1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị của lễ hội cổ truyền trên địa bàn thành phố hà nội hiện nay

96 10 0
Tài liệu đã được kiểm tra trùng lặp

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Vấn Đề Bảo Tồn Và Phát Huy Giá Trị Của Lễ Hội Cổ Truyền Trên Địa Bàn Thành Phố Hà Nội Hiện Nay
Tác giả Nguyễn Thị Thảo
Người hướng dẫn PGS, TS. Vũ Trọng Dung
Trường học Học Viện Chính Trị Quốc Gia Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Triết học
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2015
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 96
Dung lượng 1,28 MB

Cấu trúc

  • MỞ ĐẦU

  • Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ CỦA LỄ HỘI CỔ TRUYỀN

  • 1.1. Quan niệm về lễ hội và lễ hội cổ truyền

  • 1.1.1. Quan niệm về lễ hội

  • 1.1.2. Quan niệm về lễ hội cổ truyền

  • 1.1.3. Một số đặc trưng của lễ hội cổ truyền

  • 1.1.3.1. Lễ hội cổ truyền - một “hiện tượng văn hoá gian tổng thể”

  • 1.1.3.2. Lễ hội cổ truyền - một hình thức diễn xướng tâm linh

  • 1.1.4. Giá trị văn hóa của lễ hội cổ truyền

  • 1.2. Giá trị của lễ hội cổ truyền trong giai đoạn hiện nay

  • 1.2.1. Giá trị cố kết cộng đồng của lễ hội cổ truyền

  • 1.2.2. Giá trị hướng về cội nguồn của lễ hội cổ truyền

  • 1.2.3. Giá trị văn hoá tâm linh của lễ hội cổ truyền

  • 1.2.4. Giá trị sáng tạo và hưởng thụ văn hoá tinh thần của lễ hội cổ truyền

  • 1.2.5. Giá trị bảo tồn, làm giàu và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc của lễ hội cổ truyền

  • 1.2.6. Giá trị kinh tế của lễ hội cổ truyền

  • 1.3. Các quan điểm về bảo tồn và phát huy giá trị của lễ hội cổ truyền

  • 1.3.1. Quan điểm về bảo tồn

  • 1.3.1.1. Bảo tồn nguyên vẹn

  • 1.3.1.2. Bảo tồn trên cơ sở kế thừa

  • 1.3.2. Quan điểm về phát huy

  • Chương 2 THỰC TRẠNG, PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ CỦA LỄ HỘI CỔ TRUYỀN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

  • 2.1. Vài nét về điều kiện địa lý, văn hóa, xã hội của thành phố Hà Nội ảnh hưởng đến bảo tồn và phát huy giá trị của lễ hội cổ truyền trên địa bàn thành phố Hà Nội

  • 2.2. Nội dung và hình thức tổ chức hai lễ hội cổ truyền (lễ hội Thánh Gióng và lễ hội Hai Bà Trưng) trên địa bàn thành phố Hà Nội

  • 2.2.1. Lễ hội Thánh Gióng

  • 2.2.1.1. Nguồn gốc lễ hội Thánh Gióng

  • 2.2.1.2. Thời gian, địa điểm diễn ra lễ hội

  • 2.2.1.3. Nội dung và hình thức lễ hội

  • 2.2.2. Lễ hội Hai Bà Trưng

  • 2.2.2.1. Nguồn gốc lễ hội Hai Bà Trưng

  • 2.2.2.2. Thời gian. địa điểm diễn ra lễ hội

  • 2.2.2.3. Nội dung và hình thức lễ hội

  • 2.3. Thực trạng bảo tồn và phát huy những giá trị của lễ hội cổ truyền trên địa bàn thành phố Hà Nội

  • 2.3.1. Về mặt tích cực

  • 2.3.2. Về mặt tiêu cực

  • 2.4. Phương hướng chung về bảo tồn và phát huy giá trị của lễ hội cổ truyền trên địa bàn thành phố Hà Nội

  • 2.5. Một số giải pháp và kiến nghị bảo tồn và phát huy giá trị của lễ hội cổ truyền trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay

  • 2.5.1. Một số giải pháp

  • 2.5.1.1. Tăng cường các hoạt động tuyên truyền, giáo dục để nhân dân hiểu rõ những giá trị văn hoá, lịch sử của lễ hội

  • 2.5.1.2. Tăng cường công quản lý Nhà nước đối với lễ hội

  • 2.5.1.3. Xây dựng chương trình bảo tồn, khai thác và phát huy các giá trị của lễ hội cổ truyền

  • 2.5.1.4. Đầu tư hỗ trợ kinh phí để tổ chức lễ hội có nhiều giá trị

  • 2.5.1.5. Phát triển mô hình du lịch văn hoá lễ hội cổ truyền

  • 2.5.1.6. Tăng cường công tác đào tạo cán bộ quản lý văn hoá các cấp, nhất là ở cơ sở

  • 2.5.2. Một số kiến nghị cụ thể

  • 2.5.2.1. Đối với Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội

  • 2.5.2.2. Đối với Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch

  • 2.5.2.3. Đối với các ngành, đoàn thể

  • 2.5.2.4. Chính quyền, địa phương và cộng đồng dân cư có lễ hội cổ truyền

  • KẾT LUẬN

  • TÀI LIỆU THAM KHẢO

  • PHỤ LỤC

Nội dung

Quan niệm về lễ hội và lễ hội cổ truyền

1.1.1 Quan niệm về lễ hội

Việt Nam, với nền văn hóa lâu đời và đa dạng dân tộc, là nơi hội tụ nhiều phong tục tập quán độc đáo của từng vùng miền và tôn giáo Lễ hội không chỉ phản ánh bản sắc riêng của mỗi dân tộc mà còn làm phong phú thêm nền văn hóa chung của đất nước, tạo nên sự đặc sắc và hấp dẫn cho văn hóa Việt Nam.

Khái niệm lễ hội vẫn đang được nghiên cứu và hiểu theo nhiều cách khác nhau Một số ý kiến cho rằng lễ và hội là hai thành tố riêng biệt trong cấu trúc lễ hội, với những hoạt động văn hóa dân gian có thể có lễ mà không có hội hoặc ngược lại Theo Bùi Thiết, "Lễ là các hoạt động đạt tới trình độ nghi lễ, hội là các hoạt nghi lễ đạt trình độ cao hơn, trong đó có các hoạt động văn hóa truyền thống." Tuy nhiên, nhà nghiên cứu Thu Linh lại đưa ra quan điểm khác.

Lễ phản ánh những sự kiện đặc biệt và trở thành hệ thống nghi thức phổ biến, được quy định nghiêm ngặt và đạt đến trình độ "cải diễn hoá" trong không khí trang nghiêm Đây là điểm giao thoa giữa lễ và hội, lý do khiến hai từ lễ hội thường được kết hợp với nhau.

Theo Nguyễn Quang Lê, thì bất kỳ một lễ hội nào cũng bao gồm hai hệ thống đan quện và giao thoa với nhau:

Hệ thống lễ bao gồm các nghi lễ tín ngưỡng dân gian và tôn giáo, cùng với các lễ vật linh thiêng được chuẩn bị chu đáo Qua những nghi lễ này, con người giao cảm với thế giới siêu nhiên, cầu mong sự bảo trợ từ các thần thánh mà họ tưởng tượng ra, nhằm mang lại tác động tích cực cho tương lai cuộc sống của mình.

Hệ thống hội bao gồm nhiều hoạt động vui chơi giải trí như trò vui, trò diễn và các hình thức diễn xướng dân gian Những hoạt động này không chỉ mang tính chất vui nhộn và hài hước mà còn gắn liền với các nghi lễ thờ cúng truyền thống.

Giáo sư Đinh Gia Khánh cho rằng một trong những đặc điểm cơ bản của văn hóa dân gian, bao gồm cả lễ hội, là tính nguyên hợp Ông nhấn mạnh rằng trong nghệ thuật, con người nhận thức hiện thực như một tổng thể chưa bị chia cắt.

Theo nghiên cứu của Dương Văn Sáu về “Lễ hội Việt Nam trong sự phát triển du lịch”, lễ hội được định nghĩa là hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng diễn ra trong một không gian và thời gian nhất định Lễ hội không chỉ nhắc lại các sự kiện, nhân vật lịch sử hay huyền thoại, mà còn là dịp để thể hiện cách ứng xử văn hóa của con người đối với thiên nhiên và xã hội.

Tác giả Phạm Quang Nghị cắt nghĩa

Lễ hội là hoạt động văn hóa cộng đồng phổ biến, thu hút đông đảo người tham gia Đây là sản phẩm sáng tạo của các thế hệ trước, mang trong mình những ước vọng thiêng liêng và đời thường của con người qua các thời kỳ.

GS Ngô Đức Thịnh định nghĩa lễ hội cổ truyền là một hiện tượng văn hóa dân gian tổng thể, thể hiện sự kết nối giữa con người và tâm linh Ông nhấn mạnh rằng lễ hội không chỉ là một hoạt động giải trí mà còn là hình thức diễn xướng tâm linh, phản ánh giá trị văn hóa và tín ngưỡng của cộng đồng.

Lễ hội không chỉ đơn thuần là một thực thể chia đôi mà được hình thành từ một cốt lõi nghi lễ hoặc tín ngưỡng, thường liên quan đến việc tôn thờ một vị thần linh hay thần linh nghề nghiệp Từ cốt lõi này, các hiện tượng văn hóa phái sinh phát triển và tích hợp, tạo nên một tổng thể lễ hội hoàn chỉnh Do đó, phần lễ giữ vai trò chủ đạo, trong khi phần hội là sự phát sinh và tích hợp các yếu tố văn hóa khác.

Các nhà nghiên cứu thống nhất rằng lễ hội bao gồm hai thành tố cấu trúc: phần lễ, thể hiện tinh thần, tôn giáo và tín ngưỡng, và phần hội, phản ánh văn hóa nghệ thuật và đời sống vật chất Tác giả Trần Bình Minh nhấn mạnh rằng “lễ và hội hòa quyện, xoắn xít với nhau để biểu thị giá trị của một cộng đồng, trong lễ cũng có hội và trong hội cũng có lễ.”

Nguyễn Tri Nguyên khẳng định:

Lễ hội là biểu hiện và khám phá ký ức văn hóa dân tộc, tương tự như gene di truyền, chứa đựng thông tin về các giá trị văn hóa của quá khứ Những truyền thống văn hóa này không chỉ tạo nên bản sắc và sự đa dạng văn hóa mà còn thiết yếu cho sự sống con người, giống như sự đa dạng sinh học trong tự nhiên.

Từ những quan điểm trên, chúng tôi nhận thức như sau:

Lễ là tập hợp các hành vi và động tác thể hiện lòng tôn kính của con người đối với thần linh, đồng thời phản ánh những ước mơ chính đáng mà con người mong muốn đạt được trong cuộc sống, nhưng chưa thể thực hiện.

Hội là tập hợp các hoạt động nghi thức và vui chơi giải trí diễn ra tại một thời điểm nhất định, thường gần các công trình tôn giáo, thu hút đông đảo người tham gia Đây là một phần quan trọng trong đời sống văn hóa hàng ngày, phản ánh sự kiện kỷ niệm quan trọng của một cộng đồng xã hội.

Lễ hội là di sản văn hóa của xã hội trong quá khứ, được lưu truyền đến hiện tại và được cộng đồng tiếp nhận, thực hành trong đời sống văn hóa và tín ngưỡng.

1.1.2 Quan niệm về lễ hội cổ truyền

Giá trị của lễ hội cổ truyền trong giai đoạn hiện nay

Lễ hội cổ truyền là một phần quan trọng của văn hoá dân gian, có lịch sử lâu dài và thể hiện sâu sắc bản sắc dân tộc Những lễ hội này không chỉ tồn tại mà còn đang ngày càng phát triển mạnh mẽ trong xã hội hiện đại.

Lễ hội là một phần quan trọng của văn hóa tinh thần của các dân tộc trên thế giới, thể hiện nhu cầu tâm linh và củng cố ý thức cộng đồng Nó không chỉ phản ánh đời sống kinh tế, văn hóa và xã hội mà còn là chỗ dựa tinh thần cho mỗi người, giúp họ kết nối với tổ tiên, dòng tộc và thiên nhiên Sự tham gia lễ hội mang lại cảm xúc hưng phấn, tạo nên không khí vui vẻ, trang nghiêm và linh thiêng cho tất cả mọi người.

Lễ hội là thời điểm quan trọng trong sinh hoạt cộng đồng, nơi mọi người cùng nhau chuẩn bị lễ vật và tham gia các trò chơi, tạo nên không khí vui tươi và gắn kết tình quê hương Qua lễ hội, các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể được hưởng thụ, đồng thời làm cho các công trình kiến trúc như đình, chùa và không gian tĩnh lặng của làng xã trở nên sống động và đầy hồn.

Lễ hội cổ truyền hiện nay đóng vai trò quan trọng trong đời sống xã hội trong bối cảnh hội nhập và phát triển, thể hiện giá trị qua các khía cạnh cơ bản như văn hóa, tinh thần cộng đồng và sự kết nối giữa các thế hệ.

1.2.1 Giá trị cố kết cộng đồng của lễ hội cổ truyền

Lễ hội là sự kiện quan trọng của cộng đồng, phản ánh bản sắc văn hóa và truyền thống của từng nhóm người, như hội làng, hội nghề, hội tôn giáo và hội dân tộc Đây không chỉ là dịp để biểu dương sức mạnh của cộng đồng mà còn là yếu tố kết nối, gắn bó các thành viên lại với nhau, tạo nên sự đoàn kết và hòa nhập trong xã hội.

Mỗi cộng đồng được hình thành và duy trì dựa trên các yếu tố gắn kết như cùng cư trú trên một lãnh thổ, chia sẻ tài nguyên và lợi ích kinh tế, chịu ảnh hưởng của các lực lượng siêu nhiên, và nhu cầu đồng cảm trong hoạt động văn hóa Lễ hội đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tinh thần cộng sinh và cộng cảm, tạo nên sức mạnh cho cộng đồng.

Trong xã hội hiện đại, con người ngày càng khẳng định cái "cá nhân" và "cá tính" của mình, nhưng điều này không làm suy yếu cái "cộng đồng" Thay vào đó, nó chỉ làm phong phú thêm các sắc thái và phạm vi của sự kết nối Con người vẫn cần nương tựa vào nhau và có nhu cầu gắn kết cộng đồng Trong bối cảnh này, lễ hội vẫn giữ giá trị biểu tượng cho sức mạnh cộng đồng và góp phần tạo nên sự đoàn kết giữa các thành viên.

1.2.2 Giá trị hướng về cội nguồn của lễ hội cổ truyền

Tất cả các lễ hội cổ truyền đều thể hiện sự tôn vinh cội nguồn, từ nguồn cội tự nhiên nơi con người sinh ra đến các yếu tố cộng đồng như dân tộc, đất nước, xóm làng và tổ tiên Điều này không chỉ phản ánh nguồn cội văn hóa mà còn trở thành tâm thức sâu sắc của người Việt, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc kết nối với di sản văn hóa và lịch sử.

“Uống nước, nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” Do đó, ngày nay lễ hội thường gắn với hành hương du lịch

Lễ hội không chỉ tái hiện cuộc sống của quá khứ và hiện tại qua các hình thức lễ tế và trò diễn, mà còn thể hiện cuộc sống lao động sáng tạo và tinh thần chống lại thiên tai, định hoạ Những hoạt động văn hoá sinh động trong lễ hội giúp truyền tải kinh nghiệm lao động sản xuất và bài học sống của ông cha, tạo cơ hội cho con cháu học hỏi và noi theo.

Trong thời đại cách mạng khoa học công nghệ và toàn cầu hóa hiện nay, những giá trị văn hóa độc đáo đang đối mặt với nguy cơ mai một Con người ngày càng khao khát trở về nguồn cội tự nhiên, hòa mình vào thiên nhiên và khám phá bản sắc văn hóa của mình trong bối cảnh văn hóa toàn cầu Lễ hội cổ truyền đóng vai trò quan trọng trong việc thỏa mãn những nhu cầu này, thể hiện tính nhân bản bền vững và sâu sắc, đáp ứng nhu cầu của con người qua mọi thời đại.

1.2.3 Giá trị văn hoá tâm linh của lễ hội cổ truyền

Đời sống tâm linh là một phần quan trọng trong cuộc sống con người, bên cạnh đời sống vật chất và tinh thần Nó thể hiện sự hướng tới những giá trị cao cả như chân, thiện, mỹ mà con người ngưỡng mộ và tôn thờ, trong đó có niềm tin tôn giáo và tín ngưỡng Mặc dù tôn giáo và tín ngưỡng là một phần của đời sống tâm linh, nhưng không phải tất cả các khía cạnh của đời sống tâm linh đều liên quan đến tôn giáo Các nghi lễ và lễ hội đóng vai trò quan trọng trong việc thỏa mãn nhu cầu tâm linh, tạo ra trạng thái “thăng hoa” cho con người từ cuộc sống hiện hữu.

Trong quá trình lao động sáng tạo, cộng đồng làng không chỉ biến đổi tự nhiên để tạo ra sản phẩm văn hóa mà còn hòa mình vào thế giới hữu hình và vô hình Nhiều lúc, con người cảm thấy bất lực trước thiên nhiên và phải nhờ đến sự che chở của tổ tiên, dòng tộc, thành hoàng cùng các vị thần linh Họ cầu mong sự phù hộ cho cuộc sống bình an, mùa màng bội thu và thành công trong nghề nghiệp Lễ hội chính là dịp để các cộng đồng dân cư thỏa mãn đời sống tâm linh, từ đó nâng cao giá trị tinh thần và hưởng thụ những giá trị này trong cuộc sống.

Lễ hội với những hình thức cúng tế, dâng lễ vật, cầu nguyện thần linh, đã làm cho nó ẩn chứa trong mình văn hoá tâm linh

1.2.4 Giá trị sáng tạo và hưởng thụ văn hoá tinh thần của lễ hội cổ truyền

Lễ hội là hoạt động tín ngưỡng và văn hóa cộng đồng, diễn ra cả ở nông thôn lẫn thành phố, nơi mà người dân tham gia tổ chức, sáng tạo và trải nghiệm các giá trị văn hóa và tâm linh Trong những khoảnh khắc thiêng liêng của lễ hội, khoảng cách xã hội dường như biến mất, mọi người cùng nhau hòa mình vào không khí vui tươi và sáng tạo văn hóa Điều này trái ngược với cuộc sống thường nhật trong xã hội phát triển, nơi mà sự phân công lao động và nhu cầu văn hóa thường bị tách biệt Tuy nhiên, lễ hội tạo cơ hội cho con người xích lại gần nhau hơn, kết nối trong quá trình giao cảm với thế giới thiêng liêng.

Mỗi người đều có niềm tin vào sự hiện diện của thế giới tâm linh, thể hiện qua thái độ thành kính của bản thân Để làm được điều này, con người cần phải khẳng định vẻ đẹp chân, thiện, mỹ trong tâm hồn Sự hành hương và tưởng niệm chung tạo ra không gian chiêm bái, từ đó hình thành nên những lễ hội mang giá trị văn hóa mới, phản ánh lịch sử và thời đại.

1.2.5 Giá trị bảo tồn, làm giàu và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc của lễ hội cổ truyền

Lễ hội không chỉ phản ánh văn hoá dân tộc mà còn là môi trường bảo tồn và phát huy nền văn hoá ấy Trong cuộc sống hàng ngày đầy lo toan, lễ hội mang lại không khí vui tươi, nơi mọi người tụ hội tại đình, đền, chùa để cùng nhau tham gia các hoạt động văn hoá Tại đây, con người hoá thân vào văn hoá, tạo nên một “bảo tàng sống” được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác Lễ hội cũng là không gian cho các làn điệu dân ca như hát chèo, hát xoan, cùng các điệu múa và trò chơi truyền thống như múa rồng, kéo co, bơi chải, tạo nên bầu không khí sôi động và phong phú.

THỰC TRẠNG, PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ CỦA LỄ HỘI CỔ TRUYỀN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Vài nét về điều kiện địa lý, văn hóa, xã hội của thành phố Hà Nội ảnh hưởng đến bảo tồn và phát huy giá trị của lễ hội cổ truyền trên địa bàn thành phố Hà Nội

Hà Nội, Thủ đô của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đóng vai trò là trung tâm chính trị, văn hóa và khoa học kỹ thuật, cũng như là trung tâm giao dịch kinh tế và quốc tế quan trọng của cả nước Sau 1.000 năm hình thành và phát triển, từ khi vua Lý Thái Tổ chọn khu đất Đại La bên sông Tô Lịch làm nơi định đô, Hà Nội đã chứng kiến sự thăng trầm của các triều đại phong kiến Việt Nam như Lý, Trần, Lê, Mạc và Nguyễn Kinh thành Thăng Long không chỉ là nơi buôn bán mà còn là trung tâm văn hóa và giáo dục của miền Bắc.

Hà Nội hiện nay tọa lạc tại vị trí 20°53' đến 21°23' vĩ độ Bắc và 105°44' đến 106°02' kinh độ Đông Thành phố giáp ranh với tỉnh Thái Nguyên và Vĩnh Phúc ở phía Bắc, Hà Nam và Hòa Bình ở phía Nam, Bắc Giang, Bắc Ninh, Hưng Yên ở phía Đông, cùng với Hòa Bình và Phú Thọ ở phía Tây.

Thực hiện kết luận Hội nghị Trung ương 6 (khóa X) và Nghị quyết Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 3, số 15/2008/NQ-QH12, ngày 29 tháng 05 năm 2008, Nghị quyết này sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 8 năm 2008.

Năm 2008, hệ thống chính trị của thành phố Hà Nội đã được củng cố sau khi hợp nhất và mở rộng địa giới hành chính, bao gồm Thành phố Hà Nội, tỉnh Hà Tây và các huyện lân cận.

Mê Linh - thành phố Hà Nội và bốn xã thuộc huyện Lương Sơn - tỉnh Hòa

Thủ đô Hà Nội, sau khi được mở rộng, có diện tích tự nhiên lên tới 334.470,02 ha, gấp hơn 3 lần so với trước đây, đứng trong top 17 thủ đô lớn nhất thế giới Dân số của Hà Nội đã tăng hơn gấp rưỡi, từ hơn 6,2 triệu người hiện nay đã vượt qua 7 triệu người, bao gồm 30 đơn vị hành chính cấp quận, huyện, thị xã và 577 xã, phường, thị trấn.

Hà Nội, thành phố được hình thành từ châu thổ sông Hồng, nổi bật với danh xưng “Thành phố sông hồ” hay “Thành phố trong sông” Các con sông lớn nhỏ đã chảy qua đây hàng vạn năm, mang phù sa bồi đắp cho vùng châu thổ phì nhiêu Hiện tại, Hà Nội có 7 con sông chính, bao gồm sông Hồng, sông Đuống, sông Đà, sông Nhuệ, sông Cầu, sông Đáy và sông Tô Lịch, tạo nên một hệ thống thủy văn phong phú và đa dạng.

Cà Lồ, đoạn sông Hồng chảy qua Hà Nội dài 163 km, chiếm 1/3 chiều dài của sông này tại Việt Nam Trước đây, khu vực này có hơn 100 hồ lớn nhỏ, phần lớn là hồ tự nhiên, là dấu vết của những khúc sông chết, cùng với một số hồ nhân tạo được cải tạo từ các cánh đồng lầy Mặc dù hiện nay nhiều hồ đã bị san lấp để xây dựng, Hà Nội vẫn còn hàng trăm hồ đầm lớn nhỏ phân bố khắp các phường, xã, trong đó nổi tiếng nhất là hồ Hoàn Kiếm.

Hồ Tây, Quảng Bá,Trúc Bạch, Thiền Quang, Bảy Mẫu, Thanh Nhàn, Linh Đàm, Yên Sở, Giảng Võ, Đồng Mô, Suối Hai…

Hồ đầm ở Hà Nội không chỉ là nguồn nước lớn mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc điều hòa nhiệt độ tự nhiên, giúp giảm bớt sức nóng từ các công trình bê tông và hoạt động công nghiệp Chúng tạo ra một khí hậu mát mẻ cho thành phố, đồng thời trở thành những danh lam thắng cảnh và vùng văn hóa đặc sắc của Thăng Long - Hà Nội.

Khác với nhiều thành phố phương Tây, Hà Nội vẫn giữ mối liên hệ chặt chẽ với nông nghiệp và nông thôn Vào đầu thế kỷ XX, các làng xã bao quanh trung tâm thành phố, thậm chí nhiều làng còn nằm trong lòng Hà Nội Điều này thể hiện rõ nét qua các lễ hội của thành phố, với đặc trưng là lễ hội nông nghiệp và quy mô hội làng Hiện nay, trong số khoảng 200 lễ hội đang diễn ra, phần lớn vẫn là hội làng từ các huyện ngoại thành.

Lễ hội nông nghiệp và quy mô hội làng tại Hà Nội không chỉ tập trung ở các vùng ngoại thành mà còn thể hiện rõ trong cách thờ cúng và sinh hoạt lễ hội Nhiều vị tổ nghề tại các phường, phố nghề ở Hà Nội thực chất có nguồn gốc từ thôn quê, với một số nơi vẫn duy trì việc thờ cúng tổ nghề tại quê gốc Mặc dù các đám rước ở đô thị bị hạn chế do địa hình, nhưng các hoạt động lễ hội khác vẫn giữ nguyên bản sắc như ở nông thôn Thậm chí, một số nghi lễ và phong tục còn được bảo tồn bền vững hơn tại đô thị, nhờ vào điều kiện thuận lợi trong việc duy trì phong tục cũ Trong khi có hiện tượng văn hóa "hóa thạch ngoại biên", cũng tồn tại hiện tượng "hóa thạch trung tâm", như tục thi cỗ bảy tầng, vốn phổ biến ở làng xã nhưng nay hiếm thấy, trong khi vẫn được duy trì tại lễ hội đền Kim Liên.

Việc bảo tồn những đặc trưng nông thôn và làng xã trong lễ hội Hà Nội, cùng với các hoạt động văn hóa dân gian khác, góp phần tạo nên sự độc đáo trong văn hóa đô thị của thành phố Điều này đòi hỏi chúng ta phải nỗ lực gìn giữ và bảo vệ những giá trị văn hóa này.

Lễ hội ở Hà Nội, mặc dù có vẻ trái ngược với những gì người ta thường nghĩ, lại thể hiện rõ tính chất đô thị, đặc biệt là trong bối cảnh xã hội phong kiến và hiện đại Thăng Long - Hà Nội, với bề dày lịch sử, đã tiếp thu và phát triển những giá trị văn hóa tinh túy của vùng Kinh Bắc Các tài liệu cổ ghi nhận rằng lễ hội Thăng Long - Hà Nội có nguồn gốc từ lâu đời, gắn liền với các tín ngưỡng và tôn giáo như Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo, cùng với các tín ngưỡng thờ Thành hoàng và Phúc thần tại các đình làng và đền miếu.

Các lễ hội ở Thăng Long - Hà Nội thường mang tính phong kiến và cung đình, thể hiện rõ sự ảnh hưởng của nhà nước trong các hoạt động nghi lễ Hệ thống lễ hội Tứ trấn thần (Cao Sơn, Bạch Mã, Linh Lang, Trấn Vũ) là sự kết hợp từ nhiều hình thức tín ngưỡng dân gian, tạo thành một hệ thống thần linh bảo vệ Kinh đô Thăng Long Lễ hội Gióng, thờ vị Thần sấm trong nghi lễ nông nghiệp ở Kinh Bắc, đã được nâng cấp thành lễ hội quốc gia dưới triều Lý, tôn vinh hình tượng Thánh Gióng, anh hùng chống giặc ngoại xâm Tương tự, lễ hội Gò Đống Đa đã chuyển hóa từ nghi lễ thờ cúng linh hồn quân Thanh bại trận thành lễ hội tôn vinh anh hùng Quang Trung.

Hệ thống nghi lễ của các phố nghề Hà Nội thể hiện đặc trưng của lễ hội đô thị, với sự tích hợp các nghi lễ từ các vùng khác do vị trí trung tâm của Thăng Long - Hà Nội Chẳng hạn, đền thờ Đồng Cổ, có nguồn gốc từ Thanh Hóa, đã được đưa về Hà Nội và trở thành nơi tổ chức hội thể hàng năm của triều đình Đại Việt Bên cạnh đó, các trò diễn dân gian từ các vùng quê cũng được tinh lọc, mang đến sự tinh xảo và thanh nhã hơn trong các lễ hội tại Hà Nội.

Thăng Long - Hà Nội, với vai trò là đô thị trung tâm và đầu não chính trị của cả nước, sở hữu hệ thống lễ hội đa dạng và phong phú Các lễ hội tiêu biểu tại đây bao gồm lễ hội Tứ trấn thần, lễ hội thờ Phúc thần và các anh hùng chống ngoại xâm, lễ hội Tứ Bất Tử, lễ hội Đạo Mẫu, cùng nhiều lễ hội liên quan đến các Thành hoàng làng, Thánh sư tổ nghề, Phật giáo, Công giáo, Tin lành và Cao Đài Như vậy, lễ hội Hà Nội không chỉ phản ánh nét văn hóa đặc trưng của đồng bằng Bắc Bộ mà còn là bức tranh tổng thể của lễ hội trên toàn quốc.

Nội dung và hình thức tổ chức hai lễ hội cổ truyền (lễ hội Thánh Gióng và lễ hội Hai Bà Trưng) trên địa bàn thành phố Hà Nội

2.2.1.1 Nguồn gốc lễ hội Thánh Gióng

Hội Gióng tại đền Phù Đổng và đền Sóc gắn liền với truyền thuyết về một cậu bé sinh ra kỳ lạ ở làng Phù Đổng Vào thời Vua Hùng Vương thứ 6, vợ chồng ông lão hiền lành, phúc đức ao ước có con Một ngày, bà phát hiện vết chân lớn và sau đó mang thai, sinh ra một cậu bé khôi ngô nhưng không biết nói, cười hay đi cho đến khi ba tuổi Khi giặc Ân xâm lược, cậu bé bỗng cất tiếng yêu cầu mời sứ giả, và sau đó yêu cầu vua chuẩn bị cho mình một con ngựa sắt, roi sắt và áo giáp sắt để tiêu diệt kẻ thù.

Sứ giả trở về với niềm vui và sự ngạc nhiên, báo tin cho vua Nhà vua lập tức ra lệnh cho thợ làm gấp các vật dụng theo chỉ dẫn của chú bé Kỳ lạ thay, sau khi gặp sứ giả, chú bé lớn nhanh như thổi, ăn mãi vẫn không đủ no, áo vừa may xong đã căng đứt chỉ Hai vợ chồng không đủ khả năng nuôi con, phải nhờ sự giúp đỡ từ bà con và hàng xóm Mọi người đều vui vẻ gom góp gạo thóc để nuôi chú bé, vì ai cũng hy vọng chú sẽ đánh giặc và cứu nước.

Giặc đã đến chân núi Trâu, khiến mọi người hoảng hốt Lúc này, sứ giả mang đến ngựa sắt, roi sắt và áo giáp sắt Chú bé bỗng biến thành một tráng sĩ cao lớn, oai phong Tráng sĩ vỗ vào mông ngựa, khiến ngựa hí vang dội Sau khi mặc áo giáp và cầm roi, tráng sĩ cưỡi ngựa phun lửa, lao thẳng vào giặc, tiêu diệt chúng như rạ Khi roi sắt gãy, tráng sĩ dùng tre bên đường quật lại giặc, khiến chúng tan vỡ và chạy trốn Đến chân núi Sóc Sơn, tráng sĩ cởi giáp sắt và bay lên trời cùng ngựa Để tưởng nhớ, vua phong Thánh Gióng là Phù Đổng Thiên Vương và lập đền thờ ở quê nhà, làng Phù Đổng Hàng năm, vào tháng tư, làng tổ chức hội lớn Những bụi tre ở Gia Bình ngả màu vàng do ngựa phun lửa, còn vết chân ngựa tạo thành hồ ao liên tiếp Một làng bị thiêu cháy sau đó được gọi là làng Cháy.

Lễ hội Gióng diễn ra tại đền Gióng, xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, Hà Nội, từ ngày 6 đến 12 tháng 4 âm lịch Trong các ngày 6-8/4, dân làng tổ chức lễ rước cờ và rước cơm chay lên đền Thượng Ngày chính hội (9/4) diễn ra lễ rước kiệu võng và hội trận, tái hiện trận đánh giặc Ân Ngày 10 là lễ duyệt quân tạ ơn Gióng, tiếp theo là lễ rửa khí giới vào ngày 11 Ngày 12, lễ rước cờ báo tin thắng trận được tổ chức, kết thúc bằng lễ khao quân và hát chèo mừng chiến thắng Lễ hội diễn ra trong không gian rộng lớn khoảng 3km, bao gồm đền Thượng, đền Mẫu và chùa Kiến Sơ.

Hội Gióng là một lễ hội truyền thống hằng năm diễn ra tại nhiều địa phương, nhằm tưởng niệm và ca ngợi chiến công của Thánh Gióng, một nhân vật anh hùng trong truyền thuyết Sự phong phú và đa dạng của lễ hội này được thể hiện qua thời gian tổ chức và các hoạt động văn hóa đặc sắc Một số hội Gióng tiêu biểu ở Hà Nội bao gồm hội Gióng Phù Đổng tại đền Phù Đổng, xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm và hội Gióng Sóc Sơn tại xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn.

Lễ hội tưởng nhớ Thánh Gióng không chỉ diễn ra tại làng Phù Đổng mà còn được tổ chức ở nhiều địa phương khác thuộc Hà Nội như Chi Nam (Gia Lâm), Xuân Đỉnh (Từ Liêm) và Vệ Linh (Sóc Sơn) Làng Vệ Linh, nằm ở phía Bắc thủ đô, được cho là nơi Gióng cưỡi ngựa về trời và có đền thờ Gióng được Nhà nước công nhận Ngoài ra, trong khu vực Đền Hùng (Phú Thọ) có Đền Thượng, nơi thờ Thánh Gióng Tuy nhiên, lễ hội tại quê hương của Thánh Gióng được coi là "lễ hội có một không hai" và là tâm điểm của các hoạt động tưởng niệm này.

2.2.1.2 Thời gian, địa điểm diễn ra lễ hội

Lễ hội Gióng diễn ra tại đền Gióng, xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, Hà Nội, từ ngày 6 đến 12 tháng 4 âm lịch Trong những ngày đầu, dân làng tổ chức lễ rước cờ và rước cơm chay lên đền Thượng Ngày chính hội (9/4) diễn ra lễ rước kiệu võng và hội trận tái hiện trận đánh giặc Ân Các hoạt động tiếp theo bao gồm lễ duyệt quân vào ngày 10, lễ rửa khí giới vào ngày 11, và lễ rước cờ báo tin thắng trận vào ngày 12, kết thúc bằng lễ khao quân và hát chèo mừng chiến thắng Lễ hội diễn ra trong không gian rộng lớn khoảng 3km, bao gồm đền Thượng, đền Mẫu và chùa Kiến Sơ, tạo nên một không khí phong phú, đa dạng Hội Gióng là lễ hội truyền thống hàng năm, tưởng niệm và ca ngợi chiến công của Thánh Gióng, với nhiều lễ hội tiêu biểu như hội Gióng Phù Đổng và hội Gióng Sóc Sơn.

Lễ hội tưởng nhớ Thánh Gióng không chỉ diễn ra tại làng Phù Đổng mà còn được tổ chức ở nhiều địa phương khác thuộc Hà Nội như Chi Nam, Xuân Đỉnh và Vệ Linh Làng Vệ Linh, nằm phía Bắc thủ đô, được cho là nơi Gióng cưỡi ngựa bay về trời và có đền thờ Gióng được Nhà nước phong tặng danh hiệu Ngoài ra, Đền Thượng tại khu vực Đền Hùng (Phú Thọ) cũng thờ Thánh Gióng Trong số các lễ hội này, lễ hội ở quê hương Thánh Gióng được coi là "lễ hội có một không hai".

Lễ hội Gióng Phù Đổng diễn ra hàng năm vào ngày mùng 8-9 tháng 4 âm lịch tại xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, Hà Nội, nơi sinh của anh hùng Phù Đổng Thiên Vương Lễ hội bao gồm các địa điểm linh thiêng như đền Thượng, đền Mẫu và chùa Kiến Sơ, trải dài khoảng 3 km Theo truyền thuyết, sau khi đánh bại giặc Ân, Thánh Gióng đã bay về trời tại núi Sóc, huyện Sóc Sơn, Hà Nội, dẫn đến việc tổ chức lễ hội vào ngày mồng 6 tháng Giêng âm lịch tại khu di tích thờ ông.

Truyền thuyết “Thánh Gióng” là tác phẩm tiêu biểu về chủ đề giữ nước, phản ánh tinh thần yêu nước và cuộc chiến chống ngoại xâm của dân tộc Tác phẩm kết hợp yếu tố thần thoại, truyền thuyết và lịch sử, lý tưởng hóa cốt lõi của lịch sử với tâm tình của nhân dân thông qua các lễ hội Hình ảnh người anh hùng làng Phù Đổng thể hiện cuộc chiến chống giặc Ân xâm lược thời Văn Lang, ghi lại những trang sử đầu tiên của dân tộc với ý nghĩa ca ngợi và lý giải nguyên nhân chiến tranh Lễ hội Gióng không chỉ tôn vinh công lao của Thánh Gióng mà còn giúp nhân vật này lưu truyền trong dân gian Các địa điểm như vườn cà của mẹ Gióng, miếu Ban, đền Mẫu và đền Thượng đều mang ý nghĩa văn hóa và lịch sử sâu sắc, tạo thành một quần thể di tích gắn liền với truyền thuyết và cuộc đời của vị anh hùng.

Đền Mẫu là nơi lưu giữ nhiều câu đối, hoành phi và đồ thờ tự quý giá từ thời Lê Lễ hội diễn ra từ mồng 1 tháng 3 đến mồng 5 tháng 4 âm lịch, bắt đầu từ ngày mồng 6 với lễ rước cờ và cơm chay lên đền Thượng Ngày mồng 8 có lễ rước nước từ đền Hạ về đền Thượng, tượng trưng cho việc tôi luyện vũ khí trước khi đánh giặc Hội Gióng, diễn ra từ ngày 14 đến 16 tháng 5 (7 đến 9 tháng 4 âm lịch) tại xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, Hà Nội, là lễ hội lớn tưởng nhớ Thánh Gióng, thu hút đông đảo người dân tham gia các hoạt động như đánh cờ, trống, chiêng, dâng hương và rước kiệu Ngoài ra, còn có các hoạt động văn hóa như hát tuồng, hát quan họ, thi thôn nữ giỏi giang, đấu cầu lông, vật tự do và chọi gà Hội Gióng, tổ chức hàng năm tại làng Gióng, thể hiện tinh thần đoàn kết và ý chí quật cường của dân tộc, thu hút hàng vạn khách thập phương và mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc.

Hội Gióng tại đền Sóc được tổ chức để tưởng nhớ ngày Thánh Gióng bay về trời, mang trong mình ý nghĩa sâu sắc và tâm linh Lễ hội không chỉ là nghi thức thờ cúng thần thánh mà còn thể hiện những phẩm chất cao đẹp mà cộng đồng hướng tới Đây là dịp nhắc nhở và giáo dục các thế hệ về giá trị văn hóa, đồng thời tạo ra sự gắn kết tinh thần trong cộng đồng, góp phần củng cố mối quan hệ xã hội và xây dựng sức mạnh bảo vệ Tổ quốc.

2.2.1.3 Nội dung và hình thức lễ hội Để tổ chức Hội Gióng ở đền Phù Đổng, những gia đình có vinh dự được chọn người đóng những vai quan trọng như các vai Ông Hiệu (Hiệu cờ, Hiệu trống, Hiệu chiêng, Hiệu Trung quân, Hiệu Tiểu cổ), vai cô Tướng hay các phường Áo đen, phường Áo đỏ , tùy theo vai vế, khả năng kinh tế mà chuẩn bị những điều kiện vật chất và người được chọn vai sinh hoạt kiêng cữ từ hàng tháng trước ngày Lễ hội Vào chính hội, trước tiên dân làng tổ chức các nghi thức tế Thánh, sau đó là lễ rước nước lau rửa tự khí từ giếng đền Mẫu (đền Hạ) với ý nguyện được mưa thuận, gió hòa, lễ rước cờ “lệnh” từ đền Mẫu lên đền Thượng, tiếp đến là lễ khám đường, lễ duyệt tướng … Ngày chính hội mùng 9 tháng 4, Hội Gióng diễn ra trang trọng, linh thiêng và náo nhiệt nhất là hai trận đánh Trận thứ nhất: đánh cờ ở Đống Đàm (khu đất ven hồ sen đầu làng Đổng Viên, cách đền Thượng chừng 2 km) và trận thứ hai: đánh cờ ở Soi Bia Chiến trường là 03 chiếc chiếu, mỗi chiếu có 01 chiếc bát to tượng trưng cho núi đồi, úp trên 01 tờ giấy trắng tượng trưng cho mây trời Vây quanh là đại quân của Gióng và phía bên kia là đại quân của 28 nữ tướng giặc (biểu tượng cho yếu tố âm) Sau nghi lễ tế Thánh, ông Hiệu cờ lần lượt tiến vào từng chiếc chiếu, nhảy qua các quả đồi (bát úp) và thực hiện các động tác “đánh cờ” Tiếng hò reo lúc lúc lại dội lên trong tiếng chiêng, tiếng trống, thể hiện sự quyết liệt của trận đánh Điệu múa cờ của ông Hiệu phải thật chính xác, khéo léo để tránh điều tối kỵ là lá cờ bị cuốn vào cán, bởi theo niềm tin của cư dân nơi đây thì đó là điềm rủi Kết thúc mỗi màn múa cờ là kết thúc một trận đánh, ông Hiệu cờ vừa bước ra khỏi chiếu là chiếc chiếu được tung lên, dân chúng ào vào cướp lấy những mảnh chiếu mà họ tin tưởng là sẽ đem đến cho gia đình họ điều may mắn trong suốt cả năm Cuối cùng là lễ rước cờ báo tin thắng trận với trời đất và lễ khao quân trong rộn rã tiếng cười, lời ca, điệu múa của phường Ải Lao, chiếu chèo và các trò chơi dân gian Tướng, quân bên giặc cũng được tha bổng và cho tham dự lễ mừng chiến thắng Cách hành xử này thể hiện truyền thống hiếu nghĩa đối với tổ tiên, những vị anh hùng dân tộc và tinh thần khoan dung, nhân đạo của dân tộc Việt Nam

Hội Gióng tại đền Sóc diễn ra trong ba ngày từ mùng 6 đến mùng 8 tháng Giêng hàng năm Trong lễ hội, dân làng Vệ Linh luôn đi đầu trong đoàn rước với cây giò hoa tre, thể hiện sự tôn kính và truyền thống văn hóa đặc sắc.

“giò đầu nước”, rồi mới đến lễ rước của các đoàn khác

Vào nửa đêm mùng 5, rạng sáng ngày mùng 6 tháng giêng, làng Vệ Linh tổ chức nghi lễ “mộc dục” tại đền Thượng, với sự tham gia của các quan viên và bô lão Nước dùng cho lễ tắm tượng được nấu từ lá thơm hái trên núi xung quanh đền, và nồi nước này được đặt trước bệ tượng Trong lễ, chủ tế đốt hương rồi nhúng vào nồi nước thơm, sau đó vẩy nước để thực hiện nghi lễ “mộc dục” cho các pho tượng.

Thực trạng bảo tồn và phát huy những giá trị của lễ hội cổ truyền trên địa bàn thành phố Hà Nội

Thủ đô Hà Nội đang mở rộng không gian văn hóa, trong đó các di tích lịch sử văn hóa giữ vai trò quan trọng, là nguồn tư liệu quý giá về lịch sử hình thành và phát triển của thành phố Tuy nhiên, theo thời gian, nhiều di tích đã bị hư hại và xuống cấp Do đó, việc tu bổ và tôn tạo các di tích này là vấn đề cấp thiết để bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa vốn có của Hà Nội.

Khi sáp nhập địa giới hành chính vào năm 2008, Hà Nội đã tiếp nhận thêm 5.000 di tích, trong đó gần 2.000 di tích từ Hà Nội cũ và trên 3.000 di tích từ Hà Tây cũ, cùng với gần 200 di tích từ huyện Mê Linh và 04 xã thuộc Lương Sơn, Hòa Bình Hệ thống di tích tại Thủ đô bao gồm các loại hình di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật, khảo cổ học và danh lam thắng cảnh, phân bố trên 30 quận, huyện, thị xã với số lượng và mật độ khác nhau Các huyện như Ba Vì, Phú Xuyên, Chương Mỹ, Hoài Đức, Thường Tín và Sóc Sơn có nhiều di tích, trong khi Cầu Giấy, Thanh Xuân và Tây Hồ có ít di tích hơn Mật độ di tích cao nhất tập trung tại Hoàn Kiếm, Đống Đa, Hai Bà Trưng và Hà Đông Tuy nhiên, do điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội khác nhau ở từng vùng, hệ thống di tích cũng có những đặc điểm riêng, dẫn đến tình trạng xuống cấp, vi phạm và công tác quản lý di tích khác nhau.

Hà Nội sở hữu 2.361 di tích lịch sử và văn hóa, được phân loại thành nhiều cấp độ như di sản thiên nhiên thế giới, di tích quốc gia đặc biệt, di tích quốc gia và di tích cấp tỉnh Tính đến cuối năm 2014, thành phố có 9 di tích xếp hạng quốc gia đặc biệt, 1.196 di tích cấp quốc gia và 1.156 di tích cấp thành phố Trong đó, thành phố quản lý 10 di tích tiêu biểu, cấp huyện quản lý các di tích đã xếp hạng, và cấp xã quản lý các di tích chưa xếp hạng.

Trong thời gian qua, thành phố đã đạt được khoảng 70 di tích/năm, trong đó có 8 di tích được lập hồ sơ xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt Công tác kiểm kê di tích đã hoàn tất việc thu thập số liệu tại các quận, huyện, thị xã Đồng thời, 55 bia, biển đã được gắn, dựng cho các địa điểm lưu niệm sự kiện lịch sử cách mạng kháng chiến trong 2 năm qua Thành phố cũng đã tu bổ hàng chục di tích và xây dựng nhiều văn bản liên quan đến quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di tích Ngoài ra, nhiều đề án và kế hoạch bảo tồn di tích đã được triển khai theo các chương trình, nghị quyết của Thành ủy, HĐND, UBND Thành phố, cùng với các hoạt động giải quyết kiến nghị và tuyên truyền giá trị di tích.

Tình trạng xuống cấp của các di tích hiện nay rất nghiêm trọng, với nhiều hạng mục và kết cấu bị mối mọt xâm hại, đe dọa sự bền vững của chúng Quá trình đô thị hóa nhanh chóng và không được kiểm soát đã dẫn đến sự biến dạng của môi trường cảnh quan, làm mai một các giá trị thẩm mỹ của di tích.

Hiện nay, việc bảo quản và sửa chữa các di tích kiến trúc tín ngưỡng, tôn giáo truyền thống vẫn chưa được chú trọng đúng mức Do ảnh hưởng của khí hậu khắc nghiệt, nhiều di tích làm bằng gỗ nhanh chóng xuống cấp chỉ sau vài năm tu bổ Sự liên kết chặt chẽ giữa các cấu kiện gỗ khiến một hư hỏng nhỏ không được khắc phục kịp thời có thể dẫn đến hư hỏng lớn hơn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến toàn bộ công trình.

Với nhiều di tích xuống cấp nghiêm trọng, nguồn lực đầu tư chủ yếu từ ngân sách huyện, xã còn hạn chế và phụ thuộc vào sự đóng góp tự nguyện của người dân, dẫn đến việc thiếu kinh phí cho việc tu bổ, tôn tạo Nhiều di tích chỉ được sửa chữa cấp thiết nhằm ngăn chặn tình trạng đổ sập và hủy hoại, nhưng vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu bảo tồn hiện nay.

Trong kỷ nguyên công nghiệp hoá và toàn cầu hoá, đời sống của nhân dân lao động sẽ không ngừng được cải thiện, dẫn đến nhu cầu về vật chất và tinh thần gia tăng Nhu cầu tín ngưỡng và tâm linh trở nên cấp thiết, giúp cân bằng tâm lý và tình cảm trong xã hội hiện đại Sự cộng cảm và kết nối giữa các cộng đồng được thể hiện qua giao lưu văn hoá, với lòng vị tha và bao dung Lễ hội cổ truyền sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra không gian cho hoạt động sáng tạo và hưởng thụ văn hoá, trở thành cầu nối giữa quá khứ, hiện tại và tương lai Do đó, các hoạt động văn hoá lễ hội cổ truyền sẽ trở nên sôi nổi hơn, đáp ứng nhu cầu đời sống văn hoá tâm linh ngày càng phong phú của nhân dân.

Trong tương lai, nhiều thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại sẽ được tích hợp vào sinh hoạt văn hóa của lễ hội cổ truyền Các sản phẩm văn hóa sẽ được chế tạo theo mẫu mã cổ truyền, nhờ vào trang thiết bị và công nghệ tiên tiến, từ đó thay thế dần sức lao động của con người Đồng thời, các đồ dùng vật chất trong hoạt động văn hóa lễ hội cũng sẽ được cải tiến để phù hợp hơn với xu hướng hiện đại.

Nơi thờ tự mới, các điện đài, tháp tượng và phù điêu sẽ được cải tiến với vật liệu hiện đại trong việc trùng tu và nâng cấp các di tích lịch sử-văn hóa cổ truyền Điều này đảm bảo rằng các cụm di tích vẫn giữ được phong cách truyền thống, tạo ra không gian văn hóa lý tưởng cho các hoạt động lễ hội dân gian Ví dụ, khu di tích lịch sử quốc gia đền Hùng ngày càng trở thành trung tâm của lễ hội giỗ tổ Hùng Vương, lễ hội lớn nhất cả nước, khẳng định vị thế là ngày hội non sông truyền thống tầm cỡ quốc gia.

Du lịch văn hoá tâm linh trong các lễ hội cổ truyền đang trở thành một phần quan trọng trong ngành kinh tế du lịch, với khả năng thu hút đông đảo du khách tham gia Số lượng người tham gia các tụ điểm du lịch văn hoá- lễ hội cổ truyền tại châu thổ Bắc Bộ ngày càng tăng, đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng của nhân dân Các lễ hội nổi bật như lễ hội đền Hùng, lễ hội chùa Hương, lễ hội đền Chử Đồng Tử, lễ hội Tây Thiên và lễ hội Phủ Dầy đang góp phần làm phong phú thêm trải nghiệm du lịch văn hoá tâm linh.

Lễ hội cổ truyền là một phần quan trọng trong văn hóa dân tộc Việt Nam, giúp gìn giữ và phát huy bản sắc dân tộc, đồng thời đáp ứng yêu cầu của thời đại Việc tổ chức các lễ hội này không chỉ góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến mà còn làm nổi bật bản sắc dân tộc trong tương lai.

Thứ nhất: Đơn điệu hoá lễ hội cổ truyền

Văn hóa và lễ hội Việt Nam mang tính đa dạng và phong phú, với mỗi vùng miền và làng xã có những đặc trưng riêng, thể hiện qua câu nói “Chiêng làng nào làng ấy đánh, thánh làng nào làng ấy thờ” Mỗi lễ hội không chỉ có cốt cách mà còn sắc thái riêng biệt Tuy nhiên, hiện nay, lễ hội cổ truyền đang đối mặt với nguy cơ bị “bắt chước” theo một kịch bản chung, làm giảm đi sự độc đáo và giá trị văn hóa vốn có.

Lễ hội làng đang trở nên đơn điệu và thiếu sức hút do sự lặp lại các mẫu truyền thống, khiến người tham dự cảm thấy nhàm chán Để khắc phục tình trạng này, cần nghiên cứu và phát huy những nét văn hóa độc đáo của từng địa phương và làng xã trong quá trình phục hồi lễ hội cổ truyền.

Thứ hai: Xu hướng trần tục hoá lễ hội

Lễ hội gắn liền với tín ngưỡng dân gian, thể hiện đời sống tâm linh và tính Thiêng, điều này tuy vĩnh hằng nhưng được biểu hiện khác nhau trong mỗi xã hội Lễ hội cổ truyền phát triển từ đời sống thực tế, nhưng là sự “thăng hoa” từ những trải nghiệm trần tục Ngôn ngữ của lễ hội mang tính biểu tượng, nhưng việc phục hồi và phát huy lễ hội hiện nay gặp khó khăn do thiếu hiểu biết về ý nghĩa thiêng liêng, dẫn đến xu hướng “trần tục hoá” Hệ quả là lễ hội mất đi tính Thiêng, sự thăng hoa và ngôn ngữ biểu tượng, làm giảm giá trị văn hóa của lễ hội cổ truyền.

Thứ ba: Xu hướng áp đặt, khuôn mẫu lễ hội

Phương hướng chung về bảo tồn và phát huy giá trị của lễ hội cổ truyền trên địa bàn thành phố Hà Nội

cổ truyền trên địa bàn thành phố Hà Nội

Công cuộc đổi mới là bước ngoặt quan trọng trong sự phát triển đất nước, bắt đầu từ lĩnh vực kinh tế Đảng và Nhà nước đã chuyển từ nền kinh tế quan liêu, bao cấp sang phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa với sự tham gia của nhiều thành phần Để đạt được những thay đổi cách mạng trong đời sống chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, định hướng, luật và chính sách có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của lễ hội.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 của Ban chấp hành Trung ương Đảng (Khoá VIII) là văn bản quan trọng nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam, ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển văn hóa hiện nay Nghị quyết này được xem như chiến lược văn hóa của Đảng trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, góp phần định hình hướng đi cho văn hóa Việt Nam trong bối cảnh mới.

Theo Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5, nhiều giải pháp đã được đề ra nhằm xây dựng và phát triển văn hóa, nâng cao đời sống tinh thần cho người dân Chỉ thị số 27-CT/TW ngày 12-1-1998 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Chỉ thị số 14/1998/CT-TTg ngày 28-3-1998 của Thủ tướng Chính phủ đã nhấn mạnh việc thực hiện nếp sống văn minh trong các hoạt động cưới, tang và lễ hội Những chỉ thị này đã dẫn đến sự ra đời của Thông tư số 04/1998/TTg-BVHTT ngày 11-7-1998, khẳng định cam kết của chính quyền trong việc thúc đẩy văn hóa và nếp sống văn minh trong cộng đồng.

Bộ Văn hoá - Thông tin đã hướng dẫn thực hiện nếp sống văn minh trong các hoạt động cưới, tang lễ và lễ hội Hệ thống pháp luật liên quan đến văn hoá đang được hoàn thiện, bao gồm các văn bản như Luật Di sản văn hoá và Quy chế tổ chức lễ hội Chính phủ cũng đã đầu tư qua Chương trình Quốc gia về văn hoá nhằm nghiên cứu, sưu tầm và phục hồi các giá trị văn hoá phi vật thể, thu hút sự quan tâm của cộng đồng đối với các hoạt động văn hoá này Để bảo tồn và phát huy lễ hội cổ truyền trong tương lai, Đảng và Nhà nước đã chú trọng đến một số vấn đề quan trọng.

Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện và phổ biến hệ thống văn bản pháp quy về

Di tích và lễ hội đóng vai trò quan trọng trong việc bảo tồn văn hóa và lịch sử, vì vậy cần thể chế hoá và phổ biến các văn bản pháp quy liên quan Các cấp chính quyền và cơ quan quản lý địa phương có trách nhiệm tuyên truyền, giáo dục cộng đồng về giá trị của di tích lịch sử-văn hóa, nhằm tạo sự đồng cảm và ý thức bảo vệ Đồng thời, ngành Văn hoá, Thể thao và Du lịch cần nâng cao nhận thức cho du khách, khuyến khích họ tham gia bảo vệ và gìn giữ các giá trị văn hóa của di tích và lễ hội cổ truyền.

Quản lý và tổ chức lễ hội cần được thực hiện một cách khoa học để phát triển du lịch lễ hội hiệu quả Chính sách đầu tư cho nghiên cứu khoa học về lễ hội là rất quan trọng, nhằm định hướng các hoạt động văn hóa nghệ thuật phù hợp Việc này giúp phát hiện và bảo tồn các giá trị đích thực của từng lễ hội, đồng thời cần phân định rõ trách nhiệm trong công tác tổ chức.

Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch cùng các cơ quan nghiên cứu văn hoá và địa phương cần phối hợp chặt chẽ trong việc nghiên cứu và đánh giá các lễ hội, xác định giá trị tích cực cần phát huy và những yếu tố tiêu cực cần hạn chế Việc phân biệt giữa tín ngưỡng dân gian và mê tín dị đoan là rất quan trọng, đồng thời cần nhận diện các giá trị vốn có và những yếu tố lai tạp trong lễ hội Lễ hội cổ truyền cần được đặt trong bối cảnh xã hội hiện đại để đánh giá xem nó đáp ứng nhu cầu gì cho cộng đồng ngày nay và tương lai Từ đó, cần xây dựng chính sách quản lý và khai thác lễ hội hợp lý, dựa trên các nghiên cứu khoa học để phục hồi và quản lý lễ hội một cách khoa học, bảo tồn sắc thái riêng của từng lễ hội cổ truyền.

Việc xây dựng mô hình lễ hội cần được nhận thức đúng đắn, không nên áp đặt một khuôn mẫu cố định hay can thiệp thô bạo vào các lễ hội truyền thống Thay vào đó, mô hình lễ hội nên mở ra cơ hội cho những sáng tạo cá nhân, miễn là những sáng tạo này phản ánh bản sắc văn hóa cộng đồng và được cộng đồng chấp nhận Những yếu tố mới này sẽ tự nhiên gia nhập vào mô hình, góp phần làm cho nó trở nên hoàn thiện hơn Sự can thiệp không phù hợp có thể làm mất đi vẻ đẹp và bản sắc riêng của mỗi lễ hội cổ truyền.

Cơ quan văn hóa địa phương có trách nhiệm lựa chọn người tổ chức lễ hội, vì vậy cần đề ra các tiêu chuẩn cụ thể Người đứng ra tổ chức không chỉ cần có đạo đức và uy tín, mà còn phải có năng lực tổ chức và hiểu biết sâu sắc về lịch sử, nguồn gốc, nội dung, cũng như các lễ thức của lễ hội truyền thống tại địa phương Điều này giúp tránh tình trạng vay mượn lễ thức giữa các lễ hội một cách tùy tiện.

Bảo tồn lễ hội cần thực hiện theo hai hướng: đầu tiên là lưu giữ các hiện tượng lễ hội ngoài môi trường gốc của chúng thông qua điều tra, sưu tầm, và lưu trữ tài liệu, hình ảnh để phục hồi những hình thức đã mai một; thứ hai là đưa lễ hội trở lại môi trường sống của cộng đồng, nơi nó được hình thành, để tiếp tục phát triển và thích ứng với điều kiện xã hội hiện tại Để thực hiện hiệu quả hai hướng bảo tồn này, cần tăng cường quản lý tổ chức lễ hội và triển khai các chương trình quốc gia về bảo tồn và phát huy di sản văn hóa lễ hội truyền thống, đồng thời nâng cao nhận thức về giá trị văn hóa lễ hội trong cộng đồng, khơi dậy lòng tự hào và ý thức bảo vệ, gìn giữ di sản văn hóa của mỗi người dân.

Ngành Văn hoá, Thể thao và Du lịch cần tăng cường công tác bảo tồn lễ hội cổ truyền, vì tài liệu hiện có chỉ phản ánh một phần nhỏ Nhiều tư liệu quý giá vẫn còn lưu giữ trong đời sống của các dân tộc và đang có nguy cơ bị mai một, do đó cần được đầu tư và bảo vệ kịp thời.

Chính sách thúc đẩy xã hội hóa trong bảo tồn và khai thác lễ hội cần được chú trọng, nhằm phát huy vai trò của nhân dân trong việc đầu tư tu bổ và tôn tạo di tích lịch sử-văn hóa Cần tổ chức các hoạt động lễ hội cổ truyền một cách hiệu quả, đồng thời khôi phục và phát huy các lễ hội của các dân tộc thiểu số để bảo tồn bản sắc văn hóa.

Trong các lễ hội truyền thống, cần nâng cao chất lượng phần lễ và phần hội, đồng thời tránh sao chép các mô hình không phù hợp để không gây đơn điệu, nhàm chán Cần ngăn chặn các hiện tượng tiêu cực như cờ bạc, bói toán và các hành vi phi pháp khác Ngoài ra, công tác vệ sinh và bảo vệ môi trường tại các lễ hội cũng cần được chú trọng hơn.

Chính sách đầu tư tài chính cho ngành Văn hoá, Thể thao và du lịch đang đối mặt với nhiều thách thức, đặc biệt trong việc tổ chức các lễ hội Trước đây, lễ hội chủ yếu phụ thuộc vào đóng góp của người dân địa phương, dẫn đến sự biến động về quy mô tổ chức tùy thuộc vào mùa vụ Hiện nay, kinh phí tổ chức lễ hội chủ yếu đến từ nguồn ngân sách nhà nước và đóng góp của cộng đồng, nhưng vẫn còn hạn chế Để duy trì và tổ chức thường xuyên các lễ hội cổ truyền, cần có sự đầu tư từ ngành “kinh tế du lịch lễ hội” Việc khai thác và sử dụng tài chính từ lễ hội và di tích liên quan cần được định hướng rõ ràng, bởi thực tế cho thấy nhiều khoản thu chưa được tái sử dụng hiệu quả cho việc bảo tồn di tích và tổ chức lễ hội.

Cần sớm ban hành thông tư liên bộ giữa Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch và Bộ Tài chính để quy định cụ thể việc quản lý và sử dụng nguồn kinh phí từ lễ hội Điều này sẽ giúp điều hoà ngân sách tài chính từ du lịch cho việc tu bổ di tích và tổ chức lễ hội cổ truyền, đặc biệt là ở cấp cơ sở.

Một số giải pháp và kiến nghị bảo tồn và phát huy giá trị của lễ hội cổ truyền trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay

Trước thực trạng lễ hội cổ truyền tại thành phố Hà Nội, cần thiết phải đề xuất một số giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy giá trị của những lễ hội này Việc nâng cao nhận thức cộng đồng về tầm quan trọng của lễ hội, tổ chức các hoạt động giáo dục văn hóa, và khuyến khích sự tham gia của người dân là những yếu tố quan trọng Đồng thời, cần có sự hỗ trợ từ chính quyền địa phương trong việc duy trì và phát triển các lễ hội, bảo đảm tính bền vững và sự đa dạng văn hóa cho các thế hệ sau.

2.5.1.1 Tăng cường các hoạt động tuyên truyền, giáo dục để nhân dân hiểu rõ những giá trị văn hoá, lịch sử của lễ hội

Để nâng cao nhận thức của người dân về giá trị văn hóa và lịch sử của lễ hội, cần chú trọng công tác tuyên truyền, khuyến khích họ trân trọng và phát huy các giá trị này trong đời sống cộng đồng Chính quyền địa phương và ban quản lý di tích nên sưu tầm và biên soạn tư liệu giới thiệu về công trạng của vị thần thờ, đồng thời giảng giải cho cộng đồng và khách tham dự về nguồn gốc lễ hội và các nghi thức thờ cúng cần tuân thủ Việc khôi phục các trò chơi và trò diễn có giá trị văn hóa trong lễ hội cũng rất quan trọng Người dân cần hiểu rõ ý nghĩa và giá trị của lễ hội, cũng như các phong tục tập quán truyền thống, từ đó có ý thức gìn giữ và phát huy văn hóa, tránh tình trạng vi phạm di tích do thiếu hiểu biết, dẫn đến làm biến dạng những tập tục quý giá.

Để nâng cao nhận thức cộng đồng về việc phòng ngừa mê tín dị đoan và các tệ nạn xã hội trong lễ hội, cần tập trung vào tuyên truyền giáo dục Nếu người dân ý thức hơn trong việc đốt vàng mã và xem bói toán như những điều vô nghĩa, việc ngăn chặn các tệ nạn này sẽ dễ dàng hơn Đồng thời, cần thường xuyên nêu gương những cá nhân và tổ chức tích cực trong việc quản lý lễ hội, đồng thời đăng tải thông tin trên các phương tiện truyền thông đại chúng để nâng cao ý thức về quyền lợi và nghĩa vụ của người dân khi tham gia lễ hội.

Công tác tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức của nhân dân về giá trị văn hóa và lịch sử của lễ hội là biện pháp quan trọng nhất trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị lễ hội trong đời sống hiện nay.

2.5.1.2 Tăng cường công quản lý Nhà nước đối với lễ hội

Để tăng cường quản lý lễ hội cổ truyền, cần hoàn thiện hệ thống pháp luật và chính sách nhằm thiết lập các chế tài phù hợp để xử lý vi phạm và tôn vinh giá trị lễ hội Các cơ quan chức năng cần nâng cao năng lực chuyên môn, nắm rõ chủ trương của Đảng và Nhà nước về tự do tín ngưỡng, từ đó định hướng cho nhân dân trong việc tổ chức lễ hội, đặc biệt là những lễ hội dân gian đang phát triển mạnh mẽ theo xu hướng mới.

Chính quyền địa phương và người dân cần tuân thủ nghiêm túc các chính sách của Đảng và Nhà nước về văn hóa, tôn giáo và tín ngưỡng Hiện nay, đã có nhiều văn bản pháp lý quy định về quản lý lễ hội, bao gồm cả Luật.

Di sản văn hóa được công nhận theo Lệnh 09/2001/LCTN ngày 12/7/2001 và Nghị định số 92/2002/NĐ-CP ngày 11/11/2002 của Chính phủ, quy định chi tiết thi hành Luật Di sản văn hóa Ngoài ra, Quyết định số 05/2003/QĐ-BVHTT của Bộ Văn hóa Thông tin đã ban hành Quy chế bảo quản, tu bổ và phục hồi di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh Quy chế tổ chức lễ hội cũng được quy định theo Quyết định số 39/2001/QĐ-BVHTT ngày 23/8/2001 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thông tin, cùng với Nghị định số 56/2006/NĐ-CP.

Nghị định CP ngày 06/06/2006 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa và thông tin đã nêu rõ các mức phạt liên quan đến lễ hội Những quy định này có tính pháp lý nhằm điều chỉnh hành vi của tổ chức và cá nhân trong việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa, đặc biệt là các lễ hội truyền thống.

Việc hoàn thiện thể chế và chính sách, cùng với công tác kiểm tra, giám sát, sẽ giúp ngành văn hóa - thông tin nắm bắt kịp thời những diễn biến thực tiễn Lễ hội cổ truyền, mặc dù là sản phẩm của quá khứ, nhưng lại hoạt động trong bối cảnh xã hội hiện tại và được lựa chọn bởi con người đương thời, do đó luôn có sự thay đổi Do đó, giám sát các hoạt động liên quan đến văn bản là rất cần thiết để bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của lễ hội.

2.5.1.3 Xây dựng chương trình bảo tồn, khai thác và phát huy các giá trị của lễ hội cổ truyền

Nhiều lễ hội đang được khôi phục sau thời gian dài gián đoạn, nhưng nhiều hoạt động văn hóa đặc trưng của từng địa phương vẫn chưa được phục hồi Những người cao tuổi và nghệ nhân dân gian trong cộng đồng là nền tảng cho việc phục hồi các hoạt động này Tuy nhiên, số lượng những người nắm giữ di sản văn hóa đang giảm dần theo thời gian Do đó, các cơ quan chức năng và chính quyền địa phương cần sớm tạo điều kiện cho các nghệ nhân và người cao tuổi truyền đạt tri thức của họ cho thế hệ sau và cộng đồng.

Trong những năm gần đây, Nhà nước đã đầu tư kinh phí cho việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa phi vật thể, bao gồm lễ hội, nhưng sự đầu tư này chưa tương xứng với việc bảo tồn các giá trị văn hóa vật thể Hiện tại, chương trình bảo tồn chủ yếu tập trung vào việc thu thập tư liệu, quay phim và chụp ảnh lễ hội để lưu giữ, nhưng chưa có kế hoạch cụ thể để phát huy các giá trị của lễ hội một cách hiệu quả.

Lễ hội cổ truyền là sự kết hợp của nhiều tầng văn hóa từ nguyên thủy đến hiện đại, và đang trải qua sự biến đổi mạnh mẽ trong bối cảnh phát triển và hội nhập kinh tế toàn cầu Nếu không khẩn trương quy hoạch và bảo tồn những yếu tố truyền thống đang thay đổi, chúng ta có thể đối mặt với nguy cơ mất mát những giá trị văn hóa quý báu của lễ hội.

2.5.1.4 Đầu tư hỗ trợ kinh phí để tổ chức lễ hội có nhiều giá trị

Để tổ chức các lễ hội văn hóa đặc sắc thu hút du khách và mang lại lợi ích cho địa phương, cần có chính sách hỗ trợ kinh phí từ ngân sách Nhà nước Việc đầu tư tài chính cho lễ hội không chỉ tôn vinh truyền thống dân tộc và các anh hùng lịch sử, mà còn thu hút sự quan tâm của cộng đồng Điều này giúp tạo ra nhu cầu tích cực từ người dân theo định hướng của Nhà nước, đồng thời hạn chế những nhu cầu tiêu cực ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội và văn hóa.

2.5.1.5 Phát triển mô hình du lịch văn hoá lễ hội cổ truyền

Các giá trị lễ hội cần được tôn vinh và phát huy như một “tài sản văn hoá đặc trưng” nhằm thu hút sự quan tâm của du khách trong và ngoài Thành phố Hà Nội Trong những năm qua, UBND Thành phố đã chú trọng quy hoạch bảo tồn và phát huy giá trị các di tích lịch sử văn hoá, như Chùa Hương và Ô Quan Chưởng Tuy nhiên, các dự án hiện tại chủ yếu tập trung vào bảo tồn di tích vật thể mà chưa chú trọng đến việc phục hồi các sinh hoạt văn hoá lễ hội, một phần quan trọng của di tích Để khai thác lễ hội như một nguồn tài nguyên du lịch, mỗi lễ hội cần có sự hấp dẫn đặc trưng với nội dung phong phú, đồng thời cần tổ chức các lễ hội lớn để đáp ứng nhu cầu tham quan và nghiên cứu Việc này không chỉ bảo tồn lễ hội mà còn giáo dục tinh thần dân tộc cho thế hệ trẻ.

2.5.1.6 Tăng cường công tác đào tạo cán bộ quản lý văn hoá các cấp, nhất là ở cơ sở

Cán bộ văn hóa ở các cấp, đặc biệt là tại cơ sở, đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý tổ chức lễ hội Họ có mối quan hệ gần gũi với cộng đồng, giúp phát hiện và điều chỉnh kịp thời những sai lệch trong lễ hội Tuy nhiên, thực tế cho thấy số lượng cán bộ được đào tạo và có kiến thức chuyên sâu về lĩnh vực này còn hạn chế.

Ngày đăng: 11/11/2021, 18:51

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương (2004), Tài liệu kết luận Hội nghị lần thứ Mười Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tài liệu kết luận Hội nghị lần thứ Mười Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX
Tác giả: Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương
Nhà XB: Nxb Chính trị Quốc gia
Năm: 2004
2. Trần Lâm Biền (2001), Trang trí mỹ thuật truyền thống của người Việt, Nxb Văn hoá Dân tộc, Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật Sách, tạp chí
Tiêu đề: Trang trí mỹ thuật truyền thống của người Việt
Tác giả: Trần Lâm Biền
Nhà XB: Nxb Văn hoá Dân tộc
Năm: 2001
3. Đoàn Văn Chúc (1997), Văn hoá học, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn hoá học
Tác giả: Đoàn Văn Chúc
Nhà XB: Nxb Văn hoá Thông tin
Năm: 1997
5. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2000), Giáo trình Lý luận văn hoá và Đường lối văn hoá của Đảng, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Lý luận văn hoá và Đường lối văn hoá của Đảng
Tác giả: Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
Nhà XB: Nxb Chính trị Quốc gia
Năm: 2000
6. Hội đồng Quốc gia Chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam (1995), Từ điển bách khoa Việt Nam, tập 1, Trung tâm Biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam xuất bản, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ điển bách khoa Việt Nam, tập 1
Tác giả: Hội đồng Quốc gia Chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam
Năm: 1995
7. Đinh Gia Khánh (1985), Ý nghĩa xã hội và văn hoá của hội lễ dân gian, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ý nghĩa xã hội và văn hoá của hội lễ dân gian
Tác giả: Đinh Gia Khánh
Nhà XB: Nxb Khoa học xã hội
Năm: 1985
8. Đinh Gia Khánh (1989), Trên đường tìm hiểu văn hoá dân gian Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Trên đường tìm hiểu văn hoá dân gian Việt Nam
Tác giả: Đinh Gia Khánh
Nhà XB: Nxb Khoa học xã hội
Năm: 1989
9. Đinh Gia Khánh (1989), Văn hoá dân gian - Những lĩnh vực nghiên cứu, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn hoá dân gian - Những lĩnh vực nghiên cứu
Tác giả: Đinh Gia Khánh
Nhà XB: Nxb Khoa học xã hội
Năm: 1989
10. Đinh Gia Khánh, Lê Hữu Tầng (chủ biên) (1993), Lễ hội truyền thống trong đời sống xã hội hiện đại, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lễ hội truyền thống trong đời sống xã hội hiện đại
Tác giả: Đinh Gia Khánh, Lê Hữu Tầng (chủ biên)
Nhà XB: Nxb Khoa học Xã hội
Năm: 1993
11. Đinh Gia Khánh (1995), Văn hóa dân gian Việt Nam với sự phát triển của xã hội Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn hóa dân gian Việt Nam với sự phát triển của xã hội Việt Nam
Tác giả: Đinh Gia Khánh
Nhà XB: Nxb Chính trị Quốc gia
Năm: 1995
12. Vũ Ngọc Khánh (1993), “Lễ hội cổ truyền trong quá trình thích nghi với đời sống xã hội hiện đại và tương lai”, Lễ hội truyền thống trong đời sống xã hội hiện đại, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lễ hội cổ truyền trong quá trình thích nghi với đời sống xã hội hiện đại và tương lai”, "Lễ hội truyền thống trong đời sống xã hội hiện đại
Tác giả: Vũ Ngọc Khánh
Nhà XB: Nxb Khoa học xã hội
Năm: 1993
13. Nguyễn Quang Lê (1992), “Một số suy nghĩ về nguồn gốc và bản chất của lễ hội cổ truyền dân tộc”, Tạp chí Văn hoá dân gian, (1), tr.5-9 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số suy nghĩ về nguồn gốc và bản chất của lễ hội cổ truyền dân tộc”, Tạp chí "Văn hoá dân gian
Tác giả: Nguyễn Quang Lê
Năm: 1992
15. Thu Linh (1982), “Hội - Một hình thức sinh hoạt văn hoá truyền thống”, Tạp chí Nghiên cứu Nghệ thuật, (2), Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hội - Một hình thức sinh hoạt văn hoá truyền thống”, Tạp chí "Nghiên cứu Nghệ thuật
Tác giả: Thu Linh
Năm: 1982
16. Nguyễn Thu Linh, Phan Văn Tú (chủ nhiệm đề tài) (2004), Quản lý lễ hội cổ truyền: thực trạng và giải pháp, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quản lý lễ hội cổ truyền: thực trạng và giải pháp
Tác giả: Nguyễn Thu Linh, Phan Văn Tú (chủ nhiệm đề tài)
Năm: 2004
17. Luật Di sản Văn hoá và văn bản hướng dẫn thi hành (2003), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Luật Di sản Văn hoá và văn bản hướng dẫn thi hành
Tác giả: Luật Di sản Văn hoá và văn bản hướng dẫn thi hành
Nhà XB: Nxb Chính trị Quốc gia
Năm: 2003
18. Lê Hồng Lý (1992), Lễ hội ở đồng bằng Bắc Bộ về những nhân vật lịch sử, trong “Lễ hội truyền thống trong xã hội hiện đại”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lễ hội ở đồng bằng Bắc Bộ về những nhân vật lịch sử, trong “Lễ hội truyền thống trong xã hội hiện đại”
Tác giả: Lê Hồng Lý
Nhà XB: Nxb Khoa học xã hội
Năm: 1992
19. Nguyễn Văn Mạnh (2002), “Giá trị của lễ hội truyền thống trong xã hội hiện đại”, Tạp chí Văn hóa Dân gian, (2), tr.3 - 6 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giá trị của lễ hội truyền thống trong xã hội hiện đại”, Tạp chí "Văn hóa Dân gian
Tác giả: Nguyễn Văn Mạnh
Năm: 2002
20. Trần Bình Minh (2000), Những tương đồng giữa các lễ hội cổ truyền Đông Nam Á, Viện Nghiên cứu Văn hoá và Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những tương đồng giữa các lễ hội cổ truyền Đông Nam Á
Tác giả: Trần Bình Minh
Nhà XB: Nxb Văn hoá Thông tin
Năm: 2000
21. Phạm Quang Nghị (2002), “Lễ hội và ứng xử của người làm công tác quản lý lễ hội hiện nay”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, (11), tr.3 - 7 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lễ hội và ứng xử của người làm công tác quản lý lễ hội hiện nay”, Tạp chí "Văn hóa Nghệ thuật
Tác giả: Phạm Quang Nghị
Năm: 2002
22. Phạm Quang Nghị (2005), Bảo tồn phát huy di sản văn hoá phi vật thể ở Việt Nam, Viện Văn hoá - Thông tin, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bảo tồn phát huy di sản văn hoá phi vật thể ở Việt Nam
Tác giả: Phạm Quang Nghị
Năm: 2005

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w