ĐẦU
Tính cấp thiết của luận án
Việt Nam là một trong những quốc gia có nghề nuôi trồng thủy sản phát triển và có lịch sử lâu đời trong lĩnh vực này Ngành nuôi trồng thủy sản đóng góp quan trọng cho nền kinh tế quốc dân, tăng cường tích lũy vốn và xuất khẩu sang các thị trường lớn như Châu Âu, Mỹ và Nhật Bản Hiện nay, nuôi trồng thủy sản tại Việt Nam đang chuyển hướng sang sản xuất hàng hóa và liên kết theo chuỗi giá trị, do đó việc nâng cao sinh kế từ hoạt động này đang được chú trọng đầu tư nghiên cứu và áp dụng.
Thừa Thiên Huế có nhiều tiềm năng phát triển nuôi trồng thủy sản nhờ vào sự đa dạng sinh học phong phú và hệ đầm phá Tam Giang - Cầu Hai, lớn nhất Việt Nam với diện tích gần 22.000 ha Khu vực này bao gồm 45 xã thuộc 5 huyện, với dân số năm 2020 là 240.608 người, chiếm 21,22% tổng dân số tỉnh Đầm phá không chỉ là nguồn tài nguyên quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội mà còn có vai trò bảo tồn đa dạng sinh học, nhạy cảm về môi trường Người dân đã tận dụng diện tích mặt nước để nuôi tôm, cá, và sau khi quy hoạch nuôi trồng thủy sản được phê duyệt vào năm 2011, hoạt động này đã phát triển mạnh mẽ, góp phần xóa đói giảm nghèo Diện tích nuôi trồng thủy sản đã tăng từ 3.771 ha năm 2008 lên 4.693 ha năm 2018, sản lượng cũng tăng từ 5.015 tấn lên 8.583 tấn, cải thiện đời sống người dân và chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp trong khu vực.
Sự bùng nổ nuôi trồng thủy sản (NTTS) tại vùng đầm phá Thừa Thiên Huế đã dẫn đến nhiều vấn đề nghiêm trọng như ô nhiễm môi trường, suy giảm nguồn lợi thủy sản và xung đột lợi ích giữa cá nhân và cộng đồng Tình trạng nghèo đói cao, hạ tầng yếu kém và trình độ dân trí thấp đã làm cho việc khai thác tài nguyên nước trở nên bền vững hơn Thêm vào đó, các yếu tố khí hậu bất thường như hạn hán và lũ lụt đã ảnh hưởng tiêu cực đến sinh kế của người dân Do đó, nghiên cứu lý luận và thực tiễn về phát triển NTTS là cần thiết để xây dựng các chỉ số sinh kế bền vững và tìm ra giải pháp cải thiện sinh kế cho hộ nông dân Nhiều chương trình và dự án hỗ trợ cộng đồng đã được triển khai nhằm hướng đến phát triển ổn định và bền vững Đánh giá hiệu quả các hoạt động sinh kế sẽ giúp xác định tính phù hợp và bền vững của các phương thức sinh kế trong bối cảnh địa phương.
Nghiên cứu về sinh kế của hộ nông dân nuôi trồng thủy sản tại vùng đầm phá Tam Giang-Cầu Hai còn thiếu tính bài bản và toàn diện Các công bố hiện tại chủ yếu áp dụng khung phân tích sinh kế bền vững đơn lẻ, tập trung vào việc đánh giá nguồn vốn sinh kế và tác động của nó đến chiến lược sinh kế cũng như tính dễ bị tổn thương dưới ảnh hưởng của biến đổi khí hậu Mặc dù một số nghiên cứu đã sử dụng phương pháp định lượng và định tính để đạt được mục tiêu, nhưng nội hàm lý luận về sinh kế bền vững của hộ nông dân NTTS và cách áp dụng vào thực tiễn tại vùng sinh thái đặc thù này vẫn chưa được làm rõ, cần có những nghiên cứu tiếp theo để làm sáng tỏ vấn đề này.
Thực trạng sinh kế hộ gia đình hiện nay chưa được phân tích một cách toàn diện và hệ thống qua 5 yếu tố cấu thành, bao gồm nguồn vốn sinh kế, chiến lược sinh kế, kết quả sinh kế, thể chế-chính sách và tác động của các yếu tố bên ngoài Các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng tính đa khía cạnh của sinh kế bền vững vẫn là một câu hỏi chưa được giải đáp rõ ràng Đặc biệt, trong bối cảnh nuôi trồng thủy sản (NTTS) ở tỉnh Thừa Thiên Huế, vấn đề sinh kế bền vững cấp hộ gia đình chưa được nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện, cả ở cấp độ vĩ mô (thể chế, chính sách) lẫn vi mô (sinh kế hộ nông dân).
Thực trạng sinh kế của hộ nuôi trồng thủy sản (NTTS) vùng đầm phá hiện nay đang đặt ra nhiều câu hỏi về nguồn vốn và khả năng tiếp cận các nguồn lực sinh kế trong hoạt động NTTS Cần đánh giá hiệu quả của các chính sách phát triển NTTS từ nhà nước và chính quyền địa phương, cũng như xem xét các chiến lược sinh kế hiện tại có thực sự tạo ra kết quả bền vững hay không Để giải quyết những vấn đề này, tôi đã chọn đề tài “Nghiên cứu sinh kế bền vững của hộ nông dân nuôi trồng thủy sản vùng đầm phá tỉnh Thừa Thiên Huế” cho luận án tiến sĩ kinh tế, nhằm tìm ra các giải pháp phát triển sinh kế bền vững cho hộ nông dân NTTS tại địa phương.
Mục tiêu nghiên cứu của luận án
Nghiên cứu và đánh giá hiện trạng sinh kế của hộ nông dân nuôi trồng thủy sản (NTTS) tại vùng đầm phá tỉnh Thừa Thiên Huế nhằm đề xuất các giải pháp phát triển sinh kế bền vững cho họ Các giải pháp này sẽ góp phần nâng cao tính bền vững trong hoạt động NTTS, bảo vệ môi trường và cải thiện đời sống cho cộng đồng nông dân địa phương.
Hệ thống hóa và làm rõ các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến sinh kế cũng như sinh kế bền vững của hộ nông dân nuôi trồng thủy sản.
(2) Phân tích, đánh giá hiện trạng và đo lường tính bền vững sinh kế của hộ nông dân NTTS ở vùng đầm phá tỉnh Thừa Thiên Huế;
(3) Phân tích các yếu tố nguồn lực sinh kế ảnh hưởng đến chiến lược sinh kế của hộ nông dân NTTS vùng đầm phá tỉnh Thừa Thiên Huế;
(4) Đề xuất giải pháp phát triển sinh kế bền vững của hộ nông dân NTTS ở địa bàn nghiên cứu.
Câu hỏi nghiên cứu
Dựa trên việc đánh giá tình hình nghiên cứu và các cơ sở lý luận, thực tiễn liên quan, luận án đưa ra những kết quả toàn diện và lập luận xác đáng về hiện trạng sinh kế và tính bền vững sinh kế của hộ nông dân nuôi trồng thủy sản tại vùng đầm phá tỉnh Thừa Thiên Huế Đồng thời, luận án cũng đề xuất các giải pháp phát triển sinh kế bền vững cho hộ nông dân trong khu vực nghiên cứu, đồng thời nêu ra những câu hỏi nghiên cứu chính cần được giải quyết.
Thực trạng nguồn lực sinh kế và các hoạt động sinh kế của hộ nông dân nuôi trồng thủy sản (NTTS) tại vùng đầm phá tỉnh Thừa Thiên Huế đang gặp nhiều thách thức Nguồn lực sinh kế bị hạn chế, bao gồm tài chính, kỹ thuật và công nghệ, ảnh hưởng đến khả năng phát triển bền vững Hộ nông dân đang thực hiện các hoạt động sinh kế đa dạng, nhưng vẫn cần cải thiện về chất lượng và hiệu quả Việc áp dụng các biện pháp cải tiến, đào tạo kỹ thuật và tăng cường hỗ trợ từ chính quyền địa phương sẽ giúp nâng cao năng lực sinh kế cho nông dân NTTS trong khu vực này.
Các hộ nông dân nuôi trồng thủy sản ở vùng đầm phá tỉnh Thừa Thiên Huế đã tận dụng nhiều nguồn lực sinh kế khác nhau Mức độ bền vững của những nguồn lực này ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động sinh kế và kết quả đạt được Việc khai thác hợp lý các nguồn lực sinh kế không chỉ giúp nâng cao hiệu quả sản xuất mà còn góp phần bảo vệ môi trường và duy trì sinh kế bền vững cho cộng đồng nông dân.
Các yếu tố như điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội có ảnh hưởng lớn đến tính bền vững của các hoạt động sinh kế của hộ nông dân nuôi trồng thủy sản (NTTS) ở vùng đầm phá tỉnh Thừa Thiên Huế Điều kiện tự nhiên, bao gồm chất lượng nước, khí hậu và hệ sinh thái, quyết định khả năng phát triển và duy trì các hoạt động NTTS Bên cạnh đó, các yếu tố kinh tế xã hội như thị trường tiêu thụ, chính sách hỗ trợ của nhà nước và trình độ kỹ thuật cũng đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả sinh kế cho nông dân Sự kết hợp giữa các yếu tố này sẽ giúp cải thiện tính bền vững và khả năng thích ứng của hộ nông dân NTTS trong bối cảnh biến đổi khí hậu và phát triển kinh tế.
Câu hỏi 4: Những giải pháp và khuyến nghị có thể tăng cường sự bền vững sinh kế của hộ nông dân NTTS vùng đầm phá tỉnh Thừa Thiên Huế.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu chính của luận án là các vấn đề lý luận và thực tiễn về sinh kế bền vững của hộ nông dân NTTS, bao gồm các vấn đề liên quan đến nguồn vốn sinh kế, chiến lược sinh kế, kết quả sinh kế, thể chế chính sách; các yếu tố ảnh hưởng đến chiến lược sinh kế của hộ nông dân NTTS vùng đầm phá tỉnh Thừa Thiên Huế
Nội dung nghiên cứu của luận án tập trung vào cơ sở khoa học về sinh kế và sinh kế bền vững của nhóm hộ nuôi trồng thủy sản tại vùng đầm phá Nghiên cứu phân tích thực trạng sinh kế bền vững của hộ nông dân NTTS, áp dụng các phương pháp nghiên cứu và đo lường tính bền vững Đồng thời, luận án xác định các nhân tố ảnh hưởng đến sinh kế của hộ nông dân NTTS và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao kinh tế NTTS trong khu vực nghiên cứu trong thời gian tới.
Nghiên cứu được thực hiện tại bốn địa phương trong vùng đầm phá tỉnh Thừa Thiên Huế, bao gồm thị xã Hương Trà và các huyện Quảng Điền, Phú Vang, Phú Lộc.
- Phạm vi thời gian: Số liệu thứ cấp được thu thập giai đoạn 2010 - 2020; số liệu sơ cấp thu thập trong năm 2019-2021.
Những đóng góp mới của luận án
Luận án đã hệ thống hóa và làm rõ các vấn đề lý luận về sinh kế và sinh kế bền vững (SKBV) của hộ nông dân nuôi trồng thủy sản (NTTS) Bài viết cung cấp khái niệm đầy đủ về sinh kế và SKBV phù hợp với thực tiễn, đồng thời chỉ ra các đặc điểm sinh kế và SKBV của hộ nông dân NTTS tại vùng đầm phá tỉnh Thừa Thiên Huế.
Luận án đã phát triển khung phân tích sinh kế bền vững (SKBV) cho các hộ nông dân nuôi trồng thủy sản (NTTS) tại vùng đầm phá, cùng với hệ thống chỉ số đo lường và phương pháp đánh giá SKBV Phương pháp chỉ số đo lường tính bền vững và phân tích thứ bậc đã được áp dụng thành công để đánh giá các chỉ số này Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng có bốn nhóm nhân tố quyết định tính bền vững của sinh kế hộ nông dân NTTS, trong đó nhân tố xã hội được xác định là một trong những yếu tố quan trọng nhất, bên cạnh các yếu tố môi trường, kinh tế và thể chế chính sách.
Luận án đã làm rõ thực trạng nguồn lực sinh kế và kết quả hoạt động sinh kế của hộ nông dân nuôi trồng thủy sản tại vùng đầm phá tỉnh Thừa Thiên Huế Bằng phương pháp chỉ số có trọng số theo AHP, nghiên cứu đã đo lường mức độ bền vững, chỉ ra những thành tựu đạt được, đồng thời phân tích các hạn chế và nguyên nhân gây ra những vấn đề này.
Luận án chỉ ra rằng, trong bối cảnh biến đổi khí hậu và các yếu tố kinh tế xã hội phức tạp tại vùng đầm phá, phương pháp phân tích đa tiêu chí về kinh tế, xã hội, môi trường và thể chế là phương pháp phân tích sinh kế bền vững (SKBV) phù hợp nhất cho hộ nông dân nuôi trồng thủy sản.
Luận án nhấn mạnh rằng trong bối cảnh biến đổi khí hậu và rủi ro môi trường, bao gồm dịch bệnh và ô nhiễm, hộ nuôi trồng thủy sản cần áp dụng mô hình nuôi xen ghép và đa dạng hóa nguồn thu nhập từ các hoạt động khác Điều này giúp họ thích ứng và giảm thiểu rủi ro cũng như thiệt hại do biến đổi khí hậu và ô nhiễm môi trường gây ra.
Luận án đã áp dụng phương pháp phân tích đa tiêu chí kết hợp với các phương pháp phân tích định lượng để xây dựng bộ tiêu chí đánh giá tính bền vững của sinh kế, bao gồm các khía cạnh kinh tế, xã hội, môi trường, thể chế và khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu.
Kết quả đánh giá chỉ số đo lường sinh kế bền vững cho thấy, 42,37% hộ có chỉ số từ 0,4 đến 0,6, trong khi 38,14% hộ có chỉ số từ 0,2 đến 0,4 Sinh kế của hộ nông dân NTTS tại vùng đầm phá được đánh giá ở mức “hơi bền vững đến tương đối bền vững” với chỉ số tổng thể đạt 0,471 Cụ thể, chỉ số kinh tế là 0,350; chỉ số xã hội là 0,608; chỉ số môi trường là 0,521; và chỉ số thể chế là 0,443.
Luận án đã đưa ra 8 giải pháp, 8 kết luận và 11 kiến nghị chính sách nhằm thúc đẩy sinh kế bền vững cho hộ nông dân nuôi trồng thủy sản tại vùng đầm phá tỉnh Thừa Thiên Huế.
Các hoạt động sinh kế nuôi xen ghép tôm, cua, cá được khuyến nghị phát triển thành mô hình chủ lực nhằm đảm bảo tính bền vững cho sinh kế của hộ nông dân nuôi trồng thủy sản.
Kết cấu của luận án
Luận án được kết cấu gồm 3 phần:
NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ SINH KẾ BỀN VỮNG CỦA HỘ NÔNG DÂN NUÔI TRỒNG THỦY SẢN VÙNG ĐẦM PHÁ VEN BIỂN
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ SINH KẾ BỀN VỮNG CỦA HỘ NÔNG DÂN NUÔI TRỒNG THỦY SẢN VÙNG ĐẦM PHÁ VEN BIỂN
2.1 Cơ sở lý luận về sinh kế bền vững
2.1.1 Khái niệm về sinh kế
Sinh kế, theo từ điển tiếng Việt, được hiểu là "việc làm để kiếm ăn, để mưu sống." Tuy nhiên, thuật ngữ này đã được mở rộng và trở nên phức tạp hơn với sự hỗ trợ từ các chính phủ, tổ chức phi chính phủ và tổ chức dân sự cho cộng đồng dễ bị tổn thương trước thiên tai và rủi ro sản xuất Chambers và Conway (1992) định nghĩa sinh kế là sự kết hợp giữa khả năng, nguồn vốn (bao gồm vốn vật chất và vốn xã hội) và các hoạt động cần thiết cho một phương tiện sống.
Năm 1998, Viện Nghiên cứu Phát triển (IDS) và Bộ Phát triển Quốc tế (DFID) của Vương Quốc Anh đã giới thiệu khái niệm sinh kế bền vững, trong đó tác giả Scoones định nghĩa sinh kế là sự kết hợp giữa khả năng, nguồn vốn (vật chất và xã hội) và các hoạt động thiết yếu cho cuộc sống con người Khái niệm này tương đồng với định nghĩa của Chambers và Conway, được điều chỉnh từ nguyên tắc ban đầu mà họ đã đưa ra vào năm 1992.
Theo định nghĩa của Chambers và Conway (1992), sinh kế chủ yếu tập trung vào quyền và cơ hội tiếp cận nguồn vốn Ngược lại, Frank Ellis (2000) mở rộng khái niệm này, nhấn mạnh rằng sinh kế bao gồm các nguồn vốn tự nhiên, vật chất, con người, tài chính và xã hội, cùng với các hoạt động và cơ hội tiếp cận chúng thông qua các yếu tố trung gian như chính sách, thể chế và quan hệ xã hội Theo Ellis, quyết định về sinh kế thuộc về từng cá nhân hoặc hộ gia đình.
(2000), sinh kế gồm 5 thành phần, cụ thể như sau:
Nguồn vốn của người nông dân phản ánh mối quan hệ kinh tế và khả năng sinh kế của hộ gia đình, bao gồm năm loại chính: (1) Vốn tự nhiên, như đất, nước và đa dạng sinh học; (2) Vốn vật chất, bao gồm cơ sở hạ tầng và thiết bị sản xuất; (3) Vốn con người, với các kỹ năng, kiến thức và sức khỏe; (4) Vốn xã hội, thể hiện qua các mối quan hệ và nhóm; (5) Vốn tài chính, như tiết kiệm và tín dụng Các hoạt động của cá nhân hoặc hộ gia đình sử dụng những nguồn vốn này để kiếm sống, dẫn đến kết quả sinh kế, có thể là thành công hoặc thất bại, được đo bằng sản lượng hoặc thu nhập Những mối quan hệ kinh tế này luôn gắn liền với bối cảnh xã hội và chính trị, bao gồm chính sách và thể chế.
Bối cảnh dễ bị tổn thương sinh kế của người dân, hay còn gọi là tính dễ bị tổn thương, thể hiện qua các cú sốc, tính thời vụ và xu hướng Theo Ellis, tính dễ bị tổn thương liên quan đến việc con người phải đối mặt với những tình huống bất ngờ, căng thẳng và gặp khó khăn trong việc ứng phó với chúng.
Trong nghiên cứu của luận án, sinh kế được định nghĩa là sự kết hợp toàn bộ khả năng và nguồn lực của hộ nuôi trồng thủy sản (NTTS) để thực hiện các hoạt động NTTS, nhằm đạt được kết quả sinh kế mong muốn.
2.1.2 Khái niệm về sinh kế bền vững Ý tưởng về sinh kế bền vững (Sustainable Livelihood) được bắt nguồn từ quan điểm phát triển bền vững được giới thiệu bởi Ủy ban Brundtland về Môi trường và Phát triển vào năm 1987, coi sinh kế bền vững như một cách thức để liên kết giữa yếu tố kinh tế xã hội và sinh thái với các chính sách và thể chế [68] Tại Hội nghị của Liên Hợp Quốc về Môi trường và Phát triển (1992), khái niệm về sinh kế bền vững đã được định nghĩa với nội hàm rộng hơn, cụ thể: Sinh kế bền vững được xem là mục tiêu để giảm nghèo, tức là sinh kế bền vững có thể đóng vai trò là một yếu tố tích hợp cho phép các chính sách giải quyết đồng thời 3 vấn đề quan trọng, bao gồm: phát triển, quản lý tài nguyên bền vững và xóa đói giảm nghèo [43], [79]
Chủ đề sinh kế bền vững đã thu hút nhiều sự quan tâm, đặc biệt trong việc giải quyết các vấn đề ở khu vực nông thôn, nơi sinh sống của đa số người nông dân.
Robert Chambers và Gordon Conway (1992) định nghĩa sinh kế nông thôn bền vững là khả năng đối phó và phục hồi sau căng thẳng, duy trì và nâng cao nguồn vốn, đồng thời tạo cơ hội cho thế hệ tiếp theo và đóng góp lợi ích cho sinh kế khác Neefjes bổ sung rằng sinh kế phụ thuộc vào khả năng, của cải và các hoạt động cần thiết để mưu sinh, và được coi là bền vững khi có thể đối mặt với thách thức mà không làm tổn hại đến nguồn lực môi trường Các tác giả chỉ ra rằng các nghiên cứu và chính sách phát triển trước đây thường chỉ tập trung vào sản xuất và thu nhập, mà không phản ánh thực tiễn đa dạng và phức tạp của đời sống nông thôn Theo Chambers và Conway, sinh kế bền vững bao gồm ba vấn đề cốt lõi: nâng cao khả năng thích ứng với thay đổi, cải thiện công bằng cho người nghèo và tăng tính bền vững xã hội nhằm giảm thiểu tổn thương từ tác động bên ngoài.
Kể từ khi Chambers và Gordon Conway giới thiệu khái niệm sinh kế bền vững, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra tính chất tổng quát của khái niệm này Để làm rõ hơn, Ian Scoones (1998) đã điều chỉnh và phát triển khái niệm sinh kế bền vững, định nghĩa rằng một sinh kế bền vững là khả năng đối phó và phục hồi sau căng thẳng và cú sốc, đồng thời duy trì hoặc tăng cường khả năng và nguồn vốn mà không làm suy giảm tài nguyên thiên nhiên.
Theo Lasse Krantz, khái niệm sinh kế bền vững của Scoones có sự khác biệt với quan điểm của Chambers và Gordon Conway, đó là yêu cầu ít hơn nhưng lại mang tính thực tiễn cao hơn.
2.1.3 Khung sinh kế bền vững
Khung phân tích sinh kế bền vững là công cụ quan trọng giúp nâng cao hiểu biết về sinh kế, đặc biệt là đối với người nghèo Trong nghiên cứu này, chúng tôi tổng quan hai khung sinh kế bền vững nổi bật đã được áp dụng rộng rãi cho hộ nông dân ở khu vực nông thôn Đầu tiên là khung sinh kế bền vững nông thôn của Scoones, được đề xuất và xuất bản bởi IDS vào năm 1998 Thứ hai là khung sinh kế bền vững của Carney, cũng được giới thiệu và phát hành bởi DFID cùng năm.
Khung sinh kế nông thôn bền vững của IDS, được đề xuất bởi tác giả Scoones vào năm 1998, là một công cụ quan trọng trong việc phân tích sinh kế nông thôn bền vững Khung này không chỉ cung cấp cơ sở lý thuyết mà còn đóng vai trò thiết yếu trong việc thiết kế và xây dựng các chương trình khung sinh kế bền vững của DFID và CARE, hai tổ chức nhân đạo và hỗ trợ quốc tế.
Hình 2.1 Khung sinh kế nông thôn bền vững của IDS
Vốn tự nhiên bao gồm các tài nguyên thiên nhiên như đất, nước, không khí, và gen di truyền, cùng với các dịch vụ môi trường như chu trình thủy văn Đây là nền tảng quan trọng cho việc phát triển sinh kế bền vững.
Khung sinh kế nông thôn bền vững của IDS tập trung vào ba yếu tố cốt lõi: (1) Nguồn vốn sinh kế, (2) Chiến lược sinh kế, và (3) Thể chế và chính sách, bao gồm cấu trúc và quy trình.
ĐIỂM ĐỊA BÀN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Điều kiện tự nhiên vùng đầm phá tỉnh Thừa Thiên Huế
Thừa Thiên Huế là một tỉnh duyên hải miền Trung Việt Nam, nằm ở phía Bắc đèo Hải Vân với tọa độ địa lý 16 - 16,8 độ vĩ Bắc và 107,8 - 108,2 độ kinh Đông Tỉnh này có bờ biển phía Đông giáp với biển Đông, phía Tây giáp với Cộng Hòa Nhân Dân Lào, phía Nam giáp thành phố Đà Nẵng và phía Bắc giáp tỉnh Quảng Trị.
Tỉnh Thừa Thiên Huế gồm 9 đơn vị hành chính, bao gồm thành phố Huế, thị xã Hương Thủy, thị xã Hương Trà và 6 huyện: Phong Điền, Quảng Điền, Phú Vang, Phú Lộc, A Lưới, Nam Đông, trong đó có 5 huyện và thị xã ven biển Tính đến năm 2020, tỉnh có tổng diện tích 5.025,30 km² và dân số 1.133.713 người, chiếm khoảng 1,51% diện tích và 1,22% dân số của Việt Nam Thừa Thiên Huế nằm trên các trục giao thông quan trọng như Quốc lộ 1A, đường sắt Bắc Nam, và các tuyến đường nối Thái Lan, Lào, Việt Nam, cùng với các cảng biển như Phú Bài và Thuận An, tạo điều kiện thuận lợi cho giao thương quốc tế.
Vì thế, Thừa Thiên Huế có điều kiện hết sức thuận lợi để mở rộng sản xuất, giao lưu kinh tế với các tỉnh trong và ngoài nước
Hệ đầm phá Tam Giang - Cầu Hai (TGCH) nằm cách cố đô Huế khoảng 7 km về phía Đông Bắc, kéo dài gần 70 km dọc ven biển tỉnh Thừa Thiên Huế Hệ thống này bao gồm các đầm như Tam Giang, Đầm Sam, An Truyền, Hà Trung, Thủy Tú và Cầu Hai, trải dài qua 5 huyện: Phong Điền, Quảng Điền, Hương Trà, Phú Vang và Phú Lộc Phá Tam Giang có diện tích 52 km², dài 24 km và rộng trung bình 2,5 km với độ sâu 1,5 - 2,0 m Đầm Sam, An Truyền và Thủy Tú có tổng diện tích khoảng 60 km², dài 33 km, chiều rộng trung bình 1 km và độ sâu 1,5 - 2,5 m Đầm Cầu Hai, với diện tích lớn nhất 104 km², dài 13 km và có độ sâu từ 1,0 - 1,5 m, tạo thành hình lòng chảo bán nguyệt, nơi rộng nhất đạt 10,5 km.
Hệ đầm phá TGCH tỉnh Thừa Thiên Huế có diện tích 21.620 ha, chiếm khoảng 4,3% tổng diện tích tỉnh Mặc dù có hình thái kéo dài và rộng lớn, hệ đầm phá chỉ thông với biển qua cửa Thuận An, trong khi cửa Tư Hiền thường đóng mở theo điều kiện địa động lực - thuỷ hải văn Hệ đầm phá nhận nước ngọt từ các sông như sông Ô Lâu, sông Hương, sông Bồ, sông Bù Lu, sông Đại Giang và nhiều suối, lạch nhỏ khác từ dãy núi Bạch Mã Lưu lượng nước của các con sông và suối mang tính mùa vụ, tạo ra môi trường phức tạp, ảnh hưởng lớn đến đa dạng sinh học và nguồn lợi động, thực vật của khu vực.
Hình 3.1 Địa hình hệ đầm phá tỉnh Thừa Thiên Huế nhìn từ vệ tinh
(Nguồn: https://www.google.com/maps/, cập nhật 12/2020) 3.1.2 Điều kiện khí hậu
Vùng biển ven bờ tỉnh Thừa Thiên Huế có những đặc điểm chung của biển Việt Nam, nhưng chịu ảnh hưởng của địa hình bờ biển theo hướng Tây Bắc - Đông Nam với các dãy núi cao gần sát biển, tạo nên nét riêng biệt của khí hậu nhiệt đới gió mùa Khu vực này trải qua mùa hè khô nóng và mùa mưa muộn, đặc trưng cho điều kiện thời tiết tại đây.
Khí hậu ven biển Thừa Thiên Huế thuộc miền khí hậu đông Trường Sơn, là vùng chuyển tiếp giữa khí hậu phía Bắc và phía Nam, với nhiệt độ trung bình hàng năm dao động từ 25,2-27,6°C Tháng 6, 7, 8 là những tháng có nhiệt độ cao nhất, trong khi tháng 12 và tháng 1, 2 là thời điểm lạnh nhất Khu vực đầm phá Thừa Thiên Huế có hai mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 12 với lượng mưa trung bình hàng năm từ 2.636-2.867mm, và mùa khô từ tháng 3 đến tháng 7, thường kết hợp với gió Tây Nam Mặc dù có những cơn giông trong mùa khô, lượng mưa không đáng kể Chế độ gió ở đầm phá cũng chia thành hai mùa: gió mùa hạ từ tháng 4 đến tháng 8 và gió mùa đông Gió Tây-Nam khô nóng trong mùa nắng nóng gây ra tình trạng hạn hán, thiếu nước và độ mặn tăng cao, ảnh hưởng tiêu cực đến cây trồng và nuôi trồng thủy sản.
Giông thường xuất hiện vào các tháng 4,5 và 9 Bão xuất hiện từ tháng 7 -
11 Bão, mưa lớn, lũ lụt thường hạy xảy ra vào các tháng 9, 10, 11 gây nhiều tai họa cho đời sống, sinh hoạt và sản xuất của người dân và đặc biệt là gây thiệt hại trong hoạt động nuôi cá lồng [36]
- Bão: Vùng bờ biển Thừa Thiên Huế nói riêng hàng năm thường có từ 0 tới
Trong 98 năm qua, khu vực này ghi nhận trung bình 0,8 trận bão mỗi năm, với tốc độ gió từ 20 đến 40m/s Bão thường mang theo mưa lớn, với lượng mưa có thể lên tới 260mm và kéo dài từ 2 đến 6 ngày, gây ra nguy cơ lũ lụt nghiêm trọng Mùa bão diễn ra từ tháng 6 đến tháng 11, đặc biệt tập trung vào các tháng 7, 8, 9 và 10, với tần suất lần lượt là 37% và 27%.
Năm có tổng số giờ nắng cao từ 1.900 đến 2.000 giờ, nhờ vào nhiệt độ trung bình đạt 25,2°C Vào mùa hè, lượng mây thấp, chiếm 4/10 bầu trời, với trung bình 170-240 giờ nắng mỗi tháng, tập trung nhiều nhất từ tháng 5 đến tháng 8, khi nhiệt độ có thể lên tới 39°C hoặc 40°C Ngược lại, mùa đông có nhiều mây và thời gian chiếu sáng ngắn, dẫn đến số giờ nắng giảm xuống chỉ còn 100-110 giờ mỗi tháng, thấp nhất là vào tháng 12.
3.1.3 Chế độ thủy văn Đầm phá TGCH có các con sông như sông Ô Lâu, sông Bồ, sông Hương, sông Truồi đổ nước ngọt vào khá lớn, hòa vào vực nước rồi chảy ra biển Lưu lượng nước trao đổi lớn, lượng phù sa bồi lắng từ sông và vật liệu bồi tích từ biển cũng khá lớn, tạo khả năng bồi lấp nhanh
Dao động triều trong đầm phá chủ yếu do ảnh hưởng của triều ngoài biển qua các cửa biển, với vùng cửa Thuận An và phá Tam Giang chịu tác động của chế độ bán nhật triều đều, trong khi đầm phá Cầu Hai chịu ảnh hưởng không đều Biên độ triều tại đây khá nhỏ, từ 35-50cm ở cửa Thuận An và 50-100cm ở cửa Tư Hiền, khiến năng lượng triều giảm mạnh khi vào đầm phá, dẫn đến động lực yếu Mực nước biển biến động phức tạp theo thời gian và không gian do sự chi phối của dao động mực nước biển, dòng nước sông và lũ mùa mưa Biên độ dao động mực nước tăng dần từ Tam Giang đến Cầu Hai, với mực nước đầm phá thường thấp hơn đỉnh triều biển trong mùa khô (Cầu Hai 25-30cm, Tam Giang 5-15cm) và cao hơn mực nước biển trong mùa lũ do ảnh hưởng của nước sông Biên độ dao động thủy triều trong đầm phá luôn nhỏ hơn so với biển và sông, với giá trị biên độ ở Tam Giang là 30-50cm và ở Cầu Hai là 10-20cm.
Hệ thống dòng chảy trong đầm phá rất phức tạp do sự tương tác của nhiều yếu tố như dòng triều, dòng chảy biển ven bờ, dòng nước sông, dòng chảy gió, địa hình đáy và hình dạng đường bờ Tại cửa Thuận An, dòng triều toàn nhật đạt khoảng 15-16cm/s và dòng triều bán nhật từ 20-26cm/s; trong khi đó, cửa Tư Hiền ghi nhận dòng bán nhật khoảng 25-30cm/s, có lúc lên tới 35cm/s Dòng chảy trong đầm phá chủ yếu là dòng triều và dòng chảy gió, với ảnh hưởng của dòng chảy sông chỉ đáng kể trong mùa mưa Sự phát triển mạnh của dòng chảy tại các cửa là yếu tố quan trọng cho việc trao đổi nước giữa đầm phá và biển, đồng thời thúc đẩy sự di chuyển của vật chất và khối nước Chế độ dòng chảy thay đổi theo mùa, từ nước lợ mặn vào mùa khô sang nước lợ vào mùa mưa Trong mùa lũ, dòng chảy mạnh tại các cửa không chỉ quyết định việc thoát nước cho thủy vực mà còn gây biến đổi địa hình đáy và hình dáng các cửa.
Nồng độ muối và độ pH của nước là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến quá trình nuôi trồng thủy sản (NTTS), đặc biệt là trong mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 12, khi sự biến động này diễn ra mạnh mẽ Trong thời gian mưa lũ, nồng độ muối có thể giảm nhanh từ cửa sông ra biển, với những khu vực gần cửa sông có thể đạt mức 0% Mức độ muối thường dao động từ 5-15% tùy thuộc vào từng khu vực và thời gian Điều kiện môi trường và khí hậu tại đầm phá TGCH rất khắc nghiệt và biến động lớn, do đó, cần có những giải pháp và kế hoạch cụ thể để phát triển NTTS bền vững.
3.1.4 Đặc điểm nguồn nước nuôi trồng thủy sản vùng đầm phá
Do ảnh hưởng của dòng nước lạnh từ bờ Tây vịnh Bắc Bộ, đường đẳng nhiệt trong khu hệ đầm phá song song với đường bờ và nhiệt độ nước tăng dần về phía biển Nhiệt độ nước thấp nhất được ghi nhận vào tháng 1 và 2, trong khi tháng 8 có nhiệt độ cao nhất Kết quả quan trắc tháng 6/2008 cho thấy nhiệt độ nước biển dao động từ 30,5-33,5 o C, với nhiệt độ trung bình là 31,6 o C.
Kết quả quan trắc tháng 6 năm 2008 cho thấy pH trong nước khu hệ đầm phá dao động từ 6,71 đến 8,64, với pH thấp nhất tại cửa sông Ô Lâu và cao nhất tại khu vực đầm Cầu Hai, trung bình đạt 8,52 do ảnh hưởng của cửa Tư Hiền Khu vực cửa Thuận An có pH trung bình 8,14, trong khi đầm Thuỷ Tú đạt 8,39 Độ pH của đầm phá phụ thuộc vào nhiều yếu tố như mùa, thủy triều và lưu lượng nước từ các sông Vào mùa khô, pH thường cao và ổn định hơn do tác động mạnh của thủy triều qua hai cửa Thuận An và Tư Hiền.
THỰC TRẠNG SINH KẾ BỀN VỮNG CỦA HỘ NÔNG DÂN NUÔI TRỒNG THỦY SẢN VÙNG ĐẦM PHÁ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
NÔNG DÂN NUÔI TRỒNG THỦY SẢN VÙNG ĐẦM PHÁ
4.1 Tình hình kinh tế xã hội của hộ nông dân nuôi trồng thủy sản vùng đầm phá tỉnh Thừa Thiên Huế
4.1.1 Điều kiện kinh tế xã hội vùng đầm phá tỉnh Thừa Thiên Huế
4.1.1.1 Tình hình chung Đầm phá tỉnh Thừa Thiên Huế là một không gian lớn chứa đựng nhiều tài nguyên sinh học, đất đai, mặt nước và là môi trường sống của đa số người dân vùng ven biển Do đó, nó có tầm quan trọng khu vực và quốc tế, giữ vai trò đặc biệt trong chiến lược phát triển KT-XH của địa phương, nhất là đối với ngành NTTS, du lịch và nông nghiệp, có ý nghĩa lớn trong việc dự trữ sinh quyển, duy trì, bảo tồn đa dạng sinh học; đồng thời là vùng xung yếu về môi trường, nhạy cảm về sinh thái, cần được đặc biệt quan tâm
Năm 2014, Thủ tướng chính phủ đã ban hành quyết định phê duyệt danh mục
Dự án “Bảo tồn các khu đất ngập nước quan trọng và sinh cảnh liên kết” được tài trợ bởi Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) và Quỹ Môi trường toàn cầu (GEF) Sở TN&MT tỉnh Thừa Thiên Huế đã hợp tác với các chuyên gia và địa phương để tiến hành các hoạt động như điều tra cơ bản và tư vấn về nhu cầu thiết lập khu bảo tồn đất ngập nước Dự án cũng đánh giá nhu cầu đào tạo về bảo tồn và quản lý đất ngập nước, cùng với việc lượng giá giá trị dịch vụ hệ sinh thái khu vực đầm phá Ngoài ra, dự án xác định các áp lực ảnh hưởng đến tính liên kết sinh thái và đề xuất giải pháp sinh kế nhằm giảm thiểu tác động lên hệ sinh thái, đồng thời xem xét cơ cấu tổ chức và nguồn lực tài chính cần thiết cho việc vận hành khu bảo tồn.
Năm 2017, UBND tỉnh Thừa Thiên Huế đã ban hành Kế hoạch thành lập và vận hành khu bảo tồn đất ngập nước nhằm bảo tồn và phát triển bền vững hệ thống đầm phá, đóng vai trò quan trọng cho sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Kế hoạch này hỗ trợ xây dựng các mô hình sinh kế phù hợp với từng tiểu vùng sinh thái, góp phần tăng thu nhập cho 5 huyện trên đầm phá, giảm thiểu nguy cơ đối với vùng bảo tồn và đảm bảo bảo vệ đa dạng sinh học, đồng thời nâng cao thu nhập hộ gia đình từ các hoạt động sinh kế thân thiện với môi trường.
Tỉnh Thừa Thiên Huế đang triển khai "Nhiệm vụ quy hoạch xây dựng khu vực đầm phá Tam Giang-Cầu Hai" nhằm nâng cao vai trò quốc gia và quốc tế của vùng đầm phá Mục tiêu là phát triển bền vững, tăng trưởng xanh và thích ứng với biến đổi khí hậu Đến năm 2050, đầm phá sẽ trở thành vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, nổi bật về nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản bền vững, đồng thời là trung tâm du lịch sinh thái quốc gia và quốc tế, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống và bảo vệ môi trường khu vực.
4.1.1.2 Tình hình sử dụng đất đai
Bảng 4.1 Tình hình sử dụng đất đai của vùng đầm phá tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2016 – 2020 Đơn vị tính: ha
TT Mục đích sử dụng đất
Số lượng (%) Số lượng (%) Số lượng (%) Số lượng (%) Số lượng (%)
1 Diện tích đất tự nhiên 29829,1 100 29807,2 100 29820,0 100 29826,0 100 29821,0 100
2 Nhóm đất nông nghiệp 20836,2 69,9 20751,1 69,6 20710,0 69,5 20680,0 69,3 20621,0 69,2 2.1 Đất trồng lúa 7375,3 35,4 7433,7 36,0 7482,3 36,1 7491,7 36,23 7487,9 36,3
2.2 Đất trồng cây hàng năm 7797,7 37,4 7765,2 37,0 7563,4 36,5 7495,9 36,25 7389,6 35,8
2.3 Đất trồng cây lâu năm 290,0 1,4 300,0 1,0 297,0 1,4 297,0 1,4 294,0 1,4
2.4 Đất rừng sản xuất 667,2 3,2 676,8 3,0 684,9 3,3 684,9 3,3 673,6 3,3 2.5 Đất NTTS 4692,0 22,5 4357,4 21,0 4461,6 21,5 4693,0 22,7 4701,2 22,8
3 Nhóm đất phi nông nghiệp 6827,5 22,9 6879,5 23,08 6936,7 23,3 6983,7 23,4 7061,2 23,7
Nguồn: Cục thống kê Thừa Thiên Huế năm 2021 [12]
Diện tích đất tự nhiên khu vực đầm phá tỉnh Thừa Thiên Huế đang có xu hướng giảm, từ 29.829,1ha vào năm 2016 xuống còn 29.821,0ha vào năm 2020 Trong đó, đất nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn, dao động từ 69,15% đến 69,9%, nhưng cũng đang giảm dần Đặc biệt, diện tích đất nuôi trồng thủy sản đã tăng từ 22,5% năm 2016 lên 22,8% năm 2020, cho thấy nghề nuôi trồng thủy sản tại khu vực này ngày càng phát triển, chỉ sau đất trồng lúa với tỷ lệ 35,4% năm 2016 và 36,3% năm 2020 Tài nguyên đất đai đang được khai thác triệt để hơn so với đánh giá của Nguyễn Hữu Ngữ năm 2012.
Thực trạng đầu tư vào bê tông giao thông nông thôn đã có những cải thiện rõ rệt, với số km đường giao thông tăng từ 439,1 km vào năm 2016 lên 550,6 km vào năm 2020 Đường trục chính cấp xã phường cũng ghi nhận sự tăng trưởng từ 380,9 km năm 2016 lên 391,4 km năm 2020 Bên cạnh đó, đầu tư cho hệ thống thủy lợi, đê kè bờ phá và trạm bơm phục vụ thủy sản và nông nghiệp cũng ngày càng gia tăng Điều này cho thấy tiềm lực phát triển nuôi trồng thủy sản và sản xuất nông nghiệp đang được đầu tư ngày càng hoàn thiện.
Bảng 4.2 Thực trạng cơ sở hạ tầng của vùng đầm phá tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2016 - 2020
TT Hạng mục hạ tầng Đơn vị tính 2016 2017 2018 2019 2020
1.1 Bê tông giao thông nông thôn Km 439,1 465,0 496,0 523,1 550,6 1.2 Trục chính xã Km 380,9 383,2 386,4 388,0 391,4
2.1 Hệ thống kênh mương thủy lợi được kiên cố hóa Km 247 258 269 276 295
2.2 Hệ thống giao thông nội đồng Km 126 142 167 175 286
2.3 Hệ thống đê kè bờ phá Km 6 9 15 23 27
2.4 Số trạm bơm phục vụ sản xuất NTTS trạm 48 59 64 67 72
2.5 Số trạm bơm phục vụ sản xuất nông nghiệp trạm 128 132 141 148 159
Nguồn: Cục thống kê Thừa Thiên Huế năm 2021 [12] 4.1.1.4 Dân số và lao động
Dân số vùng đầm phá tỉnh Thừa Thiên Huế đã tăng từ 209.749 người (năm 2016) lên 240.608 người (năm 2020), với số hộ gia đình cũng tăng từ 42.806 hộ lên 47.178 hộ trong cùng thời gian Nhân khẩu bình quân trong một gia đình đạt 5,10 người/hộ vào năm 2020 Đặc biệt, lực lượng lao động trong độ tuổi lao động tăng từ 106.594 lao động (năm 2016) lên 123.577 lao động (năm 2020), cho thấy áp lực kinh tế ngày càng gia tăng trên khu vực đầm phá Sự gia tăng dân số và lao động tạo ra áp lực lên diện tích đất ở và có thể ảnh hưởng đến diện tích đất nuôi trồng thủy sản trong tương lai Tuy nhiên, sự gia tăng lao động cũng mang lại tiềm năng lớn cho phát triển ngành nuôi trồng thủy sản và các ngành nghề khác tại khu vực.
Bảng 4.3 Tình hình lao động và dân số vùng đầm phá tỉnh Thừa thiên Huế giai đoạn 2016 -2020
Tổng số hộ vùng đầm phá (hộ) 42.806 43.481 44.965 46.503 47.178
Tổng dân số vùng đầm phá
Nhân khẩu bình quân hộ (người) 4,90 5,10 5,21 5,11 5,10
Dân số trong độ tuổi lao động
Nguồn: Cục thống kê Thừa Thiên Huế năm 2021 [12] 4.1.1.5 Cơ cấu ngành nghề và thu nhập của hộ nông dân vùng đầm phá Tam Giang - Cầu Hai
Bảng 4.4 cho thấy tỷ lệ tổng sản phẩm (GRDP) của vùng đầm phá tăng từ 6,20% đến 7,27%, tuy nhiên, tỷ lệ đóng góp của ngành nông nghiệp giảm từ 4,7% (năm 2016) xuống 4,13% (năm 2020) Điều này cho thấy ngành nông nghiệp, đặc biệt là thủy sản, cần cải tiến kỹ thuật, đầu tư thâm canh và nâng cao năng suất để tăng giá trị đóng góp cho GRDP toàn vùng.
Ngành nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế của vùng đang chiếm tỷ trọng lớn, với 45,50% vào năm 2016, nhưng đã giảm xuống còn 32,10% vào năm 2020, đứng thứ hai sau ngành thủ công nghiệp và xây dựng Sự thay đổi này phản ánh quá trình chuyển đổi sinh kế của người dân tại khu vực đầm phá qua từng năm.
Bảng 4.4 Quy mô, cơ cấu giá trị sản xuất của vùng đầm phá qua giai đoạn 2016 - 2020 Đơn vị tính: %
1.3 Tiểu thủ công nghiệp- xây dựng 6,90 7,06 7,12 7,81 11,20 1.4 Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm 4,20 4,35 4,89 5,02 8,48
2 Cơ cấu các ngành kinh tế
2.3 Tiểu thủ công nghiệp - xây dựng 23,40 24,8 26,70 30,10 32,50
2.4 Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm 4,60 5,00 5,30 5,80 6,00
Nguồn: Cục thống kê Thừa Thiên Huế năm 2021 [12]
Bảng 4.5 Thu nhập bình quân của vùng đầm phá tỉnh Thừa Thiên Huế năm 2016 - 2020
Thu nhập bình quân đầu người
Tỷ lệ hộ cân nghèo 8,90 7,60 6,80 6,40 6,20
Nguồn: Cục thống kê Thừa Thiên Huế năm 2021 [12]
Mức thu nhập bình quân của vùng đầm phá tỉnh Thừa Thiên Huế còn thấp, đạt 2,414 triệu đồng/người/tháng vào năm 2016 và tăng lên 3,423 triệu đồng/người/tháng vào năm 2020, nhưng vẫn chưa đạt mức trung bình của tỉnh Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 7,19% năm 2016 xuống 4,04% năm 2020, trong khi tỷ lệ hộ cận nghèo là 8,9%.
Từ năm 2016 đến năm 2020, tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 6,2%, cho thấy sinh kế của người dân đã được cải thiện theo từng năm Tuy nhiên, vùng vẫn chưa phát huy được thế mạnh, giá trị thu nhập còn thấp và tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo vẫn còn cao Do đó, cần thiết phải cải tiến tri thức cho người dân và các hộ lân cận để nâng cao chất lượng cuộc sống.
4.1.2 Tình hình nuôi trồng thủy sản vùng đầm phá ven biển Thừa Thiên Huế
Năm 2009, Thủ tướng đã phê duyệt Đề án “Phát triển kinh tế - xã hội vùng đầm phá Tam Giang - Cầu Hai, tỉnh Thừa Thiên Huế đến năm 2020”, với nhiều chính sách tập trung phát triển vùng đầm phá này.
Các dự án đầu tư vào vùng đầm phá tỉnh Thừa Thiên Huế được hưởng nhiều ưu đãi theo Luật Đầu tư, đặc biệt đối với các khu vực có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn Cụ thể, các dự án năng lượng mặt trời, năng lượng gió và bảo tồn phát triển gen sinh vật thủy, hải sản tại đây sẽ được áp dụng mức thuế suất thu nhập doanh nghiệp chỉ 10% trong vòng 30 năm Hơn nữa, các doanh nghiệp trong nước có dự án sản xuất, kinh doanh tại vùng đầm phá cũng được hưởng các hình thức tín dụng ưu đãi theo quy định hiện hành về tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.
Vào ngày 27 tháng 11 năm 2009, các cơ chế chính sách mới đã tạo điều kiện cho tỉnh Thừa Thiên Huế phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản (NTTS) và kinh tế hộ vùng đầm phá Tỉnh đã xác định NTTS và chế biến thủy sản là ngành chủ lực, với mô hình kết hợp giữa nhà khoa học, quản lý, người nuôi và người tiêu thụ Đến năm 2017, vùng đầm phá đã được khai thác với diện tích trên 7 nghìn ha, trong đó NTTS nước mặn lợ chiếm khoảng 4,7 nghìn ha, chủ yếu nuôi tôm sú kết hợp với cua, cá dìa, cá kình, cá đối và cá rô phi Ngoài ra, cá lồng như cá mú, cá vẩu cũng được nuôi Sự phát triển của NTTS và du lịch sinh thái tại đây đã tạo ra việc làm, thu nhập cho người dân, góp phần xóa đói giảm nghèo và chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tích cực.
Năm 2018, Thừa Thiên Huế đã xác định phát triển kinh tế biển và đầm phá, tập trung vào du lịch, thủy sản, tiểu thủ công nghiệp và nông nghiệp sinh thái Định hướng này đã thúc đẩy sản lượng thủy sản, với năm 2019 ghi nhận sản lượng thủy sản nuôi trồng đạt 16.700 tấn, tăng 4,57% so với năm 2018, và khai thác biển đạt khoảng 41.100 tấn, tăng 3,68% Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn ven biển và đầm phá diễn ra tích cực, từ sản xuất nông nghiệp năng suất thấp sang nuôi trồng thủy sản có giá trị cao, tạo việc làm và tăng thu nhập cho hơn 10.000 hộ gia đình với hơn 21.000 lao động.
Bảng 4.6 Sản lượng thủy sản ở Thừa Thiên Huế năm 2019
Tổng sản lượng thuỷ sản 55.614 57.800 103,93
Sản lượng thuỷ sản nuôi trồng 15.970 16.700 104,57
Sản lượng thuỷ sản khai thác 39.641 41.100 103,68
(Nguồn: Chi cục Thủy sản – Sở NN&PTNT tỉnh Thừa Thiên Huế năm 2020) [8]