ruộng đất của bọn đế quốc để chuyển giao cho công và chia sẻ cho nông dân nghèo Ngoài ra, cần mở rộng ngành công nghiệp và nông nghiệp, đồng thời miễn thuế cho những người nông dân có hoàn cảnh khó khăn.

Về văn hóa – xã hội: dân chúng được tự do tổ chức; nam nữ bình quyền; phổ thông giáo dục theo công nông hóa

(3) Về lực lượng cách mạng

Cần tập hợp đại bộ phận giai cấp công nhân và nông dân, đặc biệt là dân cày nghèo, để lãnh đạo cuộc cách mạng ruộng đất Đồng thời, cần liên kết với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt nhằm kéo họ vào phe vô sản Đối với phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam chưa rõ mặt phản cách mạng, cần lợi dụng để làm cho họ trung lập Tất cả các giai cấp đều có chung mâu thuẫn với thực dân Pháp về vấn đề dân tộc, do đó, lực lượng tham gia cách mạng phải là toàn dân tộc, phù hợp với đặc điểm xã hội Việt Nam.

(4) Về lãnh đạo cách mạng

Giai cấp vô sản đóng vai trò lãnh đạo trong cuộc cách mạng Việt Nam, với Đảng là đội tiên phong Đảng cần thu phục đại bộ phận giai cấp vô sản để dẫn dắt quần chúng Tuy nhiên, trong quá trình liên lạc với các giai cấp khác, cần phải cẩn trọng và không nhượng bộ lợi ích của công nông, tránh thỏa hiệp với thực dân Pháp Việc giải quyết vấn đề dân tộc sẽ từng bước giải quyết lợi ích giai cấp trong nội bộ.

(5) Về phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc

Chống đế quốc nhằm mục tiêu đạt được sự độc lập hoàn toàn cho Việt Nam Đảng Cộng sản Việt Nam, đại diện cho dân tộc, được thành lập để phát huy tinh thần đoàn kết và lòng yêu nước của nhân dân, từ đó giải phóng đất nước.

(6) Về quan hệ giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới

Cách mạng Việt Nam là một phần của cách mạng toàn cầu, cần thiết phải thiết lập mối liên hệ với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản trên thế giới, đặc biệt là giai cấp vô sản Pháp Đoàn thể cần truyền bá khẩu hiệu về sự độc lập của nước An Nam và đồng thời tuyên truyền, thực hiện liên lạc với các dân tộc và giai cấp vô sản đang bị áp bức.

Với cương lĩnh chính trị đúng đắn, Đảng đã trở thành lực lượng lãnh đạo, tập hợp toàn thể dân tộc làm cách mạng Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng cương lĩnh này phù hợp với nguyện vọng của đại đa số nhân dân, đặc biệt là nông dân, giúp Đảng đoàn kết các lực lượng cách mạng lớn Trong khi đó, các đảng phái khác đã bị cô lập hoặc phá sản Quyền lãnh đạo của Đảng công nhân không ngừng được củng cố Dưới ánh sáng của cương lĩnh, Đảng đã dẫn dắt toàn dân vượt qua khó khăn, thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc, xã hội, và xây dựng một Việt Nam giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã nêu rõ những luận điểm cơ bản của cách mạng Việt Nam, thể hiện bản lĩnh chính trị độc lập và sáng tạo trong việc phân tích đặc điểm xã hội thuộc địa nửa phong kiến Việt Nam những năm 20 của thế kỷ XX Nó chỉ ra những mâu thuẫn chủ yếu của dân tộc Việt Nam thời điểm đó, đặc biệt là thái độ của các giai tầng xã hội đối với nhiệm vụ giải phóng dân tộc Từ đó, cương lĩnh xác định chiến lược, sách lược, phương pháp, nhiệm vụ và lực lượng của cách mạng, nhằm thực hiện những mục tiêu đã đề ra.

Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng thể hiện sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào bối cảnh cụ thể của Việt Nam, một nước thuộc địa nửa phong kiến Nó nhấn mạnh việc giải quyết các mối quan hệ cốt lõi trong cách mạng Việt Nam, bao gồm sự kết hợp giữa vấn đề giai cấp và dân tộc, truyền thống yêu nước với tinh thần cách mạng, cũng như kinh nghiệm từ các cuộc cách mạng thế giới Đặc biệt, Cương lĩnh còn khẳng định sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa yêu cầu thực tiễn của cách mạng Việt Nam và tư tưởng quốc tế trong sáng.

1 Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.2,4,5

2 Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, t 10, tr.9. tiên tiến cách mạng của thời đại.

Bối cảnh lịch sử và chủ trương của Đảng từ 10-1930 đến tháng 5/1941

Luận cương chính trị

2.1.1 Bối cảnh ra đời của Luận cương chính trị

Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, mặc dù ngắn gọn, đã thể hiện những luận điểm cơ bản của cách mạng Việt Nam, nhấn mạnh bản lĩnh chính trị độc lập và sáng tạo trong việc đánh giá xã hội thuộc địa nửa phong kiến Việt Nam vào những năm 20 thế kỷ XX Nó chỉ ra những mâu thuẫn chủ yếu của dân tộc Việt Nam và phân tích đúng đắn thái độ của các giai tầng xã hội đối với nhiệm vụ giải phóng dân tộc Tuy nhiên, những quan điểm này chưa được Quốc tế cộng sản công nhận, chủ yếu do những nguyên nhân nhất định.

Nguyễn Ái Quốc đã chủ trương thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, tập trung vào giải quyết vấn đề riêng lẻ của quốc gia mà không mở rộng ra toàn Đông Dương Ông nhấn mạnh rằng "Đông Dương rất rộng" và theo nguyên lý chủ nghĩa Lê-nin, vấn đề dân tộc là nghiêm túc, không thể ép buộc các dân tộc khác gia nhập Đảng, vì điều này trái với nguyên lý Lê-nin Tuy nhiên, Quốc tế Cộng sản lại chỉ định thành lập một đảng duy nhất tại Đông Dương.

Nguyễn Ái Quốc đã đặt vấn đề dân tộc lên hàng đầu, khác với quan điểm của Quốc tế Cộng sản, và không áp dụng chủ nghĩa Mác – Lê-nin một cách giáo điều Ông khéo léo kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế, phù hợp với bối cảnh lịch sử Việt Nam và cách mạng thế giới Theo ông, để cách mạng thành công, cần có Đảng cách mạng, cán bộ cách mạng và lực lượng cơ bản gồm thợ thuyền, nông dân, học trò, nhà buôn và điền chủ nhỏ, tất cả đều là đồng minh của cách mạng Tuy nhiên, cách tiếp cận sáng tạo này của ông đã trái ngược với xu hướng "tả" của Quốc tế Cộng sản và một số Đảng cộng sản thời bấy giờ.

Hội nghị Ban chấp hành Trung ương tháng 10/1930 không chấp nhận các quan điểm mới của Nguyễn Ái Quốc trong Đường cách mệnh, Chánh cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt, cho rằng chúng đã phạm sai lầm chính trị nghiêm trọng khi chỉ tập trung vào việc phản đế mà quên đi lợi ích giai cấp đấu tranh Hội nghị diễn ra tại Hương Cảng, Trung Quốc từ ngày 14 đến 31 tháng 10 năm 1930, trong bối cảnh cao trào cách mạng đang phát triển mạnh, đặc biệt là phong trào Xô Viết – Nghệ Tĩnh Tại đây, hội nghị đã thông qua Luận cương chính trị và các nghị quyết quan trọng về tình hình Đông Dương, nhiệm vụ của Đảng, cùng với Điều lệ Đảng, tạo thành Cương lĩnh thứ hai của Đảng, đồng thời quyết định đổi tên từ Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương.

Luận cương chính trị của Ðảng Cộng sản Ðông Dương, do đồng chí Trần Phú khởi thảo, trình bày những tư tưởng cốt lõi về mục tiêu, nhiệm vụ và phương pháp đấu tranh cách mạng của Đảng Tài liệu này không chỉ khẳng định mà còn bổ sung những vấn đề quan trọng về con đường cách mạng của Việt Nam, như đã được nêu trong Chính cương vắn tắt.

2.1.2 Nội dung của Luận cương chính trị

(1) Về mâu thuẫn giai cấp gay gắt ở Đông Dương

Luận cương chỉ ra rằng sự mâu thuẫn giai cấp ngày càng trở nên gay gắt, với một bên là thợ thuyền, dân cày và các tầng lớp lao động, trong khi bên kia là địa chủ, phong kiến, tư bản và đế quốc chủ nghĩa.

Dân cày bị đế quốc Pháp, địa chủ, lái buôn và cho vay bản xứ bóc lột tàn ác, trong khi thợ thuyền tại các sản nghiệp và đồn điền cũng chịu đựng sự bóc lột dã man từ tư bản Họ nhận lương thấp, thường xuyên bị cúp lương và phải làm việc trung bình từ 11 đến 12 giờ mỗi ngày, đồng thời còn phải đối mặt với sự chửi bới và đánh đập.

Giai cấp vô sản Đông Dương đang gia tăng mạnh mẽ, với sự tham gia ngày càng tích cực của công nhân trong các cuộc đấu tranh Nông dân cũng đã thức tỉnh, quyết liệt chống lại áp bức từ đế quốc và địa chủ.

Cuộc bãi công năm 1928-1929 và các cuộc tranh đấu của thợ thuyền, nông dân vào năm 1930 đã thể hiện sự gia tăng mạnh mẽ của cuộc đấu tranh giai cấp ở Đông Dương, chứng minh sự bành trướng của phong trào này trong bối cảnh lịch sử.

(2) Về phương hướng chiến lược của cách mạng

Cách mạng Đông Dương ban đầu được xem là một cuộc "cách mạng tư sản dân quyền" với tính chất thổ địa và phản đế Do chưa thể giải quyết các vấn đề tổ chức xã hội chủ nghĩa, sức kinh tế yếu kém và di tích phong kiến còn tồn tại, lực lượng vô sản chưa đủ mạnh, nên trong giai đoạn này, cách mạng chỉ mang tính chất thổ địa và phản đế.

Luận cương khẳng định rằng “cách mạng tư sản dân quyền” là giai đoạn chuẩn bị cho xã hội cách mạng, trong đó cần phải lật đổ phong kiến, địa chủ và đế quốc Pháp để tiến tới cách mạng vô sản Điều này cho thấy rằng, nếu xã hội hoàn toàn phong kiến, cần thực hiện cách mạng dân chủ tư sản, còn nếu là xã hội tư sản thì phải tiến hành cách mạng vô sản Do đó, “cách mạng tư sản dân quyền” mang tính chất thổ địa và phản đế, và sau khi thắng lợi, nó sẽ tiếp tục phát triển, “bỏ qua thời kỳ tư bản chủ nghĩa mà tranh đấu thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa.”

(3) Về nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền

Nhiệm vụ chính của cách mạng tư sản dân quyền là đánh đổ các di tích phong kiến và thực hiện cách mạng ruộng đất triệt để, đồng thời đấu tranh chống lại đế quốc Pháp để giành độc lập cho Đông Dương Hai mặt đấu tranh này liên kết chặt chẽ với nhau; việc đánh bại đế quốc chủ nghĩa sẽ giúp tiêu diệt giai cấp địa chủ và ngược lại Luận cương chính trị khẳng định rằng vấn đề thổ địa là cốt lõi của cách mạng tư sản dân quyền, làm nền tảng cho Đảng lãnh đạo nông dân Tuy nhiên, luận cương quá nhấn mạnh vào cách mạng ruộng đất và đấu tranh giai cấp, đặt nhiệm vụ giai cấp lên trên nhiệm vụ dân tộc, điều này không phù hợp với thực tế xã hội thuộc địa thời điểm đó.

1 Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 2, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

(4) Về lực lượng cách mạng

Trong cuộc cách mạng tư sản dân quyền, giai cấp vô sản không chỉ là động lực chính mà còn là giai cấp lãnh đạo quan trọng Do phải chịu sự bóc lột và áp bức tàn nhẫn, giai cấp này ngày càng hăng hái chống lại tư bản đế quốc, trở thành lực lượng mạnh mẽ tại Đông Dương Bên cạnh đó, dân cày, chiếm hơn 90% dân số Đông Dương, cũng đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy cách mạng tư sản dân quyền.

Luận cương nhấn mạnh mặt tiêu cực của các giai cấp trên, cho rằng tư sản thương mại và tư sản công nghiệp đứng về phía đế quốc chủ nghĩa, trong khi tiểu tư sản, bao gồm bộ phận làm thủ công nghiệp và tiểu thương, không tán thành cách mạng Tiểu tư sản trí thức có xu hướng quốc gia chủ nghĩa, đại diện cho quyền lợi của các giai cấp tư bản Do đó, Luận cương chỉ chú trọng đến vai trò cách mạng của công nhân và nông dân, mà không đánh giá đúng mức vai trò của giai cấp tiểu tư sản, khả năng chống đế quốc của tư sản dân tộc, cũng như khả năng lôi kéo một bộ phận địa chủ vừa và nhỏ tham gia cách mạng.

(5) Về phương pháp cách mạng

Về thời cơ cách mạng, khi điều kiện chưa chín muồi, cần lãnh đạo quần chúng thông qua đấu tranh chính trị Việc thúc đẩy tình thế cách mạng nhanh chóng chín muồi là rất quan trọng, nhằm huy động đại quần chúng tham gia biểu tình, bãi công Qua đó, có thể giác ngộ và tổ chức lực lượng, chuẩn bị cho thời cơ vũ trang khởi nghĩa khi đến.

Sự hoàn chỉnh đường lối cách mạng giải phóng dân tộc từ năm 1939 đến 1945

(1) Bối cảnh thế giới Đây là giai đoạn chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ:

Vào ngày 1/9/1939, phát xít Đức đã tấn công Ba Lan, dẫn đến việc Anh và Pháp tuyên chiến với Đức chỉ hai ngày sau đó, khởi đầu cho Chiến tranh thế giới thứ hai Trong bối cảnh này, phát xít Đức nhanh chóng chiếm đóng nhiều quốc gia châu Âu, khiến Đế quốc Pháp tham gia vào cuộc chiến Chính phủ Pháp thực hiện các biện pháp đàn áp các lực lượng dân chủ trong nước và phong trào cách mạng tại các thuộc địa, dẫn đến sự tan vỡ của Mặt trận nhân dân và việc Đảng Cộng sản Pháp bị đặt ra ngoài vòng pháp luật.

Vào tháng 6 năm 1940, Đức tấn công và buộc chính phủ Pháp đầu hàng Đến ngày 22 tháng 6 năm 1941, quân phát xít Đức tiếp tục tấn công Liên Xô Sự kiện này đã chuyển đổi tính chất của cuộc chiến tranh đế quốc thành cuộc chiến giữa các lực lượng dân chủ, với Liên Xô là trụ cột, chống lại các lực lượng phát xít do Đức dẫn đầu.

Chiến tranh thế giới thứ hai đã tác động sâu sắc đến Đông Dương và Việt Nam, dẫn đến việc vào ngày 28/9/1939, Toàn quốc Đông Dương ban hành nghị định cấm tuyên truyền cộng sản Nghị định này không chỉ cấm lưu hành và tàng trữ tài liệu cộng sản mà còn đặt Đảng Cộng sản Đông Dương ra ngoài vòng pháp luật Hơn nữa, các hội hữu ái, nghiệp đoàn bị giải tán, tài sản của những tổ chức này bị tịch thu, và các tờ báo cùng nhà xuất bản bị đóng cửa, cấm hội họp và tụ tập đông người.

Trong giai đoạn thực dân Pháp cai trị Việt Nam và Đông Dương, họ đã thực hiện một chính sách thời chiến vô cùng tàn bạo, đàn áp mạnh mẽ phong trào cách mạng và tập trung lực lượng vào việc tiêu diệt Đảng Cộng sản Đông Dương Hàng nghìn cuộc khám xét bất ngờ diễn ra, dẫn đến việc thủ tiêu nhiều quyền tự do và dân chủ đã đạt được trong giai đoạn 1936 - 1939 Chính quyền Pháp ban hành lệnh tổng động viên và áp dụng chính sách “kinh tế chỉ huy”, trong đó họ kiểm soát toàn bộ quy trình sản xuất, giá cả và phân phối, đồng thời tăng thuế, giảm lương, kéo dài giờ làm việc và sa thải công nhân Hơn 70.000 thanh niên bị bắt đưa sang Pháp làm bia đỡ đạn cho cuộc chiến tranh của thực dân.

Vào ngày 22/9/1940, lợi dụng sự thất bại của Pháp trước Đức, phát xít Nhật đã tiến vào Lạng Sơn và đổ bộ vào Hải Phòng Ngày hôm sau, 23/9/1940, Pháp ký hiệp định đầu hàng Nhật tại Hà Nội, dẫn đến việc nhân dân Việt Nam phải chịu cảnh áp bức và bóc lột từ cả hai phía Pháp và Nhật Mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam và thực dân Pháp cùng phát xít Nhật trở nên căng thẳng hơn bao giờ hết.

2.2.2 Nội dung chuyển hướng chỉ đạo chiến lược và hoàn chỉnh đường lối cách mạng giải phóng dân tộc

(1) Nghị quyết Hội nghị tháng 11/1939

Hội nghị diễn ra trong ba ngày từ ngày 6 đến ngày 8/11/1939, nhằm giải quyết vấn đề chuyển hướng đường lối và phương pháp cách mạng trong tình hình mới 1

Hội nghị tổ chức tại Bà Điểm (Hóc Môn, Gia Định) Dự hội nghị có các đồng chí

Võ Văn Tần, Phan Đăng Lưu, Lê Duẩn,… trong đó đồng chí Nguyễn Văn Cừ - Tổng Bí thư của Đảng, chủ trì Hội nghị.

Hội nghị đã phân tích cuộc chiến tranh thế giới thứ hai như một cuộc xung đột giữa các tập đoàn đế quốc nhằm tranh giành và phân chia thị trường toàn cầu, với thủ phạm chính là phát xít Đức, Ý và Nhật Trong khi các nước đế quốc giao chiến, họ cũng có âm mưu chuyển hướng cuộc chiến nhằm chống lại Liên Xô Hội nghị cảnh báo rằng chiến tranh thế giới sẽ mang lại nỗi đau và thảm họa khủng khiếp cho nhân loại, biến thế giới thành một "cái lò sát sinh lớn" và khiến nhân loại phải trải qua những số phận vô cùng thê thảm.

Hội nghị nhận định rằng Đông Dương sẽ bị lôi kéo vào cuộc chiến tranh tàn khốc, với sự xâm chiếm của phát xít Nhật và sự đầu hàng của Pháp Chế độ cai trị ở Đông Dương trở thành một hình thức phát xít quân sự thuộc địa, gây ra sự tàn bạo và độc ác Toàn bộ đời sống xã hội của các giai cấp và dân tộc ở Đông Dương bị đảo lộn nghiêm trọng Hội nghị cũng phân tích thái độ của từng giai cấp, xu hướng chính trị của các đảng phái và tôn giáo, từ đó đưa ra kết luận về mối quan hệ lực lượng giữa các giai cấp trong xã hội.

Đế quốc Pháp kiểm soát toàn bộ quyền lực kinh tế và chính trị thông qua sự thao túng của các vua quan địa phương tham nhũng, cùng với những kẻ phản bội dân tộc Trong khi đó, tất cả các dân tộc bản địa đều phải chịu đựng sự áp bức của thực dân.

Đảng Cộng sản Việt Nam (2000) đã chỉ ra rằng chủ nghĩa Pháp đã áp bức nhân dân một cách tàn bạo, dẫn đến những thảm họa do chiến tranh đế quốc gây ra Những hậu quả này sẽ thúc đẩy quá trình tiến hóa và cách mạng của quần chúng diễn ra nhanh chóng Cuộc khủng hoảng kinh tế và chính trị hiện tại do chiến tranh đế quốc tạo ra sẽ kích thích cuộc cách mạng Đông Dương bùng nổ.

Hội nghị nhấn mạnh công tác xây dựng Đảng với các nguyên tắc và biện pháp cụ thể để củng cố Đảng toàn diện Cần thống nhất ý chí và hành động, duy trì liên lạc chặt chẽ với quần chúng, và trang bị lý luận cách mạng Đồng thời, khôi phục hệ thống tổ chức Đảng ở Trung, Nam, Bắc, mở rộng và củng cố cơ sở Đảng tại các thành phố, trung tâm công nghiệp, hầm mỏ và đồn điền Thực hiện tự phê bình và đấu tranh chống lại cả "tả" khuynh và "hữu" khuynh, đặc biệt chú trọng sự thống nhất trong ý chí và hành động của toàn Đảng.

Nghị quyết được đưa ra tại Hội nghị xác định:

Hội nghị đã quyết định chuyển từ việc đấu tranh cho quyền dân sinh và dân chủ sang việc lật đổ chính quyền đế quốc và tay sai Điều này đồng nghĩa với việc chuyển từ hoạt động hợp pháp và nửa hợp pháp sang các hoạt động bí mật và bất hợp pháp, nhằm thực hiện bạo động để cách mạng giải phóng dân tộc.

Quyết định của Hội nghị là hợp lý, bởi vì trong cuộc đấu tranh đòi quyền dân sinh và dân chủ, việc chỉ hô hào và biểu tình không thể tạo ra sự thay đổi thực sự và chỉ làm trò cười cho đế quốc Do đó, cần thiết phải sử dụng bạo lực để giành lại quyền lợi cho mình Để nâng cao hiệu quả của phương pháp này, chúng ta cần chuyển sang hoạt động bí mật, nhằm tránh sự nghi ngờ và sự đàn áp từ phía đế quốc.

Mục tiêu chiến lược ngắn hạn của cách mạng Đông Dương là lật đổ đế quốc và các thế lực tay sai, nhằm giải phóng các dân tộc trong khu vực và đạt được sự độc lập hoàn toàn cho Đông Dương.

Các dân tộc Đông Dương phải đánh đổ đế quốc Pháp và chống lại mọi hình thức xâm lược, bất kể là từ phương Tây hay phương Đông, để giành lấy độc lập và tự do cho mình.

Để đạt được mục tiêu độc lập dân tộc, chúng ta cần tạm gác những mâu thuẫn nhỏ để tập trung vào nhiệm vụ lớn lao này Việc đoàn kết với các quốc gia láng giềng sẽ giúp tăng cường sức mạnh và nâng cao tỷ lệ thành công trong cuộc đấu tranh giành độc lập.

Hội nghị chủ trương tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất, thay bằng khẩu hiệu

Chính cương Đảng Lao động Việt Nam và sự hoàn chỉnh đường lối cách mạng Dân tộc Dân chủ Nhân dân

Ngày đăng: 20/11/2021, 22:20

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2016), Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam (Dành cho sinh viên đại học, cao đẳng khối không chuyên ngành Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sảnViệt Nam
Tác giả: Bộ Giáo dục và Đào tạo
Nhà XB: Nxb. Chính trị quốc gia
Năm: 2016
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2019), Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (Sử dụng trong các trường đại học – hệ chuyên lý luận chính trị), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Tác giả: Bộ Giáo dục và Đào tạo
Nhà XB: Nxb. Chính trị quốc gia
Năm: 2019
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 2, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn kiện Đảng toàn tập
Tác giả: Đảng Cộng sản Việt Nam
Nhà XB: Nxb. Chính trị Quốcgia
Năm: 2002
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 6, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn kiện Đảng toàn tập
Tác giả: Đảng Cộng sản Việt Nam
Nhà XB: Nxb. Chính trị Quốcgia
Năm: 2000
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 10, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hồ Chí Minh Toàn tập
Tác giả: Đảng Cộng sản Việt Nam
Nhà XB: Nxb. Chính trị Quốcgia
Năm: 2011
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 12, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn kiện Đảng toàn tập
Tác giả: Đảng Cộng sản Việt Nam
Nhà XB: Nxb. Chính trị Quốcgia
Năm: 2001
7. Học viện Chính trị – Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh (2008), Lịch sử biên niên Đảng Cộng sản Việt Nam, Tập 2, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lịch sử biên niên ĐảngCộng sản Việt Nam
Tác giả: Học viện Chính trị – Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh
Nhà XB: Nxb. Chính trị Quốc gia
Năm: 2008
10. PGS.TS Ngô Đăng Tri (2011), Sự thống nhất cơ bản giữa Chánh cương và Luận cương của Đảng năm 1930, https://khoalichsu.ussh.vnu.edu.vn/s-thng-nht-c-bn-gia-chanh-cng-va- lun-cng-ca-ng-nm-1930-pgsts-ngo-ng-tri/ Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sự thống nhất cơ bản giữa Chánh cương và Luậncương của Đảng năm 1930
Tác giả: PGS.TS Ngô Đăng Tri
Năm: 2011
11. PGS.TS Vũ Quang Hiển, Đường lối chiến lược giải phóng dân tộc của Đảng trong thời kì 1930-1945 Khác

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w