1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Tác động của nhận thức về hỗ trợ xã hội đến nghiện internet ở sinh viên vai trò của trí tuệ cảm xúc

177 248 1
Tài liệu đã được kiểm tra trùng lặp

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 177
Dung lượng 851,52 KB

Cấu trúc

  • ĐỀ TÀI THAM GIA XÉT

  • LỜI CAM ĐOAN

    • Tác giả

  • MỤC LỤC

    • DANH MỤC BẢNG DANH MỤC HÌNH

  • CHƯƠNG 1: CHƯƠNG MỞ ĐẦU

    • 1.1. Tổng quan nghiên cứu

      • 1.1.1. Tổng quan nghiên cứu mối quan hệ giữa nhận thức về hỗ trợ xã hội và nghiện Internet

      • 1.1.2. Tổng quan nghiên cứu mối quan hệ giữa nhận thức về hỗ trợ xã hội và trí tuệ cảm xúc

      • 1.1.3. Tổng quan nghiên cứu mối quan hệ giữa trí tuệ cảm xúc và nghiện Internet

    • 1.2. Lý do chọn đề tài

    • 1.3. Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu

      • 1.3.1. Mục tiêu nghiên cứu

      • 1.3.2. Câu hỏi nghiên cứu

    • 1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

    • 1.5. Phương pháp nghiên cứu

      • 1.5.1. Phương pháp thu thập dữ liệu

        • 1.5.1.1. Thu thập dữ liệu thứ cấp

        • 1.5.1.2. Thu thập dữ liệu sơ cấp

      • 1.5.2. Phương pháp phân tích dữ liệu

  • CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN

    • 2.1. Mô hình nhận thức hành vi nghiện Internet của Davis

      • Hình 2.1: Mô hình nhận thức hành vi nghiện Internet

    • 2.2. Nghiện Internet

      • 2.2.1. Khái niệm Internet

      • 2.2.2. Khái niệm nghiện Internet

      • 2.2.3. Tác hại của nghiện Internet

      • 2.2.4. Đo lường nghiện Internet

    • 2.3. Trí tuệ cảm xúc

      • 2.3.1. Khái niệm trí tuệ cảm xúc

      • 2.3.2. Các thành phần của trí tuệ cảm xúc

        • Mô hình về khả năng trí tuệ cảm xúc

        • Mô hình về năng lực trí tuệ cảm xúc

        • Mô hình trí tuệ cảm xúc về tính cách

      • 2.3.3. Đo lường trí tuệ cảm xúc

      • 2.3.4. Tác động của trí tuệ cảm xúc tới nghiện Internet

    • 2.4. Nhận thức về hỗ trợ xã hội

      • 2.4.1. Khái niệm hỗ trợ xã hội

      • 2.4.2. Khái niệm nhận thức về hỗ trợ xã hội

      • 2.4.3. Vai trò của nhận thức về hỗ trợ xã hội

      • 2.4.4. Đo lường nhận thức về hỗ trợ xã hội

      • 2.4.5. Tác động của nhận thức về hỗ trợ xã hội tới nghiện Internet

      • 2.4.6. Tác động của nhận thức về hỗ trợ xã hội tới trí tuệ cảm xúc

    • 2.5. Mô hình và giả thuyết nghiên cứu

      • Hình 2.2: Mô hình nghiên cứu

  • CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

    • 3.1. Quy trình nghiên cứu

      • Hình 3.1: Quy trình nghiên cứu

    • 3.2. Xây dựng thang đo và thiết kế bảng hỏi

      • 3.2.1. Xây dựng thang đo

        • 3.2.1.1. Thang đo nghiện Internet

          • Bảng 3.1: Thang đo nghiện Internet

        • 3.2.1.2. Thang đo trí tuệ cảm xúc

          • Bảng 3.2: Thang đo trí tuệ cảm xúc

        • 3.2.1.3. Thang đo nhận thức về hỗ trợ xã hội

          • Bảng 3.3: Thang đo nhận thức về hỗ trợ xã hội

      • 3.2.2. Thiết kế bảng hỏi

    • 3.3. Mẫu nghiên cứu

      • Bảng 3.4: Cơ cấu mẫu khảo sát theo các trường đại học

      • Bảng 3.5: Cơ cấu mẫu khảo sát theo đặc điểm cá nhân

    • 3.4. Nghiên cứu định tính

      • 3.4.1. Mục tiêu của nghiên cứu định tính

      • 3.4.2. Phương pháp nghiên cứu định tính

    • 3.5. Nghiên cứu định lượng

      • 3.5.1. Mục tiêu của nghiên cứu định lượng

      • 3.5.2. Phương pháp nghiên cứu định lượng

        • 3.5.2.1. Phương pháp thu thập dữ liệu

        • 3.5.2.2. Phương pháp phân tích dữ liệu

  • CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

    • 4.1. Thực trạng sử dụng Internet hiện nay của sinh viên trên địa bàn Hà Nội

      • 4.1.1. Tần suất và thời điểm truy cập

        • Bảng 4.1: Tần suất sử dụng Internet của sinh viên

        • Hình 4.1: Tần suất sử dụng Internet của sinh viên

        • Bảng 4.2: Thời điểm truy cập Internet của sinh viên

      • 4.1.2. Mục đích truy cập

        • Bảng 4.3: Mục đích sử dụng Internet của sinh viên

    • 4.2. Ảnh hưởng của nhận thức về hỗ trợ xã hội tới nghiện Internet: Vai trò của trí tuệ cảm xúc

      • 4.2.1. Đánh giá độ tin cậy thang đo các biến

        • Bảng 4.4: Kết quả phân tích độ tin cậy của thang đo

      • 4.2.2. Kết quả phân tích nhân tố khám phá (EFA)

        • Bảng 4.5: Kết quả phân tích nhân tố khám phá

      • 4.2.3. Kết quả phân tích nhân tố khẳng định (CFA)

        • Bảng 4.6: Kết quả thông số kiểm định sự phù hợp của mô hình nghiên cứu

        • Hình 4.2: Kết quả phân tích nhân tố khẳng định

      • 4.2.4. Kết quả kiểm định mô hình cấu trúc tuyến tính (SEM)

        • Hình 4.3: Kết quả phân tích mô hình cấu trúc tuyến tính

        • Bảng 4.7: Kết quả chỉ tiêu phù hợp mô hình cấu trúc tuyến tính

        • Bảng 4.8: Kết quả hệ số mô hình cấu trúc

      • 4.2.5. Kiểm định độ tin cậy của mô hình bằng phương pháp Bootstrap

        • Bảng 4.9: Kết quả phương pháp Bootstrap

      • 4.2.6. Kết quả kiểm định giả thuyết

        • Hình 4.4: Kết quả nghiên cứu

        • Bảng 4.10: Tổng hợp kết quả kiểm định giả thuyết

    • 4.3. Kết quả kiểm định sự khác biệt về nghiện Internet theo đặc điểm cá nhân của sinh viên

      • Bảng 4.11: Kết quả kiểm định sự khác biệt về nghiện Internet theo đặc điểm cá nhân của sinh viên

    • 4.4. Kết quả kiểm định sự khác biệt nhận thức về hỗ trợ xã hội theo mức độ gắn kết các mối quan hệ của sinh viên

      • 4.4.1. Thực trạng mức độ gắn kết với các mối quan hệ của sinh viên

        • Bảng 4.12: Mức độ gắn kết trong các mối quan hệ của sinh viên

      • 4.4.2. Sự khác biệt nhận thức về hỗ trợ xã hội theo mức độ gắn kết với các mối quan hệ của sinh viên

        • Bảng 4.13: Kết quả kiểm định sự khác biệt nhận thức về hỗ trợ xã hội theo mức độ gắn kết các mối quan hệ của sinh viên

    • 4.5. Kết quả kiểm định sự khác biệt về trí tuệ cảm xúc theo đặc điểm cá nhân của sinh viên

      • Bảng 4.14: Kết quả kiểm định sự khác biệt về trí tuệ cảm xúc theo đặc điểm cá nhân của sinh viên

  • CHƯƠNG 5: LUẬN BÀN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ ĐỀ XUẤT MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ

    • 5.1. Luận bàn kết quả nghiên cứu

    • 5.2. Một số khuyến nghị

      • 5.2.1. Đối với sinh viên

      • 5.2.2. Đối với gia đình

      • 5.2.3. Đối với nhà trường và xã hội

    • 5.3. Hạn chế của đề tài và hướng nghiên cứu tiếp theo

  • KẾT LUẬN

  • DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

  • PHỤ LỤC

    • PHỤ LỤC 1: LƯỚI PHỎNG VẤN SÂU GIAI ĐOẠN 1

    • PHỤ LỤC 2: DANH SÁCH PHỎNG VẤN SÂU GIAI ĐOẠN 1

    • TÁC ĐỘNG CỦA NHẬN THỨC VỀ HỖ TRỢ XÃ HỘI ĐẾN NGHIỆN INTERNET Ở SINH VIÊN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

    • PHẦN I: THÔNG TIN CHUNG

    • 2. Bạn là sinh viên năm:

    • 4. Khối ngành bạn theo học:

    • 6. Hiện bạn đang ở:

    • 8. Mục đích sử dụng Internet của bạn? (có thể chọn nhiều đáp án)

    • 10. Bạn thường sử dụng Internet vào (những) thời điểm nào trong ngày? (có thể chọn nhiều đáp án)

    • PHẦN II: Nhận thức về hỗ trợ xã hội

    • Cho biết cảm nhận của bạn về những nhận định sau:

    • Cho biết cảm nhận của bạn về những nhận định sau:

    • Cho biết cảm nhận của bạn về những nhận định sau:

    • PHỤ LỤC 4: LƯỚI PHỎNG VẤN SÂU GIAI ĐOẠN 2

    • PHỤ LỤC 5: DANH SÁCH PHỎNG VẤN SÂU GIAI ĐOẠN 2

    • Phụ lục 6.1: Bảng thống kê mô tả biến khảo sát

    • Phụ lục 6.2: Kiểm định Cronbach’s Alpha các thang đo các biến

    • Reliability Statistics

    • Reliability Statistics

    • Reliability Statistics

    • Reliability Statistics

    • Reliability Statistics

    • Reliability Statistics

    • Reliability Statistics

    • Reliability Statistics

    • Reliability Statistics

    • Reliability Statistics

    • Reliability Statistics

    • Phụ lục 6.3: Kết quả phân tích nhân tố khám phá EFA

    • Pattern Matrixa

    • Phụ lục 6.4: Phân tích nhân tố khẳng định CFA

    • CMIN

    • Baseline Comparisons

    • NCP

    • RMSEA

    • ECVI

    • CMIN

    • Baseline Comparisons

    • NCP

    • RMSEA

    • ECVI

    • Estimates (Group number 1 - Default model)

    • Regression Weights: (Group number 1 - Default model)

    • Covariances: (Group number 1 - Default model)

    • Variances: (Group number 1 - Default model)

    • Phụ lục 6.6: Kết quả phương pháp Bootstrap

    • Phụ lục 6.7: Các kiểm định T-Test và phân tích ANOVA sự khác biệt về nghiện internet theo các đặc điểm cá nhân của sinh viên

    • Group Statistics

    • Test of Homogeneity of Variances

    • Robust Tests of Equality of Means

    • Multiple Comparisons

    • Test of Homogeneity of Variances

    • Test of Homogeneity of Variances

    • Multiple Comparisons

    • Test of Homogeneity of Variances

    • Multiple Comparisons

    • Phụ lục 6.8: Kết quả kiểm định ANOVA sự khác biệt nhận thức về hỗ trợ xã hội theo mức độ gắn kết các mối quan hệ của sinh viên

    • ANOVA

    • Test of Homogeneity of Variances

    • Multiple Comparisons

    • Robust Tests of Equality of Means

    • Robust Tests of Equality of Means

    • Robust Tests of Equality of Means

    • ANOVA

    • Phụ lục 6.9: Kết quả kiểm định T test và ANOVA sự khác biệt về trí tuệ cảm xúc theo đặc điểm cá nhân của sinh viên.

    • Group Statistics

    • ANOVA

    • ANOVA

    • ANOVA

Nội dung

Hỗ trợ xã hội và nghiện Internet là một vấn đề có ý nghĩa đối với sinh viên, gia đình và nhà trường. Nâng cao hiệu quả sử dụng Internet ở sinh viên là quan trọng nhưng cải thiện nhận thức về hỗ trợ xã hội càng có ý nghĩa hơn khi tạo được chỗ dựa tâm lý cho sinh viên. Nhóm nghiên cứu hy vọng đề tài sẽ có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn đối với sinh viên, gia đình và nhà trường. Về mặt lý luận, đề tài đánh giá được thực trạng và mức độ nghiện Internet của sinh viên tại một số trường Đại học trên địa bàn thành phố Hà Nội. Đồng thời, xem xét sự ảnh hưởng của nhận thức về hỗ trợ xã hội và trí tuệ cảm xúc tới nghiện Internet trong bối cảnh Việt Nam hiện nay. Qua nghiên cứu nhận thấy, nhận thức về hỗ trợ xã hội có tác động ngược chiều tới nghiện Internet. Những người nhận thức về hỗ trợ xã hội tốt có xu hướng nghiện Internet ít hơn. Yếu tố sự gắn kết của các mối quan hệ cũng đặc biệt ảnh hưởng đến mức độ nhận thức về hỗ trợ xã hội ở sinh viên. Sinh viên khá gắn kết và rất gắn kết với gia đình có trung bình nhận thức về hỗ trợ xã hội cao hơn các mức độ khác. Trong mối quan hệ với thầy cô, sinh viên khá gắn kết và rất gắn kết có nhận thức về hỗ trợ xã hội cao nhất. Cùng với đó, nghiên cứu chỉ ra trí tuệ cảm xúc tác động ngược chiều đến nghiện Internet đã góp phần củng cố nhận định trí tuệ cảm xúc là yếu tố dự báo quan trọng cho nghiện Internet. Nhận biết được điều này, các bên liên quan (như gia đình, các trường Đại học,…) sẽ có các giải pháp thích hợp từ những khuyến nghị để có thể giúp cho sinh viên có thể hạn chế được tình trạng nghiện Internet từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng Internet trong cuộc sống. Về mặt thực tiễn, nghiên cứu cũng đã cung cấp một số góc nhìn thực tế về tình trạng sử dụng Internet hiện nay ở sinh viên trên địa bàn Hà Nội nói riêng và sinh viên Việt Nam nói chung, chỉ ra những tác nhân ảnh hưởng đến tình trạng nghiện Internet và những mong muốn, cảm nhận của sinh viên đối với việc cải thiện tình trạng của bản thân xung quanh những hỗ trợ từ xã hội đặc biệt là trong giai đoạn còn học tập trên giảng đường Đại học. Cùng với những kết quả phân tích, nhóm nghiên cứu đã đưa ra những kiến nghị đến với chính bản thân sinh viên, gia đình, nhà trường và xã hội để có thể tác động tới các yếu tố làm ảnh hưởng đến tình trạng nghiện Internet của sinh viên. Từ đó giúp giảm thiểu các tác động tiêu cực liên quan đến tình trạng nghiện Internet,

CHƯƠNG MỞ ĐẦU

Tổng quan nghiên cứu

1.1.1 Tổng quan nghiên cứu mối quan hệ giữa nhận thức về hỗ trợ xã hội và nghiện Internet

Ngày nay, Internet mang lại nhiều lợi ích cho người dùng với nguồn thông tin phong phú và cơ hội giao lưu, giải trí Tuy nhiên, sự phát triển nhanh chóng của nó đã ảnh hưởng lớn đến thói quen giao tiếp và hành vi, dẫn đến tình trạng nghiện Internet, đặc biệt ở thanh thiếu niên Nghiện Internet đang trở thành một vấn đề nghiêm trọng với nhiều nguy cơ tiềm ẩn Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng nhận thức về hỗ trợ xã hội là một trong những yếu tố chính ảnh hưởng đến tình trạng nghiện Internet, từ đó giúp xác định các nhân tố tác động và đề xuất giải pháp giảm thiểu tình trạng này (Gunuc và Dogan, 2013; Karaer và Akdemir, 2019).

Tổng quan nghiên cứu ngoài nước

Nhiều nghiên cứu quốc tế đã chỉ ra mối liên hệ giữa hỗ trợ xã hội và sức khỏe thể chất, tâm lý trong bối cảnh sử dụng Internet Đặc biệt, một số nghiên cứu tập trung vào khía cạnh nhận thức về hỗ trợ xã hội, cho thấy đây là một chủ đề được quan tâm nghiên cứu trong những năm gần đây.

Nghiên cứu của Chen và cộng sự (1991) đã chỉ ra mối quan hệ giữa hỗ trợ xã hội và nghiện Internet ở 382 sinh viên đại học Các sinh viên được chia thành ba nhóm dựa trên mức độ nhận thức về hỗ trợ xã hội và được theo dõi trong 4-5 năm Kết quả cho thấy nhóm có hỗ trợ xã hội thấp có tỷ lệ nghiện Internet cao hơn, khẳng định rằng có mối quan hệ ngược chiều giữa hỗ trợ xã hội và nghiện Internet; cụ thể, mức độ hỗ trợ xã hội thấp làm tăng nguy cơ nghiện Internet.

Trong những năm gần đây, nhiều nhà nghiên cứu đã tập trung vào việc khám phá mối liên hệ giữa nghiện Internet và nhận thức về hỗ trợ xã hội, đồng thời xem xét các yếu tố khác có liên quan.

Năm 2010, Esen và Gündoğdu đã nghiên cứu mối quan hệ giữa nghiện Internet, áp lực đồng trang lứa và nhận thức về hỗ trợ xã hội ở 558 thanh thiếu niên tại Thổ Nhĩ Kỳ, cho thấy rằng mức độ nghiện Internet giảm khi có sự hỗ trợ từ phụ huynh và giáo viên Nghiên cứu khẳng định rằng nếu thanh thiếu niên cảm nhận được sự hỗ trợ cần thiết từ gia đình và những người xung quanh, họ sẽ ít tìm kiếm sự kết nối từ Internet Đến năm 2013, Gunuc và Dogan tiếp tục điều tra mối quan hệ này trong bối cảnh gia đình, với 166 thanh thiếu niên tham gia, và phát hiện ra rằng nhận thức về hỗ trợ xã hội có tác động ngược chiều đến nghiện Internet Kết quả cho thấy gia đình, đặc biệt là mẹ, là nguồn hỗ trợ xã hội quan trọng nhất trong việc ngăn chặn hành vi nghiện Internet ở thanh thiếu niên.

Năm 2015, Naseri và cộng sự đã tiến hành nghiên cứu về mối quan hệ giữa nhận thức về hỗ trợ xã hội, lòng tự tôn và nghiện Internet trên 101 nữ sinh viên tại ký túc xá Đại học AL-Zahra, Tehran, Iran Kết quả cho thấy có sự liên kết rõ ràng giữa nghiện Internet và nhận thức về hỗ trợ xã hội từ gia đình cũng như từ những người xung quanh Những sinh viên có tình trạng nghiện Internet thường có mối quan hệ xã hội, cá nhân và gia đình kém hơn so với những người không bị nghiện.

Năm 2017, Çevik và Yildiz đã tiến hành nghiên cứu trên 300 học sinh trung học để xác định mức độ ảnh hưởng của nhận thức về hỗ trợ xã hội đến nghiện Internet Kết quả cho thấy, nhận thức về sự hỗ trợ xã hội từ những người đặc biệt có tác động đáng kể đến hành vi nghiện Internet Tuy nhiên, nghiên cứu không ghi nhận tác động của nhận thức về hỗ trợ xã hội từ gia đình và bạn bè đối với nghiện Internet.

Năm 2019, nghiên cứu của Karaer và Akdemir trên thanh thiếu niên nghiện Internet cho thấy họ thiếu nhận thức về hỗ trợ xã hội, gặp khó khăn trong việc nhận diện và điều tiết cảm xúc Tác giả kết luận rằng cải thiện chất lượng mối quan hệ và tăng cường nhận thức về hỗ trợ xã hội có thể giúp phòng ngừa nghiện Internet Năm 2020, nghiên cứu của Wang và Zhang với 560 học sinh ở Trung Quốc chỉ ra rằng nhận thức về hỗ trợ xã hội là yếu tố dự báo hành vi nghiện Internet, với tác động đáng kể qua yếu tố trung gian là phân biệt đối xử Nghiên cứu này khuyến nghị tăng cường hỗ trợ xã hội để giảm thiểu tình trạng nghiện Internet.

Tổng quan nghiên cứu trong nước

Tại Việt Nam, nghiên cứu về mối quan hệ giữa nhận thức về hỗ trợ xã hội và nghiện Internet còn hạn chế và chưa rõ ràng Các tác giả chủ yếu tập trung phân tích mối liên hệ giữa nhận thức về hỗ trợ xã hội với các loại nghiện như nghiện rượu và ma túy, cũng như tác động của người nhận hỗ trợ xã hội đến các vấn đề sức khỏe tâm thần và triệu chứng trầm cảm.

Nghiên cứu của tác giả Khương Quỳnh Long và cộng sự (2018) tại Thành phố Hồ Chí Minh với 300 bệnh nhân tại phòng khám methadone đã chỉ ra rằng hỗ trợ xã hội có vai trò quan trọng trong quá trình điều trị và phục hồi của bệnh nhân duy trì methadone (MMT) Mục tiêu nghiên cứu là đánh giá phiên bản tiếng Việt của khảo sát hỗ trợ xã hội (MOS-SSS) ở bệnh nhân MMT, được kiểm tra qua mối tương quan với Thang đo đa chiều về nhận thức về hỗ trợ xã hội (MSPSS) và Thang đo nhận thức về nghiện (PSAS) Kết quả cho thấy phiên bản tiếng Việt của MOS-SSS là công cụ đáng tin cậy và hợp lệ trong việc đánh giá chức năng hỗ trợ xã hội cho bệnh nhân MMT tại Việt Nam.

Năm 2020, nghiên cứu của Rebecca và cộng sự đã điều tra mối quan hệ giữa triệu chứng trầm cảm, việc sử dụng rượu và hỗ trợ xã hội ở người nhiễm HIV tiêm chích ma túy tại miền Bắc Việt Nam Kết quả cho thấy, những người đàn ông này có xu hướng tiêu thụ rượu nhiều hơn khi gặp phải triệu chứng trầm cảm Sử dụng thang đo nhận thức về hỗ trợ xã hội, nghiên cứu đã xác nhận rằng hỗ trợ xã hội có thể củng cố mối liên hệ giữa việc sử dụng rượu và các triệu chứng trầm cảm trong nhóm đối tượng này.

Nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Quang (2020) trên 416 sinh viên chỉ ra rằng sự quan tâm có điều kiện của mẹ có mối liên hệ tích cực với mức độ lo âu và trầm cảm ở con cái Kết quả cho thấy khi mẹ thể hiện sự quan tâm có điều kiện, con cái có xu hướng gặp phải nhiều triệu chứng lo âu và trầm cảm hơn.

Số lượng nghiên cứu về nhận thức hỗ trợ xã hội phong phú, với giá trị lý luận và thực tiễn cao, đồng thời phản ánh qua đánh giá của người được khảo sát Nhận thức về hỗ trợ xã hội ảnh hưởng trực tiếp đến hành vi nghiện Internet, với nhận thức cao giúp giảm khả năng nghiện Nghiên cứu quốc tế thường tập trung vào học sinh trung học và sinh viên đại học, cho thấy tầm quan trọng của vấn đề này đối với giới trẻ Tuy nhiên, tại Việt Nam, nghiên cứu về mối quan hệ giữa nhận thức hỗ trợ xã hội và nghiện Internet ở đối tượng trẻ vẫn còn hạn chế.

1.1.2 Tổng quan nghiên cứu mối quan hệ giữa nhận thức về hỗ trợ xã hội và trí tuệ cảm xúc

Nghiên cứu quốc tế đã chỉ ra mối liên hệ giữa nhận thức về hỗ trợ xã hội và trí tuệ cảm xúc, với nhiều học giả đóng góp vào lĩnh vực này Một số công trình tiêu biểu đã được thực hiện để làm rõ sự tương tác giữa hai yếu tố này.

Năm 2008, Gallagher và Vella-Brodrick đã tiến hành nghiên cứu về mối quan hệ giữa nhận thức về hỗ trợ xã hội, trí tuệ cảm xúc và niềm hạnh phúc chủ quan trên 267 người Nghiên cứu sử dụng thang đo nhận thức về hỗ trợ xã hội của Zimet (1988) và thang đo trí tuệ cảm xúc của Schutte (1998) Kết quả cho thấy trí tuệ cảm xúc có vai trò quan trọng trong việc cải thiện nhận thức về hỗ trợ xã hội, từ đó ảnh hưởng tích cực đến niềm hạnh phúc chủ quan.

Lý do chọn đề tài

Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn

Với sự bùng nổ công nghệ, thế hệ trẻ ngày nay phải đối mặt với nhiều rủi ro trực tuyến, đặc biệt là nghiện Internet Tình trạng này không chỉ gây ra các vấn đề về sức khỏe thể chất và tâm lý mà còn ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của xã hội (Sinkkonen và cộng sự, 2014; Young và Rogers).

Internet đã trở thành một vấn đề nóng bỏng trong những thập kỷ qua và sẽ tiếp tục như vậy trong tương lai Sự phổ biến của Internet mang lại nhiều tiện lợi cho cuộc sống, nhưng cũng tiềm ẩn nguy cơ nghiêm trọng nếu sử dụng sai cách Do đó, việc nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến nghiện Internet là rất cần thiết để đề xuất các biện pháp cải thiện tình hình.

Nghiện Internet đang gia tăng, đặc biệt trong giới trẻ ở châu Á, với tỷ lệ cao hơn so với phương Tây (J Kuss và cộng sự, 2014) Việt Nam có tốc độ phổ cập Internet nhanh, đạt 9% mỗi năm, và đứng thứ 14 thế giới về số lượng người dùng, với khoảng 64 triệu người (World Bank, 2016; Internet World Stats, 2020) Đối tượng sử dụng Internet chủ yếu từ 18 đến 34 tuổi, cho thấy tiềm năng lớn cho thị trường Internet tại Việt Nam (Statista, 2019) Tuy nhiên, bên cạnh lợi ích, người dùng cũng phải đối mặt với những ảnh hưởng tiêu cực như chất lượng giấc ngủ kém do sử dụng Internet sai cách (Tran và cộng sự, 2017) Việc sử dụng thiết bị kết nối Internet quá mức đã khiến nghiện Internet trở thành vấn đề cần sự quan tâm từ phụ huynh và nhà trường Do đó, cần nghiên cứu sâu hơn về các yếu tố ảnh hưởng đến nghiện Internet để giảm thiểu tác hại và nâng cao chất lượng sử dụng Internet tại Việt Nam, biến Internet thành công cụ mang lại lợi ích cho cuộc sống.

Xuất phát từ khoảng trống nghiên cứu

Nghiện Internet đang thu hút sự chú ý từ nhiều nghiên cứu, nhưng hiểu biết về các nhân tố ảnh hưởng đến tình trạng này vẫn còn hạn chế (Kuss và Lopez-Fernandez, 2016) Một trong những yếu tố quan trọng là nhận thức về hỗ trợ xã hội, được xác định có mối tương quan với nghiện Internet qua các nghiên cứu của Esen và Gündoğdu (2010), Gunuc và Dogan (2013), Karaer và Akdemir (2019), Wang và Zhang (2020) Ngoài ra, trí tuệ cảm xúc cũng là một yếu tố dự báo đáng tin cậy về nghiện Internet, có mối liên hệ chặt chẽ với nhiều yếu tố khác trong các nghiên cứu của Wang và Zhang (2020) và Hamissi cùng các cộng sự.

Nghiên cứu về tác động của tuệ cảm xúc đối với nghiện Internet còn hạn chế, với hầu hết các công trình chỉ tập trung vào một hoặc hai yếu tố như tuệ cảm xúc hoặc nhận thức về hỗ trợ xã hội (Khoshakhlagh và Faramarzi, 2012; Hsieh, 2018; Chen và cộng sự, 1991; Esen và Gündoğdu, 2010; Gunuc và Dogan, 2013) Tại Việt Nam, các nghiên cứu chủ yếu đề cập đến tình trạng và tác hại của nghiện Internet mà ít phân tích các yếu tố ảnh hưởng ban đầu (Nguyễn Thị Hậu, 2009) Đặc biệt, việc xem xét nhận thức về hỗ trợ xã hội như một nhân tố ảnh hưởng đến nghiện Internet vẫn chưa được chú trọng, mặc dù đây là một vấn đề phức tạp và quan trọng trong xã hội hiện nay Hơn nữa, trí tuệ cảm xúc được coi là yếu tố điều tiết trong nhiều nghiên cứu khác nhưng lại chưa được khai thác đầy đủ trong các đề tài liên quan đến nghiện Internet.

Mô hình tác động của nhận thức về hỗ trợ xã hội đến nghiện Internet thông qua trí tuệ cảm xúc là một lĩnh vực chưa được nghiên cứu nhiều, cả ở Việt Nam và trên thế giới Do đó, việc nghiên cứu các mối quan hệ này sẽ cung cấp những kết luận mới và giá trị trong việc hiểu rõ hơn về vấn đề nghiện Internet.

Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã chỉ ra mối liên hệ giữa trí tuệ cảm xúc và nghiện Internet (Beranuy và cộng sự, 2009) Các nghiên cứu khác cũng điều tra mối quan hệ giữa nghiện Internet, áp lực đồng trang lứa và nhận thức về hỗ trợ xã hội (Esen và cộng sự, 2010) Hơn nữa, mối quan hệ giữa nghiện Internet và nhận thức về hỗ trợ xã hội của thanh thiếu niên cũng được nghiên cứu (Gunuc và Dogan, 2013) Đặc biệt, tác động của bạo lực học đường đến nghiện Internet của học sinh tiểu học tại Đài Loan cũng đã được xem xét (Hsieh và cộng sự).

Nghiên cứu về mối quan hệ giữa nhận thức về hỗ trợ xã hội và nghiện Internet ở Việt Nam có thể khác biệt so với các quốc gia phát triển như Đài Loan, Tây Ban Nha và Thổ Nhĩ Kỳ, nơi mà đối tượng nghiên cứu chủ yếu là học sinh THCS và THPT do điều kiện tiếp xúc sớm với Internet Việt Nam, với nền văn hóa phương Đông truyền thống, có sự gắn kết và hỗ trợ xã hội phong phú từ gia đình, bạn bè và hàng xóm, điều này ảnh hưởng đến nhận thức về hỗ trợ xã hội của sinh viên Sinh viên Việt Nam, trong giai đoạn độc lập với cha mẹ và xây dựng mối quan hệ thân thiết với bạn bè, cần sử dụng Internet nhiều, do đó nghiên cứu tác động của nhận thức về hỗ trợ xã hội đến nghiện Internet trong nhóm đối tượng này là vô cùng quan trọng.

Việc nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến nghiện Internet ở sinh viên Việt Nam là rất quan trọng, đặc biệt là nhận thức về hỗ trợ xã hội và trí tuệ cảm xúc Hai yếu tố này có mối liên hệ chặt chẽ với tình trạng nghiện Internet ở giới trẻ, những người đang tiếp xúc với Internet một cách toàn diện Họ đang trong quá trình tìm kiếm các mối quan hệ xã hội và hoàn thiện bản thân, đồng thời sẽ trở thành tương lai và chỗ dựa vững chắc cho đất nước và xã hội.

Nhóm nghiên cứu đã chọn đề tài “Tác động của nhận thức về hỗ trợ xã hội đến nghiện Internet ở sinh viên: vai trò của trí tuệ cảm xúc” nhằm đo lường các yếu tố ảnh hưởng đến tình trạng nghiện Internet của sinh viên Nghiên cứu sẽ tập trung vào nhận thức về hỗ trợ xã hội và trí tuệ cảm xúc, từ đó đề xuất các giải pháp giảm thiểu tình trạng nghiện Internet và nâng cao chất lượng sử dụng Internet tại Việt Nam, đặc biệt là đối với nhóm sinh viên từ 17 đến 25 tuổi.

Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu

1.3.1 Mục tiêu nghiên cứu Đề tài nghiên cứu nhằm thực hiện những mục tiêu sau:

Mục tiêu của nghiên cứu là đánh giá mức độ nghiện Internet của sinh viên tại các trường Đại học ở Hà Nội, đồng thời phân tích ảnh hưởng của nhận thức về hỗ trợ xã hội và trí tuệ cảm xúc đối với tình trạng nghiện này.

 Hệ thống hóa cơ sở lý thuyết về nghiện Internet, nhận thức về hỗ trợ xã hội và trí tuệ cảm xúc ở sinh viên.

 Tìm hiểu cách thức đo lường hành vi nghiện Internet, nhận thức về hỗ trợ xã hội, trí tuệ cảm xúc.

Nghiên cứu này tập trung vào việc xây dựng và kiểm định mô hình để phân tích tác động của nhận thức về hỗ trợ xã hội và trí tuệ cảm xúc đối với mức độ nghiện Internet của sinh viên Mục tiêu là làm rõ mối liên hệ giữa các yếu tố này và cách chúng ảnh hưởng đến hành vi sử dụng Internet của giới trẻ.

 Dựa trên kết quả nghiên cứu, đề xuất một số khuyến nghị nhằm giảm hành vi nghiện Internet.

1.3.2 Câu hỏi nghiên cứu Để thực hiện mục tiêu trên, nhóm nghiên cứu tập trung trả lời các câu hỏi sau:

 Hành vi nghiện Internet, nhận thức về hỗ trợ xã hội và trí tuệ cảm xúc được đo lường như thế nào?

 Nhận thức về hỗ trợ xã hội có tác động đến nghiện Internet không? Nếu có, chiều và mức độ tác động như thế nào?

 Nhận thức về hỗ trợ xã hội có tác động đến trí tuệ cảm xúc không? Nếu có,chiều và mức độ tác động như thế nào?

 Trí tuệ cảm xúc có tác động đến nghiện Internet không? Nếu có, chiều và mức độ tác động như thế nào?

Nghiên cứu này nhằm khám phá sự khác biệt trong nghiện Internet, nhận thức về hỗ trợ xã hội và trí tuệ cảm xúc dựa trên các đặc điểm cá nhân của sinh viên Việc hiểu rõ mối liên hệ giữa những yếu tố này sẽ giúp xác định cách thức ảnh hưởng đến hành vi và cảm xúc của sinh viên trong môi trường học tập.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

(i) Đối tượng nghiên cứu: tác động của nhận thức về hỗ trợ xã hội tới nghiện Internet: vai trò của trí tuệ cảm xúc.

(ii) Phạm vi nghiên cứu:

Nhóm nghiên cứu đã chọn thành phố Hà Nội làm địa bàn khảo sát do đây là nơi tập trung nhiều trường đại học và có số lượng sinh viên đông đảo, thuận lợi cho việc nghiên cứu Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo, năm học 2018 – 2019, cả nước có 237 trường đại học, trong đó có 172 trường công lập và 65 trường ngoài công lập, với tổng số sinh viên lên tới hơn 1.5 triệu, chủ yếu tập trung ở khu vực Bắc Bộ, đặc biệt là Hà Nội với 96 trường đại học và học viện.

Các trường Đại học, Học viện hiện nay tiến hành tổ chức đào tạo sinh viên theo

Bài viết đề cập đến 7 khối ngành chính, bao gồm: Khối ngành I – Khoa học giáo dục và đào tạo giáo viên; Khối ngành II – Nghệ thuật; Khối ngành III – Kinh doanh và quản lý; và Khối ngành IV – Pháp luật Mỗi khối ngành mang đến những cơ hội học tập và phát triển nghề nghiệp khác nhau, phục vụ nhu cầu đa dạng của xã hội.

Khối ngành IV bao gồm Khoa học sự sống và Khoa học tự nhiên; Khối ngành V tập trung vào Toán và thống kê, Máy tính và công nghệ thông tin, Công nghệ kỹ thuật, Kỹ thuật, Sản xuất và chế biến, Kiến trúc và xây dựng, Nông lâm và thủy sản, cùng với Thú y; Khối ngành VI chuyên về Sức khỏe; Khối ngành VII bao gồm Nhân văn, Khoa học xã hội và hành vi, Báo chí và thông tin, Dịch vụ xã hội, Khách sạn – du lịch – thể thao và dịch vụ cá nhân, Dịch vụ vận tải, cùng với Môi trường và bảo vệ môi trường, An ninh quốc phòng, theo thông tư 32/2015/TT-BGDĐT.

Nhóm nghiên cứu tiến hành khảo sát tại một số trường thuộc hai khối ngành III và V (Kinh tế và Kỹ thuật), vì hầu hết các trường đại học và học viện đều có chương trình đào tạo cho hai khối này Ngoài việc chọn trường theo khối ngành, nhóm còn xem xét quy mô đào tạo, tập trung nghiên cứu chủ yếu ở 6 trường: Đại học Kinh tế Quốc dân, Đại học Bách khoa Hà Nội, Học viện Tài chính, Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông, Đại học Giao thông vận tải, và Đại học Kinh tế – Đại học Quốc gia Hà Nội.

 Nhóm trường có quy mô lớn:

Trường Đại học Kinh tế Quốc dân đã công bố tổng chỉ tiêu tuyển sinh hệ đào tạo chính quy năm 2020 là 5.800 sinh viên, với 53 ngành đào tạo khác nhau Thông tin này được đưa ra theo Phương án Tuyển sinh Đại học hệ chính quy năm 2020 vào ngày 03/01/2020.

Học viện Tài chính thông báo chỉ tiêu tuyển sinh năm 2020 cho hệ đào tạo chính quy là 4200 sinh viên, với 11 ngành đào tạo khác nhau, theo Đề án Tuyển sinh Đại học chính quy được công bố vào ngày 23/04/2020.

 Nhóm trường có quy mô nhỏ:

Trường Đại học Kinh tế – Đại học Quốc gia Hà Nội thông báo chỉ tiêu tuyển sinh năm 2020 là 1.200 sinh viên chính quy, với 6 ngành đào tạo được quy định trong Đề án Tuyển sinh Đại học chính quy năm 2020.

 Nhóm trường có quy mô lớn:

Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội đã công bố chỉ tiêu tuyển sinh năm 2020 là 6800 sinh viên, với 58 mã ngành đào tạo Trong khi đó, Đại học Giao thông Vận tải cũng đặt chỉ tiêu tuyển sinh là 4200 sinh viên.

24 ngành đào tạo (theo Đề án tuyển sinh trình độ đại học 2020 Trường Đại học Giao thông Vận tải công bố ngày 30/05/2020).

 Nhóm trường có quy mô nhỏ:

Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông năm 2019 tuyến sinh với tổng chỉ tiêu 3450 sinh viên (cơ sở miền Bắc 2600 chỉ tiêu) tương ứng với 10 ngành đào tạo.

Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 01/2020 đến tháng 05/2020, trong đó giai đoạn phỏng vấn sơ bộ nhằm thu thập ý kiến để củng cố và hoàn thiện thang đo các biến trong bảng hỏi diễn ra từ ngày 10/03/2020 đến 15/03/2020.

Nhóm nghiên cứu đã tiến hành khảo sát chính thức từ ngày 20/03/2020 đến 05/04/2020, và thực hiện phỏng vấn sâu vào cuối tháng 04/2020 để giải thích kết quả khảo sát.

Phương pháp nghiên cứu

1.5.1 Phương pháp thu thập dữ liệu

1.5.1.1 Thu thập dữ liệu thứ cấp

Dữ liệu thứ cấp cho nghiên cứu này được thu thập từ nhiều nguồn tài liệu như sách, báo cáo, và website, với trọng tâm đặc biệt vào các nghiên cứu liên quan đến hỗ trợ xã hội, trí tuệ cảm xúc và nghiện Internet, cùng với các kiến thức lý thuyết liên quan.

1.5.1.2 Thu thập dữ liệu sơ cấp

Bảng hỏi khảo sát trực tuyến đã tiếp cận đối tượng nghiên cứu qua mạng xã hội, đảm bảo rằng tất cả người tham gia đều có khả năng truy cập Internet Tổng số phản hồi thu được là 906, sau khi lọc phiếu, số lượng phản hồi đáng tin cậy được đưa vào phân tích là 787, chiếm khoảng 87%.

1.5.2 Phương pháp phân tích dữ liệu

Dữ liệu được xử lý và phân tích thống kê bằng phần mềm Microsoft Excel 2016, SPSS 20.0 và AMOS 20.0, bao gồm các bước như thống kê mô tả, kiểm tra độ tin cậy bằng Cronbach’s alpha, phân tích nhân tố khám phá (EFA) và khẳng định (CFA), cùng với kiểm tra mô hình cấu trúc tuyến tính (SEM) Thống kê mô tả giúp kiểm tra các biến quan tâm, trong khi Cronbach’s Alpha đánh giá độ tin cậy của thang đo và loại bỏ các biến không phù hợp EFA được sử dụng để xác định tương quan giữa các biến, CFA khẳng định mô hình các yếu tố cấu thành, và SEM kiểm định giả thuyết nghiên cứu Phương pháp Bootstrap kiểm tra tính ý nghĩa của mô hình với mẫu lớn, và ANOVA tìm ra sự khác biệt theo các đặc điểm cá nhân.

CƠ SỞ LÝ LUẬN

Mô hình nhận thức hành vi nghiện Internet của Davis

Mô hình nhận thức hành vi nghiện Internet do Davis phát triển vào năm 2001, nhấn mạnh vào các yếu tố nhận thức liên quan đến nghiện Internet, khác với các nghiên cứu trước đó chỉ tập trung vào các yếu tố hành vi.

Mô hình phân loại hành vi nghiện Internet bao gồm hai loại chính: nghiện Internet cá biệt (specific PIU) và nghiện Internet tổng quát (generalized PIU) Nghiện Internet cá biệt xảy ra khi người dùng phụ thuộc vào một chức năng cụ thể của Internet, thể hiện qua việc mất kiểm soát trong các hoạt động trực tuyến như đấu giá, giao dịch chứng khoán và cờ bạc Ngược lại, nghiện Internet tổng quát liên quan đến việc lạm dụng Internet mà không có mục tiêu rõ ràng, thường gắn liền với việc sử dụng mạng xã hội, phản ánh khía cạnh xã hội của Internet.

Nguyên nhân và ý nghĩa của mối quan hệ giữa nghiện Internet và xã hội cũng được thể hiện trong Hình 2.1.

Hình 2.1: Mô hình nhận thức hành vi nghiện Internet

Mô hình này nhấn mạnh vai trò của nhận thức trong việc hình thành và phát triển nghiện Internet, cho thấy rằng vấn đề này xuất phát từ nhận thức sai lệch và thiếu hỗ trợ xã hội Theo lý thuyết nhận thức hành vi, phần nhận thức của cá nhân là nguyên nhân chính dẫn đến các hành vi bất thường, điều này phân biệt lý thuyết với các nghiên cứu trước đó, vốn tập trung vào hành vi và tác động tiêu cực của nghiện Internet trong cuộc sống hàng ngày.

Mô hình nhận thức hành vi nghiện Internet của Davis (2001) đã được ứng dụng rộng rãi trong các nghiên cứu về nghiện Internet, cho thấy tác động của yếu tố xã hội đến hành vi này Caplan (2002) đã phát triển thang đo nghiện Internet tổng quát dựa trên mô hình này, với nghiên cứu trên 386 sinh viên Mỹ cho thấy nhận thức về hỗ trợ xã hội có ảnh hưởng ngược chiều đến nghiện Internet Davis và cộng sự (2002) cũng đã xây dựng thang đo nhận thức hành vi trực tuyến, trong đó yếu tố xã hội vẫn được giữ nguyên và có tương quan với hành vi trực tuyến Tương tự, Douglas và cộng sự (2011) đã phát triển thang đo nghiện trò chơi điện tử dựa trên mô hình của Davis (2001) để đo lường mức độ nghiện trò chơi điện tử ở học sinh lớp 3 tại Singapore, với kết quả cho thấy mối tương quan ngược chiều giữa hỗ trợ xã hội và nghiện trò chơi điện tử.

Nhóm nghiên cứu nhận thấy rằng nhân tố nhận thức về hỗ trợ xã hội đóng vai trò quan trọng trong mô hình của Davis, do đó quyết định khảo sát tác động của yếu tố này đối với nghiện Internet Bài nghiên cứu sẽ xem xét nghiện Internet như một biến phụ thuộc mà chưa phân loại thành nghiện Internet cá biệt và nghiện Internet tổng quát.

Nghiện Internet

Thuật ngữ "Internet" lần đầu được sử dụng vào đầu những năm 1970 bởi Cerf và cộng sự, định nghĩa Internet là một hệ thống kết nối giữa các máy tính, cho phép chia sẻ tệp tin và thiết lập phần mềm Hệ thống này sử dụng phương thức truyền thông tin nối chuyển gói dữ liệu (packet switching) dựa trên giao thức IP đã được chuẩn hóa Internet bao gồm hàng ngàn mạng máy tính nhỏ hơn từ các doanh nghiệp, viện nghiên cứu, trường đại học, người dùng cá nhân và các chính phủ trên toàn thế giới.

Naseri và cộng sự (2015) đã chỉ ra rằng Internet cung cấp nhiều tiện ích hữu ích cho người dùng, bao gồm hệ thống thư điện tử (email), công cụ tìm kiếm, dịch vụ thương mại, giáo dục từ xa và trò chuyện trực tuyến qua các trang web.

Mặc dù nghiện Internet đã được nghiên cứu từ những năm 1990, thuật ngữ “nghiện Internet” lần đầu tiên được đưa ra bởi Young tại Mỹ.

Năm 1996, Young đã phát hiện ra những dấu hiệu bất thường từ một người bạn do sử dụng Internet quá nhiều, từ đó đưa ra khái niệm nghiện Internet Mặc dù gặp phải nhiều phản đối cho rằng không ai có thể nghiện máy móc, Young dựa vào mô hình "nghiện cờ bạc" từ DSM IV của APA để định hình khái niệm này Theo nghiên cứu của ông, nghiện Internet tương tự như nhu cầu quá mức trong chơi bài, được xem là một "rối loạn kiểm soát xung động" không liên quan đến các chất kích thích gây nghiện.

Nghiện Internet đã được định nghĩa qua nhiều nghiên cứu, trong đó Davis (2001) cho rằng đây là việc sử dụng Internet quá mức, gây hại cho cuộc sống cá nhân, chức năng tâm lý, chức năng xã hội và ảnh hưởng đến công việc cũng như hành vi học tập Nalwa và Anand (2003) mô tả nghiện Internet như một loại nghiện tâm lý, thể hiện qua sự phụ thuộc ngày càng tăng vào Internet, cảm giác khó chịu khi không được sử dụng và sự mong chờ mãnh liệt để được truy cập Internet.

Năm 2003, Ferris chỉ ra rằng nghiện Internet có thể được hiểu là việc sử dụng Internet để đối phó với cảm giác bất lực, mặc cảm, lo âu hoặc trầm cảm Các nghiên cứu gần đây cũng xác định rằng thuật ngữ nghiện Internet thường được dùng để mô tả tình trạng không kiểm soát và lạm dụng Internet (Kiralla, 2005).

Trong nghiên cứu này, nhóm nghiên cứu tiếp cận dựa vào định nghĩa của Davis

Theo định nghĩa của Young (2001), "nghiện Internet" được hiểu là việc sử dụng Internet một cách quá mức, dẫn đến những tác hại cho cuộc sống cá nhân, chức năng tâm lý, chức năng xã hội và ảnh hưởng tiêu cực đến công việc hàng ngày cũng như hành vi học tập của người sử dụng Định nghĩa này đã được nhiều nghiên cứu khác như của Peter và cộng sự (2007), Li và cộng sự (2006), Akin và Iskender (2011), Caplan và High (2011) áp dụng rộng rãi.

2.2.3 Tác hại của nghiện Internet

Sử dụng Internet quá mức có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến các mối quan hệ gia đình và bạn bè Nghiên cứu của Swickert và cộng sự (2002) cho thấy việc lạm dụng Internet dẫn đến sự suy giảm trong các mối quan hệ xã hội, bao gồm cả sự hỗ trợ từ gia đình và bạn bè Người nghiện Internet thường dành ít thời gian cho cuộc sống thực, dẫn đến sự thờ ơ với công việc và những người thân yêu trong gia đình.

Nghiên cứu của Swing (2010) và Gentile (2012) chỉ ra rằng thời gian học sinh, sinh viên dành cho trò chơi Internet có thể dẫn đến giảm sự tập trung trong lớp học Mặc dù Internet hỗ trợ cho việc học tập và làm việc, nhưng việc lướt web không liên quan đến học tập đang làm thay đổi thói quen học của học sinh, gây ảnh hưởng tiêu cực đến thành tích học tập và hiệu suất làm việc của người lao động.

Nghiên cứu của Yen và cộng sự (2007) chỉ ra rằng nạn nhân nghiện Internet gặp phải các triệu chứng như rối loạn tăng động giảm chú ý (ADHD), trầm cảm, ám ảnh sợ xã hội và thù địch Tương tự, các nghiên cứu của Morrison và Gore (2010) cùng Christakis và cộng sự (2011) cho thấy rằng những người nghiện Internet có nguy cơ cao hơn mắc trầm cảm so với người bình thường, với mối tương quan đáng kể giữa mức độ trầm cảm và rối loạn nghiện Internet Điều này cho thấy nghiện Internet có ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe tâm lý.

Young (1998) đã phát triển một thang đo gồm 20 câu hỏi để đánh giá mức độ nghiện Internet ở học sinh Tây Ban Nha, bao gồm cả yếu tố cá nhân và xã hội Thang đo này đã được áp dụng trong nhiều nghiên cứu tiếp theo của Young và được sử dụng rộng rãi trong các nghiên cứu gần đây của Marta Beranuy và các cộng sự.

Nghiên cứu về nghiện Internet đã được thực hiện rộng rãi, với nhiều nghiên cứu quốc tế sử dụng thang đo của Young Pawlikowski và cộng sự (2013) đã rút ngắn thang đo này xuống còn 12 câu hỏi, gọi là s-IAT, cho thấy thang đo này có các thuộc tính tâm lý tốt và bao gồm các chỉ báo chính của nghiện Internet Đặc biệt, thang đo s-IAT đã được dịch sang tiếng Việt theo hướng dẫn của WHO và được áp dụng trong các nghiên cứu tại Việt Nam vào năm 2017 bởi Tran và cộng sự.

Nhóm nghiên cứu đã chọn sử dụng thang đo s-IAT từ loạt nghiên cứu của Tran và cộng sự (2017) vì nó đã được áp dụng thành công trong bối cảnh Việt Nam và có thời gian sử dụng gần với thang đo gốc của Young (1998).

12 câu hỏi còn được nhóm thành hai yếu tố chính là “quản lý thời gian sử dụng Internet” và “vấn đề xã hội khi sử dụng Internet”.

Yếu tố “quản lý thời gian sử dụng Internet” được xác định trong nghiên cứu của Korkeila và cộng sự (2010) và tương đồng với “mất kiểm soát về thời gian sử dụng Internet” trong nghiên cứu của Widyanto và cộng sự (2011) Nghiên cứu của Pawlikowski và cộng sự (2013) đã xác nhận rằng “quản lý thời gian sử dụng Internet” là một trong hai yếu tố chính cấu thành hành vi nghiện Internet.

Nghiên cứu của Chang và Law (2008) cũng như Korkeila và cộng sự (2010) đã chỉ ra rằng "vấn đề xã hội khi sử dụng Internet" là một yếu tố quan trọng Theo nghiên cứu của Pawlikowski và cộng sự (2013), yếu tố này còn góp phần hình thành hành vi nghiện Internet Tương tự, nghiên cứu của Tran và cộng sự (2017) cũng xác nhận kết quả này, nhấn mạnh tầm quan trọng của vấn đề xã hội trong việc sử dụng Internet.

Trí tuệ cảm xúc

2.3.1 Khái niệm trí tuệ cảm xúc

Năm 1983, Howard Gardner đã phát triển khái niệm rằng các loại trí thông minh truyền thống như IQ không đủ để giải thích khả năng nhận thức của con người Ông giới thiệu nhiều loại trí thông minh, trong đó có trí thông minh giữa các cá nhân (khả năng hiểu ý định và động lực của người khác) và trí thông minh nội tâm (khả năng hiểu bản thân và cảm xúc của chính mình) Khái niệm trí tuệ cảm xúc xuất phát từ "trí thông minh xã hội" mà Thorndike đã định nghĩa vào năm 1920, mô tả khả năng quản lý cảm xúc trong các mối quan hệ Gardner (1993) đã đưa trí thông minh xã hội vào lý thuyết đa trí tuệ của mình, phân chia thành trí thông minh giữa các cá nhân và trí thông minh nội tâm Trí thông minh nội tâm liên quan đến khả năng hiểu và quản lý cảm xúc phức tạp của bản thân, trong khi trí thông minh giữa các cá nhân tập trung vào khả năng nhận diện sự khác biệt trong tâm trạng và động lực của người khác.

Trí tuệ cảm xúc lần đầu tiên được đề cập trong bài báo năm 1964 của Michael Beldoch, nhấn mạnh khả năng nhận diện các biểu hiện cảm xúc phi ngôn ngữ Đây là một đặc điểm ổn định của con người, có thể đo lường và khái quát hóa qua các phương thức giao tiếp Sự quan trọng của trí tuệ cảm xúc trong đời sống và công việc đã thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu toàn cầu, dẫn đến nhiều quan điểm khác nhau về định nghĩa của nó dựa trên các cách tiếp cận đa dạng.

Trí tuệ cảm xúc, theo cách tiếp cận khả năng của con người, được xem là một loại trí thông minh xã hội, liên quan đến việc quản lý cảm xúc bản thân và đánh giá cảm xúc của người khác Điều này giúp nhận diện sự khác biệt giữa các cảm xúc và sử dụng thông tin đó để định hướng suy nghĩ và hành động (Salovey và Mayer, 1990) Goleman (1996) đã mô tả trí tuệ cảm xúc như khả năng vượt qua sự chán nản, kiểm soát căng thẳng tinh thần và duy trì hy vọng.

Tiếp cận theo năng lực cảm xúc, Goleman (1998) định nghĩa trí tuệ cảm xúc là khả năng nhận diện cảm xúc của bản thân và người khác, tự tạo động lực và kiểm soát cảm xúc trong các mối quan hệ Trong khi đó, BarOn (1997) xem trí tuệ cảm xúc là tập hợp các năng lực và kỹ năng phi nhận thức, ảnh hưởng đến khả năng thành công trong việc đối phó với yêu cầu và áp lực từ môi trường.

Theo Petrides và Furnham (2001), trí tuệ cảm xúc được định nghĩa là sự kết hợp của các đặc điểm như cảm giác hạnh phúc, tính đa cảm, khả năng tự kiểm soát và hòa đồng Trí tuệ cảm xúc đặc điểm phản ánh cách một cá nhân nhận thức về khả năng cảm xúc của bản thân Định nghĩa này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tự cảm nhận và hành vi, và thường được đo lường thông qua các báo cáo tự đánh giá.

Trí tuệ cảm xúc (EQ) đã gây ra nhiều tranh luận về định nghĩa của nó, nhưng Salovey và Mayer (1990) là những người tiên phong trong việc khái niệm hóa EQ, tập trung vào các khía cạnh đánh giá, sử dụng, hiểu và quản lý cảm xúc Mô hình này không chỉ định hình khái niệm mà còn là cơ sở cho nhiều nghiên cứu khác nhau về trí tuệ cảm xúc Do đó, trong nghiên cứu này, nhóm tác giả đã áp dụng lý thuyết về trí tuệ cảm xúc của Salovey và Mayer.

Trí tuệ cảm xúc, theo định nghĩa năm 1990, là khả năng quản lý, hiểu và đánh giá cảm xúc của bản thân cũng như của người khác Nó bao gồm việc phân biệt các cảm xúc khác nhau và sử dụng thông tin này để hướng dẫn suy nghĩ và hành động.

2.3.2 Các thành phần của trí tuệ cảm xúc

Trí tuệ cảm xúc là một khái niệm gây nhiều tranh luận và có nhiều định nghĩa khác nhau, thường xuyên được các nhà nghiên cứu điều chỉnh và phát triển để phù hợp với bối cảnh nghiên cứu Các mô hình chính về trí tuệ cảm xúc của các nhà nghiên cứu cũng đã được xác định rõ ràng.

 Mô hình về khả năng trí tuệ cảm xúc

Mô hình của Salovey và Mayer (1990)

Salovey và Mayer định nghĩa trí tuệ cảm xúc là khả năng nhận thức, tiếp cận và tạo ra cảm xúc nhằm hỗ trợ tư duy Định nghĩa này nhấn mạnh việc hiểu và điều chỉnh phản xạ cảm xúc để thúc đẩy sự phát triển của cảm xúc và trí tuệ.

Mô hình của Salovey và Mayer cho rằng trí tuệ cảm xúc là nguồn thông tin quý giá từ môi trường và xã hội, giúp cá nhân cải thiện khả năng xử lý cảm xúc Theo mô hình này, khả năng của mỗi người có thể thay đổi, cho phép họ hiểu và quản lý cảm xúc tốt hơn để thu nhận thông tin sâu sắc hơn Mayer và Salovey đã định nghĩa trí tuệ cảm xúc qua bốn khía cạnh khác nhau, nhấn mạnh tầm quan trọng của nó trong việc phát triển bản thân và tương tác xã hội.

- Khả năng xác định và nhận biết cảm xúc, đánh giá và thể hiện đúng cảm xúc trong bản thân (Tự đánh giá cảm xúc – SEA).

- Khả năng sử dụng cảm xúc để tạo điều kiện cho suy nghĩ, tạo thuận lợi cho công việc và các hoạt động (Sử dụng cảm xúc – UOE).

- Khả năng hiểu cảm xúc, khả năng này được nhận ra với việc có thể đánh giá và hiểu cảm xúc ở người khác (Hiểu cảm xúc – OEA).

Khả năng quản lý cảm xúc, hay còn gọi là điều tiết cảm xúc, không chỉ giúp cá nhân kiểm soát cảm xúc của bản thân mà còn ảnh hưởng đến cách họ tương tác và quản lý cảm xúc của người khác Việc phát triển kỹ năng này, được biết đến như Quản lý cảm xúc – ROE, là yếu tố quan trọng trong việc xây dựng mối quan hệ tốt đẹp và đạt được thành công trong cuộc sống cá nhân cũng như nghề nghiệp.

 Mô hình về năng lực trí tuệ cảm xúc

Mô hình của Daniel Goleman (1998)

Mô hình hỗn hợp của trí tuệ cảm xúc bao gồm các năng lực tâm lý và phẩm chất nhân cách Theo Goleman (1998), năng lực cảm xúc không phải là bẩm sinh mà có thể được trau dồi và phát triển Mỗi người khi sinh ra đều sở hữu một trí tuệ cảm xúc đặc trưng cho việc phát triển cảm xúc Trí tuệ cảm xúc bao gồm năm thành phần chính.

Tự nhận thức là khả năng nhận biết và hiểu rõ tâm trạng, cảm xúc của bản thân, cũng như cách mà chúng ảnh hưởng đến hành vi và cảm xúc của những người xung quanh Việc phát triển tự nhận thức giúp cải thiện mối quan hệ và tăng cường sự đồng cảm trong giao tiếp.

Tự điều chỉnh là khả năng kiểm soát và thay đổi những tác nhân ảnh hưởng đến tâm trạng, xu hướng phán đoán và suy nghĩ trước khi thực hiện hành động Việc phát triển kỹ năng tự điều chỉnh giúp cá nhân quản lý cảm xúc hiệu quả hơn, từ đó đưa ra quyết định sáng suốt và phù hợp trong các tình huống khác nhau.

- Tạo động lực (internal motivation): Niềm đam mê làm việc vì những lý do bên trong vượt xa tiền bạc và địa vị.

- Đồng cảm (empathy): Khả năng hiểu cảm xúc của người khác Một kỹ năng trong việc đối xử với mọi người theo phản ứng cảm xúc của họ.

Kỹ năng xã hội là khả năng quản lý mối quan hệ và xây dựng mạng lưới xã hội hiệu quả Người có kỹ năng này có thể dễ dàng tìm thấy điểm chung với người khác, từ đó phát triển và duy trì các mối quan hệ bền vững.

Nhận thức về hỗ trợ xã hội

2.4.1 Khái niệm hỗ trợ xã hội

Nghiên cứu về hỗ trợ xã hội đã chỉ ra rằng các định nghĩa thường mơ hồ và quá rộng, gây khó khăn trong việc xác định rõ ràng khái niệm này Ngoài ra, có sự đa dạng lớn trong các phương pháp tiếp cận và đo lường hỗ trợ xã hội, với nhiều cách tiếp cận ít liên quan đến nhau Cuối cùng, nhiều nghiên cứu cũng cho thấy sự thiếu thống nhất trong các kết quả trước đó, dẫn đến những bất đồng trong hiểu biết về hỗ trợ xã hội.

Hỗ trợ xã hội có thể được hiểu qua nhiều cách tiếp cận khác nhau, tùy thuộc vào các khía cạnh và định nghĩa tổng quát.

Hỗ trợ xã hội được hiểu là những tương tác và mối quan hệ mang lại sự trợ giúp thực tế và tình cảm giữa các cá nhân trong một hệ thống xã hội (Hobfoll, 1988) Định nghĩa này nhấn mạnh hai khía cạnh chính: nhận được hỗ trợ xã hội và nhận thức về hỗ trợ xã hội Nhận được hỗ trợ xã hội liên quan đến các hành vi giúp đỡ cụ thể, trong khi nhận thức về hỗ trợ xã hội là niềm tin rằng sự giúp đỡ sẽ có sẵn khi cần thiết Barrera (1986) cho rằng nhận được hỗ trợ là sự giúp đỡ cho các vấn đề đã xảy ra, còn nhận thức về hỗ trợ xã hội liên quan đến sự giúp đỡ cho những vấn đề có thể xảy ra trong tương lai.

Hỗ trợ xã hội được định nghĩa là sự trao đổi tài nguyên giữa ít nhất hai cá nhân, trong đó cả người hỗ trợ và người nhận đều nhận thức rằng phúc lợi của người nhận được cải thiện (Shumaker và Brownell, 1984) Theo Cohen và Syme (1985), sự trao đổi này có thể mang lại cả tác động tích cực lẫn tiêu cực Ngoài ra, Gurung (2006) nhấn mạnh rằng hỗ trợ xã hội còn thể hiện sự cảm nhận được coi trọng, tôn trọng, quan tâm và yêu thương từ những người xung quanh.

Tardy (1985) trong phân tích của mình đã chỉ ra rằng để làm rõ sự khác biệt trong định nghĩa và cách tiếp cận đối với hỗ trợ xã hội, cần xác định rõ định hướng (cung cấp hay nhận hỗ trợ), nội dung (hỗ trợ như thế nào) và phương thức (hỗ trợ theo hình thức nào) Dựa trên nền tảng đó, Barrera (1986) đã đề xuất một hướng nghiên cứu mới về các khái niệm hỗ trợ xã hội nhằm giải quyết những nguyên nhân gây nhầm lẫn và phản biện lại một số vấn đề đã được nêu ra trong các bài phê bình trước đây về lĩnh vực này.

2.4.2 Khái niệm nhận thức về hỗ trợ xã hội

Nhận thức về hỗ trợ xã hội phản ánh sự đánh giá về mức độ tin cậy mà cá nhân cảm nhận từ những người xung quanh Điều này tương đồng với quan điểm của Cobb (1976) khi cho rằng hỗ trợ xã hội không chỉ là sự hiện diện của sự giúp đỡ mà còn là nguồn thông tin quan trọng trong mối quan hệ xã hội.

Năm 1976, nghiên cứu đã nhấn mạnh chức năng phản hồi của hỗ trợ xã hội, trong đó các yếu tố nhận thức về sự hỗ trợ xã hội bao gồm cảm nhận và độ tin cậy của các mối quan hệ (Cohen và Hoberman, 1983; Holahan và Moos, 1981; Procidano và Heller, 1983; Turner và cộng sự, 1983) Những yếu tố này không định lượng số lượng người hỗ trợ hay các mối quan hệ xã hội, khác với các khái niệm liên quan đến sự thỏa mãn trong hỗ trợ (Barrera, 1981; Henderson và cộng sự, 1981; Sarason và cộng sự, 1983) Các nghiên cứu cho thấy xu hướng nhấn mạnh vào cảm nhận của cá nhân về sự đầy đủ của hỗ trợ trong các mối quan hệ xã hội, đặc biệt là khía cạnh nhận thức.

Nhiều nghiên cứu trong những năm qua đã chứng minh rằng khía cạnh nhận thức của hỗ trợ xã hội vượt trội hơn so với khía cạnh nhận được hỗ trợ Điều này góp phần nâng cao sức khỏe tâm lý và bảo vệ cá nhân khỏi những áp lực bên ngoài.

Nhận thức về hỗ trợ xã hội là cảm nhận chủ quan của cá nhân về mức độ hỗ trợ mà mạng lưới xã hội của họ cung cấp (Cohen và McKay, 1984) Aksüllü và Dogan (2004) định nghĩa rằng nhận thức này phản ánh sự cảm nhận của con người về khả năng hỗ trợ từ mạng lưới xã hội Theo Fan và cộng sự (2012), hỗ trợ xã hội được cảm nhận qua sự công nhận và đánh giá từ các thành viên trong gia đình, bạn bè và những người đặc biệt ÇELİK và Didem (2012) nhấn mạnh rằng đây là sự tự đánh giá của cá nhân về mức độ hỗ trợ mà họ nhận được từ mạng lưới xã hội Những cá nhân có nhu cầu hòa nhập thường tìm kiếm sự giúp đỡ và cảm thấy hài lòng hơn với các mối quan hệ thân thiết (ÇELİK và Didem, 2012) Nhận thức về hỗ trợ xã hội còn là niềm tin cá nhân về việc được chăm sóc, yêu thương và quý trọng (Donev và cộng sự, 2008) Yamaỗ (2009) cũng cho rằng nhận thức này liên quan đến việc thiết lập kết nối đáng tin cậy với người khác và nhận được sự hỗ trợ từ họ.

Nhóm nghiên cứu khám phá yếu tố nhận thức về hỗ trợ xã hội từ ba khía cạnh: gia đình, bạn bè và người đặc biệt Kahn và Antonucci (1980) đã mô phỏng mạng lưới quan hệ cá nhân thành ba vòng tròn đồng tâm, thể hiện mức độ gần gũi chủ quan khác nhau của các thành viên trong mạng lưới đối với cá nhân.

Gia đình đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp hỗ trợ xã hội, theo nghiên cứu của Antonucci và Akiyama (1987) Họ chỉ ra rằng các thành viên trong gia đình thường nằm trong vòng tròn quan hệ gần gũi nhất, cho thấy gia đình là nguồn hỗ trợ chính cho cá nhân.

Nhận thức về hỗ trợ xã hội từ bạn bè rất quan trọng, với hai vòng tròn bên ngoài bao gồm những người có mức độ gần gũi tương đối thấp với cá nhân Những người này, như hàng xóm, đồng nghiệp và bạn bè, mặc dù không gần gũi nhưng vẫn đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp sự hỗ trợ xã hội.

Nhận thức về hỗ trợ xã hội từ người đặc biệt đóng vai trò quan trọng trong việc khám phá thang đo MSPSS, khác biệt so với các thang đo trước đó Người đặc biệt, như gia đình và bạn bè, không chỉ là yếu tố quan trọng trong cuộc sống của cá nhân mà còn mang lại ý nghĩa sâu sắc cho sự hỗ trợ xã hội Theo định nghĩa của Barrera (1986), sự hiện diện và hỗ trợ từ người đặc biệt có ảnh hưởng lớn đến cảm nhận của cá nhân về sự hỗ trợ xã hội.

Nhận thức về hỗ trợ xã hội là sự tin tưởng của cá nhân vào sự giúp đỡ có sẵn từ người khác, bất kể sự hỗ trợ đó có thực sự khả dụng hay không Nó có thể được coi là một chỉ số đánh giá mức độ thân mật và tình cảm trong mối quan hệ (Collins và Feeney, 2004) So với hỗ trợ thực tế, nhận thức về sự hỗ trợ thường có ảnh hưởng lớn hơn đến sức khỏe và hạnh phúc (Krohne và Slangen, 2005) Việc nhận thức rõ ràng về sự hỗ trợ xã hội có thể nâng cao niềm tin vào khả năng đối phó với căng thẳng, giảm thiểu các phản ứng cảm xúc và sinh lý, đồng thời thúc đẩy hành vi tích cực của con người (Cohen, 2004).

2.4.3 Vai trò của nhận thức về hỗ trợ xã hội

Hỗ trợ xã hội đã được công nhận là có lợi cho cá nhân trong thời gian dài, với nhận thức về nó dẫn đến những tác động tích cực đối với sức khỏe thể chất và tinh thần.

Mô hình và giả thuyết nghiên cứu

Nghiên cứu này tập trung vào mối quan hệ giữa "nhận thức về hỗ trợ xã hội", "trí tuệ cảm xúc" và "nghiện Internet", từ đó đề xuất một mô hình nghiên cứu dựa trên lý thuyết đã nêu.

Hình 2.2: Mô hình nghiên cứu

Nhóm nghiên cứu đã quyết định sử dụng các biến giới tính, năm học, khối ngành, kinh nghiệm sử dụng Internet, tần suất sử dụng Internet, tình trạng việc làm, điều kiện sống hiện tại và mức độ gắn kết các mối quan hệ của sinh viên nhằm kiểm soát tốt sự tác động của các biến trong mô hình.

Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng các đặc điểm cá nhân như giới tính, tuổi tác, giáo dục và nghề nghiệp có ảnh hưởng đến hành vi của cá nhân trong tổ chức Các nghiên cứu này thường sử dụng các yếu tố nhân khẩu học để xác định sự khác biệt giữa các nhóm đối tượng liên quan đến nghiện Internet (Esen và Gündoğdu, 2010; Fabio và Kenny, 2012; Jamir và cộng sự, 2019; Wang và Zhang, 2020).

Nghiên cứu của Tran và cộng sự (2017) đã chỉ ra rằng giới tính có ảnh hưởng đến tình trạng nghiện Internet, với nam giới có tỷ lệ nghiện cao hơn so với nữ giới, điều này cũng được xác nhận bởi các nghiên cứu trước đó của Korkeila và cộng sự (2010), Pawlikowski và cộng sự (2013), cùng với Widyanto và cộng sự (2011).

Nghiên cứu năm 2009 cho thấy nam giới có trí tuệ cảm xúc cao hơn, đặc biệt trong việc quản lý cảm xúc trong các mối quan hệ Tuy nhiên, nghiên cứu của Pooja và Kumar (2016) lại chỉ ra rằng nữ giới có điểm trung bình về trí tuệ cảm xúc cao hơn so với nam giới Do đó, nhóm nghiên cứu đã sử dụng các đặc điểm cá nhân của sinh viên như một yếu tố để kiểm soát ảnh hưởng của các biến trong mô hình.

Trong nghiên cứu "Trí tuệ cảm xúc của sinh viên trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh" của Trần Thị Thu Mai (2013), mức độ trí tuệ cảm xúc giữa sinh viên các khoa Ngữ văn, Vật lí, Tiếng Anh và Tâm lí – Giáo dục đã được so sánh Kết quả cho thấy sinh viên Khoa Tiếng Anh đạt điểm trung bình cao nhất, tiếp theo là Khoa Tâm lí – Giáo dục, Khoa Ngữ văn và cuối cùng là Khoa Vật lí Đặc biệt, sinh viên Khoa Tiếng Anh cũng chiếm tỷ lệ cao nhất về trí tuệ cảm xúc ở mức "rất cao" trong tất cả các khoa.

Năm học và độ tuổi là những yếu tố quan trọng trong việc đánh giá tình trạng nghiện Internet, theo nghiên cứu của Yen và cộng sự (2007) về học sinh trung học Họ đã phân tích sự khác biệt giữa các khối lớp như năm nhất, năm hai và năm cuối Mặc dù Ehsan và cộng sự (2019) đã khảo sát ảnh hưởng của tuổi tác đến trí tuệ cảm xúc, nhưng không tìm thấy mối liên hệ rõ ràng giữa hai yếu tố này Nghiên cứu của Trần Thị Thu Mai (2013) cho thấy sinh viên năm hai có điểm trung bình trí tuệ cảm xúc cao hơn so với các năm học khác.

Chất lượng cuộc sống của sinh viên năm 4 được ảnh hưởng bởi việc xác định nhu cầu hỗ trợ từ những người xung quanh, điều này cũng liên quan đến hành vi sử dụng Internet, như nghiên cứu của Tran và cộng sự (2017) chỉ ra Nhóm nghiên cứu đã xem xét điều kiện sống hiện tại của sinh viên để kiểm soát các biến trong mô hình, nhằm thể hiện sự khác biệt của nơi ở đối với các yếu tố này Các hình thức cư trú phổ biến của sinh viên bao gồm sống cùng bố mẹ, ở trọ, ở ký túc xá và sống cùng họ hàng.

Tình trạng việc làm có ảnh hưởng lớn đến hành vi sử dụng Internet, và nghiên cứu cho thấy những người làm việc toàn thời gian thường sử dụng Internet nhiều hơn (Johansson và Gửtestam, 2004) Đối với sinh viên, phần lớn thời gian họ dành cho việc học, do đó tác động của tình trạng việc làm lên nghiện Internet chủ yếu đến từ các công việc part time mà họ thực hiện.

Nhóm nghiên cứu đề xuất sử dụng các câu hỏi liên quan đến kinh nghiệm và tần suất sử dụng Internet, cũng như thời điểm và mục đích sử dụng, để đánh giá hiệu quả sử dụng Internet Điều này giúp xác định ảnh hưởng của các cách tiếp cận Internet đối với hành vi sử dụng của người dùng.

Nghiên cứu của Mỹller và cộng sự (2016) đã chỉ ra mối tương quan đáng kể giữa tần suất sử dụng mạng xã hội và các tiêu chí đánh giá mức độ nghiện Internet Ngược lại, Johansson và Gửtestam (2004) lại phát hiện mối tương quan tương đối thấp giữa tần suất sử dụng Internet hàng tuần và tình trạng nghiện, cho thấy rằng việc sử dụng Internet thường xuyên không nhất thiết dẫn đến những rủi ro cao.

Kinh nghiệm sử dụng Internet: Trong nghiờn cứu của Johansson và Gửtestam

Nghiên cứu năm 2004 chỉ ra rằng người mới sử dụng Internet có nguy cơ phát triển tình trạng nghiện cao hơn, trong khi những người không phụ thuộc vào Internet thường có kinh nghiệm sử dụng lâu hơn.

Mức độ gắn kết các mối quan hệ của sinh viên ảnh hưởng đến hành vi của họ, đặc biệt trong việc sử dụng Internet và trò chơi kỹ thuật số Gunuc (2017) đã nghiên cứu ảnh hưởng của đồng trang lứa và đề xuất lý thuyết học tập xã hội, cho thấy rằng hành vi được hình thành qua các mô hình từ gia đình, bạn bè, phương tiện truyền thông và các nguồn xã hội khác.

Lý thuyết mạng xã hội nhấn mạnh sự gắn kết và phụ thuộc lẫn nhau giữa các cá nhân trong hệ thống xã hội, như trường học và các mối quan hệ Các cá nhân tương tác và ảnh hưởng đến hành vi, thái độ và quyết định của nhau Trong thang đo môi trường gia đình Moos (FES; Moos, 1974), sự gắn kết và biểu đạt được sử dụng như chỉ số nhận thức về hỗ trợ.

Dựa vào cơ sở lý luận và việc tìm hiểu các biến kiểm soát trên, nhóm nghiên cứu đưa ra các giả thuyết:

Nhận thức về hỗ trợ xã hội có thể làm giảm nghiện Internet, trong khi đó, nó lại có ảnh hưởng tích cực đến trí tuệ cảm xúc Trí tuệ cảm xúc, khi được phát triển, sẽ giúp giảm thiểu tình trạng nghiện Internet.

H4: Có sự khác biệt về nghiện Internet theo các đặc điểm cá nhân của sinh viên

H5: Có sự khác biệt về nhận thức về hỗ trợ xã hội theo mức độ gắn kết các mối quan hệ của sinh viên

H6: Có sự khác biệt về trí tuệ cảm xúc theo các đặc điểm cá nhân của sinh viên

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

LUẬN BÀN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ ĐỀ XUẤT MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ

Ngày đăng: 13/11/2021, 10:48

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Ahmad, S., Bangash, H., & Khan, S. A. (2009). Emotional intelligence and gender differences. Sarhad J. Agric, 25(1), 127-130 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sarhad J. Agric, 25
Tác giả: Ahmad, S., Bangash, H., & Khan, S. A
Năm: 2009
2. Akin, A., & Iskender, M. (2011). Internet addiction and depression, anxiety and stress. International online journal of educational sciences, 3(1), 138-148 Sách, tạp chí
Tiêu đề: International online journal of educational sciences, 3
Tác giả: Akin, A., & Iskender, M
Năm: 2011
3. Aksüllü, N., & Dogan, S. (2004). Huzurevinde ve evde yasayan yaslilarda algilanan sosyal destek etkenleri ile depresyon arasindaki iliski/Relationship of social support and depression in institutionalized and non-institutionalized elderly. Anadolu Psikiyatri Dergisi, 5(2), 76 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Anadolu Psikiyatri Dergisi, 5
Tác giả: Aksüllü, N., & Dogan, S
Năm: 2004
4. Antonucci, T. C., & Akiyama, H. (1987). Social networks in adult life and a preliminary examination of the convoy model. Journal of gerontology, 42(5), 519-527 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Journal of gerontology, 42
Tác giả: Antonucci, T. C., & Akiyama, H
Năm: 1987
6. Arbuckle, J. L., & Wothke, W. (1999). Amos 4.0 user's guide. Chicago, IL:SmallWaters Corporation Sách, tạp chí
Tiêu đề: Amos 4.0 user's guide
Tác giả: Arbuckle, J. L., & Wothke, W
Năm: 1999
10. Barrera Jr, M. (1981). Social support in the adjustment of pregnant adolescents.Assessment issues. Social networks and social support, 69-96 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Social networks and social support
Tác giả: Barrera Jr, M
Năm: 1981
11. Barrera Jr, M. (1981). Social support in the adjustment of pregnant adolescents.Assessment issues. Social networks and social support, 69-96 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Social networks and social support
Tác giả: Barrera Jr, M
Năm: 1981
12. Barrera Jr, M. (1986). Distinctions between social support concepts, measures, and models. American journal of community psychology, 14(4), 413-445 Sách, tạp chí
Tiêu đề: American journal of community psychology, 14
Tác giả: Barrera Jr, M
Năm: 1986
13. Barrera, M. (2000). Social support research in community psychology.In Handbook of community psychology (pp. 215-245). Springer, Boston, MA Sách, tạp chí
Tiêu đề: Handbook of community psychology
Tác giả: Barrera, M
Năm: 2000
14. Beldoch, M. (1964). Sensitivity to expression of emotional meaning in three modes of communication. JR Davitz et al., The Communication of Emotional Meaning, McGraw-Hill, 31-42 Sách, tạp chí
Tiêu đề: JR Davitz et al., The Communication of EmotionalMeaning, McGraw-Hill
Tác giả: Beldoch, M
Năm: 1964
15. Beranuy, M., Oberst, U., Carbonell, X., & Chamarro, A. (2009). Problematic Internet and mobile phone use and clinical symptoms in college students: The role of emotional intelligence. Computers in human behavior, 25(5), 1182-1187 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Computers in human behavior, 25
Tác giả: Beranuy, M., Oberst, U., Carbonell, X., & Chamarro, A
Năm: 2009
16. Brackett, M. A., & Mayer, J. D. (2003). Convergent, discriminant, and incremental validity of competing measures of emotional intelligence. Personality and social psychology bulletin, 29(9), 1147-1158 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Personality and social psychology bulletin, 29
Tác giả: Brackett, M. A., & Mayer, J. D
Năm: 2003
17. Broadhead, W. E., Kaplan, B. H., James, S. A., Wagner, E. H., Schoenbach, V. J., Grimson, R., ... & Gehlbach, S. H. (1983). The epidemiologic evidence for a relationship between social support and health. American Journal of epidemiology, 117(5), 521-537 Sách, tạp chí
Tiêu đề: American Journal ofepidemiology, 117
Tác giả: Broadhead, W. E., Kaplan, B. H., James, S. A., Wagner, E. H., Schoenbach, V. J., Grimson, R., ... & Gehlbach, S. H
Năm: 1983
18. Brock, D. M., Sarason, I. G., Sanghvi, H., & Gurung, R. A. (1998). The perceived acceptance scale: Development and validation. Journal of Social and Personal Relationships, 15(1), 5-21 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Journal of Social andPersonal Relationships, 15
Tác giả: Brock, D. M., Sarason, I. G., Sanghvi, H., & Gurung, R. A
Năm: 1998
19. Bruwer, B., Emsley, R., Kidd, M., Lochner, C., & Seedat, S. (2008).Psychometric properties of the Multidimensional Scale of Perceived Social Support in youth. Comprehensive psychiatry, 49(2), 195-201 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Comprehensive psychiatry, 49
Tác giả: Bruwer, B., Emsley, R., Kidd, M., Lochner, C., & Seedat, S
Năm: 2008
20. Buote, V. M., Pancer, S. M., Pratt, M. W., Adams, G., Birnie-Lefcovitch, S., Polivy, J., & Wintre, M. G. (2007). The importance of friends: Friendship and adjustment among 1st-year university students. Journal of adolescent research, 22(6), 665-689 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Journal of adolescentresearch, 22
Tác giả: Buote, V. M., Pancer, S. M., Pratt, M. W., Adams, G., Birnie-Lefcovitch, S., Polivy, J., & Wintre, M. G
Năm: 2007
21. Caplan, S. E. (2002). Problematic Internet use and psychosocial well-being:development of a theory-based cognitive–behavioral measurement instrument. Computers in human behavior, 18(5), 553-575 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Computers in human behavior, 18
Tác giả: Caplan, S. E
Năm: 2002
23. Carson, A. J., Ringbauer, B., MacKenzie, L., Warlow, C., & Sharpe, M. (2000).Neurological disease, emotional disorder, and disability: they are related: a study of 300 consecutive new referrals to a neurology outpatient department. Journal of Neurology, Neurosurgery & Psychiatry, 68(2), 202-206 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Journalof Neurology, Neurosurgery & Psychiatry, 68
Tác giả: Carson, A. J., Ringbauer, B., MacKenzie, L., Warlow, C., & Sharpe, M
Năm: 2000
24. Carveth, W. B., & Gottlieb, B. H. (1979). The measurement of social support and its relation to stress. Canadian Journal of Behavioural Science/Revue canadienne des sciences du comportement, 11(3), 179 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Canadian Journal of Behavioural Science/Revuecanadienne des sciences du comportement, 11
Tác giả: Carveth, W. B., & Gottlieb, B. H
Năm: 1979
25. Cassel, J. (1976). The contribution of the social environment to host resistance:the Fourth Wade Hampton Frost Lecture. American journal of epidemiology, 104(2), 107-123 Sách, tạp chí
Tiêu đề: American journal ofepidemiology, 104
Tác giả: Cassel, J
Năm: 1976

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

2.1. Mô hình nhận thức hành vi nghiện Internet của Davis - Tác động của nhận thức về hỗ trợ xã hội đến nghiện internet ở sinh viên vai trò của trí tuệ cảm xúc
2.1. Mô hình nhận thức hành vi nghiện Internet của Davis (Trang 26)
2.5. Mô hình và giả thuyết nghiên cứu - Tác động của nhận thức về hỗ trợ xã hội đến nghiện internet ở sinh viên vai trò của trí tuệ cảm xúc
2.5. Mô hình và giả thuyết nghiên cứu (Trang 48)
Nhóm đã thực hiện quy trình nghiên cứu được mô tả chi tiết trong Hình 3.1: - Tác động của nhận thức về hỗ trợ xã hội đến nghiện internet ở sinh viên vai trò của trí tuệ cảm xúc
h óm đã thực hiện quy trình nghiên cứu được mô tả chi tiết trong Hình 3.1: (Trang 52)
Bảng 3.2: Thang đo trí tuệ cảm xúc Thành - Tác động của nhận thức về hỗ trợ xã hội đến nghiện internet ở sinh viên vai trò của trí tuệ cảm xúc
Bảng 3.2 Thang đo trí tuệ cảm xúc Thành (Trang 58)
Bảng 3.3: Thang đo nhận thức về hỗ trợ xã hội Thành phầnBiến  - Tác động của nhận thức về hỗ trợ xã hội đến nghiện internet ở sinh viên vai trò của trí tuệ cảm xúc
Bảng 3.3 Thang đo nhận thức về hỗ trợ xã hội Thành phầnBiến (Trang 60)
Bảng 3.4: Cơ cấu mẫu khảo sát theo các trường đại học - Tác động của nhận thức về hỗ trợ xã hội đến nghiện internet ở sinh viên vai trò của trí tuệ cảm xúc
Bảng 3.4 Cơ cấu mẫu khảo sát theo các trường đại học (Trang 63)
2 Sinh viên năm - Tác động của nhận thức về hỗ trợ xã hội đến nghiện internet ở sinh viên vai trò của trí tuệ cảm xúc
2 Sinh viên năm (Trang 65)
Từ bảng kết quả thống kê mô tả của các biến quan sát, có thể nhận thấy phát biểu trong các thang đo có độ đa dạng cao, có nhiều ý kiến từ rất không đồng ý đến rất đồng ý - Tác động của nhận thức về hỗ trợ xã hội đến nghiện internet ở sinh viên vai trò của trí tuệ cảm xúc
b ảng kết quả thống kê mô tả của các biến quan sát, có thể nhận thấy phát biểu trong các thang đo có độ đa dạng cao, có nhiều ý kiến từ rất không đồng ý đến rất đồng ý (Trang 72)
Hình 4.1: Tần suất sử dụng Internet của sinh viên - Tác động của nhận thức về hỗ trợ xã hội đến nghiện internet ở sinh viên vai trò của trí tuệ cảm xúc
Hình 4.1 Tần suất sử dụng Internet của sinh viên (Trang 73)
Bảng 4.2: Thời điểm truy cập Internet của sinh viên Thời điểmSố sinh viên Tỉ lệ (%) - Tác động của nhận thức về hỗ trợ xã hội đến nghiện internet ở sinh viên vai trò của trí tuệ cảm xúc
Bảng 4.2 Thời điểm truy cập Internet của sinh viên Thời điểmSố sinh viên Tỉ lệ (%) (Trang 73)
Bảng 4.3: Mục đích sử dụng Internet của sinh viên - Tác động của nhận thức về hỗ trợ xã hội đến nghiện internet ở sinh viên vai trò của trí tuệ cảm xúc
Bảng 4.3 Mục đích sử dụng Internet của sinh viên (Trang 74)
Bảng 4.4: Kết quả phân tích độ tin cậy của thang đo - Tác động của nhận thức về hỗ trợ xã hội đến nghiện internet ở sinh viên vai trò của trí tuệ cảm xúc
Bảng 4.4 Kết quả phân tích độ tin cậy của thang đo (Trang 76)
Bảng 4.5: Kết quả phân tích nhân tố khám phá Nhân tố - Tác động của nhận thức về hỗ trợ xã hội đến nghiện internet ở sinh viên vai trò của trí tuệ cảm xúc
Bảng 4.5 Kết quả phân tích nhân tố khám phá Nhân tố (Trang 77)
sánh độ phù hợp của mô hình khi dùng chung một bộ dữ liệu để đánh giá đối với mô hình khác, RMSEA xác định phù hợp của mô hình so với tổng thể, SRMR là sự khác biệt giữa dữ liệu thực tế với mô hình dự đoán - Tác động của nhận thức về hỗ trợ xã hội đến nghiện internet ở sinh viên vai trò của trí tuệ cảm xúc
s ánh độ phù hợp của mô hình khi dùng chung một bộ dữ liệu để đánh giá đối với mô hình khác, RMSEA xác định phù hợp của mô hình so với tổng thể, SRMR là sự khác biệt giữa dữ liệu thực tế với mô hình dự đoán (Trang 80)
Hình 4.2: Kết quả phân tích nhân tố khẳng định - Tác động của nhận thức về hỗ trợ xã hội đến nghiện internet ở sinh viên vai trò của trí tuệ cảm xúc
Hình 4.2 Kết quả phân tích nhân tố khẳng định (Trang 81)
4.2.4. Kết quả kiểm định mô hình cấu trúc tuyến tính (SEM) - Tác động của nhận thức về hỗ trợ xã hội đến nghiện internet ở sinh viên vai trò của trí tuệ cảm xúc
4.2.4. Kết quả kiểm định mô hình cấu trúc tuyến tính (SEM) (Trang 82)
Bảng 4.7: Kết quả chỉ tiêu phù hợp mô hình cấu trúc tuyến tính - Tác động của nhận thức về hỗ trợ xã hội đến nghiện internet ở sinh viên vai trò của trí tuệ cảm xúc
Bảng 4.7 Kết quả chỉ tiêu phù hợp mô hình cấu trúc tuyến tính (Trang 83)
4.2.5. Kiểm định độ tin cậy của mô hình bằng phương pháp Bootstrap - Tác động của nhận thức về hỗ trợ xã hội đến nghiện internet ở sinh viên vai trò của trí tuệ cảm xúc
4.2.5. Kiểm định độ tin cậy của mô hình bằng phương pháp Bootstrap (Trang 84)
Bảng 4.8: Kết quả hệ số mô hình cấu trúc - Tác động của nhận thức về hỗ trợ xã hội đến nghiện internet ở sinh viên vai trò của trí tuệ cảm xúc
Bảng 4.8 Kết quả hệ số mô hình cấu trúc (Trang 84)
Kết quả kiểm định giả thuyết được trình bày trong hình 4.4 và bảng 4.10. - Tác động của nhận thức về hỗ trợ xã hội đến nghiện internet ở sinh viên vai trò của trí tuệ cảm xúc
t quả kiểm định giả thuyết được trình bày trong hình 4.4 và bảng 4.10 (Trang 85)
Bảng 4.11: Kết quả kiểm định sự khác biệt về nghiện Internet theo đặc điểm cá nhân của sinh viên - Tác động của nhận thức về hỗ trợ xã hội đến nghiện internet ở sinh viên vai trò của trí tuệ cảm xúc
Bảng 4.11 Kết quả kiểm định sự khác biệt về nghiện Internet theo đặc điểm cá nhân của sinh viên (Trang 87)
Bảng 4.13: Kết quả kiểm định sự khác biệt nhận thức về hỗ trợ xã hội theo mức độ gắn kết các mối quan hệ của sinh viên - Tác động của nhận thức về hỗ trợ xã hội đến nghiện internet ở sinh viên vai trò của trí tuệ cảm xúc
Bảng 4.13 Kết quả kiểm định sự khác biệt nhận thức về hỗ trợ xã hội theo mức độ gắn kết các mối quan hệ của sinh viên (Trang 89)
Bảng 4.12: Mức độ gắn kết trong các mối quan hệ của sinh viên - Tác động của nhận thức về hỗ trợ xã hội đến nghiện internet ở sinh viên vai trò của trí tuệ cảm xúc
Bảng 4.12 Mức độ gắn kết trong các mối quan hệ của sinh viên (Trang 89)
Bảng 4.14: Kết quả kiểm định sự khác biệt về trí tuệ cảm xúc theo đặc điểm cá nhân của sinh viên - Tác động của nhận thức về hỗ trợ xã hội đến nghiện internet ở sinh viên vai trò của trí tuệ cảm xúc
Bảng 4.14 Kết quả kiểm định sự khác biệt về trí tuệ cảm xúc theo đặc điểm cá nhân của sinh viên (Trang 92)

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w