Chân dung xã hội của người cao tuổi có việc làm tại Quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội. Chân dung xã hội của người cao tuổi có việc làm tại Quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội. Chân dung xã hội của người cao tuổi có việc làm tại Quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội. Chân dung xã hội của người cao tuổi có việc làm tại Quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội.
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ CHÂN DUNG XÃ HỘI CỦA NGƯỜI
Nhóm các nghiên cứu về chân dung xã hội của người cao tuổi thể hiện thông qua cuộc sống trong gia đình 18
1.1.1 Cuộc sống trong gia đình: nguy cơ đối diện sự cô đơn ngày càng hiện 5.3.109 hữu
5.3.110 Sự biến đổi của mô hình tổ chức gia đình trong giai đoạn vừa qua khiến nhiều
5.3.111 NCT trở nên ngày càng cô đơn ngay trong chính ngôi nhà của mình.
Mô hình tổ chức gia đình trên thế giới đang trải qua những biến động mạnh mẽ, với sự giảm sút của số hộ gia đình mở rộng và số thành viên trong hộ, dẫn đến sự gia tăng số lượng người cao tuổi cô đơn Hiện tượng này xảy ra ở cả các quốc gia phát triển và đang phát triển, khi nhiều con cái có xu hướng rời bỏ cuộc sống chung từ sớm để tự lập Sự thay đổi này khiến nhiều người cao tuổi cảm thấy buồn bã, chán nản và dễ rơi vào trạng thái trầm cảm, lo âu Mối quan hệ giữa các thế hệ trong gia đình hiện nay cũng phức tạp và dễ xảy ra mâu thuẫn, khiến mọi người mong muốn có cuộc sống độc lập hoặc sống với những người dễ nghe lời Do đó, nhiều con cái khi trưởng thành thường chọn cách sống riêng, để lại cha mẹ sống cùng nhau cho đến khi về già.
5.3.113 Cũng theo chiều hướng này, nghiên cứu của Liên hợp quốc năm 2007 chỉ ra
Quy mô hộ gia đình của người cao tuổi (NCT) hiện nay đã thu hẹp so với 10 năm trước, với tỷ lệ 1 trong 7 NCT sống trong cảnh cô đơn Ở các quốc gia đang phát triển, số NCT sống trong hộ gia đình mở rộng giảm nhanh chóng, cho thấy sự suy giảm của gia đình nhiều thế hệ Tình trạng này cảnh báo về nguy cơ thiếu người chăm sóc cho NCT, đặc biệt khi hệ thống chăm sóc công và dịch vụ chưa phát triển đầy đủ.
Tại Việt Nam, nghiên cứu về xã hội truyền thống chỉ ra rằng người cao tuổi (NCT) thường sống gần gũi với con cháu, đóng vai trò quan trọng trong việc kết nối các thành viên gia đình, duy trì các giá trị đạo đức và điều hòa mâu thuẫn Những thực tế này được thể hiện trong các nghiên cứu như "Giá trị đạo đức của gia đình Việt Nam truyền thống trong bối cảnh toàn cầu hóa" của Nguyễn Thị Thọ (2014), "Gia đình truyền thống Việt Nam với ảnh hưởng của Nho giáo" của Trần Đình Hượu (1989), và "Sự biến đổi của các truyền thông gia đình nông thôn trong quá trình hiện đại hóa" của Phí Văn Ba (1990).
“Từ làng đến nước: một cách tiếp cận lịch sử” của Phan Đại Doãn (2010).
Trong xã hội truyền thống, người cao tuổi (NCT) thường sống trong hộ gia đình mở rộng, bao gồm nhiều thế hệ, và đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì mối liên hệ giữa các thành viên trong gia đình Mối quan hệ này được xây dựng dựa trên tiêu chuẩn đạo đức "từ, hiếu," nơi NCT thể hiện sự nhân từ, độ lượng, và trách nhiệm với con cháu Các khuôn phép và lễ giáo do NCT duy trì không chỉ giúp gắn kết các thế hệ mà còn trở thành văn hóa giao tiếp và ứng xử trong gia đình.
5.3.118 Tương tự, nghiên cứu của Trần Đình Hượu (1989, tr 33), của Phí Văn
Theo Ba (1990, tr 3), người cao tuổi (NCT) trong xã hội truyền thống thường sống trong các gia đình đông người và nhiều thế hệ, điều này xuất phát từ tập tục và ảnh hưởng mạnh mẽ của Nho giáo Hệ tư tưởng Nho giáo không chỉ thúc đẩy các gia đình sớm dựng vợ gả chồng cho con cái mà còn giúp cha mẹ hoàn thành bổn phận của mình và tạo dựng điểm tựa cho con cái khi về già Hệ quả là nhiều hộ gia đình có từ 3 đến 4 thế hệ cùng chung sống, trong khi những người con trai không sống cùng cha mẹ sẽ được chia đất để lập nghiệp.
5.3.120 nhà, có thể nhận sự giúp đỡ từ cha mẹ, cũng như san sẻ trách nhiệm chăm sóc cha mẹ khi về già.
Theo nghiên cứu của một số nhà khoa học tại Việt Nam, hầu hết người cao tuổi (NCT) trong xã hội hiện đại vẫn duy trì mô hình tổ chức gia đình nhiều thế hệ Thực trạng này đã được đề cập trong nghiên cứu của Bộ Y tế năm 2017 và của Nguyễn Thế Huệ.
(2017), của Lê Ngọc Lân và cộng sự (2011), cũng như của Lê Thị Quý (2019) Phân tích của các tác giả cho thấy:
Đối với người cao tuổi, bầu không khí gia đình vui vẻ và ấm áp là ưu tiên hàng đầu, và họ luôn nỗ lực để duy trì sự ổn định này Khi gặp chuyện buồn vui, họ thường tìm đến tâm sự với người thân trong gia đình như vợ, chồng, con, cháu trước khi chia sẻ với bạn bè và hàng xóm.
Người cao tuổi thường rất quan tâm và lo lắng cho con cháu, vì vậy họ cảm thấy yên tâm hơn khi sống cùng gia đình Điều này giúp họ có thể chia sẻ kinh nghiệm và hỗ trợ con cháu vượt qua những khó khăn trong cuộc sống, chẳng hạn như khi con gặp trở ngại trong công việc hoặc cháu không đạt kết quả học tập tốt.
5.3.124 Thứ ba: Theo nhiều NCT, sống chung là dịp con, cháu báo hiếu ông, bà, bố mẹ, dù rằng mâu thuẫn gia đình có thể nảy sinh.
Mặc dù có xu hướng người cao tuổi (NCT) sống độc lập và cô đơn, nhưng phần lớn vẫn sống chung với con cháu Nhiều NCT sống riêng đều thừa nhận rằng khi không còn khả năng tự chăm sóc bản thân, họ sẽ chuyển về sống cùng con cái để đảm bảo an toàn trong những tình huống bất trắc Tỷ lệ NCT mong muốn sống cùng gia đình tăng lên khi họ ở độ tuổi cao hơn.
Nghiên cứu của Phạm Việt Tùng (2011) về "Sự biến đổi gia đình Việt Nam", Trần Thị Bích Ngọc và cộng sự (2016) về "Chăm sóc người cao tuổi ở Việt Nam", Trương Thị Lam Hà (2008) về "Bữa cơm gia đình trong quá trình đô thị hóa", và Nguyễn Hữu Minh (2012) về "Các mối quan hệ trong gia đình ở Việt Nam" cho thấy rằng quy mô hộ gia đình đang thu hẹp, dẫn đến nhiều người cao tuổi cảm thấy cô đơn ngay trong chính ngôi nhà của mình do thiếu vắng sự hiện diện của con cháu.
Quy mô hộ gia đình hiện nay đang thu nhỏ, giảm từ ba, bốn thế hệ sống chung xuống còn hai thế hệ, với sự gia tăng của các gia đình đơn thân Mặc dù cấu trúc này giúp các hộ gia đình thích nghi tốt hơn với cuộc sống hiện đại, nhưng nó cũng khiến nhiều người cao tuổi mất đi niềm vui sống cùng con cháu.
Sự thu hẹp quy mô hộ gia đình đã khiến nhiều người cao tuổi (NCT) cảm thấy hụt hẫng ngay cả trong những bữa ăn hàng ngày, theo phân tích của tác giả Trương Thị Lam Hà.
Bữa ăn gia đình mang ý nghĩa quan trọng đối với người cao tuổi (NCT), vì đây là thời điểm họ được sống cùng con, cháu và giáo dục văn hóa ứng xử gia đình Trong xã hội truyền thống, sự thiếu vắng một thành viên có thể khiến NCT bảo thủ yêu cầu cả nhà phải chờ cơm, thể hiện uy quyền của họ Bữa ăn gia đình đầy đủ là yếu tố duy trì hạnh phúc và gia phong Tuy nhiên, trong xã hội hiện đại, với cuộc sống bận rộn, con, cháu thường không có thời gian cho bữa cơm chung, dẫn đến nhiều NCT trở thành những cái bóng lặng lẽ bên mâm cơm.
Sự biến đổi mô hình tổ chức gia đình đã dẫn đến hiện tượng sống cô đơn của người cao tuổi (NCT) Nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (2016) chỉ ra rằng những thay đổi trong cấu trúc gia đình ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng cuộc sống và sự gắn kết xã hội của NCT.
Nguyễn Nam Phương (2016, tr 21 – 22) đã chỉ ra bốn nguyên nhân chính dẫn đến sự thay đổi trong cấu trúc gia đình, bao gồm: quá trình di cư tìm kiếm việc làm của lao động chính trong gia đình, xu hướng tách hộ để có cuộc sống độc lập của giới trẻ, áp lực công việc khiến con cháu không có thời gian thăm hỏi ông bà, và mong muốn sống riêng của một bộ phận người cao tuổi.
Nhóm các nghiên cứu về chân dung xã hội của người cao tuổi thể hiện thông qua cuộc sống ở cộng đồng 28
1.2.1 Sự tham gia tích cực vào các hoạt động xã hội 5.3.170 Nhiều nghiên cứu chỉ ra sự cần thiết của việc tham gia các hoạt động xã hội đối với NCT bởi điều đó giúp họ có cuộc sống khỏe mạnh và gắn kết xã hội.
Nghiên cứu của Denis Mannaerts (2016) và Culin cùng cộng sự (2017) chỉ ra rằng người cao tuổi (NCT) thiếu mối quan hệ xã hội thường trải qua cuộc sống buồn bã, trầm cảm và sợ hãi hiện tại Họ tìm kiếm sự kết nối bằng cách tham gia vào các tổ chức xã hội Tuy nhiên, nếu NCT không có gì để chia sẻ tại các sự kiện cộng đồng, họ vẫn có thể cảm thấy cô đơn, cho thấy rằng việc tham gia hoạt động xã hội không luôn đảm bảo sự kết nối thực sự.
Việc hòa nhập vào nhóm và xây dựng mối quan hệ mật thiết với các thành viên là điều thực sự quan trọng đối với NCT Họ cần có sự chia sẻ và nhận được sự quan tâm từ những người xung quanh, điều này giúp tạo ra một môi trường gắn kết và hỗ trợ lẫn nhau.
Nghiên cứu của Odília Maria Rocha Gouveia và cộng sự (2016) chỉ ra rằng sự tham gia của người cao tuổi (NCT) vào các hoạt động xã hội chỉ thực sự có ý nghĩa khi họ duy trì tần suất góp mặt vào các sự kiện chung Việc tham gia của NCT vào nhiều nhóm xã hội khác nhau tạo thành mạng lưới quan hệ xã hội của họ, có thể gần gũi hoặc cách biệt về mặt địa lý Trước đây, sự gần gũi địa lý là điều kiện tiên quyết để NCT tham gia vào các nhóm xã hội, nhưng với sự phát triển của Internet và mạng xã hội, NCT có thể dễ dàng hòa nhập vào các hoạt động xã hội mà không cần ra khỏi nhà Điều này mở ra nhiều cơ hội và lựa chọn cho họ, giúp thiết lập và duy trì các mối quan hệ xã hội, từ đó giảm thiểu nguy cơ bị tách biệt khỏi xã hội.
Tham gia các hoạt động xã hội mang lại cho người cao tuổi cảm giác thoải mái về tinh thần và cải thiện sức khỏe Với những lợi ích này, nhiều người cao tuổi nỗ lực duy trì hoạt động xã hội bất kể nơi cư trú, đặc biệt khi sức khỏe cho phép Các cặp vợ chồng cao tuổi tham gia vào các hoạt động xã hội thường duy trì tần suất tham gia ổn định hơn so với những trường hợp khác.
5.3.176 Tại Việt Nam, theo nghiên cứu của một số tác giả như Thangavel Palanivel và cộng sự (2016), Bộ Y tế (2017), Phan Đại Doãn (2010), Phạm Vũ Hoàng
Trong xã hội truyền thống và hiện nay, nhiều người cao tuổi (NCT) tích cực tham gia các hoạt động xã hội, điều này không chỉ đáp ứng nhu cầu chính đáng của họ mà còn giúp nâng cao đời sống tinh thần và sức khỏe Việc duy trì và tham gia vào các mối quan hệ xã hội tốt đẹp ngoài gia đình còn tạo cơ hội cho NCT kết nối với nhau, khôi phục truyền thống của dòng họ và làng xóm, đồng thời phát huy giá trị bản thân trong các hoạt động chung tại cộng đồng.
5.3.177 Thực tế, nghiên cứu “Vấn đề về người cao tuổi Việt Nam hiện nay”của tác giả
Lê Văn Khảm (2014b, tr 79) đã đề cập đến chủ đề "Định hình tương lai: nhân khẩu học thay đổi có thể là động lực cho phát triển con người như thế nào?" nhằm khám phá mối liên hệ giữa sự biến đổi nhân khẩu học và khả năng thúc đẩy sự phát triển con người.
Thangavel Palanivel và cộng sự (2016) nhấn mạnh rằng người cao tuổi (NCT) có nhu cầu chính đáng tham gia vào các hoạt động xã hội bên ngoài gia đình và duy trì mối quan hệ với cộng đồng, đặc biệt trong bối cảnh hiện nay Khi xu hướng tách hộ gia tăng và quy mô hộ gia đình thu hẹp, NCT ngày càng phải đối mặt với tình trạng sống cô đơn Để có một cuộc sống khỏe mạnh về tinh thần và thể chất, nhiều NCT đã chủ động mở rộng các hoạt động xã hội, vượt ra ngoài khuôn khổ của hộ gia đình.
Trong xã hội Việt Nam, cộng đồng được xem như một gia đình mở rộng, đặc biệt trong tâm thức của người cao tuổi (NCT) Nhiều NCT hiện nay tích cực khôi phục các truyền thống dòng tộc và làng xóm, thể hiện qua việc liên kết các hộ gia đình để phục hồi gia phả, thành lập hội đồng hương để kết nối những người xa xứ, và lập hội lão niên nhằm tham gia các hoạt động chung.
Nghiên cứu của Trần Thị Hồng Yến (2015) về "Biến đổi xã hội và văn hóa ở các làng quê trong quá trình đô thị hóa tại Hà Nội" cho thấy nhiều người cao tuổi di cư cảm thấy có hai quê hương: quê hương nơi sinh ra và nơi họ chuyển đến Trong các dịp lễ, tết, họ thường trở về quê cũ để thăm gia đình, bạn bè Những người có điều kiện kinh tế còn mua đất xây nhà tại quê hương để sống lại những kỷ niệm xưa Việc trở về quê hương mang lại cho họ cảm giác gắn kết với nguồn gốc, ông bà, cha mẹ, cùng tình thân gia đình và tình làng nghĩa xóm.
Nghiên cứu của Lê Văn Khảm (2014a) và Lê Anh Vũ cùng cộng sự (2015, tr 24 – 27) chỉ ra rằng, đối với những người cao tuổi sống cô đơn hoặc cảm thấy cô đơn ngay trong chính ngôi nhà của mình, việc thăm hỏi bạn bè được xem là một biện pháp hiệu quả giúp họ tìm thấy niềm vui và động lực sống.
5.3.184 Sự đi lại, thăm hỏi, động viên lẫn nhau trở thành điểm tựa tinh thần và nhiều NCT luôn nỗ lực giữ gìn điểm tựa đó.
Ngoài việc tham gia các hoạt động cộng đồng, người cao tuổi (NCT) còn tích cực tham gia vào các phong trào và đoàn thể, đặc biệt trong khối văn hóa - xã hội Họ thường đảm nhiệm các vị trí như tổ trưởng, tổ phó, trưởng thôn và phó thôn NCT cũng đóng vai trò quan trọng trong việc tuyên truyền và phổ biến chính sách đến nhân dân, đồng thời là những tấm gương sáng trong việc duy trì và phát huy truyền thống tốt đẹp về tình làng, nghĩa xóm.
Nghiên cứu "Hướng tới mục tiêu già hóa khỏe mạnh ở Việt Nam" của Bộ Y tế (2017) chỉ ra rằng nhiều người cao tuổi (NCT) tại địa phương có những đóng góp tích cực cho các hoạt động xã hội, bao gồm việc tham gia vào các phong trào cộng đồng.
Tham gia các phong trào “thi đua yêu nước” và sáng kiến “xây dựng hệ thống chính trị, văn hóa cơ sở” không chỉ khẳng định vai trò của người cao tuổi (NCT) mà còn góp phần bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới, biển đảo NCT cũng tích cực đóng góp ý kiến sửa đổi Hiến pháp và pháp luật, tham gia các hoạt động tình nguyện chăm sóc tại nhà, cùng với việc là thành viên của nhiều câu lạc bộ Những hoạt động này tạo động lực cho NCT sống tích cực và nâng cao giá trị của họ trong xã hội.
Nghiên cứu của Lê Vũ Anh và cộng sự (2015) cùng Nguyễn Thế Huệ (2017) đã chỉ ra rằng người cao tuổi (NCT) tích cực tham gia vào các câu lạc bộ như hội cờ, hội thơ và câu lạc bộ dưỡng sinh Sự tham gia này không chỉ mang lại cảm giác thoải mái và thư giãn tinh thần cho NCT mà còn là biện pháp hiệu quả giúp họ chủ động thích ứng với tuổi già.
Nhóm các nghiên cứu về chân dung xã hội của người cao tuổi thể hiện thông qua việc làm 34
1.3.1 Động cơ làm việc 5.3.206 Mặc dù đến tuổi nghỉ hưu, nhưng nhiều NCT tiếp tục tham gia TTLĐ. Động cơ làm việc của họ có thể bắt nguồn từ nhu cầu giao tiếp xã hội, rèn luyện sức khỏe, cống hiến cho xã hội, nhưng cũng có thể bắt nguồn từ nhu cầu tự đảm bảo sinh kế.
5.3.207 Trên thế giới, theo nghiên cứu của Weber D và cộng sự (2016, tr.24 –
34) về “Sức khỏe và chất lượng cuộc sống của người cao tuổi”, động cơ thúc đẩy NCT làm việc khá đa dạng Một bộ phận là bởi muốn duy trì sức khỏe tốt, giảm thời gian
Nhiều người cao tuổi sống trên giường bệnh không chỉ vì tình trạng sức khỏe mà còn do sự đơn điệu trong cuộc sống khi các mối quan hệ xã hội suy giảm Họ không muốn từ bỏ thói quen sinh hoạt ổn định như “sáng đi làm, chiều về nhà” Một số người khác lại mong muốn tiếp tục cống hiến cho xã hội và duy trì hoạt động kinh doanh của gia đình, nhằm tạo ra thu nhập để đảm bảo cuộc sống tuổi già.
Nghiên cứu của Denis Mannaerts (2016) và Ezzedine El Mestiri (2016) chỉ ra rằng nhiều người cao tuổi (NCT) tham gia vào thị trường lao động (TTLĐ) để cân bằng cuộc sống, tránh cảm giác cô đơn và trầm cảm trong tuổi già Các tác giả lập luận rằng việc tiếp tục làm việc không chỉ giúp NCT duy trì sự giao tiếp xã hội mà còn mang lại ý nghĩa cho cuộc sống, giúp họ cảm thấy vẫn còn năng lực và khỏe mạnh Do đó, tham gia TTLĐ trở thành một cách để NCT thỏa mãn nhu cầu sống một cuộc sống đầy đủ và hợp lý.
Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng động cơ làm việc của người cao tuổi (NCT) bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi các yếu tố kinh tế Một ví dụ điển hình là nghiên cứu của Philippe Antoine và Valérie Golaz (2010, tr 45 – 50) về tình cảnh của người cao tuổi tại Châu Âu, cho thấy sự tác động của điều kiện kinh tế đến quyết định tham gia lao động của họ.
Phi” cho thấy động cơ tham gia TTLĐ của đa số NCT ở đây là bởi khó khăn kinh tế.
Với nền kinh tế chậm phát triển, nhiều người lao động gặp khó khăn trong việc tích lũy tiền bạc cho tuổi già, khiến họ phải tìm kiếm việc làm để đảm bảo cuộc sống Hệ thống hưu trí ở Châu lục này có độ bao phủ thấp và mức chi trả không đủ, dẫn đến quan niệm rằng tuổi nghỉ hưu không phải là thời gian nghỉ ngơi mà là thời gian tìm kiếm thu nhập bổ sung Nghiên cứu của Liên hợp quốc năm 2007 chỉ ra rằng khi chất lượng cuộc sống giảm sút và chi phí chăm sóc sức khỏe tăng, nhiều người cao tuổi vẫn cần tiếp tục làm việc để cải thiện đời sống.
Tại Việt Nam, nhiều người cao tuổi (NCT) vẫn tiếp tục làm việc thay vì nghỉ hưu, theo nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới và các chuyên gia như Richard Jackson, Tobias Peter, Martin Evans và Susan Harkness Động cơ làm việc của NCT rất đa dạng; một số tìm kiếm sự phong phú trong đời sống tinh thần và sức khỏe, trong khi những người khác làm việc chủ yếu vì lý do sinh kế.
Nghiên cứu của Richard Jackson và Tobias Peter (2015) đề cập đến việc biến thách thức thành cơ hội trong bối cảnh vấn đề hưu trí tại Việt Nam Tác giả nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cải cách hệ thống hưu trí để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của dân số già, đồng thời khuyến khích sự tham gia của các bên liên quan trong việc tìm kiếm giải pháp bền vững Họ cũng chỉ ra rằng việc đầu tư vào giáo dục và sức khỏe có thể tạo ra cơ hội mới, giúp cải thiện chất lượng cuộc sống cho người cao tuổi và giảm gánh nặng cho hệ thống hưu trí.
Bài viết “Người cao tuổi ở Việt Nam: bảo trợ xã hội, hỗ trợ phi chính thức và nghèo đói” của Martin Evans và Susan Harkness (2008) chỉ ra rằng luật pháp Việt Nam quy định tuổi nghỉ hưu là 60 đối với nam và 55 đối với nữ Tuy nhiên, các tác giả cho rằng khái niệm “hưu trí” không đồng nhất với “người cao tuổi”, vì nhiều người vẫn tiếp tục làm việc sau tuổi nghỉ hưu Phân tích cho thấy chỉ một bộ phận nhỏ người cao tuổi làm việc để rèn luyện sức khỏe, trong khi đa số còn lại làm việc vì lý do sinh kế Điều này dẫn đến nhận định rằng việc hiểu đúng thái độ của người cao tuổi đối với công việc và hưu trí là rất khó khăn.
Nhiều người cao tuổi (NCT) mong muốn nghỉ hưu để tận hưởng cuộc sống an nhàn bên gia đình Tuy nhiên, không ít người lại cảm thấy cần quay trở lại thị trường lao động (TTLĐ) để tránh cuộc sống đơn điệu và buồn tẻ.
Nghiên cứu của Mạc Văn Tiến (2015) và Lê Ngọc Lân cùng cộng sự (2010) khẳng định rằng lao động và nghỉ hưu là quyền của mỗi cá nhân Nhiều người cao tuổi (NCT) chọn tiếp tục làm việc để tạo thu nhập, nhằm tự đảm bảo cuộc sống và tránh phụ thuộc vào kinh tế của con cháu.
Theo Bộ Lao động Thương Binh và Xã hội (2016), phần lớn người cao tuổi (NCT) ở Việt Nam không có tài sản tích lũy do ảnh hưởng của lịch sử chiến tranh, giai đoạn kinh tế trì trệ và năng suất lao động thấp Nguyên nhân chủ yếu là trình độ học vấn và tay nghề hạn chế, cùng với thói quen đầu tư tất cả cho con cháu với hy vọng chúng sẽ thành công Thực tế này đã thúc đẩy nhiều NCT mong muốn tìm kiếm việc làm để cải thiện chất lượng cuộc sống của mình.
5.3.217 Cũng theo chiều hướng nghiên cứu trên, kết quả nghiên cứu “Hướng tới cuộc
5.3.219 sống khỏe mạnh và năng động cho người cao tuổi ở Việt Nam” của Ngân hàng
Thế giới (2016, tr 35), về “Cơ sở khoa học của việc xây dựng sàn an sinh xã hội ở Việt
Theo nghiên cứu của Doãn Mậu Diệp và cộng sự (2015), tỷ lệ phụ thuộc kinh tế của người cao tuổi (NCT) tại Việt Nam đạt 40% trong tổng số dân số nhóm này Đặc biệt, ở độ tuổi 80 trở lên, trung bình có 2 trong 3 NCT hoàn toàn phụ thuộc vào kinh tế của con cháu Tình trạng này gây áp lực lớn lên các thế hệ trẻ và khuyến khích nhiều NCT tiếp tục tham gia thị trường lao động.
5.3.220 Thực tế này cũng được Nguyễn Thị Thu Hà và cộng sự (2015, tr 41 –
42) chỉ ra trong nghiên cứu về “Báo cáo tổng quan các nghiên cứu về giảm nghèo ở
Sự phụ thuộc của người cao tuổi (NCT) vào con cháu gia tăng tỷ lệ nghèo của các hộ gia đình tại Việt Nam Khi trong gia đình có một NCT, nguy cơ rơi vào cảnh nghèo tăng khoảng 4%, và mức độ rủi ro này càng cao khi có thêm NCT thứ hai hoặc thứ ba Khi thu nhập của NCT giảm, thu nhập của cả hộ gia đình cũng bị ảnh hưởng, khiến họ trở thành những người đầu tiên chịu tác động tiêu cực từ các cú sốc kinh tế Chính vì lý do này, nhiều NCT mong muốn tiếp tục làm việc để cải thiện tình hình tài chính.
Nghiên cứu của Wan He và cộng sự (2016) chỉ ra rằng những người cao tuổi (NCT) có khả năng tự đảm bảo cuộc sống thông qua các nguồn tích lũy trong quá khứ hoặc cho thuê tài sản thường ít có động lực tham gia thị trường lao động Họ thường ưu tiên dành thời gian cho các hoạt động giải trí và hưởng thụ Tuy nhiên, tỷ lệ NCT trong nhóm này không cao, do đó, phần lớn những người cao tuổi còn sức khỏe vẫn có nhu cầu tiếp tục làm việc để tự đảm bảo cuộc sống.
5.3.222 Cũng theo chiều hướng nghiên cứu này, Ngân hàng Thế giới (2016), Nguyễn Thị Thu Hà và cộng sự (2015), Nguyễn Nam Phương và Ngô Quỳnh An
(2013), Nguyễn Thế Huệ (2016), Phạm Vũ Hoàng (2014), T Van Nguyen và cộng sự