Cơ cấu mẫu về giới tính (%)
Biểu 1.3: Cơ cấu mẫu về khả năng tiếp nhận báo chí 1 (%)
Biểu 1.4: Cơ cấu mẫu về khả năng tiếp nhận báo chí 2 (%)
Biểu 1.5: Cơ cấu mẫu về độ tuổi (%)
Biểu 1.6: Cơ cấu mẫu về tình trạng hôn nhân (%)
Biểu 1.7: Cơ cấu mẫu về tôn giáo (%)
Biểu 1.8: Cơ cấu mẫu về trình độ học vấn (%)
Biểu 1.9: Cơ cấu mẫu về nghề nghiệp (%) Độc thân Sống với người cùng thế hệ Hai thế hệ Ba thế hệ trở lên
Bảng 1.3: Quy mô và thành phần gia đình hiện tại (%)
Biểu 1.10: Vị trí chức vụ công tác (hiện tại hoặc trước khi nghỉ hưu) (%)
Biểu 1.11: Phương tiện di chuyển khi đi làm (%)
Biểu 1.12 : Mức tiền điện trung bình hàng tháng (k = 1000 đồng) (%)
Qua các bảng, biểu trên, một số đặc điểm nổi bật về cơ cấu mẫu công chúng khảo sát như sau:
- Tỉ lệ giới tính tương đương với nữ 49,5%, nam 50,5%
- Khả năng tiếp nhận báo chí (đọc/nghe/nhìn) của công chúng cơ bản là tốt
- Độ tuổi từ 13-24 chiếm tỉ lệ lớn nhất, 46,3% Đây là thế hệ công chúng quyết định xu thế báo chí trong tương lai
- Do vậy, tương ứng với cơ cấu nghề nghiệp chủ yếu là học sinh – sinh viên và công nhân viên chức Nhà nước
- Trình độ đại học và cấp 3 chiếm tỉ lệ chủ yếu, cho thấy trình độ dân trí tương đối cao
- Tình trạng hôn nhân có tỉ lệ độc thân chiếm cao hơn: chưa từng kết hôn 50,7%, góa/ly thân/ly hôn 2,2%
- Quy mô và thành phần gia đình hiện tại cho thấy mô hình gia đình nhỏ, gia đình hạt nhân chiếm đa số Gia đình 3 thế hệ chỉ chiếm 20,1%
Vị trí và chức vụ công tác trong mẫu nghiên cứu thể hiện sự đa dạng của các thành phần xã hội, với gần 1% mẫu đến từ cấp Vụ/Cục trở lên.
- Phương tiện di chuyển chủ yếu là xe máy, chiếm 56,5% Phương tiện giao thông công cộng được sử dụng ít, chỉ 6,8%
Mức tiêu thụ điện cao nhất thường không vượt quá 100.000đ, chủ yếu do cơ cấu mẫu có tỷ lệ lớn là học sinh - sinh viên, những người thuê nhà và tiêu thụ điện ở mức thấp Ngoài ra, tại một số vùng nông thôn, mức tiêu thụ điện cũng rất hạn chế do điều kiện kinh tế của người dân Điều này phản ánh rõ nét mức sống của cộng đồng.
Chương 1 đã tổng hợp các khái niệm và quan điểm của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước về sản phẩm báo chí, công chúng báo chí, cũng như xu hướng tiếp nhận của công chúng Từ đó, tác giả đã trình bày quan điểm riêng và những ý tưởng mới mẻ của mình về vấn đề này.
Có thể khái quát một cách cơ bản các lý thuyết tiếp cận vấn đề nghiên cứu như sau:
Lý thuyết truyền thông nhấn mạnh rằng người nhận đóng vai trò quan trọng trong chu trình truyền thông, không chỉ là một mắt xích mà còn là một thành phần tích cực, chủ động trong quá trình này.
67 người tham gia vào quá trình truyền thông nhằm xây dựng ý nghĩa cho các thông điệp và đối thoại Họ cùng nhau tìm kiếm chân lý để tăng tốc quá trình truyền thông và tạo ra hiệu quả mới cho các kênh truyền thông.
Lý thuyết xã hội học báo chí và truyền thông nhấn mạnh tầm quan trọng của nghiên cứu công chúng báo chí như một hướng nghiên cứu chính Với sự phát triển đa dạng của các phương tiện truyền thông hiện nay, lý thuyết này thể hiện tính chất mở cửa và khả năng dự báo, thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu và phát triển trong lĩnh vực này.
Lý thuyết tâm lý học báo chí - truyền thông nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nghiên cứu tâm lý người tiếp nhận thông tin Qua việc khảo sát các hình thức và quá trình tiếp nhận thông tin báo chí, chúng ta có thể hiểu rõ hơn về nhu cầu, điều kiện, khả năng và phương thức mà công chúng sử dụng để tiếp nhận thông tin.
Lý thuyết sử dụng và hài lòng, mặc dù có những hạn chế trong việc không chú trọng đầy đủ đến các yếu tố xã hội, vẫn có thể được áp dụng như một phương pháp hữu ích để mô tả thái độ và hành vi của công chúng đối với các phương tiện truyền thông đại chúng, đặc biệt là trong mối quan hệ giữa công chúng chủ động và báo chí.
Cơ cấu mẫu công chúng khảo sát cho thấy hai đặc điểm nổi bật: khả năng tiếp nhận báo chí của công chúng rất tốt và độ tuổi thanh – thiếu niên chiếm tỷ lệ lớn, chủ yếu là học sinh – sinh viên và công nhân viên chức Nhà nước với trình độ học vấn tương đối cao Những đối tượng này có khả năng cung cấp thông tin về tiếp nhận báo chí đầy đủ và sẽ quyết định xu thế báo chí trong tương lai.
Dựa trên cơ sở lý thuyết và thực tiễn, tác giả luận án sẽ tiến hành khảo sát và đánh giá mức độ tiếp nhận, mức độ hài lòng, cùng với cách ứng xử của công chúng đối với các loại hình báo chí khác nhau, cũng như các hình thức và nội dung thông tin tại chương 2.
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG TIẾP NHẬN SẢN PHẨM BÁO CHÍ CỦA CÔNG CHÚNG VIỆT NAM HIỆN NAY
A P Lazarfeld nhấn mạnh rằng quá trình truyền thông điệp bao gồm hai bước chính: bước đầu tiên là tiếp nhận cá nhân với các sản phẩm truyền thông, và bước thứ hai là sự lan tỏa xã hội trong các nhóm và cộng đồng sau khi có những tiếp nhận cá thể Theo quan điểm hệ thống, quá trình tiếp nhận của công chúng đối với các sản phẩm báo chí bao gồm nhiều thành tố cấu thành, hoạt động trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
[28, tr 363-364] Các thành tố đó bao gồm:
(1) Công chúng báo chí: các nhóm người có tiếp cận, sử dụng và chịu ảnh hưởng của các sản phẩm báo chí
Nhu cầu và động cơ tiếp nhận sản phẩm báo chí của công chúng rất đa dạng, bao gồm việc đọc báo, nghe phát thanh, xem truyền hình và truy cập vào báo điện tử Những yếu tố thúc đẩy họ tiếp cận thông tin từ báo chí bao gồm sự tò mò, nhu cầu cập nhật tin tức, và mong muốn hiểu biết về các sự kiện xã hội Việc nhận thức rõ về mục đích tiếp nhận thông tin sẽ giúp các nhà báo và cơ quan truyền thông cải thiện chất lượng nội dung và phục vụ tốt hơn cho độc giả.
Công chúng chủ yếu tiếp nhận thông tin từ các sản phẩm báo chí qua những nội dung cụ thể, phản ánh nhu cầu và sở thích của họ Việc xác định loại thông tin mà công chúng quan tâm sẽ giúp các nhà báo và biên tập viên tạo ra nội dung hấp dẫn, đáp ứng đúng mong đợi của độc giả.
Công chúng tiếp nhận sản phẩm báo chí qua nhiều phương thức và phương tiện khác nhau Chẳng hạn, công chức thường đọc báo in và truy cập tin tức trên máy tính tại nơi làm việc, trong khi giới trẻ chủ yếu sử dụng laptop, iPad, iPhone và điện thoại thông minh để cập nhật tin tức và tham gia vào các mạng xã hội.
Hình thức và bối cảnh tiếp nhận thông tin của công chúng có sự khác biệt rõ rệt giữa các vùng miền Người Hà Nội thường có thói quen đọc báo vào thời gian rảnh rỗi trong ngày, trong khi đó, người dân TP.HCM lại thích đọc báo vào buổi sáng, thường là trong bữa ăn sáng hoặc khi thưởng thức cà phê.