1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Giáo dục giá trị truyền thống thông qua lễ hội cồng chiêng ở tỉnh hòa bình hiện nay

113 5 0
Tài liệu đã được kiểm tra trùng lặp

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Giáo Dục Giá Trị Truyền Thống Thông Qua Lễ Hội Cồng Chiêng Ở Tỉnh Hòa Bình Hiện Nay
Tác giả Lê Xuân Ngự
Người hướng dẫn PGS, TS. Phạm Huy Kỳ
Trường học Học Viện Chính Trị - Hành Chính Quốc Gia Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Công Tác Tư Tưởng
Thể loại Luận Văn Thạc Sĩ Chính Trị Học
Năm xuất bản 2014
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 113
Dung lượng 809,64 KB

Cấu trúc

  • MỞ ĐẦU

  • Chương 1 GIÁO DỤC GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG THÔNG QUA LỄ HỘI CỒNG CHIÊNG Ở TỈNH HÒA BÌNH HIỆN NAY - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN

  • 1.1. Giá trị truyền thống và giáo dục giá trị truyền thống

  • 1.1.1. Giá trị truyền thống

  • 1.1.2. Giáo dục giá trị truyền thống

  • 1.1.3. Lễ hội với việc giáo dục giá trị truyền thống

  • 1.2. Lễ hội cồng chiêng và vai trò của nó trong giáo dục giá trị truyền thống

  • 1.2.1. Khái niệm lễ hội và lễ hội cồng chiêng

  • 1.2.2. Khái quát lịch sử hình thành, phát triển và đặc điểm của lễ hội cồng chiêng

  • 1.2.3. Vai trò của lễ hội cồng chiêng đối với đời sống tinh thần của nhân dân

  • 1.3. Sự cần thiết của giáo dục giá trị truyền thống thông qua lễ hội cồng chiêng ở tỉnh Hòa Bình

  • 1.3.1. Tầm quan trọng của giáo dục giá trị truyền thống và giáo dục giá trị truyền thống thông qua lễ hội

  • 1.3.2. Lễ hội cồng chiêng - một phương tiện trong giáo dục các giá trị truyền thống hiệu quả của tỉnh Hòa Bình hiện nay

  • Chương 2 GIÁO DỤC GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG THÔNG QUA LỄ HỘI CỒNG CHIÊNG Ở TỈNH HÒA BÌNH - THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA

  • 2.1. Đặc điểm tự nhiên, xã hội và hoạt động lễ hội cồng chiêng ở Hòa Bình

  • 2.1.1. Vài nét khái quát về điều kiện địa lý, tự nhiên, văn hóa và con người Hòa Bình.

  • 2.1.2. Lễ hội cồng chiêng ở Hòa Bình

  • 2.2. Thực trạng giáo dục giá trị truyền thống thông qua lễ hội cồng chiêng ở Hòa Bình hiện nay

  • 2.2.1 Tình hình hoạt động lễ hội cồng chiêng ở tỉnh Hòa Bình hiện nay

  • 2.2.2. Thành tựu và nguyên nhân trong việc giáo dục giá trị truyền thống thông qua lễ hội cồng chiêng ở Hòa Bình

  • 2.2.3. Hạn chế và nguyên nhân trong giáo dục truyền thống thông qua lễ hội cồng chiêng Hòa Bình hiện nay

  • 2.3. Những vấn đề đặt ra đối với việc giáo dục giá trị truyền thống thông qua lễ hội cồng chiêng ở tỉnh Hòa Bình hiện nay

  • Chương 3 PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG GIÁO DỤC GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG THÔNG QUA LỄ HỘI CỒNG CHIÊNG Ở TỈNH HÒA BÌNH HIỆN NAY

  • 3.1. Phương hướng tăng cường giáo dục giá trị truyền thống thông qua lễ hội cồng chiêng ở tỉnh Hòa Bình hiện nay

  • 3.1.1. Lồng ghép một cách tinh tế các giá trị truyền thống trong nội dung hoạt động lễ hội cồng chiêng

  • 3.1.2. Đổi mới công tác tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng hoạt động lễ hội cồng chiêng nhằm đáp ứng nhu cầu văn hóa, tinh thần ngày càng cao của nhân dân

  • 3.1.3. Phát huy lợi thế tinh thần của nhân dân qua lễ hội, tổ chức, quán triệt, thực hiện tốt đường lối, chính sách, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương

  • 3.2. Giải pháp tăng cường giáo dục giá trị truyền thống thông qua lễ hội cồng chiêng ở tỉnh Hòa Bình hiện nay

  • 3.2.1. Nâng cao nhận thức của các cấp ủy Đảng, chính quyền và toàn thể xã hội về tầm quan trọng của lễ hội và sử dụng lễ hội trong giáo dục giá trị truyền thống

  • 3.2.2. Đổi mới phương thức tổ chức các hoạt động lễ hội

  • 3.2.3. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác tổ chức, quản lý lễ hội

  • 3.2.4. Đổi mới và đa dạng hóa các hình thức lồng ghép hoạt động tuyên truyền với hoạt động lễ hội

  • 3.2.5. Tăng cường công tác lãnh đạo, quản lý, kiểm tra, giám sát của các cấp ủy Đảng, chính quyền đối với hoạt động lễ hội

  • 3.2.6. Nâng cao đời sống vật chất, trình độ dân trí cho mọi tầng lớp nhân dân

  • KẾT LUẬN

  • TÀI LIỆU THAM KHẢO

  • PHỤ LỤC

Nội dung

Ý nghĩa của lễ hội được nhân lên, một khi các chủ thể cầm quyền nhận thức đúng và sử dụng có hiệu quả trong việc lồng ghép với việc giáo dục các giá trị truyền thống phù hợp với xu thế p

Giá trị truyền thống và giáo dục giá trị truyền thống

Truyền thống, theo nghĩa tổng quát, là những yếu tố văn hóa và xã hội thể hiện qua chuẩn mực hành vi, tư tưởng, phong tục, tập quán và thói quen của cộng đồng Những yếu tố này được hình thành qua lịch sử, trở nên ổn định và được chấp nhận rộng rãi, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác và lưu giữ lâu dài Lịch sử đã chứng minh rằng truyền thống có tính hai mặt rõ rệt.

Truyền thống đóng vai trò quan trọng trong việc gìn giữ và suy tôn những giá trị quý báu, là nền tảng cho sự phát triển và tiến bộ của cộng đồng dân tộc Những giá trị này không chỉ cổ vũ mà còn khích lệ con người hướng tới sự hoàn thiện Nếu thiếu đi những giá trị truyền thống này, xã hội sẽ khó có thể phát triển bền vững và tiến bộ.

Truyền thống có thể trở thành rào cản cho sự phát triển xã hội khi nó duy trì các giá trị bảo thủ, lạc hậu không còn phù hợp với hoàn cảnh lịch sử mới Mỗi thời đại có những tiêu chuẩn giá trị khác nhau, và nếu giá trị truyền thống không thích ứng, nó sẽ cản trở sự tiến bộ của quốc gia Điều này đặc biệt nghiêm trọng khi quốc gia áp dụng chính sách "bế quan tỏa cảng", hạn chế giao lưu với thế giới bên ngoài, dẫn đến sự chậm phát triển và tụt hậu.

Truyền thống chỉ được công nhận khi nó đảm bảo sự tồn tại và thỏa mãn nhu cầu của con người Những lý tưởng văn hóa, tôn giáo và đạo đức, cùng với các phương tiện như kỹ thuật, kỹ năng và khoa học, là những yếu tố quan trọng giúp bảo tồn giá trị nhân sinh Truyền thống không chỉ là các sự kiện hay hiện tượng tự nhiên, mà phải là một phần thiết yếu của cuộc sống, góp phần bảo tồn và định hướng sự phát triển của nó.

Giá trị truyền thống được xác định bởi những truyền thống đã trải qua sự đánh giá và thẩm định nghiêm ngặt theo thời gian Chỉ những truyền thống mang lại ý nghĩa tích cực cho sự phát triển của cộng đồng trong các giai đoạn lịch sử nhất định mới có giá trị.

Giá trị truyền thống của mỗi dân tộc là đặc trưng và độc đáo, phản ánh văn hóa và phong tục tập quán riêng biệt Sự khác biệt này tạo nên dấu ấn riêng, giúp phân biệt giữa các dân tộc và ngăn chặn sự hòa lẫn có thể làm mất đi nguồn gốc văn hóa Trên toàn cầu, mọi dân tộc, bất kể trình độ phát triển, đều sở hữu những truyền thống độc đáo và hệ thống giá trị riêng, được hình thành từ những điều tốt đẹp qua các thời kỳ lịch sử Những giá trị này được truyền lại cho thế hệ sau và sẽ tiếp tục biến đổi, bổ sung các giá trị mới theo sự tiến triển của lịch sử Trong hệ thống giá trị truyền thống Việt Nam, có nhiều giá trị tương đồng với các dân tộc khác, chứng tỏ tính phù hợp và sự liên kết của giá trị truyền thống trong dòng chảy chung của nhân loại.

Giá trị truyền thống của người Việt, thể hiện qua các biểu tượng cụ thể như trống đồng Đông Sơn, nõ của người Mường và váy xòe của người Mông, cùng với những giá trị vô hình như lòng yêu nước và tinh thần cần cù, chăm chỉ, tạo nên một bản sắc văn hóa độc đáo Những giá trị này không chỉ tồn tại mà còn thích nghi và phát triển theo thời đại, khẳng định vị trí quan trọng trong đời sống xã hội.

Trong thời đại hiện đại, các giá trị truyền thống của dân tộc đang đứng trước nguy cơ bị lãng quên hoặc biến đổi do tác động của khoa học công nghệ và nhịp sống bận rộn Công nghiệp hóa và sự phát triển của máy móc khiến những giá trị này dần bị bỏ ngỏ trong đời sống cộng đồng Để tồn tại, các giá trị truyền thống cần phải đổi mới và thích nghi với thời đại, những truyền thống có giá trị sẽ được giữ gìn, trong khi những giá trị không phù hợp sẽ bị đào thải Do đó, việc giáo dục về giá trị truyền thống là rất quan trọng để chúng có thể hòa nhập vào đời sống hiện đại.

Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, đã xuất hiện nhiều cách sống và lối sống xa lạ, đi ngược lại với chuẩn mực xã hội và thuần phong mỹ tục Một số cá nhân vì lợi ích cá nhân đã chà đạp lên các giá trị đạo đức, dẫn đến tình trạng tham nhũng, buôn lậu và các tệ nạn xã hội gia tăng Đặc biệt, một bộ phận giới trẻ hiện nay có tâm lý sống thực dụng, xa rời văn hóa và đạo đức truyền thống Do đó, việc bảo vệ và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống trở thành một vấn đề cần được nhìn nhận nghiêm túc và chú trọng trong quá trình phát triển kinh tế thị trường tại Việt Nam.

Giáo dục giá trị truyền thống là hoạt động giảng giải và tuyên truyền các nét đẹp văn hóa vật thể và phi vật thể nhằm bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa trong thời đại hội nhập Hành động này kết nối quá khứ và hiện tại, tạo nền tảng cho tương lai, đặc biệt là đối với giới trẻ - thế hệ sinh ra trong bối cảnh toàn cầu hóa Với tâm lý dễ thờ ơ và tiếp nhận cái mới, việc giáo dục giá trị truyền thống giúp giới trẻ nhớ về cội nguồn, bản sắc dân tộc, từ đó nuôi dưỡng lòng yêu nước và ý thức trách nhiệm với cộng đồng Để đảm bảo sự phát triển bền vững của xã hội và nền văn hóa Việt Nam trong thời kỳ hội nhập, giáo dục giá trị truyền thống cho thế hệ trẻ là vô cùng cần thiết.

Giáo dục giá trị truyền thống diễn ra qua nhiều hình thức phong phú, với nhà trường là kênh giáo dục cơ bản giúp học sinh, sinh viên hình thành ý thức bảo tồn các giá trị văn hóa Việc tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại thông qua các bài học lý luận và thực tiễn giúp giới trẻ nhận thức rằng nền văn hóa hiện đại phải bắt rễ từ văn hóa cội nguồn Các phương tiện thông tin đại chúng đóng vai trò quan trọng trong việc truyền tải và bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống, tác động sâu rộng đến xã hội và hình thành thái độ trân trọng các giá trị này Nhờ vào sức mạnh tuyên truyền của các phương tiện truyền thông, ý thức bảo tồn văn hóa truyền thống sẽ được nâng cao trong toàn dân Giáo dục giá trị truyền thống không chỉ diễn ra trong nhà trường mà còn ở các cơ quan, ban ngành và tổ chức chính trị.

Để bảo tồn và phát huy giá trị truyền thống trong xã hội, đặc biệt là đối với giới trẻ, cần tăng cường công tác giáo dục thông qua nhiều hình thức khác nhau Ngoài giáo dục trong nhà trường, các hội nghị, hội thảo chuyên đề, phương tiện thông tin đại chúng, lễ hội và trò chơi dân gian cũng đóng vai trò quan trọng trong việc tuyên truyền và nâng cao nhận thức về giá trị văn hóa truyền thống.

Đảng ta nhấn mạnh tầm quan trọng của việc kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ đạo đức và công bằng xã hội, đồng thời phát triển kinh tế thị trường và bảo tồn các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam Trong quá trình giáo dục truyền thống đạo đức, cần chú trọng đến hai yêu cầu cơ bản: phát huy các giá trị tốt đẹp và đảm bảo sự công bằng trong xã hội.

Để phát triển hệ giá trị truyền thống, cần xác định những giá trị tốt đẹp cần duy trì và xây dựng những truyền thống mới phù hợp với sự phát triển xã hội Ví dụ, “sống và làm việc theo pháp luật” nên trở thành truyền thống của người Việt Nam hiện đại Bên cạnh đó, những truyền thống cũ cũng cần được làm mới; “hiếu học” không chỉ đơn thuần là chăm chỉ, mà còn bao gồm việc học suốt đời, sáng tạo và hiệu quả, nhằm nâng cao vai trò của cá nhân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Việc bảo tồn và phát triển các truyền thống văn hóa là rất quan trọng để giáo dục các thế hệ tương lai Khi mọi người nhận thức được giá trị của những truyền thống đạo đức tốt đẹp, họ sẽ tự giác thực hiện và phát huy chúng Lịch sử đã chứng minh rằng việc quên đi di sản văn hóa có thể dẫn đến sự mất mát bản sắc và động lực phát triển Do đó, các truyền thống như "lá lành đùm lá rách", "nhường cơm sẻ áo", và "uống nước nhớ nguồn" cần được duy trì và phát triển trong đời sống hàng ngày.

Lễ hội cồng chiêng và vai trò của nó trong giáo dục giá trị truyền thống

1.2.1 Khái niệm lễ hội và lễ hội cồng chiêng

Thuật ngữ lễ hội là từ ghép giữa “lễ” và “hội”

Lễ: có nhiều quan niệm khác nhau về lễ

Theo Từ điển Tiếng Việt (2002), lễ được định nghĩa là những nghi thức nhằm đánh dấu hoặc kỷ niệm sự kiện có ý nghĩa, đồng thời còn thể hiện lòng kính trọng qua việc vái, lạy Ngoài ra, lễ cũng được hiểu là khuôn phép, thể hiện sự tôn trọng và lịch sự trong phong tục truyền thống.

Lễ là linh hồn cốt lõi của một lễ hội, đóng vai trò quan trọng nhất và được đầu tư công phu về thời gian, tiền bạc và công sức.

Lễ: là đạo, khác với hội là đời

Trong lễ hội, việc thực hiện tế lễ là rất quan trọng, bao gồm các nghi thức quy định như y phục, phẩm phục, hia hài và mũ Tế thần được tổ chức theo cách thức nhất định, thường do những cụ cao niên, phúc đức được dân làng chọn lựa thực hiện, trong đó có một số người đảm nhiệm vai trò chủ tế.

Hội, theo từ điển Tiếng Việt năm 2002, được định nghĩa là "cuộc vui tổ chức chung cho đông đảo người dự theo phong tục hoặc nhân dịp đặc biệt." Hội thường diễn ra để kỷ niệm các sự kiện trọng đại, mang tính cộng đồng và bao gồm nhiều hoạt động như trò diễn, cuộc đua tài, và các trò chơi văn nghệ giải trí Nội dung của phần hội có thể được điều chỉnh, thay đổi tùy theo cấu trúc của lễ hội.

Lễ hội, theo định nghĩa trong từ điển Tiếng Việt năm 2002, là một cuộc vui tổ chức chung, bao gồm các hoạt động lễ nghi mang đậm bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc.

Lễ hội là một hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian phổ biến tại các làng quê, có nguồn gốc từ rất sớm và đã trải qua nhiều thời kỳ phát triển.

Trong các lễ hội, chỉ một số ít người có vai trò quan trọng và địa vị nhất định tham gia vào phần lễ Những nghi thức này thường mang tính thiêng liêng và bất biến, thể hiện sự tôn thờ thần thánh Không gian và thời gian của các nghi lễ được quy định một cách chặt chẽ, đảm bảo sự trang trọng và ý nghĩa của sự kiện.

Tại Việt Nam, vẫn chưa có sự đồng thuận giữa các nhà nghiên cứu về việc sử dụng khái niệm này, do mỗi người có cách tiếp cận và quan điểm riêng trong việc nhìn nhận vấn đề.

Từ những năm 90 của thế kỷ XX trở về trước, các nhà nghiên cứu về lễ hội thường sử dụng thuật ngữ "hội" và "hội lễ" Thuật ngữ này phản ánh cách gọi của dân gian, khi người dân ở các làng quê thường nói "đi hội", "chơi hội", và khi làng có hội thì thường gọi là "mở hội" hoặc "vào đám".

Tác giả Toan Ánh đã sử dụng thuật ngữ “Hội hè đình đám” một cách nhất quán trong hai cuốn sách xuất bản vào năm 1960 và 1974 tại Sài Gòn, thuộc bộ “Nếp cũ” Ông thường gọi tắt thuật ngữ này là hội, thể hiện sự quen thuộc và phổ biến của nó trong tác phẩm của mình.

Hội hè đình đám không chỉ đơn thuần là dịp để người dân vui chơi thông qua các trò bách hí, mà còn mang ý nghĩa sâu sắc hơn Mục đích chính của các lễ hội này là để người dân bày tỏ lòng thành kính và biết ơn đối với Đức Thành Hoàng, vị Thần Linh bảo hộ và che chở cho cộng đồng.

Giáo sư Đinh Gia Khánh, với quan điểm văn hóa dân gian là một chỉnh thể nguyên hợp, đã dày công khám phá tính thẩm mỹ của nó thông qua khái niệm "hội lễ dân gian", phản ánh thời điểm mạnh trong đời sống cộng đồng Ông định nghĩa "hội lễ" như một thuật ngữ văn hóa, trong đó "hội" là sự tập hợp đông người trong các hoạt động cộng đồng, còn "lễ" là các nghi thức đặc thù gắn liền với những hoạt động này.

Từ những năm 90 của thế kỷ XX, thuật ngữ “lễ hội” ngày càng trở nên phổ biến, phản ánh mong muốn của người hiện đại trong việc kết hợp hai yếu tố chính: lễ bái, tế lễ cầu phúc và hoạt động vui chơi, thăm thú nơi đông đúc Do đó, có ý kiến cho rằng cần bổ sung chữ “Lễ” để thể hiện rõ bản chất của các sự kiện này.

Hội lễ là khái niệm được hình thành từ việc kết hợp giữa hai yếu tố "hội" và "lễ", dẫn đến việc các nhà nghiên cứu Việt Nam đã đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về lễ hội.

Thuật ngữ "lễ hội" chính thức được khởi nguồn từ công trình "Lễ hội cổ truyền Việt Nam" của Viện nghiên cứu văn hóa dân gian, do Lê Trung Vũ chủ biên cùng các tác giả Phan Đăng Nhật, Ngô Đức Thịnh, Nguyễn Xuân Kính, Lê Văn Kỳ và các cộng tác viên khác.

Trong cuốn Lễ hội cổ truyền, Phan Đăng Nhật cho rằng:

GIÁO DỤC GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG THÔNG QUA LỄ HỘI CỒNG CHIÊNG Ở TỈNH HÒA BÌNH - THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA

Đặc điểm tự nhiên, xã hội và hoạt động lễ hội cồng chiêng ở Hòa Bình

2.1.1 Vài nét khái quát về điều kiện địa lý, tự nhiên, văn hóa và con người Hòa Bình

2.1.1.1 Khái quát về điều kiện địa lý, tự nhiên

Hòa Bình là tỉnh miền núi nằm ở phía tây bắc Việt Nam, tọa lạc ở phía nam Bắc Bộ với tọa độ 20°19' - 21°08' vĩ độ Bắc và 104°48' - 105°40' kinh độ Đông Tỉnh có diện tích tự nhiên là 4.662,5 km², chiếm 1,41% tổng diện tích của cả nước Thu nhập bình quân đầu người tại Hòa Bình đang trên đà phát triển.

Theo thống kê dân số năm 1999, tỉnh có 6 dân tộc sinh sống, trong đó người Mường chiếm 63,3%, người Việt (Kinh) 27,73%, người Thái 3,9%, người Dao 1,7%, người Tày 2,7% và người Mông 0,52% Ngoài ra, còn có người Hoa sống rải rác và một số dân tộc khác chủ yếu do kết hôn với người Hòa Bình từ các tỉnh miền núi khác.

Hòa Bình là một trong bốn tỉnh của Việt Nam không có người Kinh chiếm đa số và được coi là thủ phủ của người Mường, với phần lớn dân tộc Mường sinh sống tại đây Người Mường có mối quan hệ văn hóa - xã hội gần gũi với người Kinh và cư trú xen kẽ với các dân tộc khác trong tỉnh Địa hình đồi núi hùng vĩ cùng các điểm du lịch như động Thác Bờ, Hang Rết, và rừng nhiệt đới Pù Noọc tạo điều kiện cho các hoạt động mạo hiểm như leo núi, đi bộ và tắm suối Hồ sông Đà thơ mộng, với các vịnh, đảo và bán đảo, là nơi bảo tồn động thực vật quý hiếm, góp phần phát triển du lịch Những bản Mường, bản Dao, và bản Tày ven hồ tạo nên bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp cho Hòa Bình.

Tỉnh Hòa Bình có tổng diện tích đất tự nhiên là 466.252,86 ha, trong đó đất nông nghiệp chiếm 14,32% với 66.759 ha, đất lâm nghiệp chiếm 41,67% với 194.308 ha, đất chuyên dùng chiếm 5,87% với 27.364 ha, đất ở chiếm 1,25% với 5.807 ha, và diện tích đất chưa sử dụng cùng sông suối đá chiếm 36,89% với 172.015 ha.

Trong tổng diện tích đất nông nghiệp, đất trồng cây hàng năm chiếm 67,48% với 45.046 ha, trong đó lúa chiếm 60,51% tương đương 25.356 ha Đất trồng cây lâu năm chiếm 6,06% với 4.052 ha, và diện tích đất có mặt nước nuôi trồng thủy sản là 900 ha.

Diện tích đất trống và đồi núi trọc cần được phủ xanh là 135.010 ha, trong khi diện tích đất bằng chưa sử dụng là 3.126 ha và diện tích đất có mặt nước chưa sử dụng là 6.385 ha.

Tính đến năm 2002, tỉnh Hòa Bình có tổng diện tích đất rừng đạt 196.049 ha, bao gồm 146.844 ha rừng tự nhiên và 49.205 ha rừng trồng Trữ lượng gỗ khai thác ước tính khoảng 4,75 triệu m3 cùng với 128,7 triệu cây nứa, luồng Động vật rừng tại đây có một số loài thú như gấu, lợn rừng, khỉ, cày, cáo, rùa núi và nai rừng, tuy nhiên số lượng các loài này không nhiều.

Tỉnh có 3 khu bảo tồn thiên nhiên với tổng diện tích 18.435 ha, bao gồm 15.565 ha rừng và 2.870 ha đất trống có tiềm năng cho nông, lâm nghiệp.

Tài nguyên khoáng sản tại Việt Nam được phân loại thành 12 loại chính, bao gồm nguyên liệu xây dựng như đất sét, đá vôi, đá granít và đá cócđoa Ngoài ra, còn có khoáng sản kim loại như quặng sắt với trữ lượng chưa xác định, quặng đa kim gồm đồng, chì, kẽm, thuỷ ngân và antimoan, cùng với vàng sa khoáng Các khoáng sản phi kim loại như pirít, photphorít và cao lanh cũng rất quan trọng Đặc biệt, khoáng sản than đã được khai thác ở các huyện Kim Bôi, Lạc Thuỷ và Lạc Sơn, với trữ lượng ước tính lên đến 1 triệu tấn và nhiều vỉa lộ thiên để khai thác.

Tỉnh Hòa Bình nổi bật với nhiều điểm du lịch hấp dẫn như động Tiên ở huyện Lạc Thủy, động Tiên Phi tại thị xã Hòa Bình, các khu bảo tồn thiên nhiên, suối nước khoáng Kim Bôi, hồ sông Đà cùng nhà máy thủy điện Hòa Bình lớn nhất Đông Nam Á Ngoài ra, du khách còn có cơ hội khám phá các bản làng văn hóa truyền thống của các dân tộc như bản Giang Mỗ của dân tộc Mường, bản Lác và bản Văn của dân tộc Thái, cùng Xóng Dướng của dân tộc Dao Khu du lịch Suối Ngọc-Vua Bà tại huyện Lương Sơn và nhiều di tích lịch sử, văn hóa, kiến trúc, nghề truyền thống, lễ hội, phong tục tập quán và nghệ thuật dân gian phong phú, đa dạng của các dân tộc trong tỉnh tạo nên nét độc đáo của nền "Văn hóa Hòa Bình".

Hoà Bình sở hữu cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp và văn hoá lịch sử phong phú, tạo điều kiện lý tưởng cho phát triển du lịch đa dạng Nơi đây có sự hiện diện của 6 dân tộc anh em: Mường, Kinh, Thái, Tày, Dao, Mông, với những nét văn hoá và phong tục tập quán độc đáo, nổi bật nhất là khu du lịch Bản Lác – Mai Châu Du lịch sinh thái và cảnh quan cũng rất phát triển với hồ sông Đà hùng vĩ, rừng nguyên sinh Thượng Tiến, rừng Hang Kia – Pà Cò, và nhiều địa điểm khác như Suối Ngọc – Vua Bà Ngoài ra, Hoà Bình còn nổi tiếng với các suối nước nóng Kim Bôi, Lạc Sơn, cùng với khí hậu điều hòa, tạo điều kiện thuận lợi cho du lịch nghỉ dưỡng Các đền chùa nổi tiếng như chùa Tiên và đền Bờ cũng là điểm đến hấp dẫn cho du khách.

Hoà Bình, nằm ở cửa ngõ vùng Tây Bắc và tiếp giáp với đồng bằng sông Hồng, có tiềm năng phát triển đa dạng các loại hình du lịch như hội thảo, hội nghị và du lịch cuối tuần Đây cũng là điểm kết nối lý tưởng cho các tour, tuyến du lịch tới các tỉnh lân cận và khu vực miền Bắc.

2.1.1.2 Khái quát đặc điểm văn hóa và con người Hòa Bình Được giới khảo cổ học chính thức công nhận từ ngày 30 tháng 1 năm

Năm 1932, theo đề xuất của Madeleine Colani và được Đại hội các nhà Tiền sử Viễn Đông thông qua tại Hà Nội, cụm từ "Văn hóa cuội" đã được sử dụng để chỉ nền văn hóa tạo ra dụng cụ từ thời đá cũ đến thời đá mới trên hòn cuội Qua thời gian, cụm từ này đã có nhiều tên gọi và ý nghĩa khác nhau Tuy nhiên, từ năm 1975 đến nay, hoạt động của các nhà khảo cổ học đã mở ra một hướng mới trong việc hiểu biết về thời đại và không gian của Văn hóa Hòa Bình.

Văn hóa Hoà Bình, phát triển từ thời Đồ đá cũ đến Đồ đá mới, kéo dài khoảng 34.100 năm và kết thúc vào 2.000 năm trước Công Nguyên, nằm trên vùng núi đá vôi phía Tây châu thổ ba con sông lớn Bắc Bộ Việt Nam Đây là một không gian rộng lớn, tiêu biểu cho văn hóa của cả khu vực Đông Nam Á và Nam Trung Quốc.

Dựa vào các di chỉ tìm thấy và niên đại của chúng, các nhà khảo cổ chia Văn hóa Hòa Bình thành ba thời kỳ nối tiếp nhau:

Hòa Bình sớm, hay Tiền Hòa Bình, có niên đại tiêu biểu là di chỉ Thẩm Khuyên (32.100 ± 150 trước Công Nguyên), Mái Đá Điều, Mái Đá Ngầm (23.100 ± 300 TrCN)

Hòa Bình giữa, hay Hòa Bình chính thống, tiêu biểu bởi di chỉ Xóm Trại (18.000 ± 150 TrCN), Làng Vành (16.470 ± 80 TrCN)

Hòa Bình muộn, tiêu biểu bằng di chỉ ở Thẩm Hoi (10.875 ± 175), Sũng Sàm (11.365 ± 80 BP, BLn - 1541/I)

Năm 1923, bà Madeleine Colani và các hướng dẫn viên địa phương đã phát hiện một số lượng lớn di cốt người và dụng cụ bằng đá trong một hang đá vôi tại tỉnh Hòa Bình Trong những năm tiếp theo, bà tiếp tục khám phá thêm mười hai hang động khác trong khu vực, thu thập được nhiều di vật hiếm Sau khi phân tích và so sánh các di vật này với đồ đá tìm thấy ở vùng núi Bắc Sơn, bà đã đề xuất rằng tất cả những di vật đặc biệt bằng đá cuội, được đẽo ở lưỡi hoặc rìa, thuộc về một nền văn hóa chung, được gọi là văn hóa Hòa Bình hay Hoabinhien.

Thực trạng giáo dục giá trị truyền thống thông qua lễ hội cồng chiêng ở Hòa Bình hiện nay

2.2.1 Tình hình hoạt động lễ hội cồng chiêng ở tỉnh Hòa Bình hiện nay

Hiện tại ở nước ta có nhiều loại lễ hội, bên cạnh lễ hội cổ truyền còn có

Lễ hội hiện đại, bao gồm các sự kiện lịch sử và cách mạng, cùng với lễ hội gắn với du lịch, đã trở thành một phần quan trọng trong việc quảng bá văn hóa Trong tổng số gần 9000 lễ hội, lễ hội cổ truyền chiếm khoảng 7000, có lịch sử lâu đời và phân bố rộng rãi ở cả nông thôn, đô thị và vùng núi Lễ hội cổ truyền có thể được phân loại theo thời gian trong năm, với mùa xuân và mùa thu là quan trọng nhất, cũng như theo quy mô như lễ hội làng, vùng và quốc gia Ngoài ra, lễ hội còn được phân loại theo tính chất, bao gồm lễ hội nghề nghiệp, lễ hội tôn vinh anh hùng dân tộc và các lễ hội gắn với tôn giáo như Phật giáo và Kitô giáo.

Lễ hội cổ truyền đóng vai trò quan trọng trong việc đánh dấu các chu trình sản xuất và đời sống xã hội của mỗi cộng đồng Khi các nghi lễ này không được thực hiện, quá trình sản xuất và các mối quan hệ xã hội sẽ bị đình trệ Ví dụ, nếu người Việt và người Tày không thực hiện nghi lễ “Hạ điền” hay “Lồng tồng”, việc gieo hạt đầu mùa sẽ không thể diễn ra Tương tự, trẻ em cần phải trải qua nghi lễ “thổi tai” và đặt tên để trở thành con người Những chàng trai chưa tham gia nghi lễ thành đinh, cấp sắc sẽ không được công nhận là thành viên của cộng đồng, và các đôi nam nữ chưa thực hiện lễ tơ hồng sẽ không thể trở thành vợ chồng Cuối cùng, nghi lễ gọi hồn cho người đã khuất là cần thiết để thực hiện nghi lễ mai táng Do đó, mỗi lễ hội và nghi lễ đều mang tính chất chuyển tiếp trong các chu trình sản xuất vật chất và xã hội.

Trong số hơn 7000 lễ hội cổ truyền của Việt Nam, nguồn gốc chủ yếu là lễ hội nông nghiệp và hội làng Qua thời gian, các lễ hội này đã biến đổi và phong phú hơn với nội dung lịch sử, đặc biệt là lịch sử chống ngoại xâm, cũng như các yếu tố xã hội và văn hóa, tạo nên sự đa dạng và phong phú cho các lễ hội ngày nay.

Lễ hội cồng chiêng cần có ý nghĩa sâu sắc đối với đời sống văn hóa cộng đồng để phát huy vai trò giáo dục giá trị truyền thống Tuy nhiên, cồng chiêng, một phần quan trọng trong đời sống của người Mường, đang đối mặt với nguy cơ mai một Trước đây, hầu hết các gia đình người Mường sở hữu cồng chiêng như một di sản quý giá, nhưng do khó khăn trong cuộc sống, nhiều chiếc cồng chiêng đã bị bán đi với giá rẻ hoặc thậm chí bị phá hủy Hòa Bình đã mất hàng nghìn cồng chiêng quý giá, và hiện tại, khi đời sống dần cải thiện, nhiều gia đình muốn mua lại nhưng không còn nơi nào sản xuất cồng chiêng cổ.

Nguy cơ mai một cồng chiêng đang gia tăng khi số người biết đánh chiêng giai điệu rất ít, chủ yếu là ở lứa tuổi trung niên và người già, trong khi giới trẻ chỉ biết khầm theo tiết tấu Nhiều bản nhạc chiêng cổ cũng đang bị lãng quên hoặc biến dạng, dẫn đến mất mát giá trị âm nhạc đặc sắc của dân tộc Thêm vào đó, sự ra đi của nhiều nghệ nhân già đã mang theo kho tàng di sản văn hóa cồng chiêng, khiến việc phục hồi trở nên khó khăn.

Bảo tồn và phát huy không gian văn hóa cồng chiêng Mường là nhiệm vụ cấp bách hiện nay Theo ông Bùi Tú Cao, Trưởng phòng Nghiệp vụ văn hóa, Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch tỉnh Hòa Bình, năm 2010, Hòa Bình có 9.960 chiếc cồng chiêng và đã thu âm 50 bài chiêng chưa công bố Tuy nhiên, giá trị nghệ thuật của chiêng Mường đang bị mai một, với chỉ 6-7 điệu trong số 35 điệu cổ còn lại, một số chỉ tồn tại dưới dạng ký tự Tỉnh Hòa Bình đang lập kế hoạch kiểm kê và đánh giá lại giá trị của cồng chiêng.

Sau một thời gian dài chiến tranh và khủng hoảng kinh tế, nhiều hoạt động văn hóa và lễ hội truyền thống, trong đó có lễ hội cồng chiêng Hòa Bình, đã bị lãng quên Tuy nhiên, vào cuối những năm 80 và đầu những năm 90, nhờ những thành tựu trong công cuộc đổi mới, công tác ổn định chính trị và phát triển kinh tế đã giúp cải thiện đời sống nhân dân Điều này đã tạo điều kiện cho các hoạt động văn hóa dân gian được phục hồi và phát triển mạnh mẽ.

Lễ hội cồng chiêng Hòa Bình đã nhanh chóng được phục hồi và phát triển, phục dựng lại vẻ đẹp và quy mô như xưa Sự tổ chức và cảnh sắc của lễ hội đã được cải thiện, đáp ứng nhu cầu văn hóa của người dân trong khu vực.

Trong những năm gần đây, lễ hội cồng chiêng Hòa Bình đã được tổ chức theo chỉ đạo của Bộ Thông tin – Truyền thông và sự hỗ trợ từ các cơ quan nghiên cứu khoa học, đáp ứng nhu cầu văn hóa và tín ngưỡng của người dân Sự kiện này không chỉ thỏa mãn mong đợi của cộng đồng mà còn phù hợp với yêu cầu phát triển văn hóa xã hội hiện nay.

2.2.2 Thành tựu và nguyên nhân trong việc giáo dục giá trị truyền thống thông qua lễ hội cồng chiêng ở Hòa Bình

2.2.2.1 Những thành tựu đạt được

Trong những năm gần đây, lễ hội cồng chiêng Hòa Bình đã được kết hợp với giáo dục về giá trị truyền thống dân tộc, đặc biệt là truyền thống của dân tộc Mường, một trong những dân tộc phổ biến tại tỉnh Hòa Bình Việc sử dụng lễ hội cồng chiêng trong công tác tuyên truyền đường lối, chính sách đã đạt được nhiều thành công đáng kể, góp phần nâng cao nhận thức cộng đồng về giá trị văn hóa và bản sắc dân tộc.

Lễ hội không chỉ đáp ứng nhu cầu văn hóa tín ngưỡng của quần chúng mà còn duy trì và truyền đạt các giá trị truyền thống như sự gắn bó cộng đồng và lòng nhớ về nguồn cội Nội dung tuyên truyền trong lễ hội khuyến khích người dân trở về với các giá trị tốt đẹp, thể hiện khát vọng về cuộc sống đủ đầy và an lành Phần hội mang tính giải trí độc đáo, tạo tâm lý thoải mái cho người tham gia, đồng thời giáo dục thông qua các trò chơi văn hóa truyền thống như thi đánh cồng chiêng và thi nhảy sạp Các hoạt động lễ hội đã được nghiên cứu và xây dựng kế hoạch cụ thể, nhằm thu hút sự quan tâm của mọi người và khuyến khích họ tham gia vào các hoạt động vui chơi, giải trí một cách thiết thực và lành mạnh.

Biểu đồ 2.1 Hiệu quả giáo dục giá trị truyền thống thông qua lễ hội cồng chiêng

18% Ít hiệu quả hiệu quả Rất hiệu quả

Theo khảo sát, 57% người tham gia đánh giá hiệu quả của các nội dung giáo dục về giá trị truyền thống qua lễ hội cồng chiêng Hòa Bình Cụ thể, 63% người từ 40 tuổi trở lên, 23% trong độ tuổi 20 – 40, và 14% dưới 20 tuổi cho rằng những nội dung này có tác động tích cực.

Nội dung tuyên truyền về giá trị truyền thống tại lễ hội cồng chiêng Hòa Bình đã đạt hiệu quả cao, mang lại ý nghĩa sâu sắc cho người dân địa phương, đặc biệt là đối với cộng đồng dân tộc Mường và nhóm người trung tuổi.

Việc kết hợp giáo dục giá trị truyền thống với tuyên truyền lễ hội cồng chiêng là rất quan trọng, nhằm nâng cao nhận thức cộng đồng về di sản văn hóa này Các phương tiện thông tin đại chúng, đài phát thanh xã, và ban quản lý di tích đóng vai trò quan trọng trong việc phổ biến thông tin Đặc biệt, trường học là nơi lý tưởng để giới thiệu và giáo dục thế hệ trẻ về lễ hội cồng chiêng, góp phần bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa địa phương.

Việc kết hợp tuyên truyền đường lối và chính sách với nội dung cụ thể của từng lễ hội thông qua các hoạt động như tế lễ, rước sách và các tiết mục văn nghệ đã góp phần nâng cao ý thức cộng đồng Đồng thời, nhiều sinh hoạt văn hóa truyền thống của dân tộc Mường như tín ngưỡng, trò diễn, mỹ thuật, âm nhạc, ẩm thực và văn nghệ dân gian đã được phục hồi, làm phong phú thêm đời sống tinh thần của nhân dân.

PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG GIÁO DỤC GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG THÔNG QUA LỄ HỘI CỒNG CHIÊNG Ở TỈNH HÒA BÌNH HIỆN NAY

Ngày đăng: 12/11/2021, 12:37

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Đào Duy Anh (1992), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Thanh niên, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Việt Nam văn hóa sử cương
Tác giả: Đào Duy Anh
Nhà XB: Nxb Thanh niên
Năm: 1992
2. Toan Ánh (1999), Làng xóm Việt Nam, Nxb Tp. Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Làng xóm Việt Nam
Tác giả: Toan Ánh
Nhà XB: Nxb Tp. Hồ Chí Minh
Năm: 1999
3. Toan Ánh (2005), Nếp cũ - Hội hè đình đám, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nếp cũ - Hội hè đình đám
Tác giả: Toan Ánh
Nhà XB: Nxb Trẻ
Năm: 2005
8. Ban Tư tưởng Văn hóa, Trung ương (2004), Xây dựng môi trường văn hóa- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Xây dựng môi trường văn hóa- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
Tác giả: Ban Tư tưởng Văn hóa, Trung ương
Nhà XB: Nxb Chính trị Quốc gia
Năm: 2004
9. Ban Tuyên giáo trung ương, Trung tâm công tác tuyên giáo (2011), Sổ tay báo cáo viên Đại hội XI Đảng Cộng sản Việt Nam, Xí nghiệp bản đồ 1 Bộ Quốc phòng Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sổ tay báo cáo viên Đại hội XI Đảng Cộng sản Việt Nam
Tác giả: Ban Tuyên giáo trung ương, Trung tâm công tác tuyên giáo
Năm: 2011
10. Bộ Văn hóa - Thông tin (1998), Hỏi đáp về xây dựng làng văn hóa, gia đình văn hóa, nếp sống văn hóa, tổ chức và quản lý lễ hội truyền thống, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hỏi đáp về xây dựng làng văn hóa, gia đình văn hóa, nếp sống văn hóa, tổ chức và quản lý lễ hội truyền thống
Tác giả: Bộ Văn hóa - Thông tin
Nhà XB: Nxb Chính trị Quốc gia
Năm: 1998
11. Nguyễn Anh Bắc (2001), Lễ hội Đền Đô xưa và nay, Công ty in Bắc Ninh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lễ hội Đền Đô xưa và nay
Tác giả: Nguyễn Anh Bắc
Năm: 2001
12. Nguyễn Chí Bền (1999), Văn hoá dân gian Việt Nam, những suy nghĩ, Nxb Văn hoá Dân tộc, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn hoá dân gian Việt Nam, những suy nghĩ
Tác giả: Nguyễn Chí Bền
Nhà XB: Nxb Văn hoá Dân tộc
Năm: 1999
13. Trần Văn Bính (chủ biên), (2000), Lý luận văn hóa đường lối văn hóa Đảng, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lý luận văn hóa đường lối văn hóa Đảng
Tác giả: Trần Văn Bính (chủ biên)
Nhà XB: Nxb Chính trị Quốc gia
Năm: 2000
14. Phan Kế Bính (1992), Việt Nam phong tục, Nxb thành phố Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Việt Nam phong tục
Tác giả: Phan Kế Bính
Nhà XB: Nxb thành phố Hồ Chí Minh
Năm: 1992
16. Lê Văn Bân (2006), Cồng chiêng người Mường, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cồng chiêng người Mường
Tác giả: Lê Văn Bân
Nhà XB: Nxb Khoa học xã hội
Năm: 2006
17. Đoàn Minh Châu (2004), Cấu trúc của lễ hội đương đại (Trong mối liên hệ với cấu trúc của lễ hội truyền thống của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ), Luận án Tiến sĩ Lịch sử: 5.03.13. Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cấu trúc của lễ hội đương đại (Trong mối liên hệ với cấu trúc của lễ hội truyền thống của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ)
Tác giả: Đoàn Minh Châu
Năm: 2004
18. Phan Huy Chú (1992), Phần lễ nghi trí trong Lịch triều hiến chương loại chí, Nxb khoa học xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phần lễ nghi trí trong Lịch triều hiến chương loại chí
Tác giả: Phan Huy Chú
Nhà XB: Nxb khoa học xã hội
Năm: 1992
19. Đoàn Văn Chúc, (1997), Xã hội học văn hóa, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Xã hội học văn hóa
Tác giả: Đoàn Văn Chúc
Nhà XB: Nxb Văn hóa thông tin
Năm: 1997
20. Lê Tiến Dũng, Ngô Quang Hưng (2007), Lễ hội là nguồn nước trong lành - In lần thứ 2, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lễ hội là nguồn nước trong lành - In lần thứ 2
Tác giả: Lê Tiến Dũng, Ngô Quang Hưng
Nhà XB: Nxb Văn hoá dân tộc
Năm: 2007
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI
Tác giả: Đảng Cộng sản Việt Nam
Nhà XB: Nxb Chính trị Quốc gia
Năm: 1987
23. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội
Tác giả: Đảng Cộng sản Việt Nam
Nhà XB: Nxb Sự thật
Năm: 1991
24. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII
Tác giả: Đảng Cộng sản Việt Nam
Nhà XB: Nxb Chính trị Quốc gia
Năm: 1991
25. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII
Tác giả: Đảng Cộng sản Việt Nam
Nhà XB: Nxb Chính trị Quốc gia
Năm: 1996
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Khóa VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Khóa VIII
Tác giả: Đảng Cộng sản Việt Nam
Nhà XB: Nxb Chính trị Quốc gia
Năm: 1998

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Khi được hỏi về hình thức giáo dục giá trị truyền thống của lễ hội cồng chiêng có hấp dẫn hay không thì phần lớn (64%) số người được hỏi trả lời là  khá hấp dẫn, số lượng trả lời nhàm chán chiếm 13%, còn lại 23% trả lời rất  hấp dẫn - Giáo dục giá trị truyền thống thông qua lễ hội cồng chiêng ở tỉnh hòa bình hiện nay
hi được hỏi về hình thức giáo dục giá trị truyền thống của lễ hội cồng chiêng có hấp dẫn hay không thì phần lớn (64%) số người được hỏi trả lời là khá hấp dẫn, số lượng trả lời nhàm chán chiếm 13%, còn lại 23% trả lời rất hấp dẫn (Trang 61)
Bảng thống kê số liệu - Giáo dục giá trị truyền thống thông qua lễ hội cồng chiêng ở tỉnh hòa bình hiện nay
Bảng th ống kê số liệu (Trang 108)
Câu 5: Nội dung và hình thức của các hình thức giáo dục truyển thống hiện tai đã phù hợp với mong muốn của các em chưa ?  - Giáo dục giá trị truyền thống thông qua lễ hội cồng chiêng ở tỉnh hòa bình hiện nay
u 5: Nội dung và hình thức của các hình thức giáo dục truyển thống hiện tai đã phù hợp với mong muốn của các em chưa ? (Trang 110)

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w